Dịch Lý Cao Đài . Q 1 - 4 / 8 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)


Buổi Ngài mới đến, Bần-Đạo thú thật phần nhiều anh em chúng ta buổi nọ không hiểu Đạo là gì, dầu đàn anh của chúng ta có sứ-mạng nơi mình lãnh trách-nhiệm làm Thánh-thể cho Ngài, khi ấy cũng không biết Đạo là gì cả, chỉ nhắm mắt theo Ngài mà thôi; chính Bần-Đạo buổi nọ, Đại-Từ-Phụ xin Bần-Đạo, nói xin lại với một lời yếu thiết:
- “TẮC! dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu đời, con có
chịu chăng?
Bần-Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng:
Nòi giống con còn nô-lệ, nước nhà còn lệ thuộc, thì làm thế nào con tu cho đặng!

Ngài cười nói:
Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để đó cho Thầy.
Tiếng “để đó cho Thầy” Bần-Đạo nhớ lại nói dễ như không không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó. Ngài hứa khi Ngài mới đến cùng Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của ta có lẽ buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời-gian, còn Đức Chí-Tôn sống trong không-gian; chúng ta tính từ ngày, tháng, năm; còn Ngài chỉ lấy quyết-định của Ngài làm căn-bản mà thôi. Lời hứa đơn-sơ ấy ngày nay chúng ta đã thấy rằng Ngài không bao giờ thất hứa với chúng ta đó vậy, nếu chúng ta đoán xét kỹ cơ-quan của Ngài đã thi-thố, đã giải ách nô-lệ cho nòi giống Việt-Nam, chúng ta ngó thấy một hành tàng khắc-khe khó nói, thi thố với một cách mà trí óc phàm chúng ta không thể đoán đặng và Bần-Đạo nói rằng không có một tay phàm thi thố đặng; muốn giải ách nô-lệ cho nước Việt-Nam mà dùng quyền phép vô biên của Ngài đào-độn cả vạn quốc hoàn-cầu đặng làm cho sôi-nổi một trường chiến-tranh của toàn thế-giới giục-thúc các nước còn lạc-hậu chiến-đấu lấy cho đặng quyền sở-hữu của họ, giành cho được độc-lập cho nòi giống và quốc-gia của họ. Quyền sở-hữu ấy là quyền định sống của họ đó vậy.

Nơi cõi Á-đông cả toàn thể nước nào còn lạc-hậu đều đặng giải-thoát, đều chiến-đấu đặng tranh độc-lập và thống nhứt.

Nước nhà nòi giống Việt-nam cũng tấn triển theo khuôn-luật ấy mà định vận-mạng lấy mình, không coi lại sự độc-lập và thống nhứt nước Việt-Nam có nhiều điều khắc-khe mà trí óc phàm này không thế làm đặng nên phải dùng tay của Đức Chí-Tôn, cả con cái của Ngài, Bần-Đạo đứng nơi tòa giảng này không nói thêm, không nói bớt:
- Khó nhứt là nước Việt-Nam,
- Nòi giống Việt-Nam,
- Quốc-gia Việt-Nam.

Đã thiếu Ngài một nợ tình, không biết giá-trị nào nói cho đặng. Thâm tâm của Ngài muốn gieo một nợ tình với quốc-dân, đặng chi? Ta nêu một dấu hỏi (?).

Thêm cho đủ yếu-lý ấy. Bần-Đạo nói sự mơ-ước của Ngài rất đơn-giản, rất nhẹ mà giá-trị không cùng, chỉ muốn quốc-dân Việt-Nam làm Thánh-thể của Ngài, thay thế hình ảnh của Ngài đặng chia khổ cho Ngài, chung hiệp cùng Ngài, hầu nâng-đỡ kẻ khổ, an-ủi tâm-hồn nhơn-loại đang đau-đớn trong buổi cạnh tranh giành sống của họ, của cơ-quan tranh-đấu cho kỳ đặng độc lập, đặng bảo-vệ sự sanh sống của họ, nếu không mực thước chuẩn-thằng định tâm-lý của họ, dầu cho đấu-tranh để lập quyền sống của mình ít nữa phải có Nhơn-đạo đặng giúp mạng sống của người, chớ đừng bảo-vệ mạng sống của mình để chiếm đoạt mạng sống của kẻ khác.

Tấn-tuồng ấy Bần-Đạo chỉ nói là quả kiếp mà thôi. Đức Chí-Tôn Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài cốt-yếu làm thế nào cho họ đừng cướp sống lẫn nhau mà an-ủi với nhau ấy là chí-hướng của Ngài đó vậy”. (ĐHP 8-1 Canh-Dần 1950)

7 - Nhìn ra toàn thế-giới, ta thấy gì?
Đấng Thượng-Đế đã sai Hộ-Pháp làm gì?

Đức Hộ-Pháp nói:
“Đời quá ư bạo-tàn, cho nên Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái biết: các ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong thời-kỳ ấy Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí-Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở bí-pháp trước hay là mở thể-pháp trước?
Bần-Đạo trả lời:
- Xin mở bí-pháp trước.

Chí-Tôn nói:
- Nếu con mở bí-pháp trước thì phải khổ đa! Đang lúc đời cạnh-tranh tàn bạo, nếu mở bí-pháp trước, cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào?

Vì thế nên mở thể-pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt bí-pháp còn là Đạo còn.
Bí-pháp là Hiệp-Thiên-Đài giữ.
Thể-pháp là Cửu-Trùng-Đài mở-mang bành trướng về mặt phổ-thông chơn giáo”.

C - HỘ-PHÁP
CHƯỞNG-QUẢN NHỊ HỮU-HÌNH-ĐÀI
- Cửu-Trùng-Đài là Đời.
- Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra vạn-linh, đó là Đạo.
* Cửu-Trùng-Đài dưới quyền-hành Giáo-Tông chưởng-quản.
* Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền của Hộ-Pháp chưởng-quản.

Nguyên-tắc:
Đức Hộ-Pháp nói: “Hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, nên quyền vạn-linh tức là quyền Chí-Tôn tại thế định cho Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài nắm quyền vi chủ nơi tay mới làm được, điều ấy bí-pháp Chí-Tôn đã giao phó tất cả.

“Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp cầm quyền hai Đài tức nhiên Thiên-điều quyết định Đạo phải làm Chủ của Đời, oai-quyền ấy sẽ cứu đời khỏi tận diệt.

“Vì cớ ấy mà Đức Lý nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo là vậy đó.
“Trong nền Đạo luôn luôn phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp, dầu có sự biến thiên xây chuyển thế nào, sớm hoặc muộn đều phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp.

“Dầu xác thể của Qua là con kỵ-vật của Hộ-Pháp, có thay đổi thế nào Hộ-Pháp vẫn là Hộ-Pháp. Ngày kia chủ-quyền của Đạo: hữu-hình này là Giáo-Tông làm chủ không lẽ Ngài vô tình chiết bớt cánh tay, tức là giải tán Phước-Thiện. Bởi vì:
“Hội-Thánh Phước-Thiện là của Hộ-Pháp.
“Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là của Giáo-Tông.

“Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Mà Hiệp-Thiên-Đài còn thì các cơ thể trong cửa Đạo vẫn còn tức là nhơn-sanh còn thì quyền Vạn-linh không bao giờ tuyệt. Bởi vậy đại-nghiệp thiêng-liêng Chí-Tôn đã để tại mặt thế này là nền Đại-Đạo giao cho quyền Vạn-linh nắm giữ, còn Thánh-thể Đức Chí-Tôn là chủ quyền nó sẽ bảo thủ vĩnh-viễn, trường-tồn mãi mãi".

1 - Nguyên-nhân nào Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài?
Khi Đức Quyền Giáo-Tông đăng Tiên ngày 13 tháng 10 năm Giáp-Tuất (dl 19-11-1934) qua ngày rằm khai mạc Đại-hội nhơn-sanh nên Hội-Thánh phải đình lại ngày Hội để lo cử hành lễ Thánh-tang cho Đức Quyền Giáo-Tông xong. Qua ngày 26 Hội-Thánh nhóm Đại-hội Hội-Thánh mời cả Chức-sắc Nam Nữ lo mở Đại-hội nhơn sanh, đồng thời cũng đệ trình kiến-nghị cả hai Hội-Thánh Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng quyết-nghị giao quyền Thống nhứt cho Đức “Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài”.

Giờ phút này Đức Hộ-Pháp thật sự nắm quyền Hộ-Pháp và Giáo-Tông, tức là cầm quyền Vạn-linh, đủ quyền đối cùng Chí-Linh, tức nhiên Ngài là Giáo-chủ hữu-hình của nền Đại-Đạo.
Hộ-Pháp có quyền đặc biệt về ân-xá cũng như Giáo-Tông có quyền chánh-trị vậy.

Đức Hộ-Pháp xác định:
“Hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, nên Quyền Vạn-linh tức là Quyền Chí-Tôn tại thế định cho Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài, nắm quyền vi chủ nơi tay mới làm được, điều ấy bí-pháp Chí-Tôn đã giao phó tất cả. Mấy con không hiểu đặng, chỉ có Đức Lý Giáo-Tông và Qua mà thôi”.

Đức Lý Đại Tiên ban cho thi:
HỘ giá Chí-Tôn trước đến giờ,
PHÁP luân thường chuyển máy Thiên-cơ.
CHƯỞNG quyền cực-lạc phân ngôi vị,
QUẢN suất càn-khôn định cõi bờ.
NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
HỮU duyên Đông Á nắm Thiên-thơ.
HÌNH hài Thánh-thể chừ nên tướng,
ĐÀI trọng hồng-ân gắng cậy nhờ.

Ngày 15-5 Mậu-Tý (dl 21-6-1948) là ngày Đức Hộ-Pháp vấn nạn Đức Lý Giáo-Tông “Về một lý thuyết tối trọng-yếu trong nền Chánh-giáo của Đức Chí-Tôn, việc Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình Đài là việc này có điều bí-ẩn tiên tri, sự tiên-tri ấy kết liễu cùng chăng không rõ, nhưng hiện giờ ta cũng đoán xét được.

Đức Lý Giáo-Tông đã có giáng cơ nói:
Giao quyền Cửu-Trùng-Đài trong tay Bần-Đạo đặng thống nhất quyền-hành Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài, ấy là do Ngọc-Hư-Cung quyết-định tức là do Thiên-điều quyết-định vậy.

Điều ấy Bần-Đạo lấy làm khó nghĩ, nhứt là chịu nhận đảm-nhiệm ấy làm cho tinh-thần của Bần-Đạo phải kiếm hiểu, kiếm hiểu coi vì cớ nào mà giao cho Bần-Đạo QUYỀN THỐNG NHẤT, nhưng tìm kiếm không ra được.
“May thay, Đức Lý Giáo-Tông đến. Bần-Đạo thú thiệt với Ngài và xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc nhỏ đặng chỉnh-đốn, Bần-Đạo nói:

- Bạch Ngài, sự bí-mật ấy nếu Ngài có thể cho Tôi biết được đôi chút mới có thể an tâm, an trí được. Ngài cười và nói:
- Bần-Đạo vẫn biết trước thế nào Hiền-hữu cũng vấn nạn nên Bần-Đạo đã cố tâm đối-đáp lại cùng Hiền-hữu. Trước khi muốn biết sự bí-mật ấy, chúng ta nên tìm hiểu coi Nhị Hữu-Hình-Đài là gì?

Bần-Đạo xin Ngài giải-nghĩa. Ngài đáp:
- Cửu-Trùng-Đài là chơn-tướng của Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là cơ hữu-vi của càn-khôn vũ-trụ, do Cửu-Thiên Khai-Hóa tạo thành.

Hỏi: Bởi quyền-năng nào tạo thành?
Do nơi quyền-năng vô đối của Chí-Tôn. Phép lạ thành tướng ấy là do Pháp. Pháp ấy từ đời thượng-cổ tới giờ liên-hiệp Vạn-linh và Chí-linh. Bởi vậy ta tìm Đạo là cốt-yếu tìm hiểu cái bí-pháp ấy như thế nào và có phương thế gì làm cho ta đoạt đặng chăng?

Ấy vậy, Cửu-Trùng-Đài là Cửu-Thiên Khai-Hóa tạo-đoan cả vạn-linh trong vòng càn-khôn vũ-trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt thấy hằng hà sa-số là địa-giới, ta gọi là sao, mỗi vì tinh-tú ấy là một quả địa-cầu có người ở, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói rằng càn-khôn vũ-trụ này chứa đầy vạn-linh. Nói rõ hơn nữa Cửu-Trùng-Đài là Đời.

Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra vạn-linh, tức là Đạo, rõ-rệt như vậy.
Bây giờ Bần-Đạo hỏi tại sao, cớ nào mà Ngài đến đây cầm quyền trị thế?

Ngài trả lời:
Ta tìm hiểu cao sâu hơn nữa trong sự bí mật ấy coi hiện thời chúng ta thấy gì? Ta thấy đời đương phấn-khởi, bồng-bột; tự năng, tự tạo, tự đoán, tự chủ, không còn đạo-đức gì hết mà đương nhiên lại có hai hình tượng:
- Cộng-sản tinh-thần thể chất,
- Các ban máy-móc, cách-vật, hóa học, tức là thuộc về hình tượng thể chất.

Hai hình tượng ấy ngày nay đối chọi nhau. Thảng như ngày kia có hiệp đồng lại, thì thể chất ấy có hình tướng lại có hồn-phách thì ta thử tưởng-tượng lại coi nhơn-loại trên mặt địa-cầu này sẽ thế nào?

Thể chất thì lúc nào cũng xu-hướng theo thể tánh duy-vật mà thôi. Thoảng như các Tôn-giáo đương cầm tương-lai linh-hồn của loài người mà trên mặt địa-cầu này không đủ năng-lực, thì cả tài-năng thể chất ấy nó sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn linh-hồn của con người đến chỗ tự diệt đó.

Ấy vậy, tinh-thần tức là đạo-đức phải làm thế nào đặng đối phó lại cho vừa sức với thể chất ấy. Đời bây giờ quá tiến-triển về hình-thể thì phải có cơ Đạo đủ năng-lực thức tỉnh tâm-hồn của loài người và giữ-gìn, dìu-dắt mới có thể tồn-tại được. Nhưng ta thấy các Tôn-giáo hiện hữu tại mặt địa cầu này đã mất quyền hẳn vậy. Sự loạn-lạc gây ra hai trận đại-chiến ở Âu-châu là do nơi Công-giáo mất quyền, tinh-thần của nhơn-loại loạn-đả mà không ai cầm quyền điều-khiển nên mới tự-do sát hại lấy nhau như thế ấy.

Chí-Tôn đến! Đến đặng cứu con cái của Người!
Vậy hỏi Người đã làm thế nào? Có chi lạ! Người chỉ tăng cường đạo-đức làm giềng mối cho tâm-lý loài người đặng bảo-tồn sanh mạng cho cả nhơn-loại với phép duy-tâm thì đời mới tồn-tại.

Ngài vừa luận tới đó thì Bần-Đạo nói:
Than ôi! Đạo Cao-Đài đã 23 năm mà còn lẩn-quẩn trong nội địa Việt-Nam, có đâu đủ đảm lực ra toàn cầu đặng độ rỗi nhơn-sanh, cái đặc phận ấy quyết-định con đường của Đạo đi còn dài, còn sở cấp tương-lai vận-mạng của loài người lại cấp bách. Vậy làm thế nào mà chuyển thế cho kịp đặng hoàn tất đảm-nhiệm thiêng-liêng ấy?

Ngài trả lời một câu rất hữu duyên, chúng ta không thể tưởng-tượng được. Ngài nói rằng:
- Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy, không gặt, mà nó vẫn có gạo ra cho toàn nhơn sanh ăn. Đạo Cao-Đài không ra khỏi nước mà có thể làm phận-sự trọn vẹn đặng.
Bần-Đạo hỏi câu ấy có nghĩa thế nào?

Ngài đáp:
Mối chơn-truyền của Đức Chí-Tôn đem Đạo đến tại thế là mối dây liên-lạc tương-quan cùng các Tôn-giáo trên thế-giới đương nhiên cầm quyền nhơn-loại, bởi không có giềng mối kết-liên với nhau thành ra chia rẻ, phân biệt trắng đen, hơn thiệt. Trận giặc Tôn-giáo trên địa-cầu hiện giờ ta thấy tại Ấn-Độ và Palestine. Vậy có thể nào làm cho các Tôn-giáo hiệp đồng tâm-đức đặng chăng?

Duy có năng lực của Chí-Tôn tạo thành mối dây liên-hệ các Tôn-giáo cùng nhau đó thôi.
Bần-Đạo vấn nữa: Thoảng như Chí-Tôn đem các Tôn-giáo ấy dung-hòa đặng tương-hội cùng nhau mà họ không nghe thì ta mới làm sao? Ngài nói:
- Dầu đương nhiên họ không nghe, nhơn-sanh sẽ biết điều trọng-yếu ấy mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn-sanh buộc họ phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự diệt lấy họ.

Ấy vậy, Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp cầm quyền hai Đài, tức nhiên Thiên-điều quyết định Đạo phải làm chủ của Đời, oai-quyền ấy cứu đời khỏi tận-diệt.
Vì cớ ấy mà Ngài nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo là vậy đó”.
Đức Lý Đại-Tiên nói về quyền-hành của HỘ-PHÁP.
“Hiền-hữu khuynh tâm vì Lão và Thượng-Trung-Nhựt lập quân-đội khi Hiền-hữu vắng mặt có phải?

Tình cảnh đôi ta phản-trắc:
- Lão là Thiên-điều mà cầm quyền trị thế,
- Còn Hiền-hữu tại thế mà nắm Thiên-điều.

Lão xin nhắc, khi Hiền-hữu tịnh pháp tại Thủ-Đức, Lão đã nói cơ chuyển thế Trời người hiệp một. Hiền-hữu có nhớ? Cười!...
Thiên-đình tại thế. Thế tại Thiên-đình, cơ huyền-bí độ tận chúng-sanh mới đặng, có phải?
Thoảng như vậy thì cơ chuyển thế nguy hiểm này, nhơn-sanh sẽ định số phận Hiền-hữu thế nào có biết?

Cười!.. Chẳng lẽ phải chịu một phen khảo đảo xác nữa! Thì nạn chiến-tranh Lão đã tiên-tri từ trước, vì chủng-tộc Việt-Nam vô đạo mới khó giải-kiết cứu nguy. Nếu Hiền-hữu ngày nào cầm lại Thiên-thơ thì mới rõ phần nhơn-quả.

Chẳng lẽ Lão là chủ phần xác của nhơn sanh mà ngồi khoanh tay, không tìm phương cứu chữa. Địa-vị của Hiền-hữu như Lão thì Hiền-hữu mới thế nào?

Chẳng lẽ vì những kẻ lợi dụng vô tâm, đọa-đày thiên-hạ mà lại đố kỵ chẳng dám cứu đời. Hiền-hữu căn-dặn cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn ráng sức ăn-năn, cầu-nguyện.

THI
Việt-thường hữu phúc xuất chơn-quân,
Chuyển thế Chí-Tôn dĩ định tuần.
Trị loạn Nam-phương trừ mãnh-hổ,
Thừa bình Bắc địa kiến Kỳ-lân.
Hoàng-triều hậu nhựt nghi tùng cổ,
Văn-hiến tương-lai khả hoán tân.
Thánh chúa hiền thần phò Tổ nghiệp,
Khải ca định phận tại thu phân.
                                                           (Đức Lý, 1-3 Mậu-Tý)
Đức Lý dạy tiếp:
“Hộ-Pháp, Hiền-hữu muốn Lão ký tên Thánh-lịnh thăng vị cho Chức-sắc Thiên-phong, điều ấy vốn không khó, chỉ sợ nghịch Thiên-điều.

Lão đã nói, hoàn cảnh của đôi ta phản trắc:
- Lão vô-hình lại đảm-nhiệm trách-nhậm trị thế định vị, tức là chủ-khảo thiêng-liêng-vị. Bởi thế cho nên khi Hộ-Pháp trấn Thánh Phi-Châu, Lão mới cầm quyền đặng định vị cho các Thánh tử đạo, vì đó mà lập quân-đội.
- Còn Hiền-hữu hữu-hình mà lại nắm Thiên điều hành-pháp lập giáo, Hiền-hữu là chủ khảo hữu-hình-vị, bởi cớ cho nên Hiền-hữu làm đầu toàn Hội-Thánh.

Khi Ngọc-Hư-Cung giáng lịnh thì Hiền hữu vẫn nhớ hai câu thi này:
“Cửu-trùng không kế an thiên-hạ,
“Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì.”

Bởi lẽ ấy, Lão đến khi nọ giao quyền trong bài thi “Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài”
Ấy vậy, nơi tay Hiền-hữu đủ quyền Chí-Tôn mà chuyển thế. Lão bất quá là một Gián-nghị Đại-phu ở gần Hiền-hữu, chia lo sớt nhọc mà thôi.

Lão tưởng khi thiên-hạ chưa an có phải?
Cười!... thì nay đã hiện-diện là Quốc-sư Việt-Nam đặng bước qua Quốc-sư thiên-hạ. Xong chưa mà toan thối thác?

Cứ ký đi như trước tới giờ là đúng phép.”

* HIỆP-THIÊN-ĐÀI dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm. Phần của Hộ-Pháp chưởng-quản về Pháp.

2 - HỘ-PHÁP LÀ AI?
HỘ-PHÁP
(F: Chef suprême du Temple de l’Alliance Divine).

Pháp-Chánh-Truyền qui định:
“Huyền-vi mầu-nhiệm của Đạo có Thiên điều, cơ bí-mật của đời có luật-pháp. Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu-nhiệm của Đạo, nắm luật của Đời, xử-đoán chư Chức-sắc Thiên-phong và cả Tín-đồ cùng là xin ban thưởng, công thưởng tội trừng nơi thế này. Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị; phải chiếu luật Đạo cho toàn cả Tín-đồ khỏi bị Thiên-điều, giữ phẩm-vị thiêng-liêng mỗi Chức-sắc, ắt phải gìn-giữ đạo-đức của mọi người. Người dùng hình phàm làm cho giảm tội thiêng-liêng, nắm cơ mầu-nhiệm công-bình mà đưa các chơn-hồn vào Bát-Quái-Đài, hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả luật Đạo và luật Đời đặng xử-đoán, làm chủ phòng xử đoán.

Dưới quyền Hộ-Pháp có 4 vị: Tiếp-Pháp, Khai-Pháp, Hiến-Pháp, Bảo-Pháp.
Bốn vị ấy đồng quyền cùng Hộ-Pháp khi đặng lịnh Người sai đi hành-chánh, song mỗi vị có mỗi phận-sự riêng, quyền-hành riêng.” (PCT)

3 - Luận về quyền-hành của HỘ-PHÁP tức là luận về Đạo-phục của Người

Đạo-phục của Hộ-Pháp được Pháp-Chánh-Truyền qui định:
“Đạo-phục của Hộ-Pháp có hai bộ, một bộ Đại-phục và một bộ Tiểu-phục”

Điều ấy chứng tỏ rằng “Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu-nhiệm của Đạo, nắm luật của đời” tức nhiên là Ngài còn nắm cả hai Bát-quái của Đại-Đạo này cũng như Giáo-Tông vậy.

Đại phục:
“Bộ Đại phục, Người phải mặc giáp, đầu đội Kim-Khôi toàn bằng vàng, trên Kim-khôi có thể Tam sơn, giống như cái chĩa ba ngạnh, chủ-nghĩa là Chưởng-quản Tam-Thiên bên Tây-Phương-Cực-lạc”.

Giáp là bộ đồ của người lính khi ra chiến-trận để bảo vệ sanh mạng, quan-trọng cho hàng tướng-soái. Ở đây Hộ-Pháp mặc khôi-giáp là chỉ một uy-quyền tối thượng, oai-phong lẫm-liệt, một Tướng trời tức là Ngự-Mã Thiên-Quân của Chí-Tôn. Giáp của Ngài là một thiết-giáp đạo-bào nên chỉ để “trừ tà diệt mị hộ chơn truyền” mà thôi.

Đầu đội Kim-khôi màu vàng; màu vàng chỉ về Phật-giáo chấn-hưng mà Đạo Cao-Đài đang chủ-trương tinh-thần ấy. Trên Kim-Khôi có thể Tam sơn chứng tỏ quyền-hành của Ngài hiện đang Chưởng-quản cả Tam châu là Đông thắng thần châu, Tây ngưu hạ châu, Nam thiệm bộ châu; còn lại một châu thứ tư là Bắc cù lư châu thì giao cho Kim-Quan-sứ cai trị.

Thế nên câu niệm danh Ngài thường là “Nam-mô Tam Châu Bát Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn” nhưng Ngài còn dạy rằng: lẽ ra phải niệm là “Nam-mô Tam-Thiên Thế-Giới Hộ-Pháp Giáng Lâm” mới đúng, nay vì đã quen rồi nên không sửa.
“Chơn đi hia, trên chót mũi hia có chữ “PHÁP”.

Với nền Tôn-giáo, chỉ duy các Chức-sắc Đại Thiên-phong mới được phép mang hia hoặc giày vào chầu lễ Chí-Tôn, nhưng các giày hay hia này chỉ dành riêng sử-dụng trong lúc chầu lễ Chí-Tôn mà thôi. Trước mũi hia có chữ “Pháp ” chỉ nghĩa rằng Ngài chưởng-quản “chi Pháp” là một trong ba chi “Pháp, Đạo, Thế”.

“Ngoài giáp thì choàng mảng-bào, thế nào bên tả phải giáp, bên hữu thì mảng. Tay hữu (bên Đạo, nghĩa là bên Thượng-Phẩm) cầm Giáng-Ma-Xử (thể lấy Đời chế Đạo), còn tay tả (bên Thế nghĩa là bên Thượng-Sanh) nắm xâu chuỗi “Từ-Bi” (thể, lấy Đạo chế Đời), thành ra nửa Đời nửa Đạo”

Điều lý giải như trên đã rõ nghĩa, tuy nhiên:
“Trong Hiệp-Thiên-Đài thì có Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng và Thầy mà giữ-gìn công-bình tạo-hóa, bảo-hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới tận thiện tận mỹ, người thì tận thiện còn vật thì tận mỹ.

“Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo, đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh-vực cả Tín-đồ và Chức-sắc Thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật điều-đình Càn-Khôn Thế-Giới cho an-tịnh”.

“Ngang lưng cột dây lịnh sắc có ba màu Đạo (thể Chưởng-quản Tam-giáo nơi mình, nắm trọn thể-pháp và bí-pháp đặng qui nhứt, cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng”.

Quyền-hành của Hộ-Pháp rất lớn, nhất là việc qui Tam-giáo là một việc khó-khăn vô cùng, bấy nhiêu hình ảnh trên sắc phục của Ngài cũng đã thấy quyền-uy của Ngài trong cơ Đạo này là tối thượng. Thế nên, bộ Đại-phục chỉ mặc khi chầu lễ Chí-Tôn mà thôi.
Bộ Đại-phục này đủ yếu-tố cho một Bát-quái Đồ-thiên trong nền Đại-Đạo.
Việc cúng kính thường thì mặc Tiểu phục.

Tiểu phục:
“Bộ Tiểu phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Đạo).”
Màu vàng thuộc phái Phật, tức nhiên Đạo Cao-Đài là Phật-giáo chấn hưng, dù tu ở bên nào (Cửu-Trùng-Đài hay Hiệp-Thiên-Đài) khi đắc Đạo cũng vào Phật-vị, Ngài là Nhứt Phật.

“Đầu đội Hỗn-Nguơn-Mạo màu vàng, bề cao một tấc ngay trước trán, chính giữa có thêu ba cổ-pháp của Tam-giáo là bình Bát-vu, cây Phất-Chủ và bộ Xuân-thu, ngay trên ba cổ-pháp ấy có chữ “Pháp ”.

Chỉ riêng chữ Pháp phân-tích sẽ thấy cái lý mầu-nhiệm vô-vi trong đó là gồm bộ thuỷvà chữ khử tức nhiên là dùng nước để khử trược. Bộ thuỷ có 3 nét ứng với Tam tài, chữ khử có 5 nét là lý Ngũ-hành; cộng 3 và 5 là 8 là một Bát-quái vô-hình, tức là một yếu-tố để chứng tỏ đây là Hư-vô Bát-quái.

Hộ-Pháp là người của cung Hỗn-Nguơn-Thiên (số 11), thế nên trên bàn thờ của Hộ-Pháp có cả thảy 11 cúng-phẩm, đúng ra đó là quẻ Bát Thuần Càn, chứng tỏ Ngài là người đã thay trời tạo thế trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này, từ đó những vấn-đề có liên-quan cũng phải đúng vào con số biểu-tượng là 11, mới đúng thời, đúng lúc đó vậy. Vì thế trên chiếc mão của Ngài đội có tên là “Hỗn-Nguơn-Mạo”

Bề cao một tấc trước trán (số 1).
Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh-hoạt trước nhất để biến-vi hữu-tướng. Số 1 chỉ về Thái-cực tức dương, người mang số này có tánh chuyên nhất và cầm quyền vi chủ. Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến nên Đạo-gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt minh, nhơn đắc nhứt thành” là vậy. Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh.

Tại sao phải đặt trước trán? Bởi Đạo là lấy chính trung, nên chi đặt ở trán là điểm giữa của mặt. Lại nữa chính giữa “có thêu ba cổ-pháp của Tam-giáo” là Xuân-thu, Phất-chủ và bình Bát-vu.

Nay đứng đầu của Tam-giáo thì có ngôi “Chưởng-Pháp của ba phái là Thích, Đạo, Nho. Nghĩa là mỗi phái là một vị, mà ba đạo vẫn khác nhau; nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật-lệ vốn không đồng chỉ nhờ luật-lệ làm cơ qui nhứt”.

“Mỗi Chưởng-Pháp phải có ấn riêng:
- Thái Chưởng-Pháp thì Bình-Bát-vu,
- Thượng Chưởng-Pháp thì cây Phất-chủ,
- Ngọc Chưởng-Pháp thì bộ Xuân-thu.

Hiệp một gọi là cổ-pháp. Ba cái cổ-pháp ấy vốn của Hộ-Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi mão Tiểu-phục của Người phải có ba cổ-pháp ấy” (PCT) (xem thêm về cổ-pháp).
Sở dĩ “ngay trên ba cổ-pháp ấy có chữ “Pháp” là vì Ngài đứng đầu “chi Pháp”.
“Chơn đi giày vô ưu màu trắng, nơi chót mũi có chữ “Pháp”

Giày vô-ưu. Riêng chữ vô-ưu là không còn ưu-phiền, tức là một bậc đã giải-thoát. Màu trắng là màu Đại-đồng, màu tổng hợp bảy màu của sắc cầu vồng. Như vậy có cả thảy ba chữ “Pháp” (một trên mão, hai chân hai chữ ở trước mũi hia) là hoàn thành con số 3 huyền-diệu nơi bộ Tiểu phục.

Tuy nhiên nếu cộng cả thảy thì có đến 5 chữ “pháp”, bởi vì bộ đại phục cũng có hai chữ ở chót mũi hia nữa. Đây là do con số 2 cộng với số 3 thành ra số 5; số 2 chỉ âm dương hiệp với số 3 là Tam tài, số 5 là “Ngũ trung” ở trong Bát-quái.
“Lưng nịt dây lịnh sắc y như Đại phục”

Nghĩa là “ngang lưng cột dây lịnh sắc ba màu Đạo, cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng”, tức là hiệp Tam-bửu: Tinh, Khí, Thần.
"Khi ngồi Tòa Tam-giáo thì phải mặc bộ Tiểu phục, còn Đại phục thì chỉ để ngự trên ngai mình”
Xem thế thì quyền-hành của Hộ-Pháp đã đầy-đủ các yếu-tố của Bát-quái Đồ-thiên hiện rõ trên bộ Đại-phục
Bộ Tiểu-phục hiện rõ Bát-quái Hư-vô.

4 - Thầy lấy tánh-đức PHẠM-CÔNG-TẮC lập Giáo trong cơ chuyển thế

Đức Hộ-Pháp nói:
“Đức Chí-Tôn đến dạy Bần-Đạo lúc nọ, đức-tin của Bần-Đạo chưa có gì hết. Không biết Ông tạo nền chơn-giáo như thế nào mà Ông biểu Bần-Đạo dâng cả:
Thi hài, Trí não, hồn phách cho ông lập Đạo.
Bần-Đạo không tin, không nói, không nghĩ một cách nào quá đáng, Bần-Đạo trả lời:

- Thưa Thầy, cảm-tưởng của con biết con và con biết Đạo. Thầy biểu con làm phận-sự bắt chước Đức Phật Thích-Ca, Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Phu-Tử hay là Đức Chúa Jésus-Christ thì con không làm đặng, con chỉ biết con là TẮC đây thôi.

Ông đáp:
- TẮC, thoảng như Thầy lấy tánh đức của con để lập giáo, con mới nghĩ sao?

Bần-Đạo hết đường trả lời.
Từ thử đến giờ, Bần-Đạo ỷ mình hễ đi đến đâu hay đứng trên giảng-đài nào Thuyết-đạo, Bần-Đạo cứ nói càng, không hiểu mình nói trúng hay trật, ai ngờ là nói trúng. Có một điều rất ngộ nghĩnh khi Bần-Đạo đến Miên-triều, Miên-Hoàng tuyên-bố cho cả quốc-dân hay “Đấng này đi đến đây đem Hòa-bình cho nước nhà Miên, nòi giống Miên đó”.

Hồi qua Âu-châu, vừa bước chân lên đất Pháp, họ cũng nói ra điều ấy “Đem Hòa-bình cho thiên-hạ”. Hòa-bình làm sao không biết, điều đó Bần-Đạo chỉ tin nơi Đức Chí-Tôn làm sao hay vậy”

Ngày nay:
Nơi “Cung Thượng Thiên Hỗn-ngươn chúng ta thấy đương giờ này đang trong đệ tứ chuyển. Thượng-nguơn Tứ chuyển này giao quyền chưởng-quản trị phần hồn và phần xác của càn-khôn vũ-trụ do nơi tay của Đức Di-lạc Vương-Phật mà trong cung ấy là cung chúng ta thấy mặt Đức Chí-Tôn tức nhiên gần Đức Đại-Từ-Phụ hơn hết.

Chơn-lý của Đạo Cao-Đài đã tỏ cho toàn thể nhơn-sanh đều hiểu lời tiên-tri của Phật-giáo đã nói “qua cuối Hạ-nguơn Đức Chí-Tôn đến mở Hội-Long-Hoa đặng lập vị cho Đức Di-Lạc Vương-Phật. Nhưng khi ấy cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc-Hư-Cung cầu xin Đức Ngài để cho các Đấng ấy đảm-đang phận-sự thay thế cho Ngài, vì cớ cho nên Ngài không đi; Ngài không có đến, tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp.

Từ thử đến giờ, Bần-Đạo chưa hề nói đến sứ-mạng thiêng-liêng của Bần-Đạo, là vì Đức Chí-Tôn không đi, nên mới có Hộ-Pháp của Ngài đến, cốt-yếu thay thế cho Ngài đặng lập vị cho Đức Di-Lạc-Vương-Phật mở Hội Long-Hoa, tức nhiên sứ-mạng của Hộ-Pháp là cầm CÂN CÔNG-BÌNH THIÊNG-LIÊNG của Đức Chí-Tôn giao phó nắm cả tâm-lý tinh-thần nơi mặt địa-cầu này đặng hòa-giải hầu sửa đương tâm đức tinh-thần của nhân-loại, tức nhiên là Ngài đến trước khi mở Hội Long-Hoa tạo Tiên, Phật; tâm đức từ trong cửa Thánh của họ đặng họ từ từ bước đến phẩm-vị của họ tại mặt thế này.”

Vì sao vậy?
“Vì trong đạo-binh thiêng-liêng hộ-giá Đức Chí-Tôn từ khi khai thiên lập Đạo đến giờ, do theo Thánh-giáo Đức Chí-Tôn có nói Bần-Đạo là Ngự-Mã-Quân, phẩm-tước và quyền-hành cao trọng ấy phải thế nào? Để dấu hỏi (?)

Ta có thể đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn đặng làm phận-sự của Ngài hay không? Hay một ngày kia khi trở về thiêng-liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài!

Bần-Đạo nhứt định một hơi thở cuối cùng dầu cho thế nào Bần-Đạo cũng quyết tùng mạng lịnh của Đại-Từ-Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ-não. Tưởng khi các Bạn cũng đồng chí-hướng với Bần-Đạo vậy” (ĐHP 1-1 Ất-Mùi)

Ngự-Mã-Quân là ai?
- “Tức là Thập-Nhị Thời-Quân, Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp gọi là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn. Phật-Mẫu sợ Chí-Tôn tạo Đạo không xong phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập-Nhị Thời-Quân, phẩm-tước cao trọng thay!”

Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
- “Thưa các Bạn Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Phước-Thiện Nam Nữ,

Tưởng từ khi Tôi đã phế đời, hiến mảnh thân phàm này cho Đức Chí-Tôn làm khí-cụ tạo nước nhà Việt-Nam, một nền Tôn-giáo này, không ngày nào được phần thưởng vô giá như ngày hôm nay, mà chỉ có một ly rượu. Theo sự hưởng-ứng của các Bạn biết, nếu con người ta lấy sức-lực phàm làm môi-giới cho cái sở-hành riêng thì hẳn không ai can-đảm chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh khổ với một sự vui tươi thì hồi xưa đến giờ chưa có. Tại sao vậy? Tôi đã hiểu bí-mật ấy, Tôi hiểu cả, nên cho các Bạn hiểu.

Các Đấng tự-hữu, hằng-hữu, thiên-hạ tưởng không có, họ lầm. Từ trước người ta tưởng Đấng ấy không có. Đấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa; Tôi biết, Tôi hiểu, Tôi đã chịu khổ-não để thay-thế hạnh-phúc cho đời là do nơi đâu? Không phải tại nhà Tôi hay tại Tôi, chưa chắc, do nước Việt-Nam chăng?

- Ấy là do toàn nhơn-loại. Đấng Cha lành âý dầu thấy con bạc-bẽo thế nào, Đấng ấy cũng còn thương-yêu. Sự thương-yêu của ông Cha lành nó truyền-nhiễm Tôi, do nơi chỗ Tôi nghe được, Tôi hiểu được, biết rõ đặng Người.

Đấng ấy có mơ-vọng gì vô-hạn?
Nhứt là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh-Kim-Khuyết, bỏ Thiên-cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu Tôi không lầm, Cơ-bút đã cho Tôi biết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản-xuất?

- Do để giữ quyền thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời-Quân, Thập-nhị địa-chi tức là cảnh thiêng-liêng vô-hình của chúng ta. Tôi tưởng tấn tuồng Tôi đã làm trọn và làm nơi cõi vô-hình. Ngày kia về thiêng-liêng các Bạn sẽ thấy hình tối đại, tối thiểu. Phận-sự Tôi đối ý với các Bạn nó có thâm tình vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một mực đề-xướng, cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh. Bần-Đạo làm không hết, số là Bần-Đạo và các Bạn Hiệp-Thiên-Đài đã hứa với Đức Chí-Tôn.

Bần-Đạo lo cho toàn cả nhân-loại hoàn cầu, chứ không phải thương một cá-nhân nào hay một đoàn-thể nào, một quốc-gia nào; không phải làm tôi mọi cho Đời mà làm tôi mọi cho Đạo, nhưng vì cái năng lực vô-hình kia mà thôi.

Trước khi lãnh lịnh trên Ngọc-Hư-Cung tạo nền Chơn-giáo, Chí-Tôn quyết-định có Ngài giáng thế mới được, Ngự-Mã-Quân không cho, bắt buộc phải có Người thay-thế cho Ngài tức là Thánh-thể của Ngài tại đây.

Ngài đi mà không cho thì phải có hình-ảnh thế cho Ngài mới được. Hình ảnh của Ngài là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài. Hộ-Pháp có khôn-ngoan nào hơn là cầu-khẩn cho có người đến với mình đặng tạo Thánh-thể đó, chớ một mình Hộ-Pháp xuống không thể được, nên phải cám-dỗ cung này, điện kia, đến Cửu-Thiên Khai-Hóa, biết chắc làm được mới đi.

Các Bạn cứ làm đi, vì cái phận-sự đối với thế-gian, đối với lời hứa ở trên kia; sự làm bây giờ, biết hai cái đó có đúng không? Bần-Đạo lui cui làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào lo cho Cửu-Trùng rồi đến Phước-Thiện. Đầu óc của Hộ-Pháp đã chịu thâm-giao cùng các Bạn, cứ làm mãi thôi, sống giờ nào làm giờ nấy. Không phải kiếp này tại đây có Thánh-thể, không phải tại xứ Việt-Nam ta mới có, chúng ta chỉ là người cặm bông tiêu thôi, chớ không phải người tạo, chúng ta sáng lập là để cho đoàn hậu-tấn vì chúng nó đứng chàng-ràng, không biết đứa nào gánh vác đảm-đương.

Bổn-phận làm Anh phải tạo nghiệp cho em, mở đường trước cho con cháu đi, sau nhờ có chúng nó Thánh-thể của Chí-Tôn mới tồn-tại. Thầy không phải đến một kiếp này thôi, mà đến phải ở đời đời, không phải Thánh-thể đương nhiên, họ sẽ đến nữa hay đã đến rồi, nó còn lộn xộn không biết đứa nào.

Biết còn nữa thì tức nhiên phải mở con đường cho chúng nó đi và tạo nghiệp cho chúng nó. Tôi là đầy-tớ trong những đầy-tớ của Đức Chí-Tôn, biết có bao nhiêu đó, cứ đảm-nhận cương-quyết nâng-đỡ cho Đạo và Đời thôi.

May một điều là Tôi còn thiếu với Đức Chí-Tôn, Tôi xin đầu kiếp, thiếu hay không mà kiếp này Tôi là tên dân nô-lệ cho nước Việt-Nam, đã chịu thống-khổ tâm-hồn lẫn hình-thể trên 35 năm.

Tôi không xin, không biết tại sao Tôi đầu kiếp xuống dân Việt-Nam, Tôi cảm-kích vô-hạn, nào chịu khổ, nào chịu bạc-nhược và yếu hèn. Tại thấy nhơn-loại đau-đớn Chí-Tôn mới đến mở một nền Tôn-giáo, làm một khối sanh-quang cho toàn nhân-loại, đó là cái danh-dự cho nước Việt-Nam đã chịu khổ.

Vì cái tình của Chí-Tôn đối với dân-tộc Việt-Nam nên Tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng đáng.

Còn một việc khác nữa là Ngài tạo đầu óc, từ ngày mở Đạo Cao-Đài đến giờ tạo đầu óc nòi giống Việt-Nam để vãn-hồi quốc-vận, như thế cũng đủ cho mình đưa sanh mạng mà đổi.

Vậy sự làm của chúng ta phải cương-quyết và nhẫn-nại đủ điều, không nhút-nhác, vui chịu, bởi đã hiểu giá-trị ân-đức của Đức Chí-Tôn như thế nào rồi, muốn trả được hết, phải học làm đầy tớ của những đầy-tớ của Đức Chí-Tôn, làm được vậy chừng đó mới trả nợ tình Đức Chí-Tôn đặng.”

5 - Tại sao Đức Chí-Tôn lại giao trọng-trách cứu thế cho Hộ-Pháp?

Đức Hộ-Pháp nói:
“Nếu nói Bát-phẩm chơn-hồn thì kể từ: vật-chất hồn, thảo-mộc hồn, thú-cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn, cũng gọi đó là “bộ”, thế nên nói chung là Bát bộ (tức là Tám bộ)

“Tám bộ ấy thuộc quyền hạn HỘ-PHÁP THIÊN-VỊ nơi Đức Chí-Tôn gọi đến tạo cơ-quan tận-độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp. Chính Hộ-Pháp chịu trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc thay cho nhân-loại!
Hạnh-phúc thay cho vạn-linh!

Đức Chí-Tôn đem một hồng-ân tối đại để nơi mặt địa-cầu 68 này”.

Đức Ngài nói tiếp:
“Bần-Đạo nói thật giờ phút nào bí-pháp duy chủ quyền Đạo là giả-tướng mà thôi, không có chơn-thật gì hết. Nếu chúng ta TU mà không đoạt Pháp đặng tức nhiên chúng ta không giải-thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu-ích chi hết.

“Hộ-Pháp đến cốt-yếu đem Bát-phẩm chơn-hồn thăng vị nhiều hoặc ít; có thể một đẳng cấp từ vật-chất Hộ-Pháp đem lên thảo-mộc, thảo-mộc đem lên thú-cầm, thú-cầm đem lên nhơn-loại dĩ chí Phật-vị. Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền-hành ấy Chí-Tôn nói “trọng quyền thì trọng phạt”.

“Quyền-hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân chẳng phải quyền tại thế-gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo nói sống đây là quyền cả Thiêng-Liêng Hằng-Sống.”
Đức Hộ-Pháp dâng sớ cầu nguyện

D - LUẬN VỀ

Quyền-hành của GIÁOTÔNG và HỘ-PHÁP

Xem thế đủ thấy rằng bên Cửu-Trùng-Đài thì Giáo-Tông làm chủ Bát-quái Đồ-thiên mà bên Hiệp-Thiên-Đài Hộ-Pháp cũng làm chủ Bát-quái Đồ-thiên.

Hễ Giáo-Tông hữu-hình thì Hộ-Pháp vô-vi, nhưng quyền-hành phân-biệt và được Đức Chí-Tôn phân-giải hẳn-hòi, Pháp-Chánh-Truyền qui định: Nơi Cửu-Trùng-Đài, thì:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con”

“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn-đạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu-dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay nhỏ tuổi quyền thiêng-liêng đã định vậy.

“Tuy trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu-hình là “Cửu-Trùng-Đài” và “Hiệp-Thiên-Đài”, mà nơi Hiệp-Thiên-Đài dầu cho Hộ-Pháp cũng phải là em của Giáo-Tông, song Hộ-Pháp phải nhỏ về phần hữu-hình đã nói trên đây, chớ phần thiêng-liêng thì đồng vị”.

Thầy dạy:
“Các con phải nhớ rằng toàn thế-giới càn-khôn chỉnh có hai quyền:
- Trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy.
- Dưới là quyền-hành của sanh-chúng.

Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng ban quyền-hành trọn vẹn của Thầy cho hình-thể ấy đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đặng đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.

Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng cấp, nên khỏi phải chịu phẩm người, ấy vậy Người là chủ quyền của vạn-linh.

Thầy nói rõ: Quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền vạn-linh là sanh-chúng. Ngày nào quyền lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng vạn-linh thì Đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là GIÁO-TÔNG cùng HỘ-PHÁP. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại thì là quyền vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy duy có quyền vạn-linh đối phó mà thôi”

Quyền-hành này đã thể hiện rõ khi Ông Hồ-Bảo-Đạo nắm Quyền Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài có dâng sớ xin Đức Lý hủy bỏ Đạo nghị-định thứ tám.

Đức Lý giải-thích là:
“Không thể hủy được, vì cái gì của Ngài và Hộ-Pháp ký là Thiên-điều, nó phải tồn-tại đến Thất ức niên. Hơn nữa nó là lá bùa để trừ diệt chi-phái lồng vào nội-bộ của Đạo.

Ngài nói Đạo Thiên-Chúa có một trăm mấy chục Chi-phái, Đức Giáo-Hòang không biết làm sao mà thống-nhất được.

Đạo Phật có hơn 300 Chi-phái cũng không một quyền-lực nào đem lại sự thống-nhứt được làm một mối. Nếu hủy bỏ Đạo Nghị-định thứ tám, Đạo Cao-Đài bị Chi-phái lồng vào Hội-Thánh rồi làm sao đuổi nó ra? Nên nó là lá bùa trừ sự chia rẻ. Để họ tự-do lập phái rồi họ tự tiêu-tàn với thời-gian dài hay ngắn”.

Nay Đạo Trời có những qui-luật kết-hợp bởi:
1 - Cơ-quan quản-trị càn-khôn.
2 - Cơ sanh biến vạn-linh mà làm thành
Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đó vậy.

CHƯƠNG 5

KHAI TRIỂN BÁT-QUÁI ĐỒ-THIÊN

A - Cơ-quan quản-trị càn-khôn là gì?

Trước đây chúng ta có nói về hình ảnh tam-giác đều là do sự kết-hợp của ba hào dương quẻ Càn càn vi thiên, càn là trời. Đó là một sanh ba, ba sanh vạn-vật, thuộc về cơ Chưởng-quản. Hai hình tam-giác ABC và A’B’C’ gát chồng lên nhau chỉ âm dương hiệp nhứt, đạo-pháp nói là quyền chí-linh đối phẩm với quyền vạn-linh.
 
Chí-linh là cơ qui nhứt, vạn-linh là cơ tấn-hóa.
Thế nên Chí-linh đầu nhọn quay lên mà Vạn-linh đầu nhọn quay về phía dưới. Chí-linh và vạn-linh vốn đồng quyền nhau (Chí-linh là Trời, Vạn-linh là người và cả muôn loài vạn-vật)


Bắt đầu từ A đếm chung quanh cả thảy 12 hình tam-giác đều nhau xoay quanh một vòng tròn tâm 0 lớn, đó là cơ thống nhất vạn-loại mà Thầy là vi-chủ nên nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy. Thầy ở giữa nắm pháp qui cơ, vòng tròn tượng-trưng cho càn-khôn vũ-trụ, cả vạn-linh đều chung chịu trong khuôn luật đó.

Sáu hình vòng cung nhỏ AB, BC, CD, DE, EF, FA là sáu nẻo luân-hồi. Các đường AO, BO, CO,... chỉ rằng cơ đoạt Đạo hiệp nhứt chí-linh.

Nếu hết vòng AB’ mà không biết qui cơ hiệp nhứt là phải vòng vòng luân luân chuyển chuyển mãi, tức là còn trong vòng trần-tục, không thế gì hiệp một cùng Thầy, nên Thầy mới phân ra Tam-giáo là 3 con đường lớn rộng để cho vạn-linh do theo đường ấy trở về vị cũ tức là được hiệp một cùng Thầy.

Ba cạnh AC, EC, EA, tượng-trưng Tam-giáo chỉ nghĩa rằng trước mặt Thầy Tam-giáo vốn cũng như nhau và cũng đều cùng chung một gốc sanh ra. Gốc ấy tượng-trưng tâm 0 của vòng tròn, chẳng khác nào Thầy nắm chốt xoay chuyển, hễ tâm 0 dời đổi là tất cả vạn-linh đều đổi.

Ba đường AO, EO, CO, là luật định của càn-khôn vũ-trụ, chúng-sanh nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Do vậy mà phương tu phải có Luật, có Pháp định vị là vậy.
Pháp Luật ấy là tượng-trưng cho âm dương
Âm dương luôn hiển hiện trong trời đất

Trong vũ-trụ này khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng ngưng đọng lại thành đất, không hề có một vật nào đi sái luật đó cho được. Tỷ như đất không thể bay bổng lên từng không-khí, quả bóng không thể chìm xuống đáy nước.

Vạn-vật thảy có tánh linh và đều cùng một điểm linh-quang như nhau, có chăng vật này được phát-triển, vật kia linh tánh vẫn ẩn-tàng. Thế nên trước mặt Thầy, Người vẫn xem nhân-loại vốn như nhau, không có ai trọng cũng không có ai khinh, dầu cho phẩm vật tối-linh hay thấp kém cũng vậy.



Xem kỹ trong mỗi hình như vậy đều có 6 hình thoi, trong mỗi hình ấy có hai đường thẳng góc nhau, ấy chỉ là cơ vận-hành âm dương trong mỗi bậc luân-hồi của vạn-linh đó

Lại có 4 hình chữ nhựt bằng nhau tượng-trưng Tứ-tượng biến-hoá nhưng ẩn tàng ở trong mỗi vật thể, nếu kéo đường thẳng song song với một cạnh qua O và đường chéo của hình chữ nhựt kia thì hai đường này thẳng góc nhau, chỉ rằng nếu vật thể gặp duyên thì kết, không gặp thì ở trong trạng-thái tiềm ẩn, ví như đất nắng thì khô-khan mà mưa xuống thì cỏ mọc đầy.

Đường từ A qua C, từ C qua B, từ B qua A và các đường A’B’, B’C’, C’A’ chỉ rằng kẻ tu hành nếu không gặp cơ qui-nhứt thì cũng có thể tăng cao, tấn-hóa mà thoát khỏi vị-trí tầm thường mình đang ở để tiến đến vị-trí cao hơn. Tỷ như một người tu-hành dầu chưa được trở về cùng Thầy chớ cũng được lên những địa-cầu khác tấn hóa cao thượng hơn.

* Sáu cánh ngôi sao chỉ 6 đường luân-hồi phóng sẵn từ ngôi Thái-cực mà ra là: OA, OB, OC, OA’, OB’, OC’. Luật luân-hồi là cơ tấn-hóa. Nhân-sanh lầm cho kiếp sanh là khổ. Kiếp sanh chưa phải thật là khổ đâu, nếu quả khổ mà không ích chi thì Thầy đã bãi bỏ luật luân-hồi, khổ ấy để tăng tiến mãi, đi đi mãi cho thấu-đáo nẻo huyền vi của tạo vật. Người đời thường bị lầm-lạc cho rằng luân-hồi sanh tử là cơ nhảm-nhí, không có (ấy là chúng-sanh cũng vì bức màn vô minh nên cũng gọi là còn mê-muội).

“Thầy nói duy-vật nó chỉ biết cái sống của con vật thôi, nó không hiểu chính cái con vật đó ở đâu mà có! Dầu cho kẻ ngang-ngạnh cho rằng con người ở đất nẻ chun lên, Thầy hỏi chớ đất ấy ai sanh? Không-khí ấy do đâu mà có? Vạn-vật ấy do đâu có chết, có sống? Nếu nói tự-nhiên thì do đâu có sự luân-chuyển của mặt trăng, mặt trời, của sông, của núi, của sao, của gió mây? Nếu vạn-vật thiếu Đạo tức thiếu luật-định thì chỉ trong một phút tương-khắc nhau, đụng lẫn nhau, tương-tàn như tro mạt mà chớ!

Giữa khoảng cách quả đất với thái-dương-hệ và khoảng cách giữa hạt nhân và hạt nguyên-tử nó có số tỷ-lệ giống nhau, Thầy hỏi chớ sự ấy có ngẫu-nhiên chăng? Đời chẳng khác nào lũ mù rờ voi, rờ được cái nào thì cho rằng con voi là đó mà tự-đại, tự-kiêu. Khoa-học vật-chất cho rằng mình đã thắng lý thiên-nhiên thì ngu-muội không biết là dường nào! Chẳng khác chi con bọ ngựa giơ càng đấu với con voi rồi tự-hào rằng mình lớn mạnh.

“Thầy hỏi nếu Thầy rút khí khinh-thanh của vạn-vật trong giây phút thì chúng-sanh có còn sống nỗi chăng? Nguyên-tử có còn hiệu-lực của nó chăng? Quyền-năng của nguyên-tử-lực không bằng hột cát so với càn-khôn là quyền-năng tối thượng của Chí-linh.

“Thầy hằng thấy chúng-sanh khinh rẻ lý Đạo, tôn-trọng quyền vật-dục, chẳng khác nào kẻ đi trong thuyền chê thuyền đi chậm để phóng ra ngoài cho nhanh, rốt cuộc phải rớt xuống sông.

“Thầy nói tiếp: Lẽ tử khứ sanh lai, cho đến một chút tế-bào trong thân-thể đều phải chịu trong khuôn luật ấy. Các con mới bước qua một nấc để đạt lý thiên-nhiên đã vội tự-hào thắng cả càn-khôn. Khờ lắm thay! Dại lắm thay! Thương lắm thay!”

Ấy là vì nhân-loại theo cái văn-minh vật-chất mà quên hẳn văn-minh tinh-thần, mà chính Thầy đã ban một điểm linh-quang chói-lọi.
Các yếu-lý trên là cơ-quan quản-trị càn-khôn.

B - Cơ sanh biến vạn-linh là gì?

Đây là hình ảnh nói về cơ sanh biến vạn-linh. Qua đồ hình bên đây là Lưỡng-nghi biến Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát-quái, rồi Bát-quái sẽ biến hóa vô cùng mà Đạo-gia thường gọi.


Lưỡng-nghi là cơ âm dương phối hợp thì bất cứ vật chi chi trong trời đất này cũng đều do âm dương sản-xuất, mà cũng gọi là lý nhị nguyên đó vậy. Âm với dương vốn là cơ động tĩnh, mâu-thuẫn nhau, tương-khắc mà lại tương hòa. Hai cái lý đối nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu diệt nhau.

Trời có sáng tối, người có nữ nam, vật có cứng mềm, đất có nắng mưa, vạn loại có trống mái, cho chí đến loài cỏ cây, sắt đá cũng có cái lý của âm dương. Một cái cây mới nẩy chồi thì ra hai lá đầu tiên ấy là hình tượng của âm dương đó. Âm dương vốn là cơ sản-xuất, nhưng trong dương có âm và trong âm cũng có dương. Nho-gia gọi “vạn-vật phụ âm nhi bão dương, trung chí dĩ nhi hòa” là vậy. Tức là vạn-vật ôm-ấp âm dương, đến mực trung-dung thì gọi là hòa. Cơ hòa là cơ sanh-hóa:
- Trong phần dương lớn gọi là Thái-dương  có phần âm nhỏ gọi là Thiếu-âm
- Trong phần âm lớn gọi là Thái-âm  có phần dương nhỏ gọi là Thiếu-dương
- Hai cái lý ấy gát chồng lên nhau gọi là Tứ-tượng
- Tứ-tượng thành hình mới biến ra Bát-quái là căn bản của nhân-loại và vạn-vật.
Tứ-tượng là căn-bản của các Bát-quái thành hình.

1 - Việt-Nam là một Thái-cực-đồ hình chữ CHỦ
Qua bản-đồ của nước Việt-Nam cho ta hình ảnh một Thái-cực-đồ, tức nhiên:
- Khi nhìn vào bên tay trái là một dãy đất liền, ấy là Thái-dương.
- Bên tay phải là biển mênh-mông, ấy là Thái-âm
- Trong biển còn có đảo Hải-Nam, tức là trong nước có đất ấy là Thiếu-dương.
- Trong đất lại có nước là Biển Hồ là Thiếu-âm.

Như thế, Việt-Nam đủ hình ảnh của một Đồ hình có Thái-cực, Lưỡng-nghi (tức Thái-dương, Thái-âm)

Rồi từ đó biến sanh Tứ-tượng là thêm vào Thiếu-dương và Thiếu-âm nữa.
Nếu ta đặt compas ngay điểm Ngũ-Hành-Sơn quay một vòng tròn thì đỉnh trên sẽ qua Ải Nam-Quan và điểm dưới sẽ qua Mũi Cà-Mau, tạo thành một Thái-cực-đồ trọn vẹn.

* Việt-Nam có đủ Tam tài
Lịch-sử của dân-tộc còn ghi đậm nét Thăng Long-Thành, kinh-đô miền Bắc một thuở huy-hoàng cho ta một nét dương  rực-rỡ.

Thời-gian trôi qua kinh-thành Thăng-Long trở thành cố đô nhạt-nhòa sương khói, lời thơ của Bà Huyện-Thanh-Quan qua bài “Thăng-Long thành hoài cổ” rằng:
Tạo-hóa gây chi cuộc hí-trường,
Đến nay thấm-thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch-dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang-thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn-trường.

Thế rồi đầu rồng từ đất Bắc lại hướng về miền Trung tạo nên một kinh-đô Huế, nhà Nguyễn vang danh một thời lẫy-lừng trang sử Việt; thời-gian nhuộm màu tang-thương, biến đổi, cố-đô Huế soi mình trong bóng nước Hương giang, ghi thêm một điểm dương  trong lòng trang sử Việt để rồi tất cả mai-một theo thời-gian.

Qua năm Bính-Dần (1926) Đức Thượng-Đế Cao-Đài đến với dân-tộc Việt-Nam ban cho một nền Tân Tôn-giáo có tên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đấy là lúc đầu rồng hướng về miền Nam, Đền-Thánh Cao-Đài xuất hiện tại tỉnh Tây-Ninh thuộc miền Đông của Nam Việt-Nam này, nơi đây là tòa ngự của Đức Thượng-Đế, Thầy có nói “Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa”. Bấy giờ là một điểm dương  sau cùng thấm đượm đến bảy trăm ngàn năm sử Đạo đó là một Thiên triều của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.

Thế là ba nét dương huy-hoàng sáng chói tạo nên quẻ Càn chứng tỏ Việt-Nam là một quốc gia Thiên-định, ba nét dương quẻ Càn là đầy đủ Tam-tài ứng hiệp: Thiên, Địa, Nhân để cho Đức Chí-Tôn làm nơi gieo giống lành cho toàn thế-giới. Quẻ Càn Tam dương đến đây mới đầy-đủ.

Vả lại bờ biển Việt-Nam như một xương sống nối ba hào dương quẻ Càn lại với nhau thành ra chữ Vương Lại nữa đây là mối Đạo Trời do Thượng-Đế làm chủ đó là một nền Vương-Đạo, nên chữ Vương biến thành chữ CHỦ . Điều này ứng hiệp với lời tiên-tri của Thầy là:
“Một nước nhỏ-nhoi trong Vạn quốc,
“Ngày sau làm chủ mới là kỳ.”

Tuy nhiên cũng nên điểm lại trên thực-tế Việt-Nam có những yếu-tố nào mà được chọn là nước CHỦ của vạn quốc trong kỳ thượng-nguơn? Vì sao nước Việt-Nam được gọi là Thánh-địa?

Xét về ba phương-diện:
a/ - Về mặt triết-lý văn-minh
NướcViệt Nam thọ ba ảnh-hưởng của ba nền Tôn-giáo: Thích, Đạo, Nho từ Ấn-Độ và Trung-Hoa truyền sang. Ba nền Tôn-giáo ấy đã được đồng-thời phát triển dưới thời nhà Lý và nhà Trần bằng sự bình đẳng của ba nền Tôn-giáo nói trên.

Kịp đến khi văn-minh Âu-châu tràn vào thì Việt-Nam lại được hưởng thụ thêm nền văn-minh Cơ-đốc-giáo nữa. Như vậy, Việt-Nam là mảnh đất gieo Đạo-giáo từ lâu; vả lại Việt-Nam ít tạo oan báo, nên nghiệp quả của nó cũng nhẹ-nhàng. Việt Nam có đủ điều-kiện để làm cơ qui nhứt toàn thế-giới vì lý-do ấy.

b/ -  Xét về hình-thể địa-lý thiên-nhiên
Việt-Nam nằm vào vị-trí đặc biệt của Á-châu, mà Á-châu lại nằm vào vị-trí trung-tâm của quả đất và Á-châu là châu lớn nhất thế-giới. Châu Á thuộc sắc da vàng, theo lý của Ngũ-hành thuộc Thổ, mà Thổ chính là ở trung-ương.

Việt-Nam là cửa ngõ để tiếp nạp các luồng tư-tưởng từ Đông sang Tây cũng là cửa ngõ để phòng-vệ đất nước cho các giống dân miền Đông Nam châu Á.

c/ - Xét về hình-thể địa-lý huyền-bí
Việt Nam có con sông dài vào bậc nhất thế-giới tất sẽ tạo nên linh-khí thiêng-liêng. Linh-khí ấy tạo nên long mạch Cửu-Long và dãy Thất-sơn nơi Châu-Đốc đó vậy. Ấy là lý: Sơn tiền điểm Long mạch.

Miền Nam là nơi dất mới khai-khẩn nên những quả báo chưa gây nhiều, lại có luồng nước nóng và nước lạnh từ các miền đại-dương hòa hợp để tạo nên một khí-hậu điều-hòa.

Tóm lại, Việt-Nam có đủ điều-kiện: Thiên, Địa, Nhân tức là Tam-tài để đứng ra chủ-trương một mối Đại-Đạo.

Tam-tài ứng với lý Tam-ngôi. Tam ngôi ba điểm đều vẹn thì làm chủ thiên-hạ là lẽ thường chớ có gì đâu khác lạ!

Nhưng Thầy cũng thường dạy rằng: “Làm chủ đây là chủ về tinh-thần chớ không phải mang binh hùng tướng mạnh đi chiếm đất như các con lầm tưởng. Cái chủ tinh-thần mới trường-cữu, còn làm chủ theo thói đời thì nó lỏng-lẻo, bấp bênh nào có bền-chắc, nào có nghĩa lý gì!” Cái lý Tam ngôi nhứt thể biến sanh Tam-giáo, Tam-nguơn, Tam-bảo… Số Tam là chu-kỳ của trời đất để thực hiện cơ vận-chuyển hóa sanh, qui hợp. Việt-Nam cũng là một Bát-quái-đồ có đầy-đủ các con số ấy!

2 - Sao gọi là Bát-quái?
Ấy là quái hào ở trong bản Hà-đồ của con Long-Mã mà vua Phục-Hi đã thấy thuở trước. Những hình tượng ấy ở trong con vật lạ kỳ nên gọi là quái. Tám hình ở trong con vật nên gọi là Bát-quái, kêu lâu thành quen không thể sửa, đáng lẽ phải gọi là Bát-tượng hay Bát tướng mới đúng.

Đến số 8 là đã biến thể 8x8=64 rồi biến vi vô cùng. Tám vòng cung trong hình là tượng-trưng cho bát phẩm chơn-hồn do nơi Phật-Mẫu sản-xuất nơi Kim-Bàn, vì cơ-quan sản-xuất vạn-linh thuộc Pháp. Kinh rằng:
"Càn-khôn sản-xuất hữu-hình,
“Bát hồn vận-chuyển hóa thành chúng-sanh.”

3 - Tám đường thẳng xuyên tâm ấy cơ đoạt Đạo
Người tu-hành phải do nơi Pháp mới thành. Vòng tròn bên ngoài chỉ vũ-trụ càn-khôn.

Bát-phẩm chơn-hồn ấy là vật-chất hồn, thảo-mộc hồn, thú-cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Mỗi hồn đều có tánh chất riêng.

Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa có hình chữ VẠN số 1, là chỉ cơ xuống trần để tạo nghiệp trần duyên. Tạo cho đầy đủ quả nghiệp thành khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học điều mầu nhiệm nên cơ phục nguyên ở chữ VẠN số 2.

Chữ VẠN ấy là chỉ cơ biến-hóa vô cùng đó vậy nên vạn-vật bất kỳ là vật chi có tu ắt có thành.
Đường AB và BC gặp A’B’ tạo thành hình tam-giác nhỏ có OB đi qua đó tượng-trưng cho Tam-giáo phổ trùm khắp vạn-linh nên Đạo khai chẳng những cho nhân-loại tu mà thôi, nhưng là cho cả vạn-vật và Thần, Thánh, Tiên, Phật, ai biết căn tu là trở về nguyên bổn và sẽ được cùng Thầy hội-hiệp.

Đường OB là đường qui nhứt, đường AB hay BC là chỉ cơ tấn-hóa vượt bực, tỷ như người tu có thể vượt lên hàng Thánh, thoát khỏi hàng Thần, nếu biết khôn đi tắt là trở về nhanh chóng tức đường OB, nên đường Đạo chính là con đường chánh đại quang-minh và ngay thẳng không có vòng quanh chi.
Cứ trong mỗi tam-giác lại có hai tam-giác nhỏ bằng nhau, hiểu lý âm dương tương-hiệp rồi.
Năm đường thẳng gát chồng lên nhau ấy là tượng ngũ-hành, ngũ-khí hay ngũ-tạng.

C - Cơ hỗn-hợp Càn-Khôn biến tướng
Qua hình vẽ: Hai hình tam-giác và hai hình vuông giao nhau như mắc lưới, mà Thầy đứng giữa nắm cả pháp mầu càn-khôn.

Hình này là cơ hỗn-hợp giữa quyền-năng quản-trị càn-khôn và cơ sanh biến vạn-linh. Hình này mới xem qua có vẻ phức-tạp và rắc-rối. Nhưng nhìn kỹ sẽ thấy có:
Tâm 0 tượng-trưng quyền Chủ-tể đứng giữa nắm cơ pháp-mầu càn-khôn; ấy là quyền của Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một tức là quyền Chí-Tôn tại thế. Vòng tròn lớn này gồm có hai hình tam-giác đều nội-tiếp trong vòng tròn và gát chồng lên nhau là AGF và CEH và hai hình vuông ABCD và A’B’C’D’ tạo thành các đường thẳng song song A’B’ và EF cũng như D’C’ và HG ấy là cơ âm dương tương-hiệp đó.

Quyền Phật và Pháp lưỡng hiệp mới biến ra Tăng. Nhìn rõ mới thấy cái lý trung âm hữu dương và dương trung hữu âm trong đó vậy (tức là trong âm có dương và trong dương có âm).

Bốn hình tam-giác ADG và CDH; ABF và CBE cho ta ý niệm âm dương tương hiệp và cơ biến tướng của Tứ-tượng thành Bát-quái để biến-hóa vô cùng:

A tượng-trưng cho điểm dương, C tượng-trưng cho điểm âm.
Bốn hình tam-giác: AGC, AFC và CAH, CAE cũng vậy, đó là Thái-dương và Thái-âm so sánh với 4 tam-giác nhỏ trên là Thiếu-dương và Thiếu-âm đó.

Chúng nó giao nhau lại tạo thành các tam-giác bằng nhau: MEF và NGH là những tam-giác nhỏ kế tiếp nữa cho ta có ý-niệm rõ-rệt là vạn-vật đựng nhau, như lời Thầy thường nói là một vòng tròn chứa đựng trong một vòng tròn, một ánh sáng chứa đựng trong một ánh sáng vô biên là vậy.

Tam-giác tượng-trưng cho Tam-giáo mà cũng tượng-trưng cho Tam-ngôi nhứt-thể....
Hình ảnh này cũng như trong một cơ thể con người có nguyên-tử âm và nguyên-tử dương đun-đẩy nhau tạo thành một tế-bào. Các tế-bào hòa-hợp nhau tạo thành thân thể.

Ngay chính trong thân người cũng có âm dương huân-chưng đầm-ấm, bên hữu ấy là âm, bên tả ấy là dương. Người lại có Nam và Nữ. Nam và Nữ lại ở trên trái đất này. Trái đất lại ở trong hệ-thống Thái-dương-hệ. Hệ-thống thái-dương-hệ lại ở trong càn-khôn vũ-trụ”.

Xem ra đồ hình này gọi là Bát-quái Đồ-thiên, mà chính ngày nay Thượng-Đế đến để qui tất cả con cái của Ngài về bằng con đường hành thiện, cho nên đường lối tu của Cao-Đài Đại-Đạo là thế. Chúng-sanh tu-hành tức là học cho suốt thông các lý lẽ siêu-mầu của đạo-pháp để không rơi vào những điều dị-đoan mê-tín mà xưa nay thường bị vướng mắc.

Sở dĩ như vậy là vì đạo-pháp quá cao siêu, quá sức hiểu biết của con người cho nên các Đấng Giáo-chủ đến mở Đạo không thể triển-khai hết các lý lẽ ấy ra cho được, bởi vì khoa-học chưa tiến-bộ, chưa có sở-trường cho môn luận-lý-học nên phải dùng những hình-ảnh trừu tượng.

Ví như bên Phật-giáo nói ngày ra đời của Phật Thích-Ca thì có Thiên-Thần nhã nhạc, vừa sanh ra thì Ngài đứng lên và bước tới bảy bước, mỗi bước đi của Ngài đều có hoa sen nở nhụy.

Cũng như Công-giáo và Tin-lành đều thờ Chúa, nhưng mà hai quan-niệm khác nhau và hình như chống báng nhau. Công-giáo tin rằng Chúa sinh ra đời trong một điều Thần-thoại, là Thiên Thần giáng linh chớ không có sự giao-phối của cha mẹ phàm.

Chính những ý-tưởng như vậy làm cho khoa-học ngày nay mất tin-tưởng và cho rằng Tôn-giáo là những gì hoàn-toàn thần-bí, chưa nói đến là dị-đoan mê-tín. Sở dĩ dùng danh-từ dị-đoan mê tín là sự tin-tưởng không có gì làm sở trường, làm đầu mối cho việc tu-hành cả: Vì không có cơ sở khoa-học

Hơn nữa ngày nay khoa-học đã tiến bộ cao-siêu. Việc này không thể đổ lỗi cho ai cả, mà cái gì cũng đều có duyên cớ của nó.

Một cái hoa nở xinh đẹp, rồi tàn, tàn để rụng các cánh hoa đi, đến lúc sẽ thành trái. Trái là kết-quả của các thời-kỳ trên. Tất cả đều ơn ích không thể không có các giai-đoạn ấy được.

Ngày nay là thời-kỳ gặt hái kết-quả, may duyên cho chúng-sanh buổi này chính Đấng Thượng-Đế đến mở Đạo đã giải rành từng vấn-đề một để chúng-sanh không lầm-lẫn nữa, bởi nhờ có khoa-học kết hợp với Đạo-học, làm sáng danh đạo-pháp khắp từ Âu sang Á.

D - Đạo Cao-Đài chủ-trương diệt trừ mê-tín

Việc này Đức Hộ-Pháp có nói rõ:
“Bần-Đạo cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn biết rằng: nền Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn đến lập do nơi chơn-lý tối cao, chính mình Đức Chí-Tôn đến để diệt mê-tín dị-đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn-chánh mà thôi.

Nó có hai quyền-năng sở-hữu của nó nơi mặt thế này, cả hành-tàng sống chết của nó đều chịu dưới hệ-thống của hai quyền-năng:
- Sống về xác thịt của ta đây, nó có thời-gian sống của nó; từ buổi sanh đến lớn lên, đến già rồi chết, luật thiên-nhiên ấy không ai qua khỏi; luật thiên-nhiên có giới-hạn, có định-luật chuẩn-thằng cho kiếp sống chúng ta nơi mặt thế này là hình-thể.
- Còn về chơn-linh của chúng ta tức nhiên hồn của chúng ta chịu hệ-thống dưới quyền vi-chủ của nó, mà người làm chủ của nó không ai khác hơn là “Đại-Từ-Phụ”, tức nhiên Thượng-Đế.

Nhơn-loại mê-tín đã nhiều, tinh-thần loài người đã bị họ gạt-gẫm nhiều rồi, bởi thế không ai gạt được nữa. Chỉ có hai quyền-năng ấy không còn có mặt luật nào khác hơn nữa, ta chỉ tùng hai quyền-năng chơn thật ấy mà thôi, ngoài ra là giả dối.”
(Trí-Huệ-Cung 15-1 Tân-Mão 1951).
Dịch-lý Cao-Đài mong hoá giải các vấn-đề trên.

E - Đường Đại-Đạo là chơn chính và khoa-học


Nhìn vào đồ hình “cơ-quan quản-trị càn-khôn” ta thấy có những đường thẳng xuyên tâm ấy là chỉ những đường chủ-yếu là con đường đạo-đức, nghĩa thật là con đường ngay chính dẫn về nguyên bổn và cũng là con đường tấn-hóa của vạn-linh. Các con đường tua-tủa ấy mới trông xem như rắc-rối nhưng nghiệm lý thấy rõ-ràng chỉ duy lý âm dương lưỡng-hiệp biến sanh thì mọi việc đều dễ-dãi.

Cơ-quan quản-trị càn-khôn cũng nằm vào trong ấy. Cao hơn hết là quyền Phật và Pháp tức là quyền Chí-Tôn và Phật-Mẫu, là quyền-năng của hai Đấng Cha Mẹ Thiêng-Liêng, nói chung là Đấng Tạo-hóa đó vậy. Kế đến quyền thiêng-liêng và vật loại hay là cơ vô-hình và hữu-hình tương-hội. Giữa hai cơ-quan ấy có cơ-quan bán hữu-hình tương-tiếp ấy là Tăng, tức là ba ngôi, mà ba ngôi chung cùng một quyền-năng quản-trị nên gọi là Tam ngôi nhứt thể: Phật, Pháp, Tăng.

Dầu cho cơ-quan quản-trị càn-khôn hay cơ sanh biến vạn-linh cũng không ngoài lý âm dương tương hiệp hay lý nhị nguyên, đó là cơ động tịnh biến sanh, cho nên dầu vạn-vật trong càn-khôn vũ-trụ này tuy hằng hà sa số vô lượng vô biên không thể đếm hết, nhưng mà rốt lại cũng không ngoài lý ấy. Lẽ sanh tử hay bất cứ hình-thức nào dẫu hữu-hình hay vô-hình cũng cùng trong một khuôn viên ấy. Thấu đoạt được lý Âm Dương là thấu đoạt lẽ Đạo và suốt thông cùng trời đất, thế nên Đức Chí-Tôn có nói dữ với hiền, ngu với trí, Nữ với Nam hay bất cứ chi chi trước mắt Thầy đều như nhau tất cả. Vì Thầy là chủ cơ sanh-hóa nên Thầy để lòng thương-yêu tất cả.

Dầu cho những huyền-pháp mà Thượng-Đế có ban cho phần âm, tức là phần xấu-xa thấp kém, mà chủ của nó là Quỉ-vương thì quyền-hạn của họ vẫn ở trong khuôn luật của Thượng-Đế mà thôi… Chi chi cũng có luật định tất cả”.

Có rõ được lý tính của càn-khôn vũ-trụ để khi nghiên-cứu về Bát-quái ta mới không ngỡ-ngàng với một nền Đạo-học mới, từ xưa đến giờ chỉ có thời-kỳ này chính Thượng-Đế đến giảng dạy mà thôi.

Như vậy tất cả mọi việc trong vũ-trụ này đều theo một qui-tắc, một định-luật. chúng-sanh nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Thế nên phương tu phải có LUẬT, có PHÁP định-vị là vậy.

Nếu nói rằng nhiều tế-bào mới hiệp thành một cơ thể, thì từ đây chúng ta sẽ chứng-minh rằng lý Đạo nhất-quán từ hữu-hình đến vô-vi, từ thể-pháp đến bí-pháp, trong mọi hình-thức nào cũng đều hiển-hiện lý Âm Dương. Mỗi tế-bào trong người cũng ví như mỗi Bát-quái tượng-trưng trong triết-lý của nền Đại-Đạo này vậy.

F - Phần luận Đạo:
Hộ-Pháp Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài

“Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm, phần của Hộ-Pháp chưởng-quản về Pháp.

“Vậy thì Hiệp-Thiên-Đài phải dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, cũng như Cửu-Trùng-Đài dưới quyền Giáo-Tông và Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn làm chủ.

1 - Quyền-hành HỘ-PHÁP
Hộ-Pháp “Là người nắm trọn cả luật Đạo và luật Đời đặng xử đoán, làm chủ phòng xử-đoán. Dưới quyền Hộ-Pháp có 4 vị Thời-quân là; Tiếp-Pháp, Khai-Pháp, Hiến-Pháp, Bảo-Pháp”
Mỗi một vòng tròn như vậy có 5 người, ứng với ngũ-hành.

Ba vòng tròn trên có tâm mang chữ:
- Thượng-Phẩm là người nắm quyền chi Đạo, có 4 vị dưới quyền Ngài là: Bảo-Đạo, Hiến-Đạo, Khai Đạo, Tiếp-Đạo.
- Hộ-Pháp là người nắm quyền chi Pháp, có 4 vị dưới quyền Ngài là: Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai Pháp, Tiếp-Pháp.
- Thượng-Sanh là người nắm quyền chi Thế, có 4 vị dưới quyền ngài là: Bảo-Thế, Hiến-Thế, Khai-Thế, Tiếp-Thế.

Như vậy 3 vị: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh là ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn, 12 vị mang chữ Đạo, Pháp, Thế là 12 vị Thời-quân. Nói chung là Ngự-Mã Thiên-Quân của Chí-Tôn đó vậy, cộng chung là 15 người. Con số 15 này có mặt trong Bát-quái Đồ-thiên và đóng một vai trò vô cùng quan-trọng.

Số 15 là hình ảnh của:
- Trời có Tam-bửu, Ngũ-khí.
- Đất có Tam-bửu, Ngũ-hành.
- Người có Tam-bửu, Ngũ-tạng.
3 lần con số 3 là 9 là con số Lão-dương chỉ quyền-năng của Thượng-Đế.

3 lần con số 5 là con số điều-hoà càn-khôn vũ-trụ là hình ảnh của Phật-Mẫu nắm cơ sản-xuất Bát-phẩm chơn-hồn, sanh biến vạn-linh.

Ngoài ra Hộ-Pháp còn chưởng-quản cả Hiệp-Thiên-Đài nữa. Thế nên:
Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm, phần có Hộ-Pháp chưởng-quản về Pháp.

2 - Thượng-Phẩm là ai?
“Thượng-Phẩm là người thay mặt cho Hộ-Pháp, phải tùng lịnh Hộ-Pháp mà hành-chánh. Hễ bước chân vào cửa Đạo thì có Thiên-phẩm, mà hễ có Thiên-phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng-Phẩm mới trọn nghĩa câu Phổ-độ… Thượng-Phẩm là chủ phòng Cải-luật, làm Trạng-sư của Tín-đồ.

Thượng-Phẩm thì quyền về phần Đạo, dưới quyền có: Tiếp-Đạo, Khai-Đạo, Hiến-đạo, Bảo-Đạo.
Lo về phần Tịnh-Thất, mấy Thánh-Thất đều xem-sóc chư Môn-đệ Thầy, binh-vực chẳng cho ai đến khổ-khắc cho đặng.

3 - Thượng-Sanh là ai?
“Vật-chất hữu-sanh, Thảo-mộc hữu sanh, cầm-thú hữu sanh, nhơn-loại hữu sanh, tức là chúng-sanh. Trong chúng-sanh có nguyên-sanh, hóa-sanh và quỉ-sanh..
Thượng-Sanh làm chủ phòng Cáo-luật. Thượng-Sanh thì lo về phần đời.
Mỗi sự chi thuộc về đời thì về quyền của Thượng-Sanh.

Dưới quyền Thượng-Sanh thì có 4 vị Thời quân là:
Tiếp-Thế, Khai-Thế, Hiến-Thế, Bảo-Thế.

Bốn vị Thời-quân chi Thế đặng đồng quyền cùng Thượng-Sanh, khi người ban lịnh hành-chánh; song mỗi vị có mỗi phận-sự riêng, quyền-hành riêng.”

II - KHAI TRIỂN BÁT-QUÁI ĐỒ THIÊN
QUA CƠ-QUAN HIỆP-THIÊN-ĐÀI


A - Phần khai triển

Xem thế, thì cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài có ba chi, mỗi chi có 4 Thời-quân (3 x 4=12). Gọi là Thập-Nhị Thời-Quân, cộng thêm ba vị Chưởng-quản đứng đầu ba chi nữa thành ra 15 vị cả thảy (12+3=15). Con số 15 này nó có một giá-trị đặc biệt trong Bát-quái Đồ-thiên, mà chúng ta sắp bàn đến đây:
1 - Số ma-phương
Nhìn vào Bát-quái này ta thấy ngay một bảng ô số, đó là những con số ứng với các quẻ. Tỷ như số 1 là Khảm, 2 là Khôn, 3 là Chấn, 4 là Tốn, 5 ở chính giữa, 6 là Càn, 7 là Đoài, 8 là Cấn, 9 là Ly. Đây gọi là con số Ma-phương hay là Ma-phương-số. Có một bài thơ sau, cốt-yếu là cho dễ nhớ vị-trí các con số ấy, đọc theo hàng ngang của bản số, là:
Tứ hải, tam sơn, hội bát Tiên
Cửu long ngũ hổ nhứt đoàn viên.
Nhị tướng thất trì phò lục quốc

Nếu cộng những số này theo các chiều ngang dọc, sẽ có được tổng-số là 15. Nghĩa là có tất cả 8 lần tổng-số 15 như vậy:
Cộng hàng ngang:
4+3+8= 15
9+5+1= 15
2+7+6= 15

Cộng hàng dọc:
8+1+6= 15
3+5+7= 15
4+9+2= 15

Cộng qua hai đường chéo:
8+5+2= 15
4+5+6= 15

8 lần tổng-số 15 như vậy có nhiều ý-nghĩa, từ đó suy ra các việc về Đạo-pháp:

Sở dĩ có các con số tương-ứng này là lấy theo số của Bát-quái Hậu-thiên mà các bậc tiền Thánh đã lập ra trước đây 6.000 năm, là nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, Ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. Do vậy mà Bát-quái Hậu-thiên chỉ có 9 con số mà thôi.
Dịch quan-trọng ở Nho, Y, Lý, Số.

Ở đây Số đã chiếm một phần trọng-yếu để giải về lý Đạo, cho nên trong chương này chúng ta bàn về số nhiều hơn.

2 - Ý-nghĩa các ngày Lễ Đạo qua các con số
- Ngày lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung:
Con số này ứng với ngày lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung hằng năm, nhằm ngày 15 tháng 8 âm lịch. Bởi số 15 là con số điều-hòa vũ-trụ. Còn số 8 là số ứng với Bát-phẩm chơn-hồn mà Đức Phật Mẫu là người sản-xuất ra Bát-phẩm chơn-hồn ấy.

- Ngày Khai Đại-Đạo:
Nếu ta chỉ cộng các con số theo các hàng ngang dọc như trên theo đường xuyên tâm đối, nhưng không cộng số 5 ở giữa, thì sẽ có các kết-quả là 10, như sau:
4+6=10     3+7=10     2+8=10     1+9=10

Hợp số của con số 10 này với số 15 ở trên sẽ là ngày Khai Đại-Đạo chính-thức tại Từ-Lâm-Tự (Gò-Kén Tây-Ninh) vào ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (1926) và hằng năm toàn Đạo đều thiết lễ Kỹ-niệm ngày khai minh Đại-Đạo ấy.

- Ngày Đại-lễ Đức Chí-Tôn:
Hai con số Khảm 1 và Ly 9 nằm trên trục Bắc Nam tức nhiên là cái dụng của Dịch, 1 là Thái-dương và 9 là Lão-dương sẽ được Đức Thượng-Đế lấy làm ngày Đại-lễ Đức Chí-Tôn ngày 9 tháng 1 âm-lịch hằng năm.

- Ngày Vía Đức Thái-Thượng Lão-quân:
Trên bảng ma-phương-số này cũng có chia hai phần âm dương rõ-rệt, mà chính Đức Thái Thượng Lão-quân là người đạt được Bát-quái nhờ vào thư-phòng nhà Châu học được Bát-quái-đồ. Đạo-sử nói rằng ông không có ngày sanh, không có ngày tử, không có cha, chỉ có mẹ mà thôi; nhưng tại sao Kinh nói rằng:

“Nhị ngoạt thập ngũ phân tánh giáng sanh” (nghĩa là tháng 2 vào ngày 15 thì Ngài phân tánh giáng trần) tức nhiên ngày Vía của Đức Thái-Thượng là 15 tháng 2 âm-lịch hằng năm tại Tòa-Thánh Tây-Ninh, cũng như toàn Đạo ở các Thánh Thất địa-phương đều thiết Đại-đàn vía Đức Ngài vào ngày ấy.

Nếu nhìn vào bảng Ma-phương-số sẽ thấy hai con số này: số 15 như đã nói trên, còn số 2 là âm dương nhị khí đó vậy.

Ý-nghĩa các ngày Lễ
Vì đâu mà ta xác-định các con số ấy là những ngày Đại-lễ nơi Toà-Thánh Tây-Ninh, là những ngày trọng đại của nền Đại-Đạo này?

Dẫn-giải: Thứ nhất ai cũng nhìn-nhận rằng:
- Trời có Tam-bửu, Ngũ-khí (Tam-bửu là Nhựt, Nguyệt, Tinh; Ngũ-khí là vân (mây), vũ (mưa), vụ (sương), lôi (sấm), oanh (sét).
- Đất có Tam-bửu, Ngũ-hành (Tam-bửu là Thủy, Hỏa, Phong; Ngũ-hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)
- Người có Tam-bửu, Ngũ-tạng (Tam-bửu là Tinh, Khí, Thần; Ngũ-tạng là Tâm (tim), Can (gan), Tì (bao-tử), Phế (phổi), Thận (quả cật).

Nếu nhìn vào Tam-tài (Trời, Đất, Người) như trên họp lại thì 3x3=9, còn 3x5=15. Con số 9 là Lão dương, cực mạnh, sáng-soi khắp cùng vũ-trụ.

Bởi số 9 là số huyền-diệu nhiệm-mầu hơn hết. Số 9 là cơ chuyển-biến đến mực độ tận thiện, tận mỹ, toàn tri, toàn năng. Số 9 bằng 3x3 tức là cấp bực Tam ngôi biến-hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hợp về cơ qui nhất. Cùng cực cái động tức nhiên phải trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.

Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sinh-hoạt trước nhứt để biến vi hữu tướng hiện có ở càn-khôn vũ-trụ.

* Thế nên hai con số 9 và 1 này đều là số dương cả để chỉ vào quyền-uy tối thượng là Thượng-Đế, chứ Ngài là Đấng tự-hữu, hằng hữu; tức là không sanh cũng không diệt, do lấy đó làm ngày Đại-lễ Đức Chí-Tôn ngày 9 tháng 1 (giêng) thuần dương là vậy.

Hơn nữa qua ba thời-kỳ mở Đạo, mà nay là Tam-Kỳ Phổ-Độ tức nhiên là con số 3 tròn đầy.

Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ-quan hữu-tướng cùng vô-tướng hiện có ở càn-khôn vũ-trụ này.

Con số 3x5= 15 là số điều-hòa vũ-trụ. Nếu tính hàng ngang thì bằng 1+5. Bởi 1 là Thái-cực đứng trước Ngũ-hành, tức là càn-khôn đã an-vị rồi nhờ có Thái-cực đun-đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt, mọi việc đâu đó xong-xuôi hết, đã được an-bày có thứ-lớp, trật-tự hẳn-hoi.

Số 8 là do 4x2 ấy là Bát-quái, 4 là cơ chuyển-biến, 2 là cơ âm dương; cơ chuyển-biến phát-động trên cơ âm dương nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu thay thay, đổi đổi.

* Hơn nữa Phật-Mẫu có Bát-Cảnh-cung, thế nên 15 và 8 là hai con số tương-hiệp lại biến-hóa vô cùng, lấy ngày 15 tháng 8 làm ngày Vía Đức Phật-Mẫu, tức là ngày Hội-Yến Diêu-Trì-Cung chỉ tổ-chức nơi Toà-Thánh Tây-Ninh này mà thôi.

* Số 10 là số hiền-hòa, đầm-ấm, lặng-lẽ, bình-an; hợp với số 15 ở trên, lấy làm ngày khai Đạo, ngày 15-10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926).

Niềm vui cho nhân-loại được sớm hưởng hòa-bình hạnh-phúc thật sự và nền Đại-Đạo này sẽ đi đến Đại-Đồng Thế-Giới, nhiệm-kỳ đến bảy trăm ngàn năm (gọi là Thất ức niên). Ấy là sự trường-tồn, vĩnh-cữu của nền Đại-Đạo vậy.

3 - Chính là chữ ĐIỀN
Trong bảng ô số này đã xác định đây là chữ Điền, như đã có nói đến.
Trước nhứt là chữ “Tâm điền” có nghĩa đây là cái tâm của Bát-quái Đồ-thiên có hình ảnh của chữ Điền.
Tại sao Bà Thanh-Tâm Tài-Nữ nói:
Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì-nhiêu, đặng cho buổi gặt hưởng nhờ, mà không chịu làm thế thì phải diệt tận chơn linh?

Bởi ngày nay Đức Thượng-Đế đến mở Đạo là đã cung-ứng tất cả nhu-cầu cần-yếu cho nhân-loại rồi.
Tức nhiên ngày nay Đạo tìm người, khác hẳn ngày xưa là người phải đi tìm Đạo.

Bằng chứng là ngay từ buổi đầu các bậc tiền bối, tức là Đức Quyền Giáo-Tông, nói “Ngài luôn luôn đi các nơi để phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập-Nhị Thời-Quân đi phò-loan cùng hết, không chỗ nào không có Cơ-bút, người thì xuống miền Tây, người thì đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây-Ninh mở Đạo”.

Điều ấy đúng thật chúng ta “duy có ra công làm cho đất phì-nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ” tức là Chí-Tôn đã nhắc-nhở rằng:

“TA nói cho chúng-sanh biết rằng: Gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ này mà không tu, thì không còn trông mong siêu-rỗi”

Hoặc:
“Con chỉ có TU mà đắc Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên, vạn kẻ nhân-sanh chưa đặng khỏi luân-hồi, để lòng Từ-bi độ rỗi kẻo tội-nghiệp”.

Kinh Di-Lạc cũng nói rõ “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, tức nhiên đã có đến hàng trăm, hàng ngàn, hàng muôn kiếp, nhơn-sanh trước đây chưa được hân-hạnh gặp được kỳ đại ân-xá như chúng ta ngày nay, chính là Đại-Đạo này.

Vì sao?
- Đây là nguyên-nhân chính:
Thích-Ca-Như-Lai kiêm viết Cao-Đài Đại-Bồ-Tát nói:
“Vốn từ Lục-Tổ thì Phật-giáo bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh-pháp bị nơi tay Thần-Tú làm cho ra mất Chánh-giáo, lập riêng pháp-luật buộc mối Đạo Thiền.

TA vì luật lịnh Thiên-mạng đã ra cho nên cam để vậy làm cho Phật-Tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thiên địa hoằng khai, nơi “Tây-phương Cực-Lạc” và “Ngọc Hư-Cung” mật-chiếu đã truyền siêu-rỗi chúng-sanh. Trong Phật-Tông nguyên-lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi; tại Tăng-đồ không kiếm chơn-lý mà hiểu.

Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành-đạo…
Ôi, thương thay! Công có công, mà thưởng chưa hề có thưởng; vì vậy mà TA rất đau lòng.

TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng-trần TA đương lo cứu vớt. Chư Tăng, chư chúng-sanh hữu căn, hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ-độ này là lần chót; phải ráng sức tu-hành, đừng mơ-mộng hoài trông giả luật. Chư sơn đắc Đạo cùng chăng là do nơi mình hành-đạo.

Phép hành-đạo Phật-giáo dường như ra sái hết, tương-tợ biến thành “Tả đạo bàn môn”. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần-Tú, thì đương mong-mỏi về Tây-phương mà cửa Tây-phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành Chánh-quả do nơi nào mà biết chắc vậy. TA đã đến với huyền-diệu này, thì từ đây TA cũng cho chư Tăng dùng huyền-diệu này mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất-kỳ-truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng nói “Phật giả vô ngôn” nữa”. (TNI /22)

Phật đã dạy “dùng huyền-diệu này mà học hỏi”, vậy học những gì?
* Phân-tách chữ ĐIỀN sẽ thấy những yếu lý như:
Trong chữ Điền, phân tích ra có đến 4 chữ “nhựt”, là nói đến nền “Đại-Đạo hoằng khai” tức là phải làm cho cơ Đạo ngày một mở-mang rộng-rãi, do câu “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân” (nghĩa là ngày mới, ngày ngày mới, mỗi ngày mỗi mới) tức nhiên phải có tiến-bộ luôn. Nguyện rằng: Nam-mô nhứt nguyện Đại-Đạo hoằng khai.

* Chữ điền có 4 chữ “sơn” , nghĩa là người Cao-Đài phải lo Phổ-độ chúng-sanh, làm cho chúng-sanh đều am tường lý Đạo diệu mầu. Vì tu theo Cao-Đài là tu Tiên, mà Tòa-Thánh Tây-Ninh có hình chữ Sơn , người là “nhơn” hợp với sơn thành ra chữ Tiên là lý ấy. Tu Tiên là luyện Tinh Khí Thần: Học Đạo là luyện Tinh, cúng Tứ thời là luyện Khí, tìm về lý Hư-vô thâm diệu của đạo-pháp là luyện Thần, tức nhiên tu cho đạt Tinh, Khí, Thần là vậy.

* Chữ Điền có hai chữ “Vương” là thể hiện câu “Tam nguyện xá tội đệ-tử” tức nhiên là mình cầu xin được tinh-thần mẫn-huệ để lo trau-giồi bản thân mình có được sự hiểu biết rộng-rãi. Kế đến là cầu xin cho thiên-hạ, tức là câu “Tứ nguyện Thiên-hạ Thái-bình”. Bởi đây là nền Vương Đạo, phát-huy rộng-rãi.

* Chữ điền có đến 4 chữ “khẩu” là thực hiện cho được câu “Thánh-Thất an-ninh”, tức nhiên mình phải tự an cái tâm này và định cái tánh này, đó là thực hiện tinh-thần Hiến-dâng và Phụng-sự, qua lời Kinh Ngũ-Nguyện, mà ngày ngày người Tín-hữu đã hằng cầu-nguyện vậy. Phải khẩu khẩu tâm truyền, tâm phục khẩu phục.

4 - Chữ thập trong Bát-quái
Tức là hai trục chánh trong Bát-quái.
Đó là càn-khôn vũ-trụ còn biểu-tượng bằng chữ Thập (gọi là thập tự nhai).

Thử hỏi VŨ-TRỤ là gì?
Tiên-Nho đã nói: “Tứ phương thượng hạ viết VŨ, cổ vãng kim lai viết TRỤ”.

Nghĩa là bốn phương cùng trên dưới gọi là vũ, xưa qua nay lại gọi là trụ, tức là nói chung gồm cả Không-gian lẫn Thời-gian.

Như thế nhìn về phương hướng thì có bốn phương chánh là: Đông, Tây, Nam, Bắc, cùng với phía trên đầu và dưới chân nữa là sáu. Ngoài ra còn có 4 phương phụ, tức là Đông-Nam, Tây Nam, Đông-Bắc, Tây-Bắc; cả thảy mười phương là vậy. Số 10 gọi là “thập”.

Thế nên Đạo Công-giáo lấy “Thập-Tự-giá” làm biểu-tượng cũng đủ cho thấy rằng Đạo Thánh là nồng-cốt đứng trong Tam-giáo, vì vậy Chúa chịu nạn cho nhân-lọai, tức là đóng đinh trên Thánh-giá để gánh cả khổ-ách của nhân-lọai. Thì chúng-sanh đến thế này phải qua “năm bước khổ” đó chỉ là bài học tiến-hóa mà thôi, là thọ khổ để được đến gần với Thượng-Đế.

Giải về thập phương, trong Cao-Đài Thầy có nói rõ: “Dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh-vi gọi là Niết-Bàn. Chín từng Trời gọi là Cửu-Thiên Khai-Hóa, tức là 9 phương Trời cộng với Niết-Bàn là 10; gọi là Thập phương chư Phật

Gọi chín phương trời mười phương Phật là đó”. Như vậy mà chữ thập trong Bát-quái là một yếu-tố rất quan-trọng như cây cột để giữ vững cho ngôi nhà. Trước đây các Đấng tiền Thánh làm Dịch như Phục-Hi, Văn-Vương, Châu-Công, Khổng-Tử lần-lượt bổ-sung cho bộ Dịch được hoàn thành đến ngày nay, duy chỉ có hai Bát-quái:

Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-thiên Bát-quái thì lấy hướng Nam Bắc làm trục đứng, Đông Tây làm trục ngang. Nhưng ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài có thêm hai Bát-quái nữa cũng lấy hai Bát-quái trên làm căn-bản mà đổi trục đi là Đông Tây làm trục đứng và Nam Bắc làm trục ngang, mà con đường vận-hành của Bát-quái Cao-Đài là nghịch-chuyển, tức nhiên lấy Đền-Thánh làm chuẩn để định phương-vị cho Bát-quái Cao-Đài, đồng thời là nơi chứa đựng tất cả bí-pháp nhiệm-mầu đều đặt để nơi đây tất cả.

Tóm lại phương tu-hành cũng nơi đây mà con đường trở về cõi Niết-Bàn cũng là đây. Thầy có dạy rành:
“Muốn trọn hai chữ Phổ-độ phải làm thế nào? Thầy hỏi. Phải bày Bửu-pháp chớ không đặng giấu nữa.” (TNI/15)

Bày ở đâu? - Ở tại Toà-Thánh Tây-Ninh này, có lời dạy:
“Con nghe: nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh-Địa…chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi.” (TNI/ 98)

Nếu hỏi “chi chi cũng tại Tây-Ninh đây” là gì?
-Tất nhiên Đền-Thánh Cao-Đài Tòa-Thánh Tây-Ninh nơi miền Nam Việt-Nam ngày nay là Tòa ngự của Đức Chí-Tôn, tượng-trưng Bạch-Ngọc-Kinh tại thế.

“Đây là Tòa-Thánh là nơi Đức Chí-Tôn đến, nhất định lập ngôi vị của Ngài trong mọi sự cố-gắng của con cái Ngài, tượng-trưng khối tinh-thần vững chắc, thì có ai đủ quyền-năng nào mà diệt được.

Đền-Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi-măng nữa, mà là một khối đức-tin của toàn con cái của Đức Chí-Tôn đã tượng nên hình đó vậy.

Từ đây một sắc dân nào có đủ đức-tin nơi Đức Chí-Tôn là Chúa-tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền-Thánh mà cầu-nguyện hằng ngày, hằng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài…

Đức Chí-Tôn cũng dùng bí-pháp mà lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để ứng nghiệm cái quyền-năng nơi quả địa-cầu 68 này để bảo-tồn cơ sanh-hóa, vì Ngài là Chúa sự thương-yêu, mà vì thương-yêu mới có sanh sanh hóa hóa. Vậy nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ do bí-pháp mà lập thành.

Đền-Thánh là nơi Thầy ngự tại thế, cũng do bí-pháp mà biến tướng ra.
Ấy vậy Đền-Thánh này là nơi chứa tất cả bí-pháp của Đấng Chúa-tể càn-khôn ấy”.

Dầu một dân-tộc nào muốn nghiên-cứu về Tôn-giáo Cao-Đài thì phải đến Tòa-Thánh Tây-Ninh này mà thôi, vì nơi đây đã thành hình Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền là phương để truyền Chánh-pháp.

5 - Long-Mã phụ Hà-đồ tượng trưng chữ thập định vị cho càn-khôn
Tất cả bí-pháp ấy nằm trên lưng con “Long-Mã phụ Hà-đồ” như xưa vua Phục-Hi là người phát hiện “Long-Mã” đầu tiên vậy.
Long-Mã Phụ Hà-Đồ đặt trên nóc Nghinh Phong-Đài

Ngày nay điển-tích ấy đặt nằm ngay trên Nghinh-Phong-Đài của Đền-Thánh đã chỉ rõ phương hướng, đồng thời mang cả bí-pháp diệu mầu của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét