LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI VỀ GIÁO LÝ (1925 - 1955) - 7 / 7 ( HT. TRẦN VĂN RẠNG )


16 . Bảo Đại ban cho đạo Cao Đài đất xây dựng TTTN
Ngày 17-4 Giáp Ngọ (19-5-1954) Đức Hộ Pháp sang Âu Châu do lời mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại. Đức Ngài được coi là cố vấn tối cao của Đức Bảo Đại để hoạch định cho chương trình hội nghị Genève. Mặt khác, Đức Ngài sang Pháp để đáp lời mời của chính phủ Pháp trước đây mà Đức Ngài chưa có dịp đi.
Hôm lên đường các cơ quan chánh trị đạo đưa tiễn, Đức Ngài nói: “Hôm nay Thầy lãnh sứ mạng thiêng liêng đem ngọn cờ cứu khổ đến Âu Châu, mong rằng cánh hạc huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình yêu ái vô biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc nơi Âu Châu.
May ra nhờ lòng yêu ái vô biên, quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ sẽ làm cho một trường hỗn loạn trở nên thái bình và hạnh phúc cho cả nhơn loại trên mặt địa cầu này. Một điều trọng yếu hơn nữa là cả thảy cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ từ bi bao phủ trên mặt địa cầu này. Nếu mơ ước không có diệt vong mà thiệt hiện ra được. Bần Đạo dám chắc không có điều chi vui cho Đại Từ Phụ hơn điều đó”.
 Chánh phủ Pháp tiếp đón Đức Ngài theo nghi lễ một thượng khách. Tổng thống René Coty, Thủ tướng Laniel, Phó thủ tướng Paul Regnaud, các nghị sĩ và các nhân vật trong chính giới đều hoan hỉ tiếp kiến Đức Ngài.
Trong cuộc phỏng vấn của báo chí tại Pháp, có hỏi Đức Ngài chống Cộng không ? Đức Ngài trả lời:
“Chúng tôi là người của tôn giáo, thay mặt Thượng Đế cứu vớt tất cả con cái của người nên dầu kẻ có tội lỗi thế nào cũng cứu vớt hết”.
Các nhân vật chính trị Việt Nam sau đây đều có đến nơi Ngài ngự để tham luận. Phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh, Tổng trưởng tài chánh Dương Tấn Tài, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân và ông Dương Hồng Chương, Đỗ Hùng…
16 giờ ngày 22-5-1954, Đức Ngài đến điện Thorène tiếp kiến với Đức Quốc Trưởng trong 2 tiếng đồng hồ. Ngày 24, Thủ tướng Pháp Laniel tiếp Đức Ngài tại điện Matignon.
Tình hình chánh trị lúc bấy giờ bất ổn, các chính khách ái ngại. Bản hiệp định Genève đã đăng trên các báo. Người ta phao tin là đã ký rồi. Nhưng thật sự thì hiệp ước chưa ký nên người ta đổ xô mọi hy vọng vào Đức Ngài coi xoay chuyển gì được không.
Ngày 27 đại diện Cao Đài tại Pháp quốc, ông Henri Regnault đến chào mừng Đức Ngài. Những ngày còn lại, Đức Ngài thăm các di tích lịch sử của nước Pháp.
Vào 16 giờ ngày 4-6-1954 Đức Ngài cho tổ chức một bữa tiệc tại nhà hàng Hotel George V để thiết đãi các nhân vật Việt Pháp, Việt Kiều và các lãnh sự các nước. Trong dịp vui này có tin mừng rằng: sau khi tiếp Đức Phạm Hộ Pháp, Tổng thống René Coty đã viết thư cho Thủ tướng Laniel nói là ông đã hứa với Đức Ngài, nhờ Thủ tướng ký tên hai bản Hiệp ước ấy cho vui lòng Đức Ngài. Mới biết rằng người Pháp rất lão luyện và tế nhị trong cách xử thế, đợi đúng ngày 5-5-Giáp Ngọ ngày sinh nhật của Đức Phạm Hộ Pháp mới ký giấy để làm quà sinh nhật hiếm có.
Vào ngày 24-6 Giáp Ngọ, Đức Ngài về Toà Thánh, trong cuộc tiếp đón ngày về, Đức Ngài có phủ dụ: “Trên hai tháng đến xứ Pháp, nhờ ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn ban bố quyền năng vô đối của Ngài mà Bần Đạo đã đặng thỏa mãn và có phương kế làm cho đôi bạn đã sống chung cùng nhau trên tám chục năm trường, vì lầm hiểu nhau mà không đem lại hòa bình của hai nước đặng. Y như lời Bần Đạo khi Hội Nghị Toàn Quốc, Bần Đạo có nói một câu Pháp ngữ như vầy: “Que la France nous aide. Afin que nous puissions réaleser notre indépendance national et édéfier le Temple de l'Union Française”. 
Nhờ câu nói ấy mà toàn thể quốc dân hiểu rằng làm thế nào thiệt hiện đặng nền độc lập.
Trong chuyến Âu du, Đức Ngài có làm bài thơ “khó mong độc lập” đáng lưu ý như sau:

ÂU DU 1954
Cỡi gió tung mây đến Pháp triều,
Đo lường vận nước được bao nhiêu ?
Tương lai gởi phận, tay tha chủng,
Mai một thương thân đám Việt kiều.
Cứu quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho hay chính nghĩa chưa cân đúng,
Máu mủ vì thương phải đánh liều.

Để đền ân Đạo Cao Đài có công lớn trong giải pháp Bảo Đại, chánh phủ Bửu Lộc đồng ý tặng cho đạo phần đất 20.382ha, trước khi làm lễ khánh thành Tòa Thánh tứ cận như sau:
- Phía Tây: quốc lộ 22 từ Thiên Thọ Lộ chạy đến ngã ba Giếng Mạch.
- Phía tỉnh lỵ Tây Ninh: từ ngã ba Giếng Mạch chạy qua Trảng Dài tới cầu Lâm Vồ thẳng theo đường cầu Trà Phí tới ngã ba Khe Đon.
- Phía đông bắc: từ ngã ba Khe Đon đi về ngã ba Suối Đá, chạy qua ranh giới sở cao su Cầu Khởi, Truông Bình Linh giáp lộ liên tỉnh 16 (lộ Chà Là).
- Phía Đông Nam: từ bìa sở Truông Bình Linh qua lộ 16 bên cống suối Lùng chạy thẳng qua Trảng Dầu, Năm Trại bọc về Thiên Thọ Lộ đến quốc lộ 22.
Ranh giới này Đức Hộ Pháp cho cắm trụ mốc đầy đủ với tấm bảng vuông đề 5 chữ: “Thánh thị vô phòng thụ”
Nguyên sắc lịnh 5/SL của thủ tướng chính phủ ban quyền sử dụng đất như sau:
Sài Gòn, ngày 6-6-1954
Chính phủ quốc gia Việt Nam
- Tham chiếu chỉ thị số 12 của Quốc Trưởng Bảo Đại ngày 1-3-1954 giao quyền hành lập nội các chính phủ.
- Chiếu theo quyền hành của thủ tướng chánh phủ.
Xét rằng: Đạo Cao Đài tức là ĐĐTKPĐ là một tôn giáo có nền tảng căn bản đại đồng, đã dày công đóng góp vào nền độc lập quốc gia, đã có thành lập một vùng thánh địa sẵn tại Tây Ninh nên thủ tướng chánh phủ quyết định như sau:

SẮC LỊNH

Điều thứ nhứt: Ban quyền cho Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh một vùng đất đã thành lập thánh địa sẵn (theo bản đồ đính kém)
Điều thứ nhì: Có quyền bất khả xâm phạm và đưa ra quốc tế hóa.
Điều thứ ba: Các tư kỳ phận thi hành sắc lịnh nầy.
Thủ tướng
Bửu Lộc
Quốc Trưởng

Chuẩn y
(ấn ký)
Bảo Đại

Đức Bảo Đại hiến tặng đất cho Tòa Thánh Tây Ninh

Ngày 20-7 Giáp Ngọ, Đức Ngài sang Trung Hoa Quốc Gia (Đài Loan) theo lời mời của chính phủ này, sau đó thăm xã giao nước Đại Hàn, rồi sang Nhật để bàn việc nước và rước di hài của Đức Cường Để.
Trước các cơ quan chánh trị đạo, Đức Ngài hiểu dụ: “Hôm nay Bần Đạo lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn Bần Đạo vừa được chánh phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ định của họ mời Bần Đạo chỉ vì đạo mà thôi. Hôm nay Thầy được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho cầm cây cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ mạng thiêng liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy gẫm lung lắm đó vậy”.
Sau khi viếng Đài Loan, Đức Ngài sang Nhật rước di hài của Đức Ngoại Hầu Cường Để (quí danh là Nguyễn Phúc Vân) đích tôn của Đông Cung Cảnh về nước. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhứt, Đức Ngài tuyên bố: “Đây là di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc Vân, Ngài là đích tôn của Đức Đông Cung Cảnh tức là tông chi hoàng tộc. Cả toàn thể quốc dân đều biết dĩ vãng của Ngài.
Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm thế nào phục hồi vận mạng tổ quốc, độc lập thiệt hiện.
Ngài cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với tâm hồn của Bần Đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị cùng đảng phái, đoàn thể, tôn giáo.
Đau đớn thay ! Trên bốn chục năm lưu vong nơi đất khách. Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.
Hôm nay di hài của Ngài đã được đem về nước. Do đó khối anh linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối quốc hồn của bốn ngàn năm lập quốc”.
Ngày 20-9 Giáp Ngọ, Đức Ngài về Toà Thánh và tuyên bố trước toàn đạo: “Tiếp theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài Thành đã nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Bần Đạo chẳng cần nhắc đi nhắc lại thì cả toàn thể quốc dân Việt Nam cả toàn đạo cũng biết rõ sự hy sinh vô đối của Ngài. Cả thanh niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn thanh niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc, mặc dầu còn một hơi thở cuối cùng nhưng Ngài còn rán hô “Việt Nam Muôn Năm” rồi mới tắt thở”.
Linh vị của Đức Cường Để được thờ tại Báo Quốc Từ.
18 . Báo Quốc Từ
Báo Quốc Từ thành lập từ ngày 1-10-1955 cách cửa chánh chợ Long Hoa về phía bắc hai ngã tư. Một ngôi đền trang nghiêm lộng lẫy nằm trên con lộ mang tên Báo Quốc Từ.
Hằng năm vào ngày 10-3 âm lịch thiết lễ giỗ tổ Hùng Vương rất long trọng tại nơi đây.
Trước đền trên hai cột trụ cửa có câu liễn:
Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách
Hộ trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh
Chính giữa đền thờ trần thiết một bàn thờ cao lớn, sơn son thiếp vàng từ khí bằng đồng. Hai bên có lộng vàng, tàng đỏ, lỗ bộ kim cang. Ngay sau bàn thờ có 8 chữ Hán to:
Cứu quốc công thần – chiến sĩ trận vong
Dưới 8 chữ ấy có 4 bài vị sơn son thiếp vàng là: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Cường Để.
Đức Hộ Pháp giải thích (18-8 Ất Mùi): “Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy linh vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo thuyết “Bảo Hoàng” mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng trung quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi. Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy”.
- Lễ kỷ niệm Cao Đài giáo ra quốc tế:
Sáng hôm đó Đức Phạm Hộ Pháp lên Thiên Hỉ Đài và giảng giải: “Ấy vậy hôm nay là ngày lễ kỷ niệm của Đạo Cao Đài đã ra mặt quốc tế. Nếu luận rằng: Nó đã ra mặt quốc tế rồi thì ta cũng nên luận về tình hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên mặt địa cầu. Bần Đạo nói quả quyết rằng: Hai kẻ muốn thâu hoạch cả tinh nhuệ của nhơn loại đặng làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.
Hai cái đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân công lý thì ta thấy “lịch cũng như lương mà lương cũng như lịch” có chi lạ. Ngày giờ nào toàn cả nhơn loại tỉnh mộng lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ tranh đấu với một tấn tuồng làm cho mình đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn tuồng hèn hạ đó dầu cho các nhà Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng vậy. Nếu cả thảy thiên hạ không ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống cùng ta chớ gì.
Giờ phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ lợi dụng mình nữa bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình, một người làm không được năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy nước hiệp lại đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra thiên hạ mới hòa bình, duy có lẽ đó thiên hạ mới hòa bình mà thôi”. 

LỄ KHÁNH THÀNH TÒA THÁNH
23 giờ 30 hôm đó Hội Thánh rước Đức Hộ Pháp đến Đền Thánh dự khán việc đốt pháo bông có chữ:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LỄ KHÁNH THÀNH TOÀ THÁNH

Đúng 24 giờ, Đức Ngài cắt dây băng mở cửa Đền Thánh và khởi hành đại lễ. Hôm sau lễ khánh thành Đền Phật Mẫu (Báo Ân Từ).
Đặc biệt cây pháo bông lớn bắn lên nổ bung một lá cờ đạo vàng, xanh, đỏ. Tiếng hoan hô vang dội một góc trời, mở màn cho các văn phòng triễn lãm khai trương. Tại Văn Minh Điện giữa Đại Đồng Xã cuộc thi thơ do Ngài Cao Tiếp Đạo giám đốc Đạo Đức Văn Đàn khởi xướng hai bài thơ cho các sĩ tử xa gần họa vận.
Khánh thành các dinh thự:

Đến ngày 12-1 (4-2-1955) khánh thành các dinh thự như Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Toà Nội Chánh, Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện, Đức Phạm Hộ Pháp nói: "Khởi đầu Bần Đạo đi viếng các dinh thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền hành chánh đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối đạo là thiên điều đã định mở cửa thập nhị khai thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả cửu nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài.
Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài mà trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo, trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh mà thôi. Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của Hộ Pháp tức là Hiệp Thiên Đài đó vậy. Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái bí pháp, chi pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy bài thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả chơn hồn đã siêu lạc nơi nàosau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Bài thi văn như vầy:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn,
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.
Vì bài thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng”.

LỄ THIÊU XÁC CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ
Theo thánh ngôn của Đức Chí Tôn, chư chức sắc đại thiên phong qui vị 3 năm thì thiêu xác. Trong chương trình khánh thành định ngày 15-1 (7-2-1955) thì làm lễ thiêu xác các thánh tông đồ.
Đức Phạm Hộ Pháp có thuyết minh về việc này như sau:
“Cả toàn thể quốc dân của chúng ta hạng Đại Đức cũng nhiều, hạng học thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của ông Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, ông Lê Bá Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa
Ngọn lửa sẽ thiêu các các thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần nhơn loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó cũng sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn luôn cả thánh thể của Ngài nữa”.
Xem trong cuộc khánh thành còn có các cuộc vui như triển lãm, văn đàn, đánh cờ người, văn nghệ, lửa trại, hoà nhạc, đấu bóng, đấu võ sĩ đạo, cộ bông, v.v... Cuộc lễ chấm dứt trong niềm hân hoan và tin tưởng tương lai rực sáng của toàn thể tín đồ.


Đạo Cao Đài phát sinh trong hoàn cảnh nước nhà bị lệ thuộc Pháp. Nhân dân nghèo đói thất học. Đa số tín đồ là bần nông nên Đạo Cao Đài là tôn giáo của người nghèo. Đến ngày Khai Đạo, họ chưa có đền thờ nên phải mượn tạm Chùa Từ Lâm (Gò Kén). Chùa nhỏ, người đến dự lễ quá đông do đó xảy ra việc tà quái trong đêm khai đạo (ngày 25-10 Bính Dần), trước mắt viên đại uý Pháp Monet và các tên tình báo của Sở Mật Thám Đông Dương, về sau chúng đúc kết in thành tập “Le Caodaisme”.
Chính vì việc tà quái mà Hoà Thượng Như Nhãn, chủ chùa Từ Lâm đòi chùa lại. Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư giữ việc đạo lúc đó phải tìm đất xây dựng chùa mới. Nhà Ngài ở gần đình Hiệp Ninh (nay gọi là Thảo Xá Hiền Cung). Năm 1915 Ngài làm thơ ký sở hoả xa Sài gòn. Năm 1925, nghỉ việc theo đạo mới, Ngài mua được phần đất của Aspar, viên kiểm lâm người Pháp. Đất này vốn là rừng cấm nằm trên đường dây thép, còn gọi là đường trên (La route haute) phân biệt với đường quốc lộ 22, lúc đó gọi là đường dưới (La route basse).
Trước tiên, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư cho khai phá khu Bàu Cà Na tới sân bay (khoảng trước chợ Từ Bi). Lúc đó, 1926 vùng này còn rừng cấm, âm u nhiều chướng khí. Nước hết sức độc, uống vào chói nước, thú dữ như cọp, gấu, beo, rắn độc…nhiều vô kể. Loài người và loài thú tranh nhau từng thế đất. Lúc khai phá rừng, người Miên, Tà Mun xuống cả ngàn người làm công quả. Viên chánh tham biện Pháp nghi ngờ nên gọi Đức Cao Thượng Phẩm ra toà bố hỏi rằng:
- Ông làm cái gì mà đông đảo như vậy ? 
- Tôi mua đất đặng trồng cao su
- Trồng mấy mẫu ?
- Phá tới đâu, tôi trồng tới đó.

Vì lúc đó việc trồng cao su rất thạnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp nên họ làm ngơ. Khu khai phá đầu tiên này trong vùng cây ba nhánh gồm 96 mẫu của hội cựu chiến binh Pháp. Bắc giáp lộ liên tỉnh 13, Đông giáp sân bay chiến lược của Pháp (chưa sử dụng), Nam giáp Ao hồ, Tây giáp đường Mít Một.
Chùa mới cất tạm bằng cây và tranh, có nhà thờ chính, hậu điện, Đông lang, Tây lang, trù phòng.

Đến tháng 10 năm Tân Sửu (1933) khởi công xây cất bằng bê tông cốt sắt, do ông Nguyễn Ngọc Thơ trông coi. Ông Thơ người Sài gòn, làm tri huyện Tân Định. Năm 1926 ông theo đạo thọ phong Đầu Sư. Ông và bà Lâm Ngọc Thanh (Nữ Đầu Sư) xuất tiền mua đất cất chùa mới và một miếng rừng khác ở phía Tây Nam, chùa mới đất tên là Chùa Cực Lạc và phóng nhiều con đường mới như Quan Âm Các, Phước Đức Cù, Long Nữ Điện….
Việc xây dựng Toà Thánh của ông Nguyễn Ngọc Thơ, ông Lê Văn Trung bị dở dang, được ông Lê Thế Vĩnh mướn kỹ sư Phan Hiếu Kinh lãnh làm lầu Hiệp Thiên Đài, đúc cột và đổ plafond chút ít rồi cũng ngừng vì thiếu tiền.

Đến ngày 01-11 Bính Tý (1936) Đức Phạm Hộ Pháp kêu gọi sự giúp đỡ của bà Lâm Ngọc Thanh quyết tâm xây dựng Toà Thánh với khẩu hiệu “Bắt gió nắn hình”. Đứng bên sau ông là Phạm Môn phát hồng thệ và thủ trinh chấp hành sự chỉ dẫn xây cất của sư phụ.
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần hai bùng nổ, quân đội Pháp chiếm đóng Toà Thánh, việc xây cất đình chỉ. Mãi đến ngày 24-01 Ất Dậu (1954). Toà Thánh được mở cửa lại do ông Lâm Tài Khị lo xây dựng. Đến đầu năm Đinh Hợi (1947), tập thể thợ hồ và công quả, đứng đầu là Tổng Giám Lê Văn Bàng bàn giao cho Hội Thánh Cao Đài, Toà Thánh đã kiến thiết xong. Nhưng mãi tới năm 1955 mới làm lễ Khánh Thành.

Toà Thánh là công trình kiến trúc của nhân dân lao động tuyệt đại đa số là ít học hoặc thất học. Họ chỉ với niềm tin sắt đá “Linh tại ngã” mà đã hoàn thành một công trình kiệt tác ở miền Nam. Một nhà triết học nói: “Cho một niềm tin, tôi biến rừng núi ra thành thị”. Thật vậy, từ năm 1926 vùng núi u tịch, dân cư và phố chợ vùng đất thánh phát triển không ngừng theo nguyên tắc phổ cập trên thế giới: dọc theo trục lộ giao thông.

Khởi đầu, vùng mà nay gọi là cửa Hoà Viện, hai bên đường trên (La route haute) dân đạo lập chợ Từ Bi, chợ Thương Binh (nay là chợ Hiệp Lễ). Dọc theo 20 nhà cửa mọc lên như nấm, dọc theo lộ Quan Âm Các, nhà cửa san sát, chợ Ngã Năm trù phú, chợ cửa số 7 và chợ Mít Một, tới năm 1951 mới có chợ Long Hoa.

Số tín đồ ngày càng đông, Hội Thánh Cao Đài phải mở rộng khu phía Đông Bắc 70 mẫu, tức khu Cực Lạc Thái Bình ngày nay, giáp ngã ba Suối Đá. Đến năm 1932 tăng thêm 70 mẫu, những vùng sau này được dân chúng kéo đến lập nghiệp, năm 1950 Trí Huệ Cung (tại Trường Hoà hiện nay) khánh thành, vì lòng tin thoát được nợ trần, bổn đạo phải đi từ Thiên Thọ Lộ, qua cầu Đoạn Trần mới được vào Thiên Hỷ động tức Trí Huệ Cung. Ở Qui Thiện thì có Trí Giác Cung, ở chân núi thì có Vạn Pháp Cung. Đến năm 1950, vùng đất Thánh rộng 20.383 mẫu.

Toà Thánh dài 96 mét, ngang 22,50 mét, cao 27 mét, nằm về phía Đông tỉnh lỵ Tây Ninh, cách 5 km và cách Sài gòn 95 km. Toà Thánh nằm thiên về phía Tây gần cửa Hoà Viện. Đó là công trình kiến trúc của toàn thể tín đồ Cao Đài, sáng tạo cả bê tông cốt tre. Hằng năm lượt các tín đồ Cao Đài từ khắp lục tỉnh đi về Toà Thánh làm công quả xây dựng. Họ chịu đựng mọi gian khổ, có người tự túc cả lương thực mà không ăn cơm Trại Đường. Các tầng lớp địa chủ, thương buôn giàu có cũng đóng góp để xây dựng Toà Thánh. Sau 14 năm (1933-1947) lao động ngày đêm của nhơn sanh Toà Thánh mới hoàn thành.
Để tôn vinh toàn thể nhân dân lao động, ngoài công trình đắp hình các Thánh, ông Bùi Ái Thoại là người bình dân ít học đã đắp Lao Động chi Đài ở bao lơn mặt tiền Toà Thánh, chỗ danh dự nhất, tám hạng người lao động : Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục . Ông Bùi Ái Thoại được điểm công hàng đầu đắc phong Á Thánh.
Dưới đây, xin trích đoạn đầu và đoạn chót của “Tờ Bàn Giao Đền Thờ Đức Chí Tôn cho Hội Thánh”
Toà Thánh, ngày mùng 3 tháng 1 năm Đinh Hợi
(dl ngày 24-1-1948)

“Chúng tôi đồng đứng tên dưới đây là Tổng Giám, Tá Lý, Nhân công nam nữ xin dâng 3 bổn này lên Hội Thánh.
Nguyên vào năm Bính Tý (1936), các con có làm tờ trình nguyện làm Đền Thờ Đức Chí Tôn. Nay các con đã hoàn thành, xin giao lại cho Hội Thánh…
Vi bằng: Vị Tổng Giám xây Toà Thánh Lê Văn Bàng xin phép Đức Hộ Pháp cho toàn nhân công nam nữ làm lễ ra mắt những vị tiền vãng. Đoạn Đức Hộ Pháp mời cả chức sắc nam nữ vào lạy Chí Tôn ban ơn huệ cho cả gia quyến các công thợ và những thiện tâm hỷ cúng vào sự tạo tác Toà Thánh.
Khi bái lễ xong, Đức Hộ Pháp, nhân danh Hội Thánh để lời cảm tạ tấm lòng thiết thạch của những môn đệ chí hiếu và tận trung. Kẻ công, người của đã trải qua biết vao thời gian nguy biến, gian lao, gìn giữ đức tin mới lần hồi kiến tạo một Đền thờ vĩ đại oai nghiêm tráng lệ dường nầy.

Vị Tá Lý Lê Ngọc Lời thay mặt Tổng Giám Lê Văn Bàng đọc lời chúc mừng.
Toà Thánh là hồn của Đạo, là khối đức tin lớn xuất hiện tại vùng Á Đông vào cuối kỳ hạ ngươn. Nhờ nơi huyền diệu thiêng liêng mà đạo đặng phổ thông mau chóng. Nhiều tín đồ đã tùng giáo nên đạo phải có thánh thể của Chí Tôn tại thế mà tụ khối đức tin của toàn nhơn loại. Vì lẽ đó, Đức Quyền Giáo Tông, ba vị Chánh Phối Sư thi hành theo tiếng gọi của nhơn sanh để làm Toà Thánh. Biết bao nhiêu người hăng hái vui mừng chung hợp xây Toà Thánh cho mau rồi…

Khi vị Tá Lý đọc xong, Đức Hộ Pháp đáp lời. Bần Đạo không ngờ mấy xem phái nữ đã đạt được kỳ công. Nhớ lại khi mới khởi công, Bần Đạo chỉ chọn phái nam, sau vì nhân công không đủ nên chọn thêm mấy em nữ. Ban đầu trộn hồ, gánh gạch, lần hồi xây đắp vách tường, công việc của mấy em làm càng ngày càng tiến như phần đông nam phái. Mọi việc chi đủ nam nữ, Âm Dương mới tạo thành lý đạo. Ấy là định ý của Đức Chí Tôn đó vậy.
Khi ấy, vì dè dặt, Bần Đạo mới buộc mấy em phải hồng thệ và thủ trinh cho tinh khiết mà xây Đền Thánh. Ngày nay đặng hoàn thành, Bần Đạo sẽ giải thệ cho mấy em nào muốn ra lập gia đình tuỳ thích.
Đức Hộ Pháp kêu vị Tổng Giám Lê Văn Bàng đem tờ Giao Lãnh mà khi xưa mấy vị nầy đã ký với Hội Thánh, Đức Ngài ký tên với danh vị người thợ hồ.
Thật vậy, chính người thợ hồ Phạm Công Tắc đã hướng dẫn thiết kế xây dựng và đắp hình tượng trong ngoài Đền Thánh lưu để mai sau.


Tổng thể Đền Thánh rất nguy nga tráng lệ, chiều dài 97.5 mét và chiều ngang 22 mét. Mặt tiền day về hướng Tây. Bên trái là lầu chuông gọi là Bạch Ngọc Chung Đài, bên phải là lầu trống gọi là Lôi Âm Cổ Đài, cả hai đều cao 27 mét. Ngay giữa phía trước có đúc 4 cây trụ rồng có quấn hoa sen chạm trổ rất tinh vi, màu sắc sặc sỡ, tượng trưng Long Hoa Đại Hội.
Năm bậc thềm bước lên, mỗi bậc cao độ 16 cm, tượng trưng Ngũ Chi Đại Đạo. Ngước mắt nhìn ngay giữa thấy ngay bàn tay Đức Thượng Đế cầm Cân Công Bình. Ngó sang bên phải là tượng ông Thiện, mình mặc giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm đại đao mà gương mặt hiền từ, tượng trưng cho điều thiện. Bên trái là tượng ông Ác, cũng mặc khôi giáp nhưng gương mặt dữ dằn, trợn mắt nhăn răng, một tay cầm búa, một tay cầm ngọc ấn tỷ phù, tượng trưng cho điều ác. Bởi lẽ ác đúng lúc là thiện, thiện không nhằm chỗ là ác.

Phía trên 4 cột rồng, xây hình bán nguyệt đó là Lao Động Đài, có đắp hình tượng 8 nghề trong xã hội: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh , Mục với ý nghĩa: dù làm nghề gì khi qui vị cũng phải về Toà Thánh mà xem phước tội.
Ngang đài nầy bên phải người xem có tượng màu trắng của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, bên trái là tượng bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Hai chức sắc nam nữ nầy có kỳ công khai mở đạo và xây dựng đền đài.
Phía trên hai tượng nầy có tạc hình hai đóa hoa đỏ xanh trang nhã siêu thoát. Trong sự tích Vua U Vương nhà Châu nằm mộng thấy bó hoa từ trên rơi xuống mà được Đạo Phật truyền sang.

Nơi lầu chuông, lầu trống, mỗi lầu đều có 6 tầng. Trên đỉnh lầu chuông, dưới ngọn thu lôi có tạc tượng cái hồ lô là bửu pháp của Lý Thiết Quả. Trên đỉnh lầu trống có tạc hình giỏ hoa lam, là bửu pháp của Long Nữ (đồng tử của Quan Thế Âm). Hai hình nầy trên tượng của Đức Quyền Giáo Tông và bà Đầu Sư mà hai vị nầy vốn là ngươn linh của Lý Thiết Quả và Long Nữ.

Chính giữa hai lầu chuông trống là tượng Thiên Nhãn màu xanh tươi thắm, toả ra những tia sáng lunglinh, tượng trương Đấng Thượng Đế toàn năng. Hai bên Thiên Nhãn có đắp 2 câu đối chữ Hán.
Hiệp nhập Cao Đài bá tánh thập phương qui chánh quả
Thiên khai huỳnh đạo ngũ chi tam giáo hội Long Hoa
      Nghĩa là:
Hiệp vào Cao Đài, trăm họ mười phương sùng chánh giáo.
Trời khai Đại Đạo, năm nhánh ba giáo hội Long Hoa.

Trên hai câu đối nầy có hai chữ nho, bên phải là chữ Nhân, bên trái là chữ Nghĩa. Đó là triết lý của Kinh Dịch mà Đạo Cao Đài phát huy thành giáo luật.
Trên hai chữ Nhân Nghĩa có một hàng chữ Hán và một hàng chữ Việt đều viết: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phía trên, ngay giữa hàng chữ nầy có cổ pháp tam giáo là Bình Bát Vu (Phật), Phất chủ (Tiên) và quyển Xuân Thu (Nho).
Trên cùng là tượng Phật Di Lạc ngồi trên lưng cọp để làm kỷ niệm năm Bính Dần khai đạo. Mặt khác, theo thánh giáo Đức Chí Tôn lập đạo để đưa nhơn loại đến Hội Long Hoa do chính Đức Di Lạc chấp chưởng.
Cách thềm ngoài trên 2 mét là Tịnh Tâm Điện, nơi dùng để toàn đạo tịnh tâm thần trước khi vào chầu lễ. Trên bức vách chắn tạc tượng Tam Thánh là :
1 . Nguyễn Bỉnh Khiêm, thánh danh Thanh Sơn Đạo Sĩ
2 . Victor Hugo, thánh danh Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
3 . Tôn Dật Tiên, thánh danh Tôn Trung Sơn

Tam Thánh ở Bạch Vân Động thay mặt nhơn loại ký với Thượng Đế đệ tam hoà ước: “Thiên Thượng, Thiên Hạ” (Dieu et Humanité): Trời Người hiệp nhứt qua trung gian cơ bút.
Hai bên Tịnh Tâm Điện có đường lên Hiệp Thiên Đài, có bàn thờ chức sắc Hiệp Thiên Đài đã qui liễu.
Hai bên bàn thờ có hai đường lên lầu chuông, lầu trống. Sở dĩ gọi lầu chuông là Bạch Ngọc Chung Đài là vì tạc chuông theo hình ở Bạch Ngọc Kinh tứ thời, còn lầu trống là Lôi Âm Cổ Đài vì tạc trống sấm theo hình ở Lôi Âm Tự.
Tiến lên tầng lầu chót, đưa mắt nhìn phía Bắc là núi Bà Đen, phía Đông là núi Thị Vải làm hồn ta lâng lâng xao xuyến.
Mặt sau bức hoạ Tam Thánh bên trong Đền Thánh là 3 chiếc ngai thất đầu xà (rắn 7 đầu) tượng trưng cho Thất tình : Hỉ, Ái, Lạc, Nộ, Ố, Ai, Dục, trong mỗi con người. Thật ra, con người không thể nào diệt được thất tình nên phải dưỡng 3 tính tốt : Hỉ, Ái, Lạc tượng trưng bằng ba đầu rắn đưa lên và 4 tính xấu : Nộ, Ố, Ai, Dục bị đè xuống tượng trưng bằng 4 đầu rắn còn lại.
Ngai chính giữa là ngai Hộ Pháp. Trên vách tường sau ngai này là tạc một chữ KHÍ (tam tự nhất thể) màu vàng, tức khí sanh quang nuôi sống vạn vật tượng trưng sự miên trường của vạn loại.
Ngai bên trái là ngai Thượng Sanh và bên hữu là ngai Thượng Phẩm. Ba ngai này hiện đã tạc ba tượng của ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đã triều thiên.
Bên trong Đền Thánh có 28 cột rồng tượng trưng cho Nhị Thập Bát Tú giáng trần giáo đạo đứng chầu Thượng Đế. Các cột rồng sơn đủ các màu: vàng, xanh, đỏ, trắng là để tượng trưng cho ba kỳ phổ độ.
Nhất kỳ phổ độ có Thanh Dương Đại Hội để phán đoán đức hạnh và công quả tu hành của nhân sanh do Đức Nhiên Đăng chưởng pháp.
Nhị kỳ phổ độ có Hồng Dương Đại Hội có Đức Di Đà điều khiển.
Tam Kỳ Phổ Độ có Bạch Dương Đại Hội do Đức Di Lạc tuyển phong Phật vị. Vì vậy các rồng trắng (Bạch long) ở Bát Quái Đài dưới quả Càn Khôn là tượng trưng thời kỳ Bạch Dương và cột rồng vàng (Huỳnh long) biểu tượng các vị Phật đến chứng Đại Hội Long Hoa.
Các cột rồng há miệng nói lên “khẩu phát ngôn” đặc điểm của thời kỳ đại ân xá này dạy đạo cho nhân sanh tầm theo đường chánh chấm dứt thời kỳ “phật giả vô ngôn”.
Trên vòm trần nhà ở giữa hai cột rồng có chạm hình rồng nhô ra 6 đầu, chung quanh sơn màu xanh da trời lấy ý trong bài Ngọc Hoàng Kinh là: “Thời thừa lục long, du hành bất tức” tức xe Trời (thiên xa).
Hai bên vách Đền Thánh tạc hình hoa sen, gương sen và ngó sen trong khung hình chữ nhứt đứng, ở giữa có khung tam giác tạc Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt rất sinh động. Thiên Nhãn là thái cực, bụi sen trên, bụi sen dưới là Âm Dương tức Lưỡng Nghi, 4 trái sen hai bên là tứ tượng, 8 lá sen là Bát Quái, 12 ngó sen là Thập Nhị Khai Thiên, lấy hình ảnh sen để biểu tượng cho dịch lý của vạn vật luân chuyển không ngừng trong vũ trụ.
Nền của Đền Thánh có 9 bậc thật dài, độ 63 mét, ngang tả ban hữu ban đều sơn trắng có tạc hình tứ linh : Long (biến dịch), Lân (hạnh phúc), Qui (trường cửu), Phụng (thái bình).
Gần ngang cửa hông, nhìn lên trần nhà ở giữa, trổ lên nóc có xây một cái đài hình tròn, cao 17 mét gọi là Nghinh Phong đài. Trên nóc đắp một nửa địa cầu có vẽ các châu lục trên thế giới. Trên nửa địa cầu này, ngoài trời có tạc con Long Mã đem hàm ấn chạy về hướng Tây, quay đầu về hướng Đông. Bởi lẽ Á Châu là nơi chôn nhau cắt rốn của nhiều tôn giáo như: Bái vật giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Kitô giáo… “Đạo phát ư Đông, di ư Tây, phản hồi ư Đông”. Vả lại, Long Mã tượng trưng cho sự hợp nhứt Âm Dương để phát khởi vạn loại vì theo dịch lý rồng thuộc dương, ngựa thuộc âm.
Dưới Nghinh Phong đài có 2 cột rồng uốn theo khuôn ốc. Cái miệng rồng phun ra 6 chia đỡ Giảng đài nơi để chức sắc đứng giảng đạo, tượng trưng người tu phải biết đè nén lục trần, còn gọi lục tặc (6 kẻ cướp), nó lợi dụng sơ hở của ta mà xâm nhập vào thân xác. Lục trần là: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc (đụng chạm nam nữ), Pháp (phương cách nhập vào ý).
Ra cửa hông dọc lan can mỗi bên có 6 cửa ra vào. Các bậc lên xây dựng như bậc thang mà hai bên có tượng hai con Kim Mao Hẩu lông vàng gần giống con sư tử. Các tứ linh: long, lân, qui, phụng, chim thú được tạc tượng y như thật, song ý tưởng vượt lên trên hình tượng cụ thể mà biểu hiện bí pháp thiêng liêng tiềm ẩn bên trong.
Rời Giảng đài, trước Bửu Điện là 7 chiếc ngai sơn son thiếp vàng hình long, lân, phụng. Trước 7 chiếc ngai chắn bức bình phong chạm rồng mạ vàng rất linh động. Hai bên bình phong và 7 chiếc ngai thiết trí hai hàng lỗ bộ bửu pháp của bát tiên : 
1 . Hồ lô của Lý Thiết Quả (nai chở) 
2 . Quạt, phất chủ của Hớn Chung Ly (linh điểu chở)
3 . Thư Hùng Kiếm của Lữ Đồng Tân (trĩ chở)
4 . Gậy của Trương Quả Lão (lộc nai)
5 . Giỏ Hoa Lam của Lam Thể Hoà (phụng chở)
6 . Hoa sen của Hà Tiên Cô (linh qui chở)
7 . Ống tiêu của Hà Tiên Tử (cá chép chở)
8 . Cặp sanh của Tào Quốc Cựu (công chở)
Bảy chiếc ngai thứ tự từ trong Bửu Điện ra là :
- Một ngai Giáo Tông chạm rồng
- Ba ngai Chưởng Pháp chạm phụng
- Ba ngai Đầu sư chạm lân

Cuối ngai Giáo Tông là hết 9 bậc của Cửu Trùng Đài. Mỗi lần đi qua một công trình kiến trúc là lòng khách hành hương tiến dần vào nẻo đạo.
Đến bậc thứ 10 ngắn hơn gọi là Cung Đạo. Trên nóc Cung Đạo đúc vòm bầu trời, chạm hình Đức Hồng Quân, đại ngọc cơ và quyển Xuân Thu đều được chạm kiếng phản chiếu lung linh.
Mặt trước và phía trên Cung Đạo có đúc bức hoành hình chữ M, tạc tượng các giáo chủ tam giáo, tam trấn và Ngũ Chi Đại Đạo.
- Hàng trên ba vị giáo chủ: Lão Tử, Thích Ca, Khổng Tử.
- Hàng giữa ba vị trong tam trấn: Quan Âm, Lý Bạch, Quan Thánh.
- Hàng dưới Lý Bạch, Jésus Christ và Khương Thượng.
Nếu kể từ Thích Ca xuống thì đại diện Ngũ Chi Đại Đạo là : Phật (Thích Ca), Tiên (Lý Bạch), Thánh (Jésus Christ), Thần (Khương Thái Công), Nhơn (Giáo Tông).
Bức hoành bên tả thờ Bát Tiên như đã dẫn.
Bức hoành bên hữu thờ Thất Thánh : Vương Tiễn, Na Tra, Vi Hộ, Lý Tịnh, Kim Tra, Lôi Chân Tử, Mộc Tra.
Theo Đức Hộ Pháp đã tạc Thất Thánh. Lẽ ra đắp tượng Thất Hiền Hy Lạp phù hợp với tư tưởng nhập thế của Đạo Cao Đài.
Theo “Roman des sept Sages”, Thất Hiền ở vào thế kỷ trước tây lịch là: Thalès, Pittacos, Bias, Solon, Cléobule, Chilon và Périandre.
Thalès kêu gọi từ bỏ những bất lương. Hãy trị chính bản thân mình trước khi ra lịnh cho kẻ khác.
Việc thờ quá nhiều thần như vậy là một kinh nghiệm tôn giáo trong quá khứ để thu hút nhiều tín đồ. Bởi lẽ “Phật giáo nhiều Thần thoại phép mầu, có vô số vị thần thánh làm trung gian giữa tín đồ và Đấng Tối Cao đã thắng Phật giáo nguyên thuỷ; cũng như Thiên Chúa giáo đa sắc thái chú trọng tới bề ngoài đã thắng Kitô giáo giản dị nghiêm khắc thời nguyên thuỷ” (Qill Durant, Lịch sử Văn minh Ấn Độ, Nguyễn Hiến Lê dịch, Saigon 1971, tr 255)
Việc thờ tam trấn biểu thị cho Tam Kỳ Phổ Độ có một triết lý thật sâu xa. Đó là thờ bi, trí, dũng của loài người.
- Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm biểu tượng cho Trí vì có lý trí mà Ngài để không để lôi cuốn vào đường truỵ lạc. Cái trí của Ngài sáng rõ như Kim Tinh.
- Quan Thế Âm, Nhị Trấn oai nghiêm biểu tượng cho Bi vì thương chúng sanh đau khổ mà bố thí cứu độ. Trí và Bi lúc nào cũng đi đôi với nhau làm nền tảng cho cơ phổ độ.
- Quan Thánh Đế Quân, Tam Trấn Oai nghiêm biểu tượng cái Dũng. Cái uy dũng, cái trung can nghĩa khí của ngài là gương sáng cho người tu học.
Kế Cung Đạo là bàn thờ Đức Chí Tôn hương trầm toả nghi ngút. Trên quả Càn Khôn ngay chính giữa có vẽ thiên nhãn. Quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà bao gồm cả thiên cầu. Vì Càn là trời tức là thiên cầu thuộc Dương; Khôn là đất tức địa cầu thuộc Âm mà “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo”. Như thế, thờ thiên nhãn trên quả Càn Khôn là thờ đạo. Thiên thượng (thiên cầu), Thiên hạ (trái đất có người) hiệp nhứt đã thể hiện rõ trên quả Càn Khôn. Đó là chủ đích tối cao của nền tân tôn giáo. Quả Càn Khôn được đặt trên cái đài hình bát giác (8 cạnh). Từ dưới quả Càn Khôn là những khuôn linh vị viết bằng chữ Hán thờ các vì giáo chủ trong các thời kỳ phổ độ trước.
Hai bên có cặp hạc thanh thoát đứng trên lưng rùa (trường cửu), cổ vươn cao chầu Thượng Đế. Chung quanh quả Càn Khôn có tạc nhiều con rồng sơn màu trắng biểu tượng cho Bạch Dương đại hội ở kỳ hạ ngươn này.
Dưới Bát Quái Đài có cái hầm sâu xuống đất gọi là Hầm Tàng Bửu Khánh. Theo các đền xưa, hầm này dùng chứa châu báu, tiền của các người hảo tâm cúng hiến. Khi có thiên tai đao binh đói khổ thì khai ra bố thí cho dân nghèo.
Phía trên Bát Quái Đài xây lên ba tầng: Tầng dưới từ nóc lên độ 15 mét, tầng giữa độ 10 mét và tầng chót độ 5 mét. Trên đỉnh có tạc 3 tượng Phật day mặt về ba hướng (thời Bà La Môn giáo 3 vị chỉ là thần).
- Phật Brahma, cưỡi con Huyền Nga, day mặt về hướng Tây, điều khiển thượng ngươn thánh đức.
- Phật Shiva (Siva) đạp trên thất đầu xà, day mặt về hướng Bắc điều khiển trung ngươn tranh đấu. Tại sao Phật Shiva đạp trên rắn bảy đầu như Hộ Pháp vì “Thần Shiva còn giữ vai trò của Dvaparala tức là các Hộ Pháp giữ các đền thờ” (Nghiêm Thẩm, Tôn giáo của người Chàm tại VN, Saigon DHVK 1972 tr 18 và 30)
- Phật Christna (hay Vishnou) cưỡi con giao long (trong thần thoại con rồng cháu riên) dạy mặt về hướng Nam điều khiển hạ ngươn bảo tồn hay ngươn tái tạo (Mahabhrata (sử thi Ấn độ), Hà Nội 1979). Đó là 3 vị thần của Đạo Bà La Môn đã thành Phật trong kỳ ba phổ độ.
Trong sử thi Ấn Độ “Mahabharata”, thần Vishnou cưỡi chim thần Garuda, Shiva cưỡi bò thần Nanđin mình quấn đầy rắn, Christna là thần tình yêu có sứ mạng bảo vệ hoà bình.
Tham quan xong, lửng thửng bước ra ngoài, trong lòng còn luyến tiếc quay đầu lại nhìn mái ngói: trùng thềm điệp ốc, phía dưới có khung tròn vẽ đôi chim hạc bay trước ánh mặt trời mông mênh khiến tâm hồn lâng lâng muốn lánh chốn hồng trần ràng buộc. “Gà dù sẵn lúa mà bếp lửa cận kề; hạc dù thiếu ăn nhưng trời đất mênh mông” (Lung kê hữu mễ than oa cận; dã hạc vô lương thiên địa khoan).

4 . Các kiến trúc quanh Đền Thánh
Phần này chỉ giới thiệu các dinh, đường, tháp mà không chuyên sâu vào giáo lý.
Sau Bát Quái Đài là tháp Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung xây ba tầng hình 8 cạnh. Sở dĩ táng liên đài bát giác, xây tháp bát giác vì theo kinh có câu “Ba mươi sáu cõi thiên tào, nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư”, nghĩa là muốn về chầu Thượng Đế thì phải qua Bát Quái Đài.

Sau tháp Đức Quyền Giáo Tông là hậu điện, nơi ở của các chức sắc phế đời hành đạo. Bên trái là Đông lang, nhà ở của chức sắc nam. Bên trái Đông lang là 3 tháp của 3 vị nam Đầu Sư Thái, Thượng, Ngọc.
Bên phải hậu điện là Tây lang, nhà ở của chức sắc nữ. Bên phải Tây lang là tháp Nữ Đầu Sư.
Đền Thánh, Hậu Điện, Đông lang, Tây lang họp thành chữ Sơn (nghĩa là núi) biểu thị sự cao khiết.

Phía Bắc cách Đền Thánh độ 100 mét là Toà Nội Chánh, nơi làm việc của 3 vị Chánh Phối Sư và Cửu Viện hành chánh. Phía Tây cách mặt tiền Đền Thánh 30 mét có cột phướn cao 30 mét, ở chân phướn có chạm rồng và hoa sen. Cách cột phướn 10 mét có cây bồ đề do Đức Narada Théra, Phật giáo Tích Lan tặng. Dưới cội bồ đề có tượng Đức Phật Thích Ca thiền.
Hai bên sân Đại Đồng Xã có hai khán đài rất lớn 12 bậc, ẩn vào trong hai cụm rừng thiên nhiên. Sở dĩ gọi như vậy vì khi xây cất Toà Thánh 2 cụm rừng này được chừa lại như nguyên thuỷ.

Ở giữa hai khán đài trên sân Đại Đồng Xã có xây cái nền chơ vơ giữa trời hình bát giác có 9 bậc gọi là Cửu Trùng Thiên, nơi dùng để thiêu xác các chức sắc từ Đầu Sư trở lên.
Hướng về Tây, tượng Xa Nặc chạy bộ theo Đức Thích Ca cỡi ngưạ phía trước. Hai tượng này biểu hiện sự tích tầm đạo của thái tử Sĩ Đạt Ta.
Về phía Nam Đền Thánh dọc đại lộ Phạm Hộ Pháp có nhiều kiến trúc mỹ lệ. Khởi đầu là Nữ Đầu Sư Đường, nơi thờ các Nữ Đầu Sư và cũng là nơi làm việc của phái nữ. Kế đến là Hạnh Đường, nhà huấn luyện chức sắc đi phổ độ chúng sanh. Phía sau Hạnh Đường là Trai Đường, nhà ăn chung của đồng đạo phế đời lo đạo.

Đối diện với Hạnh Đường là Giáo Tông Đường, nơi thờ Đức Quyền Giáo Tông cũng là nơi làm việc của chư chức sắc đại thiên phong.
Cách Giáo Tông Đường một con đường về phía bên phải Toà Hiệp Thiên Đài đó là cơ quan bảo thủ luật pháp chơn truyền của đại đạo, cũng là nơi thờ Đức Cao Thượng Phẩm, Cao Thượng Sanh và 12 vị Thời Quân.
Đối xứng vời Hiệp Thiên Đài qua con đường là Ban Tương Trợ cung cấp nhu cầu cần thiết cho mọi người.

Giáp rào Hiệp Thiên Đài về phía bên phải là Hộ Pháp Đường, kiến trúc dạng khối chữ nhựt, nóc bằng. Xưa kia là nơi làm việc của Đức Phạm Hộ Pháp, nay là nơi thờ tự và nhà kỷ niệm của Ngài.
Sát bên phải Hộ Pháp Đường là Báo Ân Từ tạm làm Đền Thờ Phật Mẫu. Đây là ngôi Đền dạng khối chữ nhựt, phân ra 2 tầng : trệt và lầu, đài duy nhất cao vút gọi là Bạch Ngọc Chung Đài.

Báo Ân Từ là nơi thờ phượng những bậc đại ân, đại hiếu, nên mặt tiền đền này tạc sự tích Nhị Thập Tứ Hiếu để răn đời. Bên trong Đền thờ phân làm 3 gian, gian giữa rộng hơn hai bên. Từ ngoài vào tới cung thờ có tất cả 8 lồng căn gọi là Bát Cảnh Cung. Trên hai hàng cột phân lòng căn treo mặt nộm hình quả tim sơn vàng có cắm cờ vang mang ý nghĩa “Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ”.

Trong Bửu Điện bàn ngoài thờ tượng Nam Bình Vương Phật và bàn trong thờ Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật cưỡi chim loan. Ngay từ buổi đầu dạy đạo. Đức Phật Mẫu và chín cô hết lòng dìu dắt 3 vị thiên sứ từng bước đi vào cửa đạo.
Đức Phật Mẫu là Mẹ sanh của toàn thể nhân loại, chưởng quản từng trời Tạo Hoá Thiên. Đức Từ Mẫu còn được gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ, Thiên Hậu, Tây Vương Mẫu theo thần thoại Trung Hoa, Thiên Mẫu, Cửu Trùng Thánh Mẫu theo tín ngưỡng dân gian. Nay Đạo Cao Đài gọi là Đức Diêu Trì Phật Mẫu hay Kim Mẫu (gọi tắt của chữ Kim Bàn Phật Mẫu). Như thế, quyền lực của Đức Phật Mẫu rất to lớn, chỉ có từ ngữ Đức Mẹ mà vừa là Thiên, là Tiên, là Phật. Đức Phạm Hộ Pháp đã thuyết đạo trên Cửu Long Đài hồi 16 giờ ngày 15-8 Đinh Hợi (1947) có câu: “Bần đạo tưởng cả thảy toàn đạo nên biết quyền hành ấy…”.
“Phật Mẫu là chủ Âm quang, Chí Tôn là chủ Dương quang, Âm Dương tương hiệp, Đạo Cao Đài nương theo năng lực của hai khối Âm Dương ấy mà phát triển”.

Như thế, quyền lực của Đức Phật Mẫu đồng đẳng với Đức Chí Tôn.
Nơi Phật Mẫu ngự là Cung Tạo Hoá Thiên Diêu Trì Cung, Tây Hoa Cung (Hoàng Xuân Hãn, Bích Câu Kỳ Ngộ, Đại Học Huế 1964) hay Côn Lôn (Hoàng Trọng Miên, VN Văn học Toàn thư , Saigon 1959) và theo văn chầu thì Thiên Hậu có nhiều cung, lắm điện, mỗi nơi Ngài mặc một sắc áo riêng (Nguyễn Đăng Thục, Tín ngưỡng dân gian, Saigon 1964)
Đức Phật Mẫu cho Nhị Nương coi Vườn Đào. “Cứ ba ngàn năm trái chín một lần, ăn vào thì được trường sanh bất tử, thường dùng để bày tiệc đãi các vị thần tiên” (Hoàng Trọng Miên, VN Văn hoạc Toàn thư, Saigon 1959). Bí pháp này được thể hiện hàng năm vào ngày 15-8 âm lịch gọi là Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.
Như thế, Phật Mẫu là biểu tượng cao cả phổ quát (trong ý niệm vừa là Mẹ, là Thánh, là Tiên, là Phật), của nguồn sống (Vườn Đào), sức ần lao (giữ Vườn Ngạn Uyển) và nguồn vui (đãi yến, sum họp gia đình). Còn việc thay cung đổi áo là do vận hành theo thời gian, do thời tiết, do trình độ tiến hoá của con người nhằm phổ độ, đúng với câu: “Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên”.
Từ vua Hiên Viên, Đức Phật Mẫu thọ sắc Trời đã 9 lần thay hình đổi dạng giáng trần để phổ độ con cái của Ngài.

Ta có thể kể như sau:
1 . Đời Hoàng Đế Hiên Viên giáng trần độ người Trung Hoa và các nước lân cận.
2 . Đức Mẹ ISIS ở đền Memphis nước Ai Cập, tay cầm Thiên thơ hoá sanh vạn vật.
3 . Thiên Hậu Héra (Junon) nghiêm trang ngự trên ngai rực rỡ ở Hy Lạp.
4 . Đức mẹ Démêter là Thánh Mẫu của vũ trụ.
5 . Mayâ, Mẹ sanh của thái tử Sĩ Đạt Ta tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ được 7 ngày thì bà qui tiên (563 trước tây lịch).
6 . Đức Mẹ Devi Bhagava (hay Jagadambâ) ở Ấn Độ hiện thân tình mẫu tử, luôn chăm sóc chúng sanh.
7 . Thánh Mẫu Maria sanh Chúa Hài Đồng ở hang Bêlem thuộc xứ Jérusalem.
8 . Đức Phật Mẫu giáng hạ ban cho vua Hán Võ Đế quả đào tiên và độ vua tu hành. Sự tích nầy được Đạo Cao Đài tạc tượng phụng thờ.
9 . Kỳ ba phổ độ này, Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên giáng trần khai mở Đạo Cao Đài.
Khi tuần du trong càn khôn thế giới, Đức Phật Mẫu ngự trên lưng chim thanh loan. Chim thanh loan là chim mái có sắc xanh nhiều hơn, một loài linh điểu. Ngược lại chim phụng trống cũng là giống chim ngũ sắc như chim loan mà sắc đỏ nhiều hơn “Phụng gáy Kỳ Sơn” thì thánh nhân ra đời.
Đức Phật Mẫu chưởng quản Hội Kim Bàn gồm có chín Tiên Nương. Mỗi cô có 3 nhiệm vụ chính;
- Nơi trụ trì hành pháp
- Nhiệm vụ Hội Kim Bàn giao
- Vùng phổ độ ở trần gian.
1 . Nhứt Nương Hoàng Thiều Hoa, giữ Vườn Ngạn Uyển, chăm sóc sức khoẻ vạn linh, nhiệm vụ phổ độ miền Bắc nước VN.
2 . Nhị Nương Cẩm Tú, coi Vườn Đào, giữ gìn sự sống của loài người (bảo sanh), giáo đạo ở Campuchia.
3 . Tam Nương Kim Tuyến, ở tầng Thanh Thiên, siêu độ khách trần, phổ độ ở miền Trung VN.
4 . Tứ Nương Lê Thị Gấm, ở tầng Huỳnh Thiên, dạy chân, thiện, mỹ cho loài người, phổ độ ở đồng bằng miền Bắc VN.
5 . Ngũ Nương Liễu Hạnh, ở tầng Xích Thiên, siêu độ khách trần đắc đạo cho địa vị ngày càng cao thăng.
6 . Lục Nương Hồ Thị Huệ, ở tầng Kim Thiên, bảo toàn sinh mạng cho chúng sanh, phổ độ Pháp quốc. Đó là Jeanne d'Arc.
7 . Thất Nương Vương Thị Lễ, ở tầng Hạo Nhiên Thiên, độ dẫn người theo Đạo Cao Đài, giáo đạo ở Trung Hoa.
9 . Cửu Nương Cao Thoại Khiết, ở tầng Tạo Hoá Thiên với Đức Phật Mẫu, dạy về khoa học, mỹ thuật, phổ độ ở miền Tây VN.
Sát rào Bá Huê Viên là nam Đầu Sư Đường, nơi thờ các vị Đầu Sư Thái Thượng Ngọc trên lầu, dưới nhà là nơi hành chánh.
Đối diện với Đầu Sư Đường là nhà Hội Vạn Linh, trước kia là Hội Thánh Ngoại Giáo (La mission étragère) nên bên trong có thờ Tam Thánh vì Victor Hugo là Chưởng Đạo của Hội Thánh Ngoại Giáo. Sau dùng làm nơi họp của Hội Nhơn Sanh. Nhà này có thời kỳ thiết lập Viện Đại Học Cao Đài.

Bên kia đường Oai Linh Tiên là Y Viện hành chánh. Cách rào Y Viện là cơ quan Hàm phong. Đối diện với Hàm phong là cơ quan phát thanh và phổ thông giáo lý gần cửa số 8 nội ô.
Dọc đường Oai Linh Tiên, kế nhà Hội Vạn Linh là văn phòng Hội Thánh Tần Nhơn, đối diện với văn phòng này là văn phòng Ban Thế Đạo. Sát rào ban này về phía nam là Đạo Đức Học Đường, ngôi trường xưa nhứt của đạo.
Từ Ban Thế Đạo bước qua đường Cao Thượng Phẩm là văn phòng Đại Đạo Thanh Niên Hội, sát rào Hội này là văn phòng Trung Tông Đạo, kế là Bắc Tông Đạo, rồi văn phòng Hội Thánh Đường Nhơn.

Đối diện với Bắc Tông Đạo là Ban Lễ Nhạc, Ban Đồng Nhi.
Tại góc ngã tư Oai Linh Tiên và Cao Thượng Phẩm là Khách Đình (đúng ra là Trường Đình), nơi quàng quan tài của Lễ Sanh và Đạo Hữu để cúng tế trước khi đem táng. Đối diện với Khách Đình là Nhà Thuyền, nơi để Thuyền Bát Nhã và chỗ ở của nhân viên chèo thuyền và đạo tỳ.
Trước Thuyền Bát Nhã có câu đối:
1. Vạn sự viết vô nhục thể thổ sanh hườn tại thổ
Thiên nhiên tự hữu linh hồn thiên tứ phản hồi thiên
2. Sanh tiền bổn vọng, phú quí công danh kim hà tại
Chơn linh thê sở, công hầu cực phẩm bất đương nhiên.
3. Hữu thể sanh nhi từng tứ khổ,
Vô hình tử giả hoá tam đồ.

Chư chức sắc trường trai được chèo thuyền để độ thăng cả 92 ức nguyên nhân. Bởi lẽ, đời thượng ngươn có 100 ức nguyên nhân xuống trần độ rỗi chúng sanh. Phật Tổ độ được 6 ức, Lão Tử độ được 2 ức, còn lại 92 ức cho Tam Kỳ Phổ Độ.
Các nhân vật trong buổi tối chèo thuyền là:
Tổng Lái, là chơn linh Hắc Sát Tinh, tượng trưng Bát Quái Đài.
Tổng Mũi, là chơn linh Bạch Hổ Tinh, tượng trưng Hiệp Thiên Đài.
Tổng Thương, là chơn linh Huỳnh Long Tinh, tượng trưng Cửu Trùng Đài.
Tổng Khậu, tượng trưng cho nhơn sanh, buồn vui thất thường.
12 Bá Trạo, tượng trưng 12 con giáp của một lứa tuổi .
Bước qua đường nhỏ là Cơ Quan Phước Thiện, nơi giúp đỡ tương trợ người nghèo, bịnh tật, mồ côi, quan quả cô đơn.
Kế bên là Dưỡng Đường Phước Thiện, có nhiều người già nua ở đây nên còn gọi là Dưỡng Lão Đường. Sát bên là văn phòng nữ phái Phước Thiện, cũng đồng nhiệm vụ giúp đạo trợ đời như nam phái.
Có dự xem lễ chèo thuyền mới thấy được sự trân trọng linh hồn con người của Đạo Cao Đài là nhường nào !.

5 . Triết lý kiến trúc
Khi du khách đến thăm Toà Thánh, cái lôi cuốn họ đầu tiên là hai lầu chuông và trống cao ngất. Một hệ thống kiến trúc đền tháp nằm giữa hai khu rừng thiên nhiên màu xanh biếc. Hệ thống đền tháp này có giá trị về văn hoá lớn nhất ở miền Nam bao gồm bờ thành, đền điện, phủ đường, vườn cảnh…
Jeannine Anboyer trong quyển “Mỹ thuật Viễn Đông” nhận định rằng: Người VN đã biết chọn những cảnh thiên nhiên để xây những công trình kiến trúc thờ cúng của họ. (Les arts de l'Extrême Orient, Paris 1948, tr 83).
Một danh sĩ Nhật Bản cũng cho rằng Toà Thánh được xây cất trên suối ngầm chảy qua 6 cửa gọi là “Lục long phò ấn” hay “Lục long kết tụ”. Vùng đất này rất phát triển về đạo pháp và nhân tài (Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa và nay, Saigon 1972, tr 177).

Trước kia, Đức Lý giáng đàn dạy:
“Lão khen Thái Thơ Thanh, tưởng chư hiền hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là thánh địa (tức đất xây cất Toà Thánh hiện nay): sâu hơn 300 thước như con sông giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu: một đầu ra giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia”.

Về Lục Long phò ấn, ta thấy như sau: Viễn cảnh Toà Thánh, về phía Đông địa lý (cung Chấn) gối lên giồng Sân Cu (đất lành chim đậu), mặt trước phía Tây (cung Đoài) trông ra rạch Tây Ninh. Phía tả (Nam) thanh long nước sông Cẩm Giang-Bến Kéo chảy cuộn quanh. Phía hữu (Bắc) bạch hổ núi Điện Bà ôm vòng lại như cánh cung. Đó là điểm kết long mạch sách gọi là hàm rồng. Phong thuỷ âm dương hội đủ.

Cận cảnh, hồ Động Đình (bàu Cà Na) nước chảy không ngừng nghỉ (pháp luân thường chuyển) vào rạch Ao Hồ, hướng Tây Nam (Càn). Trái phải rừng thiên nhiên xanh biếc hài hoà cảnh trí. Phía Bắc (cung Ly) suối Lâm Vồ. Phía Đông Bắc (cung Tốn) Suối Đá. Phía Đông (Chấn) suối cái chảy về Nam (Khảm) qua Đoạn Trần Kiều. Suối con lượn ra Giải Khổ Kiều: bốn suối hợp sức tưới mát và bao quanh vùng thánh địa, kết tụ Lục long phò ấn.
Biểu hiện Tay Long (dương), Tay Hổ (âm) không đối lập nhau mà còn hoà hợp lồng vào nhau nhiều lần, viễn cảnh như cận cảnh. Bên trái (Thanh Long), bên phải (Bạch Hổ) thế sông núi châu đầu vào nhau như hình móng ngựa (đại kiết). Địa thế Lục Long phò Toà Thánh đó, không đâu tốt đẹp bằng .

Đó là nhận xét về địa lý, còn các cửa nội ô Toà Thánh thì sao?
Ta đem Bát Quái Cao Đài (Trung Thiên Bát Quái) du di trước Đền Thánh. Để 12 cửa cài 8 cạnh phù hợp với tám cạnh bát quái (giả sử ta bẻ 4 góc). Từ cửa số 2 qua cửa Chánh Môn hướng Tây Bắc (tức 2+3 =5) từ cửa số 4 qua cửa số 6 hướng Tây Nam (tức 4+6=10).
Bây giờ ta xét theo Dịch lý. Cửa số 1 (cửa Hoà Viện) ngay hướng Bắc, nhìn lên Bát Quái Cao Đài là quẻ Ly. Ly thuộc tâm hoả là con mắt là minh (sáng suốt) để cai quản đạo. Từ lúc xây cất Đền Thánh, cửa Hoà Viện là cửa chính tấp nập nhứt. Đối xứng với cửa số 2 là cửa số 7 (nội ô) thuộc thuỷ, tẻ lạnh chỉ là cửa phụ (theo Trung Thiên Bát Quái).
Hướng Tây Bắc theo Bát Quái Cao Đài thuộc quẻ Khôn, Khôn thuần âm biểu tượng đất là mẫu đạo, sanh hoá và nuôi dưỡng vạn vật. Hướng Tây Bắc trùng cửa số 2 sung túc tấp nập và cửa Chánh Môn. Cửa Chánh Môn xây theo Pháp Tam Quan. Không Quan (cửa bên trái) là lối nhìn về lẽ không “Không tức thị sắc”. Giả quan (cửa bên phải) nhìn theo lẽ sắc: “Sắc tức thị không”. Không sắc vào trung quan (cửa giữa) tức Trung Đạo Trung Dung. Đó là cửa chính của Đạo Cao Đài. Cửa số 2+3 cửa tam quan bằng 5. Theo Dịch Lý số 5 là số sinh đúng là cửa của Đức Mẹ (Khôn).

Hướng Tây Nam theo Bát Quái Cao Đài thuộc quẻ Càn. Càn thuần dương biểu tượng Trời là thiên đạo phụ đạo điều khiển vạn vật. Hướng Tây Nam trùng cửa số 4 sung túc tấp nập lúc chợ Ngã Năm phồn thịnh và cửa số 6 khai thông về nam, nơi sinh hoạt của nhân sanh. Cửa số 4 cửa số 6 bằng 10. Theo Dịch Lý số 10 là số thành đúng vào cung Càn. Mẹ sinh, Cha đưa con đến thành tựu.

Những điều trên thể hiện được mối quan hệ hài hoà giữa Trời Đất Người (Thiên Địa, Thiên Nhân, Nhân Địa). Tắt một lời, các cửa Đền Thánh chỉ thể hiện qua ba hướng: Bắc Ly, Tây Bắc Khôn và Tây Nam Càn đúng với thiên thơ nên phát triển không ngừng.

Đó là truyền thống kiến trúc cổ VN theo lối kiến trúc cảnh vật hoá (Architecture paysagée).
Kiến trúc đền tháp và phủ đường trong khuôn viên nội ô Toà Thánh không vươn lên cao mà dàn trải theo chiều Bắc Nam. Theo quan niệm hướng Bắc là nơi ngự của Đức Chí Tôn “Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng”. Thế nên Toà Thánh không xây dựng ngay trung tâm nội ô mà kiến trúc sát về phía cửa số 1 phương Bắc. Những công trình lớn nhỏ kéo dài về phía Nam như Giáo Tông Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Hiệp Thiên Đài, Hộ Pháp Đường, Hội Thánh Ngoại Giáo, Nam Đầu Sư Đường vv…theo quan niệm “Đài tại Nam phương đạo thống truyền". Những kiến trúc này cách nhau bằng những hàng rào và cổng. Mỗi dinh thự có chức năng khác nhau tạo nên những không gian ấm cúng và tôn nghiêm.

Các kiến trúc ở đây mang tính chất tổng hợp giữa Đạo (Religion) và Đời (Profane), giữa thần linh và con người mà con người là chủ thể của kiến trúc và thiên nhiên ở đây. Theo quan niệm chung của các tín hữu “Đời không Đạo không sức, Đạo không Đời không quyền”.
Vòng thành của Toà Thánh hình vuông dài độ 4000 mét, gồm một Chánh Môn và 12 cửa. Nhìn cửa Chánh Môn thấy rõ nét kiểu kiến trúc Đông Tây kết hợp. Trước sau và hai bên của Đền Thánh là các ngôi tháp của các vị chức sắc đại thiên phong như tháp Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh nằm cạnh cửa Chánh Môn. Tháp Giáo Tông ở ngay sau Bát Quái Đài, còn hai bên là tháp vị Đầu Sư Thái Thượng Ngọc. Các kiến trúc tháp âm phần có ngôn ngữ riêng biệt và ý nghĩa sâu xa của nó về mặt tôn giáo. Âm phần này là cõi sống của người chết, các chức sắc qui vị này luôn luôn hiện hữu bên cạnh các người còn sống. Các kiến trúc hình tháp đỉnh có lộng kiếng đó, vì thế nó không phải là những nỗi tang tóc mà là niềm vinh dự cho chư tín đồ.

Toà Thánh chịu ảnh hưởng ít nhiều kiến trúc Trung Hoa, phương Tây và Ấn Độ. Kiến trúc tuy thể hiện sự du nhập của phương thức kiến trúc và xây dựng nước ngoài, nhưng giá trị truyền thống văn hoá vẫn được bảo tồn và bị địa phương hoá đến nỗi người ta không còn phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.

Mái lợp của Toà Thánh uốn cong nhẹ, mái kép kiểu “trùng thiềm điệp ốc” như các kiến trúc của ta vào đầu thế kỷ 19. Hai lầu trống chuông cao 27 mét như tháp chuông nhà thờ. Ở Đền thờ Phật Mẫu chỉ một tháp, ta thấy rõ ảnh hưởng phương Tây.
Ngay giữa mặt tiền trên nóc có hình Đức Di Lạc thể hiện tính triết lý của Đạo Phật phương Đông. Nhất là các cột dưới bao lơn, tạc hình rồng và hoa sen, tượng trưng Long Hoa Đại Hội. Các tượng hình và hoa văn chuộng nét mềm mại quanh co của các nghệ sĩ dân gian.
Rắn 7 đầu (Thất đầu xà) ảnh hưởng cấu trúc Đế Thiên Đế Thích (Angkor Thom, Angkor Vat). Người được cử đi tham quan Đế Thiên về xây dựng Toà Thánh là Đầu Sư Nguyễn Ngọc Thơ. Những con người Naga này bị địa phương hoá thành thất tình: Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục để phù hợp với việc giáo hoá về đạo pháp cho chúng sanh.
Trên nóc Bát Quái Đài tạc hình 3 vị thần của Đạo Bà La Môn: Brahma vị Thần sáng thế, Christna (tức Vishnou) vị Thần bảo tồn và Shiva vị Thần phá hoại để xây dựng cái mới. Nét đắp vẽ sinh động và vút lên trời cao.

Trên nóc Cửu Trùng Đài là một vòm tròn (Nghinh Phong Đài), kiểu kiến trúc Hồi giáo, nhưng bị địa phương hoá, phía trên có tạc hình con long mã (con thú đầu rồng mình ngựa, khi nó xuất hiện sẽ có Thánh nhân ra đời). Con Long mã chạy về hướng Tây (hướng mặt tiền của Toà Thánh), quay đầu về hướng Đông, mang một ý nghĩa huyền bí về tôn giáo: Đạo xuất tự phương Đông, mang truyền bá ở phương Tây và gốc Đạo vẫn ở phương Đông.
Hai bên sau Toà Thánh còn có hệ thống nhà ngang (lang) là Đông lang và Tây lang, tạo nên không gian mở rộng cần thiết cho sinh hoạt đạo sự và cũng phù hợp với sinh hoạt của con người vùng nhiệt đới.

Bên cạnh Đền thờ và các ngôi tháp đều có vườn hoa cây cảnh, bá huê góp phần quan trọng vào ngôn ngữ kiến trúc truyền thống thể hiện quan niệm vũ trụ Á Đông. Tất cả các kiến trúc trong nội ô Toà Thánh đều được thiết kế, qui hoạch và thi công có chuẩn định về trình độ mỹ thuật và kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Ông Henri Regnault trong Hội nghị Thần linh học tại Lausane, Thuỵ Sĩ (1948) phát biểu: “Những vị nào có dự Hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã nhận được cuốn di bút của M.Gobron nói về lịch sử và giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách đó có nhiều tranh ảnh. Điều đó cho thấy rằng trong tôn giáo này, nghệ thuật có một địa vị rất quan trọng. Kiến trúc trong và ngoài Toà Thánh là một mỹ thuật đáng được chú ý đặc biệt”.


Tức là Đại ân xá kỳ ba, từ khi có loài người đến giờ.
a) Nhứt kỳ phổ độ: tức nhứt thiết Long Hoa thiên khai Tý hội, các vị thánh nhân sau đây ra đời cứu thế.
- Nhiên Đăng Cổ Phật (Thích Giáo)
- Thái Thượng Đạo Tổ ( Đạo Giáo)
- Văn Tuyên Đế Quân (Thánh Giáo) theo Kinh Lễ.
b) Nhị kỳ phổ độ: tức nhị thiết Long Hoa, hiên khai Sửu hội. các vị sau đây ra đời :
- Thích Ca Mâu Ni (Thích giáo)
- Lão Tử ( Lão giáo)
- Khổng Tử (Thánh giáo)

b) Tam kỳ phổ độ tức tam thiết Long Hoa thiên khai Huỳnh đạo hay Dần hội.
Ba vị sau đây đại diện cho Tam Giáo: Lý Thái Bạch (Tiên), Quan Thánh Đế Quân (Thánh) và Quan Âm Bồ Tát (Phật) gọi là Tam Trấn.
Tức tên gọi riêng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đài mà nơi Chí Tôn hằng ngự, cao nhất trong ba đài: Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài nên gọi là Cao Đài.
Có thi rằng :
Linh tiêu nhất pháp thị Cao Đài
Đại hội quần tiên thử ngọc giai
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất.
Cổ danh hữu cảnh Lạc Thiên Thai.

Nghĩa là: Nơi Linh Tiêu Điện có một cái tháp tên gọi Cao Đài quần tiên thường đến đại hội, hào quang muôn trượng nơi ấy chiếu ra, mà tên cũ là Lạc Thiên Thai.

3 . Cách xếp đặt trên thiên bàn
Tân Kinh viết “Lập vị Thượng Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết tốt hơn hết là giữa nhà lập trang thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng” xếp đặt theo hình chữ chủ () là chúa tể 12 phẩm vật tượng trưng cho thập nhị khai thiên.
Thích chữ : 
1) Thiên Nhãn, 
2) Đèn Thái cực, 
3) Trái cây, 
4) Bông, 
5) Nước trà (để bên phải ấy là âm), 
6, 7, 8 ) 3 ly rượu, 
9) Nước trắng (để bên trái ấy là dương) 
10 và 12) Hai cây đèn, 
11) Lư hương.

4 . Ý nghĩa thánh tượng Thiên Nhãn
Người đầu tiên được dạy thờ Thiên Nhãn là Ngài Ngô Minh Chiêu (từ năm 1921) mãi đến năm 1925 Chí Tôn mới giải thích cho quý ngài Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư… như sau:
Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giả, ngã dã
Nghĩa là: Mắt là chủ cái tâm con người, hai ánh sáng là chúa tể (vì hướng dẫn mọi sự vật) mà ánh sáng là Thần, Thần là Trời mà Trời là Ta vậy. Nhớ thờ con mắt trái thuộc dương mà dương là Trời.
Hiện nay hai loại tượng được thờ là tượng Ngũ Chi và tượng Tam Trấn. Thờ tại tư gia như sau :

- Tượng Ngũ Chi xếp đặt như sau
Thiên Nhãn
Lão Tử - - Thích Ca - - Khổng Thánh 
Quan Âm - - Thái Bạch - - Quan Thánh
- - - - Giê Su - - - - -
- - - - - Khương Thượng - - - - -
 - - - - - -Giáo Tông - - - - -

- Tượng tam trấn (có 3 hàng chữ Hán)
Thiên Nhãn
Quan . . . Thái . . . . Quan 
Âm . . . . . Bạch . . . Thánh
Bồ . . . . . . Kim . . . . . . Đế
Tát . . . . .Tinh. . . . . Quân

a) Tam Giáo là: Thích Ca, Khổng Thánh, Lão Tử.
- Thích Ca: tức thái tử Sĩ Đạt Ta, giáo chủ Phật Giáo, đạo phát sanh ở Ấn Độ. Ngài giáng sanh lối 503 trước Tây Lịch, có vợ có con, xuất gia năm 29 tuổi và đắc đạo năm 35 tuổi viên tịch tại xứ Câu Thi Na thọ 84 tuổi.
- Lão Tử tức Lý Nhĩ (570-490 TTL) người đồng thời với Khổng Tử, giáo thuyết Ngài nằm trong bộ Đạo Đức Kinh, vì thế mới gọi Ngài là giáo chủ Đạo Giáo.
- Khổng Tử tức Khổng Khâu, hiệu là Trọng Ni sanh năm 551 TTL, châu du khắp các nước trên đất Trung Hoa, sau ngài về dạy 3000 môn đệ chỉ có 72 người xuất sắc, rồi biên soạn Kinh Xuân Thu và san định Kinh Thi.
b) Ngũ Chi là : Phật Đạo (Thích Ca), Tiên Đạo (Thái Bạch), Thánh Đạo (Giêsu), Thần Đạo (Khương Thượng), Nhơn Đạo (Giáo Tông).
Theo hàng dọc có người cho Phật đạo là :
- Quan âm là một vị Bồ Tát nhiều lần hiện thân trong cõi Ta bà (trần gian này) để tận độ chúng sanh, cần Ngài cứu độ thì tụng kinh Cứu Khổ.
Trong các lần hiện thân quá khứ Ngài có khi làm Phật, khi Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh văn, khi làm Tiên, Thần, làm Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, Tỳ Kheo, Cư Sĩ nghĩa là thiên biến vạn hoá…
- Quan Thánh tức Quan Võ tự Vân Trường sanh vào thời Đông Hán dưới triều vua Hoài Đế, người tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa), Ngài kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi dựng cờ dẹp giặc Huỳnh Cân.
Sau làm trấn thủ Kinh Châu, bị thất thủ, Ngài không hàng nên bị bắt và bị giết ngày 18-2 năm Kiến An thứ 24, thọ 58 tuổi.
- Lý Bạch tự là Thái Bạch (701-762) đại thi sĩ đời Đường (Trung Hoa) hiệu là Trường Canh, Lý Trích Tiên, Ngài rất thông minh, lên 5 tuổi đã đọc lục giáp, lên 10 thông hiểu kinh thi, thư và thường xem sách bách gia, lên 15 tuổi thích kiếm thuật. Ngài là người hào hiệp, trọng người, khinh tài, nhẹ phú, thích làm hiệp sĩ.
- Giêsu tức Jésus Christ là giáo chủ Gia Tô giáo sanh vào năm 749 niên hiệu cổ La Mã tại thành Bétnléem trong một máng cỏ. Khi chúa ra đời thì bên phương Đông 3 tu sĩ thấy xuất hiện một vì sao chói sáng nên tiến đến xứ Judée (Do Thái) gặp chúa rồi trở về phương Đông nhưng vua Hérode ra lịnh tìm giết Ngài, sau Ngài bị đại Giáo Sĩ Caiphe lên án tử hình trên thập tự giá giữa hai tên ăn trộm.
- Nourn Dinh nguyên họ tên là Nour…el….Din…Mahmoud người Hồi giáo sinh năm 1117 làm vua Thổ Nhĩ Kỳ (1146-1173). Một trong những địch thủ đáng kinh sợ của quân Thập tự chinh. Khi chiếm cứ Damas thủ đô nước Syrie (1155) ông đã mở ra con đường tới Ai Cập. Nhờ đó tướng Saladin chiến cứ thủ đô Le Caire (1169).
Bên long vị các Thánh Tử Đạo nam phái nơi Đền Thánh có long vị Nourn Dinh được truy thăng là Thánh Tử Đạo Cao Đài, đại diện cho Hồi giáo trong kỳ ba phổ độ này.
- Khương Thượng tự Tử Nha, sanh vào khoảng đời Tổ Cảnh nhà Thương (Ngài học đạo với Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn tại núi Côn Lôn hơn 40 năm khi xảy ra Thương Châu dấy động, Ngài hội chư hầu 800 trấn tại sông Mạnh Tân phạt Trụ, rồi treo ấn từ quan về non tu luyện. Tương truyền khi phạt Trụ, Ngài vâng lịnh lập bảng Phong Thần.
2) Đèn Thái Cực
Đèn Thái Cực được Đấng Chí Tôn dạy như vầy: “Trước khi chưa phân trời đất thì khí hư vô bao quát càn khôn, sáng soi đầy trong vũ trụ, nó là một trung tâm điểm tức là đạo. Đạo ấy mới phát sanh ra thái cực, hoá lưỡng nghi, lưỡng nghi là âm dương (động với tịnh) có âm dương rồi mới hoá sanh muôn vật.
“Ngọn đèn các con thờ chính giữa đó là giã mượn làm tâm đăng. Phật Tiên truyền đạo cũng do đó các con không thànnh đạo cũng tại đó, nó ngay chính giữa không lai động xao xuyến chiếu thấu khắp cả càn khôn.
“Mặt nhựt, mặt nguyệt, có lúc sáng lúc tối, chớ nó thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng không lu mờ, nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui, trời đất nhờ đó mà mà an ninh trường cửu, người tu hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập thánh, hễ chinh bên tả thì tả đạo, xê qua bên hữu gọi là bàng môn, ngày chính giữa là chính đạo.
“Các con nên tường lý ấy trong tâm, tâm an tịnh vô vi bất động là chánh đạo; tâm còn tính mưu thần chước quỷ độc ác, hiểm sâu ấy là bàng môn tả đạo chớ chi các con".
- 3 và 4 Trái và Bông
Tượng trưng cho bốn mùa, trái cây tượng trưng cho ngũ vị đối với tiên thiên ngũ khí, còn biểu hiện cho người tu đắc đạo; bông tượng trưng cho xanh tươi tốt đẹp, chỉ về tinh là hình thể con người. Năm sắc bông tượng trưng cho ngũ hành và tinh hoa trên thế giới tức ngũ châu : Á châu, Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Đại dương châu. Thế nên Cao Đài giáo không phân biệt lãnh thổ chủng tộc vì tất cả là con chung của thượng đế.
- 5 và 9 nước cúng âm dương
a) Nước trà: (số 5) để bên hữu ấy là âm. Nước âm là nước trong lòng đất, biển cả, sông rạch, suối nguồn, chúng sanh nhờ nước để uống mà sống.
Nước trà tượng trưng cho thần tức là linh hồn khi cúng rót đúng tám phân, chỉ bát hồn vận chuyển nơi Bát Cảnh Cung của đức Phật Mẫu.
b) Nước trắng: (số 9) để bên tả ấy là dương. Nước dương là nước trên trời sa xuống, tinh khiết do đấng Thượng Đế ban cho, nếu nguồn nước âm cạn phải cần nước dương chan rưới. Trời Đất tương hoà, âm dương tương hiệp loài người mới thịnh vượng vững bền.
Nhớ nước trắng không được nấu, nếu nấu sôi thì hết dương, tuyệt cơ sanh hoá.
- 6, 7, 8 là ba ly rượu
Rượu tượng trưng cho khí, tức hư vô chi khí. Ba ly rượu tượng trưng cho 3 cõi: hạ giới, trung giới và thượng giới, rượu trong ly chỉ rót 3 phân tượng trưng cho bậc tu hành; hạ thừa, trung thừa và thượng thừa và 3 hạng người là hạ lưu, trung lưu và thượng lưu. Khí là trí não tương hợp với tinh và thần gọi chung là tam bửu: Tinh, Khí, Thần để cúng hàng ngày biểu hiệu cho cơ hiệp nhứt. Có vậy con người mới mong tu hành đắc đạo đặng.
- 10 và 12 là hai cây đèn
Gọi là lưỡng nghi quang, tượng trưng cho ánh sáng nhựt nguyệt soi khắp càn khôn vũ trụ, cũng soi thấu lòng chư môn đệ, quét sạch tà tâm để hướng về thái cực.
- 11 là lư hương: Năm cây hương tượng trưng cho “tham thiên (3) lưỡng địa (2) bao gồm cả âm dương tức 3 x 3 = 9 là thái dương và 3 x 2 = 6 là thái âm, chín lẻ thuộc dương, sáu chẳn thuộc âm bên phải. Khi dâng lễ phải đốt đủ năm cây hương,tức đủ âm dương thay càn khôn.
Khi thắp 3 cây nhang hàng trong gọi là án tam tài với ý nghĩa. 
- Vũ trụ có tam tài là: Thiên (Trời), Địa (đất), Nhơn ( người).
- Trời có tam ngươn là: thượng, trung, hạ ngươn hoặc nhựt, nguyệt, tinh.
- Đất có tam báu là: thủy, hỏa, phong
- Người có tam bửu là : tinh, khí, thần
Năm cây hương còn tượng trưng cho năm bậc tiến hoá của người tu hành
Giới hương: Người giữ 5 giới cấm, không chê kẻ khác, không hung dữ, không giận, không tham…
Định hương: người tu thiền, giữ lòng tự nhiên không phiền  lụy vì thiện ác ở đời, tâm chẳng loạn động, thiền định.
Huệ hương: Người đắc trí huệ, không chạy theo danh lợi, không sa vào thất tình, tâm sáng suốt phân biệt thiện ác.
Giải thoát hương: Người được giải thoát không nghe theo  bọn tà thuật, chăm lo hành thiện.
Tri kiến hương: Người tự biết mình, tâm tự tại, thấy bản tánh Như Lai của mình, Đề bạt Bát nhã tam muội (chánh thọ).
Ngũ hương còn gọi là ngũ phần pháp thân hương. Năm sự thân lành hiệp lại làm cái pháp thân. Ngũ hương còn là năm thứ hương thơm để dâng lễ: đàn hương, trầm hương, đinh hương, uất kim hương, long não hương.
Cách hiến lễ tức việc cúng kiến Đấng Chí Tôn và các Đấng, mỗi ngày cúng 4 lần gọi là tứ thời.
Thời Tý từ 23 giờ (đêm) đến 01 giờ (khuya)
Thời Ngọ từ 11 giờ trưa đến 13 giờ (chiều)
Thời Dậu từ 17 giờ (tối) đến 19 (tối)
Thời Mẹo từ 05 (sáng) đến 07 (sáng).
Thời Tý: Thời cực âm sanh dương, là thời ngươn khí của Đức Chí Tôn phát khởi do nhứt điểm sanh dương chi khí, vận chuyển càn khôn hoá sanh vạn loại nên dạy Dâng Rượu. Nên hiến lễ giờ nầy cho khí phách người được mạnh mẽ, trí óc sáng suốt.
Thời Ngọ: Thời ngươn khí của Chí Tôn cực thịnh, đầy đủ dương quang soi sáng khắp vũ trụ nên dạy Dâng Rượu. Nên hiến lễ giờ nầy ta hưởng được khí sanh quang của Đức Chí Tôn.
Thời Dậu: Thời ngươn thần của Đức Chí Tôn giáng hạ và tịnh dưỡng âm dương giao thời, thuỷ hoá ký tế, vạn loại yên tĩnh, nên dạy hiến Trà, ta hiến lễ giờ nầy để hàm dưỡng chơn thần thanh tịnh.
Thời Mẹo: Thời ngươn thần của Chí Tôn phát khởi biến hoá, thuỷ hoả ký tế vạn loại hữu sanh nên dạy hiến Trà. Nên hiến giờ nầy để hưởng quyền lực của Chí Tôn cho chơn thần con người được khang kiện.
Theo thánh ngôn dạy thì lạy là tỏ bề ngoài (thể pháp) để kính trong lòng đối với các đấng thiêng liêng (bí pháp). Pascal nói: “Muốn có đức tin phải quỳ xuống mà đọc kinh”.
Chấp hai tay lạy là sao ?
Tả là nhựt, hữu là nguyệt vị chi âm dương, âm dương hiệp nhứt, phát khởi càn khôn, sanh sanh hoá tức là đạo. bắt ấn tí là kết thành quả, xoè là kết thành hoa (bông).
Bắt ấn tý: là ngón cái của bàn tay trái chỉ vào góc ngón tay áp út, bàn tay phải bao ngoài, ngón cái của bàn tay phải chỉ vào góc ngón trỏ tay trái (dần), ám chỉ sự chủ tâm kính trời, tức “Thiên khai ư Tý, nhơn sanh ư Dần”.
Nếu tầm nguyên thì khi Lão Tử dạy đạo Tiên bảo chắp hai tay kiết nhị như bông sen búp, khi lạy thì xè ra, hai tay úp xuống đất cúi đầu lạy ba lạy gọi là khế thủ.
Khi Thích Ca dạy đạo thì dạy chấp tay hiệp chưởng hoa khai nghĩa là khi lạy thì ngửa hai bàn tay ra để xuống đất mà cúi đầu , gọi là hoà nam.
Khi Khổng Tử dạy đạo thánh thì cung tay đến mày mà lạy gọi là phủ phục.
Còn nay Cao Đài giáo chấp tay thành quả sen, hai tay là âm dương tức Lưỡng Nghi, khi lạy bàn tay úp xuống, hai ngón tay cái gát lên nhau biến sanh Tứ Tượng, tám ngón còn lại là chỉ Bát Quái, Bát Quái biến sanh càn khôn vũ trụ. Thế nên Tam Kỳ Phổ Độ là độ rỗi hết cả 92 ức nguyên nhân về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống chẳng bỏ sót một ai.
Lạy Tiên, Phật chín lạy là sao ?
Là lạy Đấng Cửu Thiên Khai Hoá, còn lạy Thầy 12 lạy là thập nhị khai thiên là Thầy, chúa tể cả càn khôn thế giới nắm trọn thập nhị thời thần trong tay.
Mỗi lạy phải niệm câu chú của Thầy (trừ những bài kinh có câu niệm riêng): Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô (Namah) là qui y, qui mạng, quyết chí dâng theo. 
Cao Đài thuộc Nho giáo vì có câu: “Đầu thượng viết Cao Đài”. Tiên Ông là ông Tiên thuộc Lão Giáo. Đại Bồ Tát Ma Ha Tát là vị Bồ Tát lớn, thuộc Thích giáo.
Câu niệm này đã chỉ rõ sự qui nguyên Tam Giáo.

8 . Tại sao mặc đồ trắng ?
Vì Cao Đài là một tôn giáo tổng hợp mà màu trắng là tổng hợp của 7 màu: đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím. Trong Thích giáo chí tâm kinh có câu: “Thổ khí thành hồng nhi nhứt trụ xanh thiên” hà hơi thành mống (7 màu) làm trụ chống vững cõi trời.
Màu trắng nhắc nhở mọi tín đồ luôn luôn phải trau sửa tâm tánh cho thanh khiết và trong trắng.
Riêng các chức sắc Cửu Trùng Đài thì mặc thiên phục màu tam giáo: vàng (Thích giáo), xanh (Lão giáo), đỏ (Thánh giáo).



Trong Tòa Thánh trên Cung Đạo có Bát Quái Đài xây thành 12 bậc, tượng trưng cho Thập Nhị Khai Thiên. Từ lúc giáng trần, Đức Chí Tôn ngự tại Tòa Thánh. Nếu có nơi nào nói là Ngài giáng, đó chỉ là phân tánh của Ngài do lời cầu khẩn của nhơn sanh mà thôi.
Trên mặt Bát Quái có vẽ các quẻ và tạo quẻ Càn Khôn tượng trưng cho sự thống nhất các tôn giáo trên hoàn vũ (vạn thù qui nhứt bổn), ở giữa quả Càn Khôn vẽ thiên nhãn (con mắt trái mở rộng).
Đức Chí Tôn dạy việc thờ Ngài như sau:
“Một quả Càn Khôn như trái đất tròn quay. Bề kính tâm (đường kính) 3,33 mét, sơn màu xanh da trời. Cung Bắc Đẩu và tinh tú vẽ lên quả Càn Khôn, Thầy kể tam thập lục thiên, tứ đại bộ châu ở không không trên không khí, còn thất thập nhị địa, tam thiên thế giới đều là tinh tú (hành tinh). Tính lại 3072 ngôi sao, liệu vẽ trên đó cho đủ, trên sao Bắc Đẩu vẽ con Mắt Thầy. Đáng lẽ quả Càn Khôn phải bằng pha lê, đúc bên trong một ngọn đèn thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại”. (Đàn cơ đêm 17-6-1926)
Xem thế, quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà gồm cả Thiên cầu (Quả Càn Khôn chỉ tạc thờ tại Tòa Thánh, còn các Thánh Thất thờ Thiên Nhãn). Các tinh tú nói trên xa gần khác nhau nhưng trong đêm mắt ta thấy như ghi trên một hình cầu màu xanh rất lớn (Do hiệu quả của phép phối cảnh), đó là thiên cầu, vì người ở nước VN (gần địa xích đạo) nên thấy sao Bắc Đẩu nằm ngang trên đường chân trời (tức ngang tầm mắt) chớ không phải Thiên Nhãn vẽ trên địa xích đạo.
Còn ngọn đèn thường sáng đó là giả mượn tâm đăng, Phật Tiên truyền đạo cũng do đó, nhân loại thành đạo cũng ở đó. Ngọn đèn Thái Cực để ở ngay chính giữa thiên cầu, không lay động, không xao xuyến, chiếu soi khắp cả Càn Khôn. Mặt trời, mặt trăng có lúc sáng lúc tối (đối với con người) chớ đèn Thái Cực, nơi Thầy ngự thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng. Nhơn vật từ đó mà sanh, từ đó mà thành, nhờ đó mà an vui. Vũ trụ nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh. Đó há không phải là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơ loại hay sao ?
Mặt khác, ngọn đèn cũng biểu trưng nguồn sáng nuôi sống nhơn loại. Đèn tắt là thời kỳ mạt kiếp tới. Khoa học nhận vũ trụ hiện đang ở thời kỳ nở ra (période de dilatation). Mọi vật đều dãn ra cùng một nhịp (Đường dài nào trong vũ trụ cũng nở thêm chừng 0,000.000.01% mỗi năm). Do đó, các tinh tú ngày càng xa nhau, đến một lúc nào đó điều kiện sống không còn vạn loại sẽ đến thời kỳ mạt kiếp. Cho nên người tín đồ Cao Đài luôn luôn thắp sáng (sưởi ấm) trên Thiên Bàn để cầu nguyện cho nhơn loại trường tồn.

Tại sao Thiên Nhãn tượng trưng cho Thượng Đế ?
Đức Chí Tôn dạy như vầy:
Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh tượng con mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược : 
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên
Thiên giả ngã giả”

Nghĩa là:
Mắt là chủ cái Tâm
Hai yếng sáng trong mắt là chủ tể,
Yếng sáng là Thần,
Thần là Trời
Trời là TA vậy.

Đức Chí Tôn lại dạy: “Từ ngày đạo bế, tu thì nhiều mà người đắc đạo rất ít vì Thần là cơ mầu nhiệm mà lại bị hiếm. Nay Thầy đến hườn nguyên tam bửu cho các con đắc đạo. Các con hiểu thần cư tại nhãn thì nên bố trí cho đạo hữu các con hiểu. Nguồn tiên phật yếu nhiệm tại đó”.
Cổ thư có nói: Mắt là nơi chứa Thần. Ngoài con mắt ra không thể chỉ Thần ở đâu cả, nếu không thì Thần người không chỗ nào là không có Thần. Lông tóc không có Thần thì xỉn nháp mà vàng, răng không Thần thì không sáng bóng, tiếng nói không có Thần thì không thể hài hòa, móng tay chân có Thần mới sáng sủa”. (Hải Thượng tập Đạo Lưu Dư Vận, Saigon, Khai Trí 1972).
Như vậy, thờ Thiên Nhãn (tức thờ Thần) là cách diễn đạt bí pháp muốn đắc đạo phải có Thần mới hườn nguyên với đệ nhị xác thân mà nhập cảnh thiêng liêng hằng sống.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Con Mắt là gốc ở Tâm”. Dân Pháp cũng nói “Con mắt là kiếng soi tâm” (L'oiel est miroir du coeur).
Như vậy, con mắt tượng trưng cho lương tri, lương tâm (conscience). Cả vạn vật hợp lại thành khối đại lương tri, đại lương tâm (conscience universelle) tượng bằng Thiên Nhãn, nên thờ Thiên Nhãn là thờ đức tin của nhân loại.
Trong tứ thời lễ bái lúc nào người tìn hữu cũng nhìn thẳng lên Thiên Nhãn để soi tâm mình mà kiềm chế tục tánh tội lỗi vì “Hoàng thiên hữu nhãn” (Trời cao có mắt).
Trong tam giáo Thích, Lão, Nho đều lấy tâm tánh giáo hóa con người. Tâm tánh có biết được là do “Lưỡng quang chủ tể” tức cửa ngõ tâm hồn chủ đạo. Thế nên:
Phật giáo dạy: Minh tâm kiến tánh
Lão giáo dạy: Tu tâm luyện tánh
Nho giáo dạy: Tồn tâm dưỡng tánh

Trong Kinh Dịch cũng có câu: “Nhất nhơn chi tâm, tức thiên địa chi tâm, nhân vật chi lý, tức vạn vật chi lý”. (Cái tâm của mỗi người là cái tâm của trời đất, cái lý của mỗi người là cái lý của vạn vật).
Phải nhận rằng Đạo Cao Đài liên quan nhiều với các truyền thuyết và tôn giáo Trung Hoa nhưng không có tham vọng làm y như người phương Bắc mà giản dị nó vừa tầm vóc với mọi sắc dân. Người đệ tử Cao Đài có ước vọng tôn giáo mình sẽ rộng hơn Di Hòa Viên và dài hơn Vạn Lý Trường Thành.
Dưới Bát Quái Đài có cái hầm gọi là Hầm Tàng Bửu Khánh, tượng trưng nới chứa châu báu để cứu khổ nhơn sanh.
Trên nóc Bát Quái Đài thờ 3 ngôi Thần của Đạo Bà La Môn (Ấn giáo) là Brahma, Siva (Shiva), Christna (hay Vishnou) tượng trưng cho tam thanh : Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh, ba phái trong Đạo Cao Đài. Ba Thần vâng lịnh Đức Thượng Đế điều khiển ba ngươn, công thành quả mãn nên đắc Phật vị.
- Phật Brahma, hướng mặt về phía Tây, điều khiển thượng ngươn tức ngươn Thánh Đức.
- Phật Siva hướng mặt về phía Bắc, điều khiển trung ngươn tức ngươn tranh đấu như lời cầu khẩn Đức Chí Tôn (vì Thượng Đế ngự tại ngôi Bắc Đẩu) tế độ nhơn sanh thoát vòng trầm luân.
- Phật Christna, hướng mặt về phía Nam, điều khiển hạ ngươn tức ngươn bảo tồn.
Đức Hộ Pháp có giảng về nhiệm vụ cao trọng của Phật Christna: “Dầu cho những chơn linh nào chết nơi chân trời hay góc bể đi nữa, nếu đầy đủ công nghiệp tâm đức thì được Phật Christna (Vishnoun) lãnh lịnh Đức Chí Tôn mà rước chơn linh ấy về ngay nơi Bạch Ngọc Kinh’.
Đức Hộ Pháp giảng thêm: “Tòa Thánh là hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh tại thế, tương quan bí pháp nơi cõi thiêng liêng”.

Tóm lại Cao Đài giáo chọn biểu tượng Thiên Nhãn để tôn thờ vì lẽ Đấng tối cao vô hình, vô ảnh. Nếu một vị giáo chủ bằng xương bằng thịt là người Tây phương sẽ làm người Đông phương mặc cảm và ngược lại. Thế nên, hình ảnh thi phàm mắt thịt là hàng rào ngăn cách khó có thể thực hiện một tôn giáo đại đồng nhơn loại.
Lẽ đương nhiên, Cao Đài giáo nhất thần tượng trưng bằng con mắt trái mở rộng. Còn những thể thức bày biện bên ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn kính đối với hàng giáo lãnh của các tôn giáo, đồng thời giúp việc truyền đạo được mau chóng.
Bình tâm mà nhận rằng, không tôn giáo nào chỉ duy nhất một vị Thần mà phải nói là các tôn giáo có một vị Thần độc tôn mà còn không còn biết bao nhiêu vị Thần khác bao quanh.
Hãy bình tâm nhìn cách thờ phượng chính thống tại Tòa Thánh Tây Ninh. Ta thấy có hai phần rõ rệt: cái nhìn ngang thấy được và cái ngẩng đầu lên mới thấy được.
- Cái ngẩng đầu lên là nơi thờ thần thánh tiên phật trong Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ. Những thần linh đã có sẵn trong nhân dân các nước. Tam Kỳ Phổ Độ tạc tượng thờ là để kính trọng (Kính nhi viễn chi) để xác nhận các tôn giáo đều có chung nguồn gốc. Các thức giả chắc thấy được mỹ ý đó.
- Cái nhìn ngang đều thấy được là ngôi thờ các thần linh của Đạo Cao Đài. Từ Tam Thánh, tam vị thiên sứ, bảy ngai: 1) Giáo Tông, 2) Chưởng Pháp, 3) Đầu Sư tới thiên bàn thờ quả Càn Khôn trên có Thiên Nhãn đều là thần linh của Tam Kỳ Phổ Độ.
Thánh thi, thánh ngôn dạy hợp với trào lưu tiến hóa sau thời khai Đạo Cao Đài mới được chấp nhận. Lời của các bậc giáo lãnh phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Đạo Cao Đài được trân trọng.

Thế thì, Đạo Cao Đài là Đạo Cao Đài, có bản sắc riêng của mình. Khi làm lễ, Đức Chí Tôn dạy các đệ tử nhìn ngay vào Thiên Nhãn mà không nhìn nơi nào khác. Lời dạy ấy có ai còn dám bảo Đạo Cao Đài đa thần không ?
“Không ai chối cãi rằng Đạo Cao Đài đã làm sống lại cái quyền hạn tối thiêng liêng của con người với những tư tưởng quảng đại và nhân từ. Họ đã đem đến cho dân chúng Đông Dương một sự hấp dẫn mãnh liệt, nên đến năm 1931 họ đã tập hợp trên một triệu tín đồ” (Báo Progrès Civique ngày 19-12-1931).
- Càn Khôn là gì ?
Quả Càn Khôn không phải chỉ là Trái đất (Khôn) mà gồm cả thiên cầu (Càn) trùm lên nhau, biểu tượng âm dương hợp nhứt chi vị đạo. Vậy đạo bao gồm cả Âm Dương, mà Âm Dương là Thái Cực, mà Thái Cực là ngôi Đức Cao Đài. Chung qui thờ Quả Càn Khôn là thờ Đức Chí Tôn. Thờ Âm Dương là thờ sự biến dịch của vạn loài. Đó là triết lý cao khiết về mặt tôn giáo và cả khoa học nữa. Bởi lẽ đời người ngắn ngủi, con người chỉ là hiện tượng nhất thời phát sinh do tác động giữa âm dương mà sinh thành. Nguyên tử cũng chỉ do sự hóa hợp điện tử âm và điện tử dương mà sinh thành. Tất cả mọi việc trong vũ trụ đều lấy Càn (Dương), Khôn (Âm) làm điều kiện cơ bản.
Vậy Càn Khôn là gì ? Càn Khôn là Đạo, là Thái Cực, mà “Đạo sinh nhứt, nhứt vi Thái Cực” (Thiệu Tử, Văn Ngữ Lục).
Lý giải đơn giản:
- Càn là Trời, là vua, là cha, là chồng, là đầu, là cứng, là lãnh đạo, là vàng, là băng, là thiên thể…
- Khôn là Đất, là nhân dân, là vợ, là mẹ, là thuận tòng, là mềm, là sắc vàng, là văn, là bụng …
Càn Khôn là âm dương trong Trời Đất. “Một âm một dương quanh đi quẩn lại cái vòng tròn không đầu mối. Nói rằng âm dương là một (Thái Cực) cũng được, mà bảo là âm dương thiên biến vạn hóa vô cùng tận cũng được” (Nhất âm nhất dương nhi hoàn vô đoan. Vị âm dương khước thị thiên biến vạn hóa nhi vô cùng diệc khả) (Hồ Cư Nhân, Dịch Tương Sao, quyển II, tr.8).

Chu Hy trong “Chu Dịch Bản Nghĩa” giải thích cụ thể hơn “Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn rũ áo xiêm mà thiên hạ trị; đó là lấy tượng ở quẻ Càn, quẻ Khôn" (Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn thùy y thường nhi thiên hạ trị, cái thủ như Càn Khôn).
Trong Dịch Hệ thượng (Chương IV), Chu Tử chú giải về Càn Khôn như vầy: “Đạo dịch chỉ là Âm (Khôn) với Dương (Càn) mà thôi. U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, quỉ cũng như Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương, là cái Đạo của Trời Đất”.
Và ông quả quyết: “Cái Khí (mà khoa học gọi là Éther) bàn bạc khắp trong trời đất để biến hóa tạo lập ra muôn loài, thực ra chỉ là hai khí âm dương trước sau, suy thịnh mà thôi” (Doanh Thiên Địa chi giao, sở dĩ vi tạo hóa giả, âm dương nhị khí chi thủy chung thịnh suy nhi dĩ).
Đức Chí Tôn cũng dạy: “Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ âm (Khôn) dương (Càn)”.

Như vậy, hai động lực căn bản tạo thành vũ trụ là âm dương. Nếu dương cực thì âm sinh, âm cực thì dương sinh. Khoa vật lý cũng chứng minh rằng: một nguyên tử có hai yếu tố căn bản là âm điện tử (électron) và dương điện tử (proton) hoạt động nhộn nhịp chứ không im lìm. Nếu nguyên tử chỉ có thuần một âm tử hay dương tử thì nguyên tử ấy chẳng thể nào phóng xạ sinh hóa được.

Giả dụ, nếu mạch điện bị cắt một dây dương thì không thể nào tạo ra điện năng được. Như thế, âm dương không thể tách rời. Âm dương chỉ là hai trạng thái tịnh động của lý Thái Cực, chu hành trong vũ tụ cùng tác động với nhau để biến hóa vạn vật.

Chung qui “Đạo vốn chỉ một âm một dương mà thôi. Trước sau, đầu cuối, động tịnh, tối sáng, trên dưới, tiếnlui, qua lại, đóng mở, đấy vơi, tiêu tưởng, tôn ti, quí tiện, biểu lý, ẩn hiện, hướng bội, thuận nghịch, tồn vong, đắc thất, xuất nhập, hành tàng; có cái gì thích hợp mà chẳng phải một âm một dương ?” (Trần Thúc Lượng và Lý Tâm Trang, Tống nguyên học án, quyển III, tr.643).
Vậy “Vật có gốc ngọn, việc có trước sau” và có “Biết được trước sau mới gần được đạo” (Tiền Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.2)

- Kinh Dịch giải về Càn Khôn ra sao ?
Trong Kinh Dịch phần thoán truyện do Đức Khổng Tử viết có đoạn: “Đức nguyên, Càn lớn, vạn vật bắt đầu từ Càn (nảy nở) thống cả thiên đạo, Càn làm mây mưa khiến cho vạn vật hình thành sinh trưởng. Bậc Thánh Nhân thấy cả trước sau, cả 6 hào của quẻ thuần Càn, mỗi hào có một vị nên thuận thời mà hành Đạo như cưỡi 6 rồng (ám chỉ 6 hào dương của quẻ thuần Càn) mà thống ngự cả vùng Trời. Đạo Càn biến hóa khiến cho bậc Thánh Nhơn đứng đầu muôn vật, theo Đạo Càn thì muôn nước đều bình an” (Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên, vận hành vũ chí phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thủy, lục vị thời thành, thời thừa lục long dĩ ngự thiên. Càn đạo biến hóa, các chánh tính mệnh, bảo hợp thái hòa nãi lợi trinh, thủ xuất thử vật, vạn quốc hàm ninh).
Trong Hệ từ truyện, Thiên Thượng, chương 1 có viết “Đạo Càn tạo thành người Nam, Đạo Khôn tạo thành người Nữ” (Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ).
Câu: “Thời thừa lục long dĩ ngự thiên” như câu: “Thời thừa lục long du hành bất tức” trong bài Ngọc Hoàng Kinh, lại nữa Càn Khôn còn tạo ra con người. Vậy ta xét Đạo Càn Khôn theo Kinh Dịch như sau:
Theo quẻ thuần Càn thì Càn có 4 đức tính: nguyên (đầu tiên), hanh (thông), lợi (thích đáng), trinh (chính bền). Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn vật, có đức hanh vì làm ra mây mưa để cho vạn vật sinh trưởng, có đức lợi và trinh vì biến hóa làm cho mọi vật giữ được bẩm tính và nguyên khí đặng thái hòa. Càn còn tượng trưng cho người quân tử với 4 đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí.

Chu Công giải nghĩa 6 hàm của quẻ thuần Càn thành 6 rồng, con vật ngự của Đấng Chí Tôn như sau:
Hào đầu: Rồng còn ẩn náo chưa (đem tài) dùng được (tiềm long vật dụng), tức rồng còn dưới vực sâu chưa lên mây nên chưa biến hóa được. Ý nói : người chưa gặp thời thì nên trau dồi hạnh đức, luyện thêm tài trí, ở ẩn không cần danh, không ai biết mình thì cũng chẳng buồn.
Hào hai: Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi (hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân). Người giúp đời mà không khoe công lao, giữ được lòng thành tín và được trung chánh gặp đại nhân thì lợi.

Hào ba: Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường đến tối vẫn còn thận trọng, dù nguy hiểm nhưng không tội lỗi (quân tử chung nhật, càn càn tịch tịch nhược. Lệ vô cửu) Người quân tử giữ lòng trung tín mà tiến đức lập ngôn, lấy lòng thành lập nên sự nghiệp. Ở địa vị cao mà không tự kiêu, ở địa vị thấp mà không lo lắng.
Hào bốn: Như rồng có khi bay lượn, có khi nằm vực, tùy thời mà không lầm lỗi (hoặc được, tại uyên vô cửu)

Thận trọng tùy thời cơ, nên tiến thì tiến (như rồng bay) nếu không thì chờ đợi (rồng nằm vực) chuẩn bị cho kịp lúc ra giúp đời.
Hào năm: Rồng bay trên trời ra mắt đại nhân thì lợi (Phi long tại thiên lợi tiến đại nhân) mây bay theo rồng, gió bay theo cọp. Ý nói Thánh nhân ra đời người người trông theo.
Hào cuối: Rồng lên cao quá có hối hận (kháng long hữu hối). Rồng bay cao quá khó xuống, nếu hành động sẽ xảy ra điều đáng tiếc vì cực thịnh tắc suy nên lui bước để giữ đạo người quân tử.

Trên đây quẻ Thuần Càn dạy người nam, dưới đây quẻ thuần Khôn dạy người nữ. Thật ra hai quẻ Càn Khôn đều dạy chung con người.
Đạo Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con người cái (nguyên hanh lợi, tấn mã chi trinh) vì Văn Vương cho con ngựa cái có tính thuận theo đực như Khôn thuận theo Càn.

Càn tạo ra vạn vật ở cõi vô hình thuộc Khí mà phải nhờ Khôn, vạn vật mới tượng hữu hình rồi sinh trưởng. Cho nên công của Khôn (Mẹ) cũng lớn như công của Càn (Cha), chỉ khác là Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn bổ túc cho Càn. Thế nên, các đức nguyên, hanh lợi, Khôn có đủ như Càn. Riêng về đức trinh thì Khôn hơi khác: tuy chính và bền mà phải thuận.
Chính vì Khôn có đức thuận mà mọi việc khởi xưởng đều là Càn. Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người đời nếu ở địa vị Khôn thì phải tùy thuộc theo người trên mà làm không nên khởi xướng mà lầm lỡ. Như thế, Đức Mẹ chở được vạn vật cũng lớn sánh bằng Đức Cha.
Cái lý của 6 hào thuần Khôn gần ý như vậy nên không bàn thêm. Thế thì, người xưa “Thấy trời cao, đất thấp mà lập ra quả Càn Khôn động và tĩnh nhất định nhờ đó mà phân biệt được cương nhu” (Thiên tôn, Địa ti, Càn Khôn định hỉ, động tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hỉ, Hệ Từ Thượng Truyện).

Tóm lại, “Đạo Càn lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động thì tiến thẳng, cho nên sức sinh của nó lớn. Đạo Khôn lúc tĩnh thì nhu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó rộng” (Phù Càn kỳ tĩnh dã chuyên, kỳ động dã trực, thi dĩ đại sinh yên. Phù Khôn kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịnh thị dĩ quãng sinh yên. Hệ Từ Thượng Truyện, chương 6).
Nói cách khác “Đạo Càn mạnh nhất trong thiên hạ, đức hạnh của Càn là làm việc gì cũng dễ dàng, bình dị mà vẫn biết được chỗ nguy nan. Đạo Khôn nhu thuận nhất trong thiên hạ, đức của nó đơn giản mà vẫn biết được được nơi trắc trở” (Phù Càn thiên hạ chi chí kiện dã, đức hạnh bằng di, dĩ tri hiểm. Phù Khôn, thiên hạ chi khí thuận dã, đức hạnh bằng giản, dĩ tri trở. Hệ Từ Thượng Truyện, chương 12).

Qua lý giải trên ta nhận rằng: Đức Chí Tôn chọn quả Càn Khôn tạo Thiên Nhãn làm ngôi thờ thiêng liêng cho toàn đạo đã nói lên ý tưởng cao xa huyền nhiệm vô biên. Càn Khôn biến đổi vô thường như Dịch lý không ngừng tạo ra vạn loài và “thống ngự vạn vật”, hữu thỉ vô chung.
Xem thế, “Sự biến dịch của Càn Khôn uẩn ảo quá: Khi Càn Khôn hình thành thì đã có dịch ở trong. Nếu Càn Khôn bị hủy thì không thể có dịch, nếu dịch không thể phát hiện thì Càn Khôn tắc nghỉ” (Càn Khôn hủy tắc vô dĩ hiện dịch. Dịch bất khả hiện, tắc Càn Khôn hoặc, cơ hồ hỉ) (Chu Hy, Chu Dịch Bản Nghĩa, Hệ Từ Thượng, chương XII).
Muốn Càn Khôn (âm dương) không xung khắc phải theo học thuyết Trung Dung của Đức Khổng Tử mà Albert Einstein gọi là “Thuyết Tương Đối” là đại biểu cho tính sáng tạo của khoa học hiện đại và cả tính thống nhất (Trương Kỳ Quân, Trung Hoa Ngũ Thiên Niên Sử, quyển II, chương XII, tr.25).

Trong Hệ Từ Thượng, Khổng Tử viết “Thiên hạ cùng qui về tuy khác đường, một mối mà trăm lo” và trong Hệ Từ Hạ, Ngài viết: “Đạo cùng đi mà chẳng chống đối nhau, muôn vật nuôi nhau mà chẳng hại nhau” (Đạo tịnh hành nhi bất tương bội, vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại) (Chu Hy, sđđ, Hệ Từ Hạ)
“Đạt được trung hòa thì trời đất định vị, muôn vật đều hóa dục … Trung là gì ? Trung là cái gốc lớn của thiên hạ. Hòa là gì ? Hòa là sự đạt Đạo của thiên hạ” (Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên … Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã. Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt Đạo dã).

Đạo đó là Đạo Trung Dung mà Đức Khổng Tử cho là không thể phút giây nào rời xa được (Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã) (Tiền Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.31-36).
Đạo Trung Dung quan trọng như vậy nên vua Thuấn phải dặn dò ông Vũ: “Lòng người dễ khuynh nguy, lòng mến Đạo lại yếu cho nên phải xét cho tinh một mực mà quyết giữ cho bằng được Trung Dung” (Nhân tâm duy nguy, Đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung) (Couvreur Seraphin, les Annalesde la Chine, Paris 1950, tr.39).

Tóm lại, Đạo Cao Đài mục đích là qui Tam giáo, mà đời Lý Trần gọi là Tam Giáo Đồng Nguyên là Quốc Đạo đã bắt nguồn từ hai luồng tư tưởng lớn trên bán đảo Ấn Trung: Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo mà nhiều người tin tưởng trong tương lai những luồng tư tưởng này có thể dung hợp thành một ý thức hệ kiêm đủ chân thiện mỹ, khả dĩ đem lại được cho Đông phương và toàn thể nhân loại một cuộc sống tinh thần cũng như vật chất đầy đủ, tốt đẹp, luôn luôn khai phóng và hướng thượng.

Sự tin tưởng cũng là một liều thuốc linh nghiệm để đối phó với bệnh tình cấp bách hiện tại của Tây phương. Thức giả Tây phương đã nhân thấy sự kém cỏi của mình hơn một lần tự hạ mong học hỏi và cầu xin Đông phương giải cứu cho họ. (Nguyễn Hữu Lương, sđđ, tr.27)

- Đạo dịch và lân mã
Vào ngày 15/6/1997, Bảo tàng Vĩnh Long đã “Phát hiện lân mã ở Vĩnh Long” trong báo cáo có ghi rõ:
“Theo một số bô lão bà con trong vùng cho rằng cách nay trên dưới 80 năm có cụ Đức Lợi là người chuyên về đúc đồng, có thể cụ là người đúc ra con Lân Mã này, mà thực tế cụ đã đúc ra nhiều con như vậy. Một số khác còn cho biết, hiện nay trong Tòa Thánh Tây Ninh cũng có một con tương tự nhưng đã bị hỏng, sứt mẻ còn lại ở đâu đó trong thánh địa (?) …
“Lại có một tin nữa cho rằng trong thời kỳ Pháp thuộc trong tỉnh Vĩnh Long có bà Hương Thanh, người có vai vế trong Hội Thánh Cao Đài nên trong Thánh Thất (Vũng Liêm) nơi bà ở có để con Lân Mã này, nên ngày nay có ngưởi nhận là chính con Lân Mã hiện nay là con Lân Mã của bà” (Báo cáo Bảo tàng Vĩnh Long, trang 23)

Trong “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” của Huỳnh Tịnh Của giải thích về chữ kỳ lân như vầy: “Kỳ thú có nhơn, chính là con đực, lân là con cái … Lân con thú giống sư tử mà hiền lành, người ta gọi là linh vật, đem vào tứ linh là long, lân, qui, phụng. Vua chúa có nhơn đức mới thấy nó”. (Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam Quốc Âm Tự vị (tập I) Sài gòn 1895, tr.510 và 538)
Trong “Hán Việt Từ điển” của Đào Duy Anh giải thích thêm: “Kỳ lân, con thú có tính lành giống con hươu mà lớn hơn, đuôi trâu vút ngựa, không ăn sinh vật nên người ta gọi là nhân thú” (Đào Duy Anh, Hán Việt Từ điển, Hà Nội 1992, tr.435-436 và 334-513).

Về con Long Mã ông viết: “Long Mã, ngựa cao trên 8 thước, người Tàu gọi là Long Mã, con rồng hình dáng ngựa….. Hà Đồ xưa truyền rằng, đời vua Phục Hy trong sông Hoàng Hà có con Long Mã xuất hiện trên lưng nó có vẽ nét từ số 1 đến 10, Phục Hy mới theo đó mà vạch ra Bát Quái” (Đào Duy Anh, Hán Việt Từ điển, Hà Nội 1992, tr.435-436 và 334-513)
Năm 1919, L.Cadière công bố về “mỹ thuật ở Huế” trong tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hue (những người bạn cố đô Huế) giới thiệu về nhiều con Kỳ Lân, nếu đem đối chiếu với lân đồng ở Vĩnh Long thì chính là lư Kỳ Lân dùng để đốt trầm, Lân Mã này cao 1,36m dài 1,48m, cân nặng 323 kg. Đó là vật cổ quý hiếm thuộc mỹ thuật thời Nguyễn có niên đại vào khoảng đầu thế kỷ XX (Tạp chí xưa và nay số 88 tháng 3 năm 2001, tr.37-38).

Số là năm 1936 Đức Phạm Hộ Pháp tái xây dựng Tòa Thánh có đến Vũng Liêm xin bà Lâm Hương Thanh tài trợ vì bà rất giàu có nhờ thừa kế của người chồng Pháp là Perrier gốc Thụy Sĩ. Bà không đủ tiền mặt nên đưa châu báu cho Đức Hộ Pháp, Ngài không nhận và nói: “Sau khi Tòa Thánh cất xong phải có lư lân mã xông trầm”. Vì thế mà bà Hương Thanh mới làm con Lân Mã để tại Thánh Thất Vũng Liêm và một con Lân Mã bằng đồng đen nặng 3 kg để tại đại điện Tòa Thánh.

Năm 1941, Pháp chiếm đóng Tòa Thánh thì con Lân Mã bị thất lạc. Ngày nay Hội Thánh làm con Ngọc Kỳ Lân thay thế (Ngọc đây ám chỉ cái quí của đồng đen) để múa trong các dịp lễ.
Về bí pháp của Lân mã ta thấy:
- Cao: 1,36 m là 1+3+6 = 10 chỉ Hà Đồ: con Rồng 
- Dài: 1,48 m là 1+4+8 = 13 giờ Ngọ chỉ con Ngựa
- Nặng: 323 kg là 3+2+3 = 8 chỉ Bát Quái Cao Đài
Nếu đem so Bát Quái Cao Đài với hai Bát Quái trước, ta thấy những nét đặc thù sau:
Đệ I Bát Quái Phục Hy - Hà Đồ - Long Mã 10 (cộng từ 1 đến 10) = 55
Đệ II Bát Quái Văn Vương - Lạc Thư - Linh Qui 9 (1à 9) = 45
Đệ III Bát Quái Cao Đài - Thiên Thư - Lân Mã 8 (1à 8) = 36
Số 36 là Tam Thập Lục Thiên với không gian bốn chiều 4 x 9 tầng bằng 36 tầng trời. Theo Dịch lý giảm dần từ 10,9,8 đến 1 (Thái Cực) biểu hiện con người xa dần vật chất tiến tới tinh thần.

- Phạm trù Càn Khôn:
Dịch Hệ Từ viết: “Cương nhu tương dịch, duy biến sở thích”. Trong Thái Cực, âm dương bên nhau đương nhiên có sự trao đổi lẫn nhau. Âm hút Dương, Dương hút Âm để thể hiện sự quân bình của vũ trụ. Trong Hậu Thiên Bát Quái chẳng hạn, khí Dương của Càn hút khí Khôn âm để biến thành các quẻ Khảm, Cấn, Chấn, còn khí âm Khôn đoạt khí dương Càn để biến thành các quẻ Tốn, Ly, Đoài. Đó là luật nhị khí giao cảm, hóa sinh vạn vật. Mọi việc trên đời đều có cặp mâu thuẫn đối đãi mang tính tất nhiên và phổ biến như âm dương.
Bàn về quan niệm vũ trụ, Dịch Hệ Thượng viết: “Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái”. Thánh Ngôn của Đạo Cao Đài cũng dạy: “Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng” (TNHT quyển II, tr.62). Hai ý trên nhứt định có cùng một gốc.

Trong Dịch Hệ Thượng, Đức Khổng Thánh lưu ý: từ chất co giãn vô hình, Thái Cực chia ra hai Nghi là Âm Dương rồi biến hóa ra Tứ Tượng thành Bát Quái. Bát quái biểu tượng cho vạn vật. Thế thì vũ trụ được hình thành từ vô thỉ đến vô chung, từ vô hình qua hữu hình với quá trình biến hóa đi lên của nó. Quả thật “vũ trụ có những mãnh lực bí mật lớn lao đã hợp nhất lại và vô số hình thể sống động của nó đã đảm bảo sự liên tục cho chúng”.
(Les grands forces mystérieuses de la Nature étaient désormais unifiées. Les innombrables formes vivantes affirmaient leur enchainement) (Réne judre, Les Nouveles Enigmes de I'Univers, Paris 1951, tr.14)
Vì thế, Kinh Dịch mới nói: “Sinh rồi lại Sinh thì gọi là Dịch”. Cái gì sinh ? Chu Hy lý giải: “Âm sinh Dương, Dương sinh Âm, sự biến hóa của chúng vô cùng” (Âm sinh Dương, Dương sinh Âm, biến hóa vô cùng) (Chu Hy, Chủ Dịch Bản nghĩa, Hệ Từ Thượng, Chương V.).
Đức Chí Tôn cũng dạy: “Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ Âm Dương”. Tắt một lời, quan niệm vũ trụ theo phương Đông, trời đất, vạn vật chịu ảnh hưởng của hai yếu tố căn bản là Âm Dương, biến hóa luôn luôn, chảy quanh khắp nơi, khắp chốn một cách vô thường. Đó là Đạo, Đạo vốn không có hình, nhưng ở đâu cũng có Đạo, thiếu Đạo thì không có sự vật nào tồn tại được.

Theo Soothill: “Trong vũ trụ đều là Âm hay Dương. Trời, ánh sáng, khí nóng, đàn ông, cha, sức mạnh, sự sống là dương - Đất, bóng tối, hơi lạnh, đàn bà, mẹ, sức yếu, sự chết là Âm” (Tout est Yin ou Yang dans la Nature. Le Ciel, la lumière, la chaleur, l'homme, le père, la force, la vie Yng. La Teere l'obscurté, le froid, la faiblesse, la ncort sont Yin) (W.E.Soothill, Les rois religions de la Chine. Paris 1946, tr.161).

Âm Dương là Thái Cực là Đạo vì “nhất âm nhất dương chi vị Đạo”. Trước Thái Cực còn có khoảng trống không gọi là Vô Cực. Thánh Ngôn dạy: “Khí Hư Vô sinh một Thầy, Thầy là Thái Cực , Thái Cực phân cực Âm Dương, Âm Dương sinh Ngũ Hành mà tạo thành vạn vật.
Châu Liêm Khê viết trong Thái Cực Đồ thuyết như sau: “Vô Cực mà là Thái Cực. Thái Cực động thì sinh Dương, động cực thì tĩnh, tĩnh thì sinh Âm, tĩnh cực lại động, một động một tĩnh cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi đã phân chia ra Âm Dương thì Lưỡng Nghi thành lập. Đến lúc Dương biến, Âm hợp, thì Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm khí đó nếu được xếp đặt thuận lợi thì bốn mùa sẽ vận hảnh đều đặn.

Ngũ hành nếu hợp nhất thì thành Âm Dương. Âm và Dương nếu hợp nhất thì thành Thái Cực. Thái Cực có gốc Vô Cực. Ngũ Hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. cái chân không của Vô Cực, cái tính chất của Âm Dương và Ngũ Hành, tất cả phối hợp một cách kỳ diệu và kết tụ lại với nhau. Thế rồi, Đạo Càn làm thành trai, Đạo Khôn làm thành gái, hai khí giao cảm mà sinh ra muôn vật, muôn vật sinh rồi lại sinh, sinh sinh mãi mãi và biến hóa vô cùng”. (Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án, tập I, quyển 9, tr.131)
Thật vậy, “Trong lịch sử có lẽ không có gì chính xác hơn việc biến dịch. Vật đổi thay. Người đổi thay. Đất đổi thay. Phong tục, quan niệm đổi thay” và tôn giáo cũng đổi thay cho phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại.
(Perhaps nothing is more certain in history than change. Animals change. Men change. The Earth changes. Customs, opinions ideas change) (Platt N. and Drummond M.J. Our world through the ages, New York 1959, tr.6).

Về nhân sinh quan, sự hình thành con người cũng do sự giao thoa của âm dương mà hóa thành, nên trong mỗi con người đều có gien âm dương.
Chu Hy quả quyết rằng: “Người người đều có một Thái Cực, vật vật đều có một Thái Cực” (Nhân nhân các hữu nhất Thái Cực, vật vật các hữu nhất Thái Cực) (Chu Hy, Ngữ loại).
Chu Hy còn viết thêm: “Thái Cực tự nó bao gồm cái lý động tịnh, chứ không thể lấy trạng thái động tịnh mà phân thể dụng. Bởi vì tịnh là thể của Thái Cực, còn động là dụng của Thái Cực” (Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án, tập II quyển 44, tr.505).
Nếu ta coi động tịnh là hai trường hợp khác nhau của Thái Cực thì “Âm Dương chỉ là một khí. Khí âm lưu hành tức là khí dương , khí dương ngưng tụ tức là khí âm. Thực chẳng có chuyện hai vật chống đối nhau bao giờ” (Hồ Cư Nhân, Dịch Tượng Sao, quyển I, tr.2)

Thật vậy, luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của âm dương trong Kinh Dịch rất tâm đắc. Theo G.Lakhousky trong thuyết “Dao động tế bào” (Oscillation cellulaire), mỗi vật đều phát ra một luồng sóng đặc biệt: có cảm mới có ứng, có tương đồng mới có thể giao cảm. Đó là nguồn gốc cơ bút và cách trị bệnh bằng nhân điện trong Đạo Cao Đài buổi đầu.
Cặp Âm dương giống như cặp Ác Thiện, tuy thấy như mâu thuẫn nhưng chẳng bao giờ rời nhau. Khi ta gọi là dương vì phần dương lấn phần âm. Khi ta gọi là âm vì phần âm lấn phần dương. Thế nên, ta khó tìm được thuần âm hay thuần dương cũng như thuần thiện hay thuần ác. Không có người tốt nào không mang trong mình một tật xấu. Thế nên người ta phải biết vượt lên trên Thiện Ác, thị phi mới thanh thoát. Nếu còn bị ràng buộc trong giả tướng của hiện tượng giới thì chưa có thể giác ngộ vào cõi Phật. Nên nhớ “Những kẻ đại gian ác là những kẻ đại thánh thiện” (Les grands pécheurs seront de grands Saint).
Madeleine trước khi thành Thánh là người đàn bà sa đọa, Thánh Augustin thuở nhỏ cũng là một kẻ nhiều lầm lỗi, còn Thập Bát La Hán nguyên là những kẻ trộm cướp giết người. Trong “Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống”, Đức Hộ Pháp xác nhận “Quỉ Vương là phần trược của Thượng Đế” (Satan est la doublure de Dieu)

Xem thế, Thần hay Quỉ ở tại bản thân của mỗi chúng ta. Hồ Cư Nhân cũng nói: “Thần của mộc, hỏa sinh vật ở hướng Đông Nam. Quỉ của kim , thủy diệt vật ở hướng Tây Bắc”.
Nói một cách khác “U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, Quỉ cũng như Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương. Như thế, quỉ thần không xa ta, thiên đàng hay địa ngục đều nằm trong tâm của mọi người. Tránh hạng người “Thân Công Báo”, kẻ mở cửa ma giới trần gian đó. Họ gây xáo trộn trong mỗi con người: hữu vi (xác), vô vi (hồn) lìa nhau, Đạo Đời không còn tương đắc, Âm (xác) Dương (hồn) rời rã …

Hãy nghe Pháp Chánh Truyền giải thích về Đạo Đời tương đắc. “Hội Thánh có hai phần tại thế. Phần hữu hình là Cửu Trùng Đài tức là Đời, nghĩa là xác, một phần bán hữu hình là Hiệp Thiên Đài, là chơn thần, nghĩa là nửa Đời nửa Đạo, còn phần vô vi là Bát Quái Đài tức là hồn, ấy là Đạo”.

Rõ ràng PCT phân giải Đạo là Bát Quái Đài, còn Cửu Trùng Đài là Đời (nhân sanh của Đạo), chớ không phải Đời là chỉ người ngoại Đạo. Chẳng hạn Thế Đạo là Đời của Đạo, chỉ những người Đạo còn sống lẫn lộn với Đời.
Đọc tiếp PCT ta sẽ thấy rõ hơn: “Thầy là chúa tể của sự vô vi, ắt Bát Quái Đài là của Hồn. Hồn hiệp với xác bởi chơn thần. Aáy vậy, chơn thần là trung gian của Hồn và Xác. Xác nhờ Hồn mà nên, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp Thiên Đài mới mong đạt Đạo”, nói cách khác “nếu muốn cho sự vô vi (Đạo) và sự hữu hình (Đời) đặng tương đắc thì cả hai ông chúa (Đạo, Đời) phải liên hiệp với nhau”. (Chu Hy, Dịch Hệ Thượng, chương IV)
Xem thế, đạo đời tương đắc rõ ràng là chỉ cách luyện đạo. Thế mà người sau xa rời kinh sách lại hiểu méo mó là người đạo và quyền đời phải tương đắc ! Sự lầm lẫn đó phải trả giá của nó khá cao !”. Sự ngạc nhiên của chúng ta quả lớn khi chúng ta thấy điều mê tín kém nhất lại là một điều phổ biến rất lâu dài”. (… la superstition la plus basse a été, pendant si longtemps, un fait universel) (André Ruffaf, La superstition à travers les ages. Paris 1952, tr.211)
Chúng ta phải làm như thế nào như Lord Acton nói: “Tôn giáo là cái chìa khóa của lịch sử”. (La religion est la clé de 1'histoire) (Christopher Dawson, La religion et la formation de la civilisation Occidentale, Paris 1953, tr.9).
Bởi lẽ, nếu không có tôn giáo thì lịch sử hẳn hoang lương tiêu điều, cuộc đời hẳn cũng giảm sinh thú. Ngoài tính chất thẩm mỹ, tôn giáo còn có một ảnh hưởng quan trọng đối với nền văn minh nhân loại” (Nguyễn Hữu Lương, sđđ, tr.58. xem “Lý giải Quả Càn Khôn” cùng người viết.)


Tại sao chọn ngày mùng 9 tháng giêng làm lễ vía Đức Chí Tôn ?
Theo tục lệ, mùng 7 hạ nêu để chấm dứt Tết Nguyên Đán thì nhân sanh mở ngay ngày Tết Khai hạ. Theo Dịch lý, ngày mùng 7 ứng vào con ngựa trong Thập Nhị Chi, ngày mùng 8 ứng vào lúa, ngày mùng 9 ứng vào Trời. Cho nên lấy ngày đó làm lễ Vía Đức Chí Tôn. Mặt khác, số 9 là số thái dương, số 8 là số của thiếu âm, số 7 là số của thiếu dương và số 6 là số của thái âm .

Theo thứ tự trong Tứ tượng thì thái dương là ngôi số 1, lấy 1 trừ 10 còn 9 dùng làm số đặc biệt của Thái dương, tức Trời vậy.
Thờ quả Càn Khôn là thờ Cửu Thiên Khai Hóa vì Càn 3 hào, Khôn 6 hào cộng lại là 9. Vả lại, quẻ Khôn chồng lên quẻ Càn thành quẻ Thái có nghĩa là thông suốt. Quẻ Thái làm chủ tháng giêng. Kết hợp lại, mùng 9 tháng giêng là Vía Trời.
Thêm vào đó, trong Kinh Dịch gọi số 9 = 3 x 3 là số Tham Thiên hằng số.
Nhà toán học Pythagore cũng nói: “Chín là số hoàn hảo, là bình phương của ba, tam hợp hài hòa trọn vẹn”. (Neuf est le nombre parfait en tant que carré le trois qu'est le trinité de l'harmonie complète).

Vả lại, các ngày hội lễ trong năm nảy sanh từ nền văn minh nông nghiệp. Mùa xuân tháng giêng lễ Cha, tức Vía Đức Chí Tôn, mùa thu, tháng 8 lễ Mẹ tức Vía Đức Phật Mẫu. Các ngày lễ này, các chức sắc phải về triều lễ tại Tòa Thánh.
Ngoài nghi lễ tôn nghiêm, Hội Thánh còn cho tổ chức các cuộc vui như dưng cộ bông, lửa trại, thai đố, ngâm thơ… vừa nâng cao đời sống tâm linh, vừa buông thả tình cảm để thư giãn. Thế nên lễ Vía xen lẫn cái huyền nhiệm và cái thực tế, cái chính thống tôn giáo và cái buông thả của nhân gian.

Trong ba ngày lễ Vía Đức Chí Tôn, trừ ngày mùng 9 chánh lễ còn các ngày khác là lễ tạ ơn tổ tiên hoặc tổ chức các cuộc vui, trong đó Văn Minh điện thu hút nhiều người nhứt.
Trong nắng xuân ấm áp, Hội Thánh cho dựng một cái đài lục giác giữa Đại đồng xã, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi người đứng xa đều thấy rõ người điều hành. Ban tổ chức gồm một trưởng ban cầm cái mõ (thường là Phối Sư Thái Đến Thanh). Một ban cổ nhạc trần thiết ở tầng trên giữa căn nhà lục giác. Phía trước Văn Minh điện có một cái cầu thang duy nhứt lên và xuống, phía bên trên có đề 3 chữ: Văn Minh Điện, tức nhà văn minh về đạo đức, văn học, mỹ thuật…
Các cuộc vui gồm: Thai đố, thi thơ, hát vè, ngâm thơ. Ai trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Văn Minh Điện bắt nguồn từ hai câu thơ giáng cho của bà Đoàn Thị Điểm được sửa từ và rút ra trong truyện “Chinh phụ ngâm” như sau :
Chín tầng ngôi báu trao tay,
Nửa đêm truyền lịnh định ngày xuống ngai.

Xuất nhứt nhơn (một người). Rõ ràng đây là câu đố. Mãi đến cách mạng tháng tám năm 1945, Bảo Đại xuống ngôi, người ta mới biết nhứt nhơn đó là Vĩnh Thụy. Từ đó, thú chơi thai đố ngày càng thạnh hành. Cái vui của Văn Minh Điện là những câu thai đố được lý, hò, ngâm, diễn, đọc với điệu bộ dễ cười của các diễn viên nghiệp dư. Chính nhờ điệu bộ đó, người xem đoán được phần nào nội dung câu đố.
Một diễn viên đọc với điệu bộ câu này : 
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về Tây.

Xuất nhứt điểu (một con chim), âm điệu thơ Kiều mà lại là câu đố hóa búa. Một tín hữu mặc áo dài trắng giơ tay xin giải đáp. Trưởng ban cuộc thi mời anh lên thang gác. Anh nọ đứng lựng chựng cầu thang đáp: Con chim cút. Viên giám khảo giơ cao tay đánh vào mõ cái cốc. Mọi người đều biết sai, cười ồ lên. Anh nọ bẽn lẽn xuống cầu thang. Nếu ai đáp đúng mõ được đánh một hồi. Ban nhạc tiếp thanh âm hòa tấu một bài để tuyên dương người đáp đúng. Một thiếu nữ giơ tay trả lời là con quạ vàng. Ban giám khảo yêu cầu giải thích. Cô gái đáp: “Lần đường theo bóng trăng tà về Tây” thì chỉ có mặt trời mà mặt trời là Kim Ô. Ban ngày đôi khi có mặt trăng nhưng do ánh sáng của mặt trời làm ta không thấy trăng. Một hồi mõ dài được gõ lên. Ban nhạc hòa tấu khúc “Trạng nguyên hành lộ”. Cô gái được thưởng một chồng kinh sách với những tràng pháo tay vang dậy.
Kế đến là cuộc thi ngâm thơ, thí sinh có thể lấy thơ trong “Thi văn hiệp tuyển” hay tự biên tự diễn.
Một nhà thơ trẻ với giọng ngâm ngọt ngào truyền cảm hòa lẫn tiếng đàn cò, tiếng tiêu, dìu dặt như bay bổng giữa tầng không:

VỊNH TÒA THÁNH
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời
Ánh vàng tỏa rộng khắp nơi nơi.
Hiệp Thiên vang tiếng Lôi Âm Cổ.
Bát Quái lặng thinh Bạch Ngọc ngời.
Cung đạo thiêng liêng miền thượng giới.
Cửu Trùng dung tục cõi người đời.
Thoáng nhìn tru phướn, bồ đề cội.
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời.

Trên đây chỉ là những trích đoạn về thai đố, thi thơ để người đọc hiểu phần nào thú vui tao nhã nhân ngày Vía Đức Chí Tôn, vừa phù hợp với truyền thống lễ nghi huyền nhiệm, vừa tác động cuộc vui chơi dân đạo, thích đáng với quan niệm cổ truyền “Trời Người hiệp nhứt”. Tiếc thay, Văn Minh Điện không vĩnh tồn với thời gian.

Tắt một lời, ngày Vía Đức Chí Tôn là ngày hạnh phúc lớn của đại gia đình nhà đạo, không phân biệt sang hèn, màu đạo sắc tộc, mọi tín hữu khắp mọi nơi trên mọi nẻo đường hướng về Tòa Thánh mừng lễ Đấng Cha Lành.

Người Đạo Cao Đài luôn luôn tâm niệm và thực hành lời Đức Đại Từ Phụ dạy: Tất cả nhơn loại là con một cha. Tất cả mọi tôn giáo có cùng một gốc. Thế nên người tín hữu Cao Đài không thấy ngại ngùng khi vào lễ trong một chùa Phật hoặc nhà thờ Thiên Chúa hoặc đền thờ Hồi giáo. Bởi lẽ, người tín hữu Cao Đài biết rằng các Đấng giáo chủ ấy đều do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh nên chịu dưới quyền điều khiển của Ngài.

Người tín đồ nào cũng thuộc làu câu: “Cùng nhau một đạo tức một cha”. Thế nên, họ không kỳ thị tôn giáo và không kỳ thị chủng tộc, coi tất cả mọi sắc tộc trên thế giới dù khác màu da sắc tóc, ngôn ngữ hoặc chánh kiến đều cùng chung huyết mạch.

Khi nói Đức Cao Thượng Phẩm là ngươn linh Hớn Chung Ly hay Thanh Sơn Đạo Sĩ là ngươn linh của Hồng Y Richelieu là xác nhận Đạo Cao Đài tin có luật chuyển luân. Ngày trước là người Trung Hoa, ngày nay đầu kiếp làm người VN hay ngược lại. Điều ấy nói lên mọi sắc dân, trước mặt Đức Chí Tôn đều là con cái, là đồng chủng. Nếu tiền kiếp là người Ấn Độ thì theo đạo Phật hoặc người Tàu sao tránh khỏi theo đạo Lão hay đạo Nho. Vậy ta đã từng là môn đệ của các vị đó trước kia, nay tôn vinh các vị đó làm thầy là lý đương nhiên.
Với tinh thần ấy, người tín hữu Cao Đài lúc nào cũng tôn kính các tôn giáo khác và đặt các vị giáo chủ ngang hàng nhau, không có sự đặt biệt trọng khinh nào.
Thế thì tôn thờ Đức Chí tôn là tôn thờ đức tin của nhơn loại.

LỄ VÍA ĐỨC CHÍ TÔN

Lễ Vía Đức Chí Tôn lúc 0 giờ ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Đây là buổi lễ trang nghiêm nhất, tất cả mọi sinh hoạt đều im lặng nhường cho tiếng trống tiếng chuông và lời cầu kinh.
Sau khi Lôi Âm Cổ (trống) dứt hai hồi, vị Tả Phan Quân cầm phướn Thượng Sanh hướng dẫn các phẩm Lễ Sanh, Giáo Thiện nam nữ lên lan can lầu Đền Thánh, nam tả nữ hữu (trong bửu điện nhìn ra), đồng thời cho 6 vị Lễ Sanh và 6 vị Giáo Thiện nam nữ vào hầu Bát Quái Đài.

Khởi Bạch Ngọc Chung (chuông), vị Hộ Đàn Pháp Quân cầm cờ tam thanh (cờ đạo) và vị Hữu Phan Quân cầm phướn Thượng Phẩm hướng dẫn chư chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện vào Đền Thánh (hoán đàn). Hai bên chức việc, đạo hữu nam nữ cũng đi vào hoán đàn. Đoạn phân ban nam nữ. Đồng thời 3 vị Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư vào nội nghi. Một vị Phối Sư ở ngoại nghi.

Tiếp Lễ Nhạc Quân lên giảng đài nữ cầm hiệu. Một vị Giáo sư phái Ngọc lên giảng đài nam xướng lễ.
Dứt chuông, Hộ Đàn Pháp Quân ra cờ lịnh nhập đàn.
Vị Giáo sư phái Ngọc xướng
1 . Nội Nghi, Ngoại Nghi tựu vị
2 . Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị.
3 . Nhạc tấu quân thiên: nhạc đờn 7 bài.
- Xàng xê: nghĩa là đưa qua trộn lại, biểu tượng cho thời kỳ hỗn độn sơ khai. 
- Ngũ đối thượng: là năm từng trên trời tức khí thanh bay lên làm bầu Trời
- Ngũ đối hạ: khí trược hạ xuống thành đất
- Long đăng: rồng bay lên, tượng trưng cho Dương
- Long ngâm: là rồng xuống, tượng trưng cho Âm. Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo. 
- Vạn giá: là muôn việc đã định an, muôn loài vạn vật đều có tên.
- Tiểu khúc: nhỏ ngắn đều có tên, có luật.
Kể từ ngày mùng 9 tháng giêng năm Bính Dần (1926) Đức Chí Tôn đã nhận 12 đệ tử đầu tiên của Đạo Cao Đài, thì giai đoạn đầu đó do Đức Ngô Minh Chiêu dìu dẫn. Từ ngày khai đạo (18-11-1926), cơ phổ độ do Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Sanh (1957-1971) lãnh đạo. Tất cả là 5 vị (số 5 là số tham thiên lưỡng địa), nền đạo tính vừa đủ 45 năm gồm 9 số mà tổng số từ 1 đến 9 (1+2+3+4+5+6+7+8+9) là 45. Mồng 9 lại là ngày vía Đức Chí Tôn, đem nhân 9 với số 5 (5 vị cao đồ tiền khai Đại Đạo), (9 x 5) vẫn là 45. Điều ấy có huyền diệu gì không ?
Thế thường mỗi khi có Hà Lạc xuất hiện thì có thánh nhân ra đời. Khi không thấy Hà Đồ xuất hiện, Đức Khổng Tử than: “Phượng điểu bất chi, Hà bất xuất đồ, ngô dĩ hỉ phù” (Chim Phượng không tới, bức đồ chẳng hiện trên sông Hà, ta hết hy vọng rồi).
May thay ! Kỳ ba phổ độ này ta thấy Long Mã tải Trung Thiên Bát Quái trên có Lạc Thiên Thư xuất hiện là điềm lành cho toàn thể nhân loại.

Thời khai nguyên Đại Đạo theo Dịch lý là thời Thái Dương gồm 5 vị:
1 . Ngô Minh Chiêu: (từ tháng 2 đến tháng 11-1926) dìu dẫn 9 tháng. Số 9 là số Cửu Trù (hay Cửu Thiên Khai Hoá) của Hà Đồ. Số 9 là số đặc biệt của Chí Tôn.
2 . Cao Quỳnh Cư: (1926-1929) xây dựng nghiệp đạo 4 năm là số tứ tượng trong Kinh Dịch hay Tứ Thời (Ngọ, Dậu, Tý, Mẹo trong bốn thời dâng lễ Đức Chí Tôn).
3 . Lê Văn Trung: (1929-1934) chưởng quản đạo sự trong 5 năm, số 5 là số Tam Thiên (3), Lưỡng Địa (2).
4 . Phạm Công Tắc: (1935-1956) 21 năm trừ gần 1 năm an trí Di Linh, Sơn La và 5 năm hơn bị đày ở Madagascar còn lại 15 năm, số 15 là số sinh thành của Hà Đồ. Số trời 5 hợp cùng số đất 10 ở trung ương mà sinh Thổ (Thiên ngũ dữ địa thập hợp ư trung nhi sinh Thổ) tức là 15.
5 . Cao Hoài Sang: (1957-1971) cầm quyền đạo trong 14 năm (hay hơn 13 năm cũng vậy) báo hiệu cho thời Thái Dương của các cao đồ chấm dứt (12 giờ trưa là cực dương của thái dương tính theo tứ thời), bước sanh 13 hay 14 giờ là bắt đầu thời thiếu âm (vì cực dương sinh âm) của Thập Nhị Thời Quân mà khởi đầu là Thời Quân Hiến Pháp.
Đức Cao Thượng Sanh thay mặt các vị cao đồ chấm dứt thời khai nguyên Đại Đạo bằng câu:
“Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền”
HẾT


Những bộ sử viết về Đạo Cao Đài
1 . Hương Hiếu, Đạo Sử, quyển I và II, tiểu bang California, Hoa Kỳ, 1995.
2 . Hoài Nhân, 40 năm lịch sử ĐĐTKPĐ (Tây Ninh), Biên Hòa, 1966.
3 . Cao Hiên, Lịch sử ĐĐTKPĐ, Saigon, 1967.
4 . Đồng Tân, Lịch sử ĐĐTKPĐ, Saigon, 1972.
5 . Lê Anh Dũng, Lịch sử Đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920-1926), Saigon, 1993.
6 . Trần Văn Rạng, Đại Đạo Sử Cương, quyển I, II, Saigon, 1970.
7 . Trần Văn Rạng, Đại Đạo Sử Cương, Sydney, 1993.
8 . Trần Văn Rạng, Đại Đạo Sử Cương, tập 1, California, 2003.
9 . Trần Văn Rạng, Đại Đạo Sử Cương, tập 2, California, 2004.
10 . Trần Văn Rạng, Vị thế đạo Cao Đài Tây Ninh trong quốc sử (1937-1954), 1975.
11 . Nguyễn Văn Hồng, Đạo sử nhựt ký, quyển I và II, Saigon, 2005.
12 . Trần Văn Rạng, Lịch sử Đạo Cao Đài về giáo lý (1925-1955), Tây Ninh, 201.
Home               1 ]   [ 2 ]   [ 3 ]   [ 4 ]   [ 5 ]   [  6  ]  [ 7 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét