Phấn khởi về những thành quả tốt đẹp, Hội Thánh
TTTN bổ thêm 2 vị chức sắc để tăng cường phái đoàn truyền giáo, đó là 2 vị:
Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh và Nữ Lễ Sanh Hương Thơm (Nguyễn Thị Thơm là bạn đời của
ông Lê Thế Vĩnh).
Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh lo tổ chức
hệ thống hành chánh đạo, thành lập địa phận đạo Bắc Việt, Họ đạo Hà Nội, các
Quận Đạo và Hương đạo, tạm cử chức sắc và chức việc cai quản các cấp.
Thấy đã ổn định việc đạo nơi đây,
ĐHP liền rút Ngài Tiếp Thế và Bà Lễ Sanh Hương Thơm trở về TTTN. Hội Thánh liền
bổ Giáo Sư Thượng Bảy Thanh hành đạo Hà Nội để tiếp nối và phát huy việc đạo
tại đây và ông Giáo Sư Bảy thành công rực rỡ tại Hà Nội.
Nhưng ông Giáo Sư Bảy lại phạm tội
lập phe phân phái nên bị ĐHP buộc lòng phải ra thánh lịnh ngưng quyền và giáng
cấp xuống tín đồ sau đó thì trục xuất.
ĐHP bổ Giáo Sư Ngọc Non Thanh ra
thay thế Giáo Sư Bảy và bổ Lễ Sanh Giáo Thiện Nguyễn Vãn Ráng (đạo hiệu Hiệp
Phố) ra Hà Nội lập các cơ sở Phước Thiện.
Giáo Sư Ngọc Non Thanh yếu kém năng
lực hành đạo làm việc không kết quả nên Hội Thánh rút về Tòa Thánh và bổ Giáo
Sư Thái Đến Thanh ra thay thế.
Giáo Sư Đến là nhà nho học uyên
thâm, thuyết đạo rất hay nên rất được các tín đồ trí thức cựu học tôn trọng.
Mấy năm sau, chiến tranh thế giới lan rộng, các chức sắc đều trở về miền Nam,
giao việc hành đạo lại cho các chức việc tại Hà Nội.
8 . Ước vọng của Hội Thánh Cao Đài
Cái nguyện vọng yêu thiết của chúng
tôi là Pháp triều hải ngoại biến thành như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng
mỗi ngày dưới tài hành động hay ho của Mẫu quốc và cả lực lượng của chúng tôi
chú trọng về sự tăng tiến nầy làm thế nào cho các đồng hương chúng tôi thấy
đặng và hiểu đặng.
Một nguyện vọng riêng nữa mà nguyện
vọng nầy liên hiệp với tài cảm hóa Lang Sa là trong phận sự của chúng tôi khỏi
bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo khác vì cả người tùng giáo có thể bị
quấy tưởng rằng lòng phước thiện của chúng tỏi không chơn thật bởi không thể
biểu diễn nó ra đặng.
Đã trải qua mấy năm rồi, vì không
hiểu luật pháp Lang Sa thi hành nơi cõi Đông Dương, chúng tôi nong nả lập một
dưỡng lão đường, một ấu trĩ đường, một cơ quan công nghệ cho hạng trai tráng và
thất nghiệp và tìm muôn chước mong nâng đỡ các bạn chúng tôi, vì họ cần cho
chúng tôi vừa giúp.
Chúng tôi đã bị buộc tội ra trước
tòa án, và vì riêng chịu hại mà đặng hiểu rằng: Phước Thiện là điều độc chiếm
của quốc gia hay là riêng để cho một phần người thôi.
Sự thi hành luật pháp nầy phản khắc
với tôn chỉ cũ kỹ, quảng đại của Nho giáo và cũng là cái trở lực làm cho chúng
tôi không thể tuyên truyền tư tưởng Pháp triều cho những hạng người chơn chất
đến chúng tôi với tấm lòng chơn thật và trí ý đơn giản trong điều tận thiện. Họ
không quen với Machiavel (mưu thần của Ý Đại Lợi nghĩa là xảo trá và gian ngược)
và họ cũng không hiểu cái ý định của lẽ quốc chánh là gì ?
Trước mắt họ có hiển nhiên nhiều
điều nghịch hẳn với tâm lý công bình của họ khi đã thấy những kẻ tùng giáo Gia
Tô đặng bày bố các cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh phủ trợ giúp, còn
Đạo Cao Đài đeo đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng với nguyên liệu hẹp
hòi của họ mà cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ lấy nhau rất cần yếu
cho những kẻ nghèo hèn là vì đạo thiếu quyền chủ sản (Personnalité civile).
Những huê lợi của chúng tôi đã bị
phá tán ngay khi nó mới nảy sanh ra vì Đạo Cao Đài chẳng đặng làm chủ sản
nghiệp chi của nó chưa đặng nhìn nhận về chánh thể và cũng không tạo đặng một
hội giáo hầu làm chủ sản nghiệp.
Kể một người phẩm giá thường tình mà
chống chỏi với dục tâm có thể khai quyết rằng: “Cả của cải nẩy là của tôi” và
đặng làm chủ vĩnh viễn gia nghiệp của họ đứng tên, khi họ đã hiểu chúng tôi
không có phương nào buộc tội họ trước tòa án thì mới để tin sao đặng ?
Chúng tôi cầu xin thiết yếu cho điều
khuất phược ấy tiêu hủy và xin đặng phép lập một Hội giáo rồi lấy đó đứng làm
chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.
Chừng đó, chúng tôi sẽ có đủ quyền
nói đến lòng nhơn hậu của Pháp triều và bày tỏ ra rằng tinh thần Thiên Chúa
giáo và Nho giáo không có phản khắc cùng nhau và tôn chỉ Lang Sa, nếu thật hành
cho chánh đáng thì giúp hay cho sự mở mang và điều hạnh phúc cho quốc dân Nam
Việt. Sự tăng tiến nầy, quốc dân Nam chẳng hề trông nơi vương quyền bạc nhược
của họ mà có đặng.
Xin cho chúng tôi có phương pháp
đặng đeo đuổi theo thượng đạt của chúng tôi tức là cái thượng đạt của các Ngài
đó vậy và đừng để cho chúng tôi chịu khuất phược dầu trong xứ bảo hộ cũng vậy
là nơi mà đạo của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với sự tham tàn đương
nhiên thành hại.
Ấy chẳng phải nhà vua không muốn tôn
chỉ của chúng tôi, mà tại các tham quan ô lại bị nó chỉ trích, nên xung đột
chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái tài cảm hóa của nó.
Ấy là Việt Nam tối cổ của quan lại
buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả giá trị tinh
thần giáo lý của chúng tôi mà do các quan lại phát nộ e cho thất phát tiều lợi
của họ. Thật chẳng hề khi nào phải chính nhà vua vì nhà vua cũng thường muốn
cho cả quốc dân mình đặng hưởng hạnh phúc.
Chung quanh chúng tôi, xúm xít những
hạng lao động về đất điền, hạng thương nhơn nho nhỏ, hạng người chơn thật chẳng
biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành gọi là lành và chỉ trông mong
nơi kết quả của sự làm lụng của họ, hạng đã đeo đuổi theo sự sanh hoạt “không
trông công danh mà cũng khồng trông lợi lộc” là theo lời của Edmond Rostand;
tuy họ không có tìm kiếm cái đặc ân nào, duy ít nữa muốn gìn giữ đặng cả của
cải do bởi công trình làm lụng của họ.
Ấy vốn là những người đã không chịu
từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng nhiều sở lợi họ có thể thâu
thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự phải bất cứ nơi nào mà đến
và kể cho rằng: xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh khiết có thể gần gũi cùng
đạo nhà của họ là một điều thất đức.
Muốn làm cho ra hiện tượng những
phương cải cách ấy, chúng tôi định, cũng như mọi việc khác là duy để tín nhiệm
trọn vẹn nơi Pháp triều vì lịch sử của Pháp đã đứng đầu văn hóa, quyết định lẽ
nầy và chúng lôi trông đợi với tấm tình nhẫn nại cho qua đỗi khảo đảo thử thất
chúng tôi và những điều liễu kết hay ho đã thành tựu, e cho không thường trọn
khai cho Pháp triều hiểu thấu.
Chừng ấy nước Pháp sẽ nhìn nhận chắc
rằng: do nơi tay của nước Pháp thâu hềt đặc ân trước nhứt theo đường tấn hóa
ban cho chúng tôi và trong cơn ấy nước Pháp sẽ ân hận lấy mình là trễ rộng đưa
tay mà dìu đỡ chúng tôi đó.
Lập tại Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh
Ngày 12 tháng 11 năm 1937
Ký tên PHẠM CÔNG TẮC
Giáo chủ Đạo Cao Đài hay Phật giáo
Chấn hưng
9 . Đạo luật năm Mậu Dần (ngày 8-1
Mậu Dần 1938)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
TỜ KIẾT CHỨNG
của chư chức sắc thiên phong toàn
thể Chánh Trị Đạo.
Nhóm tại Tòa Thánh ngày mùng 8 tháng
giêng năm Mậu Dần (dl 7–2–1938). Khi Lễ Viện rước Đức Hộ Pháp đến nhà hội, chư
chức sắc thiên phong nam nữ đồng đứng dậy chào mừng. Có mặt:
* HIỆP THIÊN ĐÀI:
- Đức Hộ Pháp
- Ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
- Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang
Thế
- Ông Tả Phan Quân Trang Văn Giáo
- Ông Truyền Trạng Nguyễn Tấn Chức
- Ông Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển
- Ông Sĩ Tải Huỳnh Văn Đại
- Ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Hợi
- Ông Sĩ Tải Võ Thành Quốc
- Luật Sự Nguyễn Văn Hoa
* CỬU TRÙNG ĐÀI:
Nam phái:
- Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc
Trọng Thanh
- Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng
Chữ Thanh
- Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Phấn
Thanh.
- Giáo Sư: 9 vị
- Giáo Hữu: . . . . . . . 13 vị
- Lễ Sanh: . . . . . . . 187 vị
Nữ phái:
- Bà Phối Sư Hương Hiếu
- Bà Giáo Sư Hương Nhiều
- Bà Giáo Sư Hương Quế
- Bà Giáo Sư Hương Châu
- Giáo Hữu: 6 vị
- Lễ Sanh: . . .
Đức Hộ Pháp mời chư Thánh đứng dậy
tụng Kinh Nhập Hội, rồi để lời cám ơn chư chức sắc đương quyền tựu về dự hội
đông đủ và dẫn giải các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, tóm tắt đại ý như vầy:
Hiện nay trong nền Chánh Trị Đạo của
Đức Chí Tôn có bốn cơ quan là:
1 . Hành Chánh
2 . Phước Thiện
3 . Tòa Đạo
4 . Phổ Tế
HÀNH CHÁNH là cơ quan để thi hành
các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn
phê chuẩn nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y luật pháp mà đi trên con đường
đạo đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật
hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.
PHƯỚC THIỆN là cơ quan bảo tồn sanh
chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài tức là cơ quan giải khổ cho chúng
sanh tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp
tay cho bên hành chánh thi hành luật pháp cho đặng dễ đàng trọn vẹn.
TÒA ĐẠO là cơ quan bảo thủ chơn
truyền, gìn giữ luật pháp, chăm nom chư chức sắc, chức việc và đạo hữu thi hành
phận sự, chở che những kẻ yếu tha, binh vực những người cô thế hoặc tiếp cả sự
uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt đạo, lại
cũng là một cơ quan giúp cho hành chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyển
mạnh mẽ, tôn nghiêm đặc sắc. Tóm lại là phương bảo toàn sanh chúng khỏi điều
thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của chức sắc đương quyền hành chánh.
PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt hoặc độ
rỗi những người lạc bước thốỉ tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật
pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ Hữu tâm tầm đạo.
Tổng hợp 4 cơ quan nầy lại gọi là
toàn thể Chánh Trị Đạo.
Mỗi năm, ngày vía Đức Chí Tôn, cả
chức sắc thiên phong nam nữ có trách nhậm trong nền Chánh Trị Đạo phải hội nhóm
lại đặng chia ra quan sát tờ Vi Bằng của Quyền Vạn Linh ước vọng, cùng tầm
phương pháp thật hành cho nên mặt Đạo.
Sau khi bốn cơ quan hiện hữu của
toàn thể chánh trị đạo hiệp nhau lập luật và quyết định phương pháp thật hành
thì buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành luật, vì bởi
theo thiên ý của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho chúng sanh tự lập luật mà tu,
nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập
thành với Tân Luật gọi là Luật Hội Thánh.
Ấy vậy, bên hành chánh, ông Ngọc
Chánh Phối Sư hiệp cùng nhị vị Thái và Thượng Chánh Phối Sư lo sắp đặt đặng
quan sát.
Bên Phước Thiện thì có ông Khai Pháp
HTĐ làm đầu.
Bên Tòa Đạo thì chư vị Sĩ Tải HTĐ
hiệp nhau lập luật và định phương pháp thực hành.
Bên Phổ Tế thì có Giáo Sư Thượng Đức
Thanh và bà Giáo Sư Hương Quế hiệp nhau lo lắng.
Đến ngày 14 nầy, phải hội hiệp lại
đặng chung nhau bàn định.
Tới đây hết điều bàn tính, Đức Hộ
Pháp truyền tụng kinh Xuất Hội. Bãi hội lúc 11 giờ rưỡi
10 . Hội Thánh dạy toàn đạo cầu
nguyện cho thế giới được hòa bình (ngày 13-8 Mậu Dần 1938)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Nội Chánh
CHÂU TRI số 60
Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH
PHỐI SƯ
Gởi cho chư chức sắc thiên phong,
chức việc và đạo hữu nam nữ,
Kính chư hiền huynh, hiền hữu, hiền
tỷ, hiền muội.
Hội Thánh cho toàn đạo biết rằng:
Trong càn khôn thế giới chỉ có một Đấng công bình hơn hết, biết thương yêu nhơn
loại là Đức Chí Tôn. Ngài biết cái đời người vì miếng đỉnh chung mới chất đầy
oan nghiệt nơi bể khổ sông mê mà phải chịu đọa đày muôn kiếp.
Vì đó, Đức Chí Tôn mới hiệp cùng
thần, thánh, tiên, phật, hầu khai mối đạo huyền vi nơi miền Đông Á cho toàn
nhơn loạị hưởng nhờ về chủ nghĩa đại đồng hòa bình thế giới.
Muốn cho hòa bình thì phải biết
thuận lòng trời mà thật hành chữ thiện, biết lẫn tuất thương sanh, biết yêu
người mến vật, dầu cho cầm thú côn trùng cũng không nỡ đành lòng sát hại.
Huống cho con người tối linh hơn vạn
vật, lại chẳng thương xót đó sao ? Dầu sắc dân nào cũng là con chung của một
đấng tạo đoan, đồng sanh đồng hưởng nhưng phần đông bất tùng thiên lý mới hóa
ra trường náo nhiệt não nề, rốt cuộc rồi biết bao nhiêu thống khổ, những điều
đau thảm mất còn, đìu hiu cảnh vật.
Ai đứng làm người đã có đủ tai mắt
như ai, há chẳng thương tâm đổ lụy về cái nạn ách nước tai trời với đao binh
dấy loạn. Bởi vậy mấy tháng nay, chúng ta đã hết lòng cầu nguyện cho toàn thiên
hạ được thái bình, dìu dắt nhau đi trên con đường thánh đức. Nhờ chí tâm thiện
niệm của chúng ta ngày nay mới thấy câu: Hoàng Thiên bất phụ đạo tâm nhơn, nên
lời chí nguyện kia đã kết quả.
Hiện giờ thế giới đã hòa bình, các
nước liệt cường đã yên tịnh, thế thì tai biến đã hầu qua, chúng sanh cũng nên
vui mừng thấy được những điều hạnh phúc, với cái lòng sở nguyện của chúng ta từ
thử đến giờ, đời người dầu không rõ, Trời Phật cũng quang minh.
Vậy thì khi đến ngày 30–8 Mậu Dần,
chức sắc, chức việc và đạo hữu nam nữ tựu lại thánh thất sở tại, trước dâng lễ
Đức Chí Tôn, sau tỏ lòng cảm tạ ơn Ngài và chư thần, thánh, tiên, phật. Nhờ
Ngài mà miền Âu Châu được hòa bình yên tịnh. Còn Á Đông cũng được biển lặng
trời êm, khỏi xảy ra những điều khốc hại tai nàn cuộc đao binh rối loạn.
Chư đạo hữu phải thành tâm trai
giới, hết lòng cầu nguyện mới cảm hóa lòng trời thì ắt gặp phước lành chan
rưới.
Châu Tri nầy gởi cho toàn đạo thi
hành y theo lịnh dạy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 13–8 Mậu Dần
(dl 6–10–1938)
Quyền Thái CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh GS Thượng Chữ Thanh Ngọc Trọng Thanh
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC
11 . Hội Thánh dạy cách lạy và tang
tế sự (ngày 18-8 Mậu Dần 1938)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Nội Chánh
CHÂU TRI số 61
Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH
PHỐI SƯ
Gởi cho chư chức sắc thiên phong, chức
việc và đạo hữu nam nữ,
Kính chư hiền huynh, hiền hữu, hiền
tỷ, hiền muội.
Từ ngày Đức Chí Tôn khai đạo đã 12
năm rồi mà chư chức sắc, chức việc và đạo hữu chưa hiểu cách lạy ra sao nên Hội
Thánh nhắc lại một lần nữa, trong Tân Kinh trang số 5, còn Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
trang số 12, có cắt nghĩa rõ ràng, tại sao không chịu hiểu ?
Mỗi khi đàn lệ, ngày vía các Đấng
hay là tuần tự, có nhiều vị không biết lạy là chi ? Buộc lòng Hội Thánh phải
nhắc lại và chỉ rõ các khoản sau đây:
Khoản chữ A:
1 . Lạy Thầy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật,
mỗi gật niệm: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
2 . Lạy Phật, lạy Tiên, lạy Thánh: 3
lạy, mỗi lạy 3 gật, (1) mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm đã rồi
không cần nhắc lại.
(1) Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử là
Tam Giáo Chủ và Tam Trấn mới lạy 9 lạy, còn các Thần, Thánh khác thì lạy có 3
lạy.
Còn xá bàn Hộ Pháp là tại Tòa Thánh
và các thánh thất, còn các nhà tư như tuần tự có vọng bàn Hộ Pháp mới xá. Còn
nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá, có nhiều khi nhà tư hoặc
lễ vía hiến các Đấng cũng xá đó là sái phép.
3 . Từ Đầu Sư đổ lên qui vị hoặc
tuần tự thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu và tước phẩm vị
ấy.
4 . Từ Chánh Phối Sư đổ xuống Lễ
Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.
5 . Chánh Trị Sự đổ xuống tín đồ lạy
4 lạy.
6 . Còn lạy người thì 2 lạy. Nhớ lấy
dấu Phật Pháp Tăng duy có một mình Đức Chí Tôn mà thôi, còn lạy thần, thánh,
tiên, phật thì không có lấy dấu chi hết.
Khoản chữ B:
1 . Về việc tuần tự, người nào được
10 ngày chay sắp lên mới được thọ bửu pháp, nghĩa là có làm phép xác thì được
dùng Tân Kinh, từ nhứt tuần cho đến Đại Tường, còn dưới 10 ngày chay thì không
được làm phép xác, không được tuần tự y theo Tân Kinh, chỉ được cầu siêu bạt
tiến, nghĩa là: Tụng bài “Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ” và tụng “Di Lạc Chơn
Kinh” mà thôi. Hai hạng nầy được thượng sớ cầu siêu cho vong linh.
2 . Con nít từ 3 tuổi sắp lên giữ
được 10 ngày hoặc chay trường cũng được làm phép xác y như Tân Kinh. Tuy nhỏ
tuổi mặc dầu mà chơn linh trong sạch lại biết tùng theo luật pháp của Đức Chí
Tôn nên được hưởng ân huệ ấy.
3 . Trong nhà con kiến có đạo, có
thờ Đức Chí Tôn mà cha mẹ hoặc một người con nào không có nhập môn, rủi có qui
vị thì đạo hữu được đến cầu siêu hoặc bạt tiến, chớ không làm theo Tân Kinh và
không thượng sớ được vì không có chưn trong đạo và không phải môn đệ của Đức
Chí Tôn, cũng không được đi thuyền Bát Nhã.
4 . Việc quan hôn tang tế, nhứt nhứt
đều dùng toàn đồ chay, nếu nơi nào còn làm nửa chay nửa mặn, chức sắc chức việc
không được dự đến mà còn phạt chủ nhà là khác.
Châu tri nầy phải truyền bá cho toàn
đạo nam nữ rõ, sau khỏi điều than van oán trách.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 18–8 Mậu Dần
(dl 10–10–1938)
Quyền Thái CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh GS Thượng Chữ Thanh Ngọc Trọng Thanh
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC
12 . Đức Hộ Pháp thuyết về chơn pháp
(ngày 15-9 Mậu Dần 1938)
Đức Chí Tôn đào tạo chơn pháp vô
lượng vô biên để cho nhơn loại thi hành mà đoạt phẩm vị thiêng liêng thần, thánh,
tiên, phật.
Chơn pháp cũng có một như chơn luật
vậy.
Chơn luật của Đức Chí Tôn đã chỉ rõ
là thương yêu, còn chơn pháp là công bình.
Luật pháp của Đức Chí Tôn đã chỉ rõ
ra sau đây thì toàn cả nhơn sanh đều nghe hiểu biết và thường nói: Chỉ có một
điều là tại không thực hành. Nếu con người dưới thế nầy đồng thi hành y theo
chơn pháp công bình thì đời sẽ trở nên tận thiện tận mỹ mà cơ tận diệt sẽ tiêu
tan không còn thấy tấn tuồng bi ai thảm đạm như thế.
Tóm lại, cái sở hành chơn pháp công
bình chỉ dùng một câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, nghĩa là: Những điều nào
mình chẳng muốn ai làm cho mình phải buồn than đau đớn thì tức nhiên ta không
nên làm mấy điều ấy cho người khác.
Pháp công bình của Đức Chí Tôn là
một cây cân song bằng, một đầu là tiên thật, một đầu là quỉ ma, chánh tà phân
biệt đôi bên, ấy là pháp công bình lành thưởng dữ răn, lành siêu dữ đọa.
Đức Chí Tôn muốn cho con cái của
Ngài đều đặng cao thăng phẩm vị thiêng liêng, chớ không bao giờ Ngài tạo địa
ngục để đày đọa hình phạt nhơn sanh mà trái lại do nhơn sanh tạo thành cảnh khổ
ấy.
Ví dụ như một ông cha trong gia
đình, có khi nào lập khám đường ngục thất để cầm tù con bao giờ. Những điều khổ
hạnh ấy là tự nơi con đào tạo nơi mặt thế nầy, cũng là một trường học để cho
con người suy gẫm, tự giác tâm hồn, hầu giải thoát bến mê, tầm đến cảnh thiêng
liêng an nhàn tự toại.
Nếu con người muốn an nhàn tự toại
nơi cảnh thiêng liêng hằng sống thì phải thực hành y theo chơn pháp của Đức Chí
Tôn.
Ngày nào nhơn sanh trên mặt địa cầu
nầy mà biết tôn trọng và thật hành y theo luật pháp của Đức Chí Tôn cho ra chân
tướng thì mới mong thoát khỏi cơ tự diệt tức là ngày của nhơn sanh chung hưởng
mọi diều hạnh phúc của Đức Chí Tôn ban tứ.
13 . Thành lập Hội Thánh Phước Thiện
(ngày 19-10 Mậu Dần 1938)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tam niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn Phòng
Hộ Pháp
Số: 48/PT
ĐẠO NGHỊ ĐỊNH
Chiếu y Pháp Chánh Truyền ban quyền
hàrih cho Giáo Tông và Hộ Pháp
Chiếu theo Đạo Nghị Định số 4/60
phân định quyền hành cho CTĐ và HTĐ ngày 4–11 Ất Hợi (dl 29–11–1935)
Nghĩ vì Hội Thánh duy có một mà
quyền đạo có bốn phương là: Hành Chánh, Tòa Đạo, Phước Thiện và Phổ Tế.
Nghĩ vì CQPT cốt để mở đường thánh
đức cho toàn sanh chúng có đủ phương thế nhập vào thánh thể, người ngoại giáo
có thể nhờ nơi cửa Phước Thiện mà hiệp một cùng Hội Thánh, nên :
NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt:
Hội Thánh sẽ tuyển chọn trong hàng chức sắc thiên phong đủ hạnh đức, đủ công
nghiệp đặng chiếc ra lo khai hóa, giáo hóa cả CQPT đặng cứu thế độ đời.
Điều thứ nhì:
Chức sắc Phước Thiện chú trọng nhập vào Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, kể ra
dưới đây:
1 . Minh Đức
2 . Tân Dân
3 . Thính Thiện
4 . Hành Thiện
5 . Giáo Thiện
6 . Chí Thiện
7 . Đạo Nhơn
8 . Chơn Nhơn
9 . Hiền Nhơn
10 . Thánh Nhơn
11 . Tiên Tử
12 . Phật Tử
Điều thứ ba: Những người ngoại giáo hay chư vị đạo nhơn các
nền tôn giáo khác muốn nhập vào cửa đạo thì Hội Thánh sẽ do nơi công nghiệp
Phước Thiện của họ mà định vị, tùy theo công nghiệp nhỏ lớn đặng định phẩm từ
bực Minh Đức tới Chơn Nhơn mà thôi.
Còn bậc Hiền Nhơn đổ
lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn chơn pháp nên các phẩm vị nầy phải có cơ bút
giáng phong mới đặng.
Điều thứ tư: Cả CQPT đều giao cho HTĐ chưởng quản.
Điều thứ năm: Chức sắc Phước Thiện không có đạo phục riêng,
duy đặng Hội Thánh ân tứ lịnh bài và sắc lịnh, kể ra sau nầy:
- Minh Đức và Tân Dân
duy có lãnh cấp bằng, mặc áo đạo phục trắng trơn mà thôi, không có dấu hiệu chi
ngoại thể.
Bậc chức sắc thiên
phong hay là chức việc thì mặc đồ đạo phục của minh, những người ngoại giáo thì
phải mặc khăn đen áo dài theo quốc phục.
- Thính Thiện, Hành
Thiện và Giáo Thiện thì lãnh sắc lịnh phái Ngọc, có lịnh bài của mỗi phẩm vị ấy
gắn giữa dây Sắc Lịnh ngay ngực.
- Chí Thiện, Đạo Nhơn
và Chơn Nhơn mang dây sắc lịnh phái Thượng, có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị của họ
ngay ngực.
- Hiền Nhơn, Thánh
Nhơn và Tiên Tử thì mang dây sắc lịnh phái Thái, có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị
của họ ngay ngực.
Phẩm Phật Tử thì do
nơi cơ bút của Chí Tôn định và mặc sắc phục chi thì tự nơi Người định đoạt.
Điều thứ sáu: Sắc lịnh và lịnh bài của Phước Thiện duy mặc
nơi thánh thất và Tòa Thánh để chầu lễ Đức Chí Tôn mà thôi, không đặng phép
dùng theo đồ thường thế.
Điều thứ bảy: Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài
tùy phận sự mình thi hành Đạo Nghị Định nầy.
Lập tại
Tòa Thánh, ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (dl 10–12–1938)
GIÁO TÔNG HỘ PHÁP
(ký tên) (ký tên)
LÝ THÁI
BẠCH PHẠM CÔNG TẮC
14 . Chánh phủ Pháp
khoan hồng với Đạo Cao Đài (ngày 18-11 Mậu Dần 1938)
ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị
niên)
TÒA THÁNH
TÂY NINH
Văn phòng
Nội Chánh
Số: 66
CHÂU TRI
Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Gởi cho chư chức sắc
thiên phong,
Chư chức việc và đạo
hữu nam nữ.
Vừa rồi, Hội Thánh có
tiếp đặng thêm một tin mừng nữa, do quan Trạng Sư Idylle cố vấn của đạo đưa đến
là bức thơ của quan toàn quyền Đông Dương đã gởi cho người mà Hội Thánh dịch
văn và ghim theo đây.
Chẳng cần nhắc, toàn
đạo cũng hiểu rằng: Thuyền đạo đã lướt qua trận phong ba vừa rồi mà vẫn đặng
vững vàng êm ái là cũng nhờ có ông Mandel, Tổng Trưởng thuộc địa Thượng Thơ đã
tận tâm bảo bọc. Nhiều phen vị thượng quan nầy ra lịnh cho nhà cầm quyền nơi
đây phải để cho Đạo Cao Đài tự do tín ngưỡng, cúng kiếng và phổ thông chơn
giáo, khỏi bị điều trở ngại như việc đã xảy ra vừa rồi.
Kịp đến khi quan tân
Thống Đốc Rivoal lên thay thế cho quan cựu Thống Đốc Pagès thì cũng vẫn sẵn có
cái tri ý như quan Tổng Trưởng nên liền đổi ngay chánh sách cũ là cốt yếu để
cho Đạo Cao Đài vùng vẫy trong bầu không khí khoan hồng hầu làm cho quyền đạo
và quyền đời đặng tương liên hòa hiệp.
Ấy vậy, Hội Thánh xin
toàn đạo khá để trọn vẹn tín nhiệm nơi sở hành chánh đáng và cao thượng của
quan Tổng Trưởng thuộc địa Mandel, quan toàn quyền Brevié và quan Thống Đốc
Rivoal mà bôi xóa những sự lầm lạc nhỏ nhen của một đôi nhà cầm quyển nơi đây
đã tạo khổ cho đạo từ thử và nên khắc cốt ghi xương rằng: Những tay phá đạo tức
là ân nhân của đạo hầu làm cho giống dân Pháp – Nam đặng gầy khối thương yêu
mật thiết hơn nữa, y như lời dạy của Chí Tôn buổi nọ.
Hội Thánh để lời
khuyến khích chư chức sắc thiên phong và toàn đạo nam nữ khá sấn tâm tiến bước
thêm mãi trên con đường chánh đáng và cao thượng.
Lập tại
Tòa Thánh, ngày 18–11 Mậu Dần (dl 8–1–1939)
Đồng ý
kiến:
Quyền Thái
CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
GS Thái
Phấn Thanh GS Thượng Chữ Thanh Ngọc Trọng Thanh
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng
Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên
và Cửu Trùng
Ký tên:
PHẠM CÔNG TẮC
15 . Đức Chí Tôn lập
Đạo Cao Đài làm cơ quan chuyển thế (ngày 1-12 Mậu Dần 1938)
Nhơn loại trên mặt địa
cầu nầy do nơi các chơn linh tùy theo căn quả mà luân hồi chuyển kiếp đến cõi
trần, thành lập ra một trường học của đời.
Trong trường ấy có
nhiều lớp và bài vở có nhiều đoạn rất hay ho để cho nhơn sanh phấn đấu cùng
nhau mà đoạt cơ tấn hóa đến các bậc thần, thánh, tiên, phật.
Con người mỗi hàng phẩm
đều có trình độ cao thấp khác nhau noi theo cái trách nhậm ấy thi hành cho đặng
liễu kết hoàn toàn phòng lập cao phẩm nhơn tước hay là thiêng liêng chi vị.
Nói ví dụ, một cái gia
đình hoặc xã hội quốc dân thì có vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu,
v.v... Mỗi người đều biết cư xử cho trọn bổn phận, thật hành y theo khuôn luật
là phụ từ tử hiếu, huynh đệ cùng phu nghĩa phụ tiết, trưởng huệ ấu thuận, quân
nhơn thần trung, ngoài ra còn tình bậu bạn giao thiệp cùng nhau, phải gìn lòng
thành tín ấy là đủ tư cách làm người, mới mong mỏi vào trường đạo đức, từ từ
noi theo đẳng cấp mà thẳng tiến đến phẩm vị thiêng liêng, tức là cảnh thung
dung an nhàn tự toại.
Trái lại, con người ở
thế, đã chẳng lo nong nả bước hành trình cho xong mà lại còn chen lấn ồn ào dục
vọng theo con đường tăm tối mơ mộng gọi là thích chí hân hoan, chẳng còn nhớ
đến cái phận làm người bao nả.
Than ôi! Phong di tục
dịch, đảo ngược nhơn luân, trong gia đình mỗi người tự do hành dộng, cha chẳng
biết bổn phận làm cha, con không biết hiếu sự là gì, trai gái không thừa mạng
mà cũng không phụng mẫu nghi... Còn vợ chồng thì sớm đổi chiều thay, không gìn
câu tiết nghĩa, luân lý suy đồi, cang thường hư hoại, gia đình như thế thì tức
nhiên đã mất quyền vi chủ.
Người đời thì tín
ngưỡng theo thế lực kim tiền, ưu thắng liệt bại, yếu thiệt mạnh hơn, khôn còn
dại mất. Mảng đua chen trên con đường vật chất hữu hình, không chú trọng đến
thánh đức linh tâm, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất
lương, tạo khuôn khổ cho đời thành ra trường tự diệt.
Hiện nay, cả hoàn cầu
thế giới, nhơn sanh đồng hăng hái bôn xu trên chốn võ đài mà diễn ra một tấn
tuồng phấn đấu lợi quyền.
Ôi ! Lương tâm khuyết
điểm, chẳng kể gì đến dạo đức tinh thần, cõi đời ngày nay đã trở ra màn chiến
tranh loạn lạc, do nơi các cơ trạng tả trên đây nên Đức Chí Tôn phải đến hoằng
khai Đại Đạo đặng hiệp cả tánh chất lương sanh của con người duy nhứt vào đường
chí thiện, trau giồi chơn tánh linh tâm cho trong sạch, mong ngày phản bổn huờn
nguyên hiệp cùng vô vi chi đạo.
Mà muốn thành đạo vô
vi thì trước phải dụng cơ quan hình thức đặng làm nấc thang tiến hóa, nghĩa là
mượn chiếc thuyền nhà Nho mà đưa các chơn hồn vào đường tiên cảnh phật, nên có
câu:
Phật đạo cũng như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.
Nếu muốn đi đến bồng
lai đảo, niết bàn đặng làm tiên, phật, mà chẳng qua đò nhà Nho thì khó mong lên
con đường bỉ ngạn.
Con người sanh ra ở
thế nếu chẳng chen bước đem thân vào đường học cho làu thông các thứ tuồng đời
đặng giáo hóa đoàn ấu thơ hậu tấn hay là chẳng đến trường đạo đức mà học hỏi
cho rõ thấu các phương châm trọng yếu, tầm hỏi những sự chơn truyền cao siêu
của đạo, đặng làm khách u nhàn thanh nhã, vui cảnh tự toại thung dung thì phải
đành cam chịu phận thiệt thòi, chịu khổ hạnh trong chốn lao lung đời đời kiếp
kiếp.
Tóm lại, kỳ hạ nguơn
cuối cùng, luân lý cang thường điên đảo, cho nên Đức Chí Tôn giáng trần khai
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lập thành chánh giáo đại đồng, nghĩa là: cải cựu hoán
tân, cải ác tùng lương, chuyển tạo cơ đời cho trở nên thuần phong mỹ tục, tức
là qui tụ thánh đức của loài người lại thượng nguơn cho thuận lẽ tuần hoàn,
châu nhi phục thỉ.
Mỗi Họ Đạo gồm có một
vị nghị viên nam và một vị nghị viên nữ, thay mặt cho Hội Thánh hàm phong.
Hằng năm, đến ngày
mùng 5 tháng 5, cả Hội Thánh hàm phong phải nhóm đủ mặt tại Tòa Thánh một lần.
Mỗi vị chức sắc hàm
phong có mặt tại buổi Hội nầy hoặc có chưn trong ủy Ban Hội Thánh hàm phong,
hoặc không, hoặc vắng mặt mà có đệ tờ xin phép, như trong Thông qui kể sau đây
thì đặng quyền lập mỗi vị một Ban Kỳ Lão gồm:
1 . Một Chánh Chủ
trưỏng
2 . Một Phó Chủ trưởng
3 . Một Chánh Từ Hàn
4 . Một Phó Từ Hàn
5 . Từ 3 đến 12 Nghị
viên tùy theo số kỳ lão nhiều hay ít (phải chọn trong hàng chức việc hoặc đạo
hữu từ 61 tuổi đổ lên).
Mỗi vị chức sắc hàm
phong nữ phái cũng đặng quyền lập một Ban Kỳ Lão nữ phái như bên nam phái vậy.
Trừ ra những vị chức sắc hàm phong nào, dầu nam hay nữ đã vắng mặt trong bữa
Hội ngày hôm nay không có xin phép trước thì mất quyền lập Ban Kỳ Lão như mấy
vị đã có mặt dự Hội hoặc có xin phép trước.
Trong hạn kỳ 1 tháng,
mỗi vị phải cử xong Ban Kỳ Lão của mình và giấy tờ về cuộc công cử nầy nếu
thuộc về tỉnh đạo Biên Hòa, Gia Định, Định Tường thì giao cho Nghị viên, nam
theo nam, nữ theo nữ, gởi ngay cho chánh Chủ Trưởng Ngọc Thức Thanh (Lê Minh
Thức) làng Lộc Giang tổng Cầu An Thượng, quận Đức Hòa, Chợ Lớn.
Còn thuộc về tỉnh đạo
An Giang và Long Hồ thì gởi cho ông Phó Chủ Trưởng Thượng Tiền Thanh (Nguyễn
Văn Tiền) làng Tân Hòa, quận Mộc Hóa, Tân An rồi vị nầy lập tờ phúc gồm cả hồ
sơ công cử gởi lên cho ông chánh Chủ Trưởng đặng đệ về Hội Thánh.
Mỗi quận đạo phải lập
một Ban Kỳ Lão dưới quyền điều đình của vị hàm phong. Thoảng như trong quận đạo
hoặc trong Họ Đạo nào có nhiều vị hàm phong thì phải chia nhau cho đồng.
Còn như trong đọ đạo
nào chỉ có 1 vị hàm phong thì vị hàm phong ấy đặng quyền lập trong mỗi quận đạo
thuộc về họ đạo sở tại của mình, một Ban Kỳ Lão và kiêm luôn cho đến ngày có vị
hàm phong khác sẽ giao quyền hành ấy lại, nhưng phải đệ tờ Phúc cho Hội Thánh
rõ trước khi lập.
Họ đạo nào không có
Nghị viên thì vị hàm phong sở tại (có quyền lập Ban Kỳ Lão) đặng phép gởi ngay
giấy tờ cho ông Chánh Chủ Trưởng hoặc Phó Chủ Trưởng tùy theo địa phận của mình
thuộc về nơi nào.
KHAI PHÁP TỪ HÀN PHÓ TỪ HÀN
Chưởng
quản PT Sĩ Tải HTĐ Luật
Sự HTĐ
Trần Duy
Nghĩa Đỗ Quang Hiển Bùi Cung Kỉnh
Quyền Thái
CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
GS Thái
Phấn Thanh GS Thượng Chữ
Thanh Ngọc
Trọng Thanh
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng
Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên
và Cửu Trùng
Ký tên:
PHẠM CÔNG TẮC
ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tam
niên)
Tòa Thánh
Tây Ninh
Văn phòng
Nội Chánh
Số: 73
CHÂU TRI
QUYỂN THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Gởi cho chư vị Đầu họ
đạo, Đầu quận đạo nam nữ, Nam Kỳ.
Kính chư hiền huynh,
hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội.
Việc cầu phong tới đây
có nhiều điều trọng yếu, cần phải do theo đạo luật và phải quan sát tánh đức,
công nghiệp mọi người mà đem vào sổ cầu phong y các khoản sau đây:
a . Về khoản ân phong:
Chánh Trị Sự nam nữ phải giữ đủ 5 năm công nghiệp, tánh hạnh tốt, đủ tư cách
làm người và giữ từ thập trai đổ lên, số phổ độ đặng 300 người, không kể số của
Chánh Trị Sự trước đã độ.
Đạo hữu nào có công
nghiệp vĩ đại, có tài năng đạo đức và đặng lòng tín nhiệm của nhơn sanh dâng
lên hoặc công chúng hoan nghinh và buộc phải có chưn trong đạo hoặc mới nhập
môn, phải quan sát đường đời của người coi đủ tánh đức và được công chúng hoan
nghinh hay không, có đủ tài tình đức hạnh ra cầm giềng mối đạo các nơi thì mới
đem vào sổ cầu phong nhưng phải độ đặng 500 tới 1000 tín đồ, được cầu phong vào
hàng Lễ Sanh; từ 1000 tới 3000, được cầu phong Giáo Hữu; từ 3000 tới 10 000
được cầu phong Giáo Sư.
b . Khoản ân xá: Hội
Thánh ân xá một lần chót, những hạng Phó Trị Sự và Thông Sự có đủ công nghiệp
từ 8 năm sắp lên mà bị kẹt vì đạo luật, được đem vào sổ cầu phong trong năm Kỷ
Mão, rồi sau không được ân xá nữa nhưng phải có độ đặng 300 người như Chánh Trị
Sự mới được.
c . Khoản thăng
thưởng: Những chức sắc từ Lễ Sanh đổ lên đúng 5 năm công nghiệp, tánh hạnh từ
hòa, siêng năng sốt sắng, được lòng tín nhiệm của nhơn sanh, làm tròn phận sự,
không bị một điều lỗi nào trong mấy năm hành chánh, được đem vào thông qui và
cắt nghĩa cho rõ ràng đặng đem ra Quyền Vạn Linh công nhận.
Còn những vị nào dưới
5 năm công nghiệp mà lập đặng đại công, toàn sanh chúng đều hoan nghinh và Tòa
Đạo minh tra đủ lẽ, có tư cách xứng đáng tài tình mới đặng đệ lên Quyền Chí Tôn
cầu xin thăng thưởng, còn những vị đúng 5 năm hành sự có phạm pháp hoặc tánh
hạnh không từ hòa, không chánh đáng thì sẽ bị đình lại, không được đem vào sổ
cầu phong.
Những vị nào hết tâm
vì đạo, khổ hạnh vì đời mà bị bắt buộc tù lao nơi chốn ngục hình hoặc bị khổ sở
tai họa được đem vào sổ cầu phong không cần đủ 5 năm công nghiệp chi hết, nhưng
cũng phải quan sát tánh đức thế nào mới được.
d . Về khoản hàm
phong: Những vị Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự đủ đầy công nghiệp 5 năm
mà tuổi quá lục tuần, đặng đem vào thông qui hàm phong nhưng phải chịu các điều
kiện như chức sắc ân phong vậy, còn chức sắc đương kim hành chánh tuổi quá lục
tuần, nếu còn sức lực và thông minh mẫn đạt, lập công thêm nữa được, thì tùy ý
của người. Chức sắc hàm phong đủ đầy công nghiệp 5 năm cũng được thăng thưỏng
như chức sắc ân phong tùy theo đẳng cấp.
e . Về khoản truy
phong: Những vị nào đủ đầy công nghiệp và tánh đức vẹn toàn mà qui vị trước
ngày cầu phong, cũng đặng đem vào sổ truy phong sau khi Quyền Vạn Linh công
nhận, buộc phải có công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ.
Trước đây vào năm 1934
có hội nghị quốc tế Thần Linh Học ở Barcelone, năm 1936 có hội nghị thế giới về
tôn giáo ở Luân Đôn và tiếp theo là năm 1937 có hội nghị Thần Linh Học thế giới
ở Glasgoww, nước Anh, Hội Thánh đều cử ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobon
(người Pháp) làm đại điện Đạo Cao Đài đi dự các hội nghị nầy.
Đến ngày 2–7–1939, Hội
Thánh cũng cử ông Gabriel Gobron đi đự hội nghị thế giới về tôn giáo tại Ba Lê,
nước Pháp. Hội nghị nầy kéo dài từ ngày 2 đến 11–7–1939. Sau đây là bài viết
của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron về các hội nghị nầy, trích trong quyển
“Histoie du Caodaisme” của chính tác giả.
* * *
Chúng tôi (Gabriel
Gobron) được Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Việt Nam) ủy nhiệm làm đại diện Đạo Cao
Đài trong các hội nghị quốc tế về tôn giáo.
1. Hội nghị quốc tế Thần linh học Barcelone
(1934)
Người ta đọc trong tạp
chí La Revue Spirite (số tháng 10–1934, trang 505) trong một loạt các nguyện
vọng được toàn hội chấp thuận:
“Mục thứ 8: Phong trào
Cao Đài: Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của
Đạo Cao Đài (hay Phật giáo canh tân, hay Thần linh học VN), Hội nghị quốc tế
thần linh học lần thứ 5 họp ở Barcelone (từ ngày 1 đến 10–9–1934) thỉnh cầu rất
cung kính chánh phủ Pháp vui lòng nhớ lại các lời hứa long trọng vào tháng 3
năm 1933 tại quốc hội Pháp của Thủ Tướng Sarraut, lúc ông là bộ trưởng thuộc
địa, thiết lập với ân huệ cho những tín đồ Cao Đài một qui chế cũng rộng rãi
như qui chế được hưởng bởi những người theo Thiên Chúa giáo hay các tín đồ Phật
giáo trong các nước của Liên bang Đông Dương.”
2 . Hội nghị thế giới về tôn giáo ở Luân Đôn
(1936)
Báo Le Cyne (ngày
20–9–1936) loan tin:
“Tại hội nghị quốc tế
về tôn giáo tổ chức ở Luân Đôn, dưới sự chủ tọa của Ngài Francis Younghusband,
nơi đó ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài,
tham dự theo lời mời Tòa Thánh Tây Ninh, Đạo Cao Đài được thừa nhận là tôn giáo
khoan dung nhứt thế giới. Trước đông đảo hội viên gồm đại điện của tất cả tôn
giáo lớn trên thế giới và các đại diện báo chí quốc tế, đại diện Cao Đài tại
Pháp tuyên bố: “Đạo Cao Đài là một thực nghiệm về sự hòa hợp các chủng tộc và
các sắc dân mà quí vị hội họp nơi đây là vì mục tiêu ấy. Đạo Cao Đài hay Phật
giáo canh tân chắc chắn là mội thực nghiệm sống của sự kết hợp và phục nhứt các
tôn giáo”.
Nhiều tràng pháo tay
nhiệt liệt hoan nghinh câu kết luận ấy.
3 . Hội nghị thần linh học thế giới ở Glasgow
(1937)
Nhựt báo L' Annam nouveau (14–11–1937) loan tin:
“Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo
Cao Đài hay thần linh học VN, hội nghị thần linh học thế giới lần thứ 6 họp ở
Glasgow (từ ngày 3 đến 10–9–1937), sau hội nghị thần linh học thế giới lần thứ
5 tại Barcelone, nêu ra nguyện vọng là những người theo thần linh học VN trong
các nước của Liên bang Đông Dương được hưởng những tự do tín ngưỡng và thờ cúng
như những người VN theo Thiên Chúa giáo hay đạo Tin Lành, dầu họ là dân thuộc
địa, dầu bảo hộ, dân lai hay người ngoại quốc.
“Nguyện vọng nêu ra trong hội nghị thần linh học quốc tế ở Baecelone đã
mở ra thời kỳ khá rộng rãi cho các tín đồ Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam”.
Nguyện vọng nầy được trình bày và bàn cãi trong bộ phận triết học của
hội nghị được nhìn nhận bởi sự hoan nghinh trong buổi hội họp dân chúng tổ chức
tại phòng triển lãm mỹ thuật McLellan ngày 9–9–1937.
4 . Hội nghị thế giới về tín
ngưỡng tại Ba-lê (1939)
Tóm tắt bài tường thuật của lạp chí La Revue Spirite (Tạp chí Thần linh
học) (Ba-lê, 8 – 9):
“Hội nghị thế giới về tín ngưỡng đã được tổ chức trước đây ở Luân Đôn,
Oxford, Cambridge, năm nay tổ chức tại Ba-lê. Cộng sự viên của chúng ta là ông
Gabriel Gobron, được ủy nhiệm bởi các tín đồ Cao Đài hay phật giáo canh tân ở
Đông Dương đến tham dự.
Những lời trách cứ mà ông đã đưa ra trong hội nghị tại Luân Đôn có thể
được lập lại nơi đây và hơn thế nữa: Những người tổ chức hầu hết là người Anh
chỉ quan tâm đến các tôn giáo xưa có một quá khứ lâu dài và phong phú (lời phát
biểu của ông Lacombe ngày 10–7–1939) và như vậy là đặt ra ngoài các tôn giáo
mới những giáo lý mới và hơn nữa tôn giáo tổng hợp như Đạo Cao Đài có chủ
trương dung hợp cơ bản những tín đồ Phật giáo, Công giáo, Lão giáo, Nho giáo,
Hồi giáo, v.v...
Vô ích để nói rằng Thần linh học, Thông Thiên học, Nhân loại học,
v.v... đều bị bỏ ra ngoài hội nghị nầy, chỉ tìm kiếm sự hợp tác trong “tôn
kính” của những tôn giáo lớn và không bao giờ có sự dung hợp cơ bản hay tổng
hợp.
Không có một so sánh nào về sự cao trọng của các tôn giáo được tha thứ.
Giáo hội Công giáo tuy chánh thức vắng mặt nhưng được đại diện rộng rãi (Giáo
sư Maintain, ông Lacombe, v.v...) và trong tất cả các ngày, Công giáo đều nhận
được sự tôn kính.
Hàng trăm người, phần nhiều là dân anglo-saxon, sĩ quan, viên chức,
giáo sư, quí tộc, trưởng giả – tham dự các ngày Công giáo, Do Thái giáo, Phật
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo, họ xen vào các cuộc tranh luận, đôi khi
ngoài các đề tài nêu ra: Làm thế nào ngự trị tinh thần huynh đệ trên thế giới
bởi sự tụ hội các tôn giáo ?
“Sự bảo trợ chánh thức ban cho hội nghị (ông Champetier de Ribes và ông
Georges Mandel) sự tiếp nhận hội nghị tại trường đại học Sorbonne bởi ông Viện
Trưởng Roussy, với sự tham dự của các thuộc địa Pháp (một vị tướng ở Tunis, một
tỉnh trưởng ở Syrie, v.v...) một “Ủy ban Pháp” làm tăng uy thế của các buổi
thảo luận long trọng tại giảng đường Richelieu từ ngày 2 đến 11–7–1939.
“Ưu điểm của hội nghị – ngoài những giới hạn hẹp hòi mà người ta qui
định và những dự phòng chánh đáng – là kêu lên những quyền của con người, mà
hiện thời bị chà đạp trong tất cả các chế độ độc tài.
“Một nguyện vọng là kêu gọi các nhà độc tài nên nhân đạo hơn nữa được
hội nghị chấp nhận và vấn đề người tị nạn phải được ghi vào nghị trình của hội
nghị sắp tới tổ chức ở Hòa Lan. Một lời kêu gọi gởi đến các Giáo hội chánh thức
được đưa ra.
“Những khách đến viếng thăm điện Versailles, các viện bảo tàng Ba lê,
các trung tâm trí thức, Thánh đường Hồi giáo, nơi đó nhân phẩm có tính cách của
dân Ba Lê đón nhận một cách lịch sự các hội viên, v.v... đã theo dõi hội tập
thường ngày. Quả thật, người ta nói nhiều nhưng người ta cũng hành động: một
hội nghị như thế là một sự kiện đáng ghi nhớ. Người ta muốn tuyên bố nó quan
trọng hơn cả hội nghị quốc liên, tiếp theo một trong những tiệc trà qui tụ
nhiều hội viên mà một ngày nào đó khơi lên ngọn lửa của những tân tín đồ về lý
tưởng tôn giáo".
Báo La Vérité ở Nam Vang, nơi đó có trụ sở của Hội Thánh Ngoại giáo Đạo
Cao Đài, có tường thuật gần giống như trên (ngày 26–7–1939): Đạo Cao Đài trong
Hội Nghị các tôn giáo lại Ba lê (trang 1 và 5):
“Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân đã được giới thiệu vào năm nay
trong hội nghị các tôn giáo tại Ba Lê (từ ngày 3 đến 11 tháng 7) bởi ông
Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài, ông gặp lại các
nhân vật lãnh đạo mà ông đã quen biết tại Luân Đôn vào năm 1936, Ngài Francis
Younghusband là chủ tọa và ông Arthur Jackman làm thơ ký.
“Chánh phủ Pháp đã tổ chức và bảo trợ hội nghị các tôn giáo, chính các
ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa; ông Champetier de Ribes, Bộ Trưởng
Bộ Trợ cấp; ông Viện trưởng Viện Đại học Ba lê, Bác sĩ Roussy, đã cung cấp
giảng đường rộng lớn Richelieu của đại học Sorbonne làm nơi hội họp cho hội
nghị.
Một ủy ban Pháp dưới quyền của Giáo sư Louis Massignon, gồm nhiều nhân
vật: bà De Coral-Rémusat, ông Jean Herbert, bà De Margerie, công chúa A. Murat,
ông De Traz, Ông Lacombe, giáo sư Daniel Rops, v.v... điều khiển các cuộc thảo
luận, tập trung vào đề tài căn bản: Làm thế nào mở mang tinh thần hợp tác huynh
đệ trên thế giới bởi các tôn giáo ?
“Chung quanh vấn đề đặt ra nầy, người ta chẳng những ghi nhận các ngày
Công giáo, Tin lành, Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, v.v... tùy
theo diễn giả chánh thức thuộc vào một trong những tín điều nào.
Như thế, thứ ba ngày 4 tháng 7 là ngày Công giáo: Giáo hội Công giáo
chánh thức vắng mặt không tham dự các công việc của hội nghị nhưng Giáo sư
Jacques Maritain, ông Laeombe và vài người Công giáo khác đóng vai trò hàng đầu
trong tuần lễ hội nghị. Giáo hội Công giáo vô hình nhưng hiện diện.
“Nói thật ra thì tầm vóc của Hội Nghị không lớn lắm, cũng không quốc tế
như người ta mong ước. Điều nầy do vài hạn chế đặt ra cho các hội viên:
1 . Không một tôn giáo nào được bày tỏ ưu điểm của mình để thu hút tín
đồ của tôn giáo khác.
2 . Không có vấn đề thống nhứt hay dung hợp các tôn giáo, nhưng chỉ có
sự hợp tác giữa các tôn giáo khác nhau đã bị chia rõ từ trước. Một tôn giáo thống
nhứt tổng hợp như Đạo Cao Đài cảm thấy khó chịu trong Hội Nghị; cũng thế, ông
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp tuyên bố với ông Òlivier Lacombe, Phó Chủ tịch ủy
ban Pháp, rằng ông ta là người “tà giáo” duy nhứt trong hội nghị.
3 . Tiến trình của hội nghị theo nguyên tắc được dành cho các tôn giáo
lớn và xưa, chứng tỏ sự lớn mạnh của họ bởi quá khứ lâu dài. (Lời nói của ông
Lacombe ngày 1–7–1939).
“Ngài Francis Younghusband lúc bây giờ tuyên bố với ông Gabriel Gobron
rằng ông Gobron là người được trọng đãi, được tự đo phát biểu và bàn cãi như
tất cả mọi ngứời, sau khi ông trình ủy nhiệm thư của cấp thẩm quyền Đạo Cao Đài
với phòng thư ký ở trường Sorbonne.
“Ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Thuộc địa xác nhận sự tham dự của các
phần tử của đế quốc Pháp tham gia vào các công việc và tranh luận nơi hội nghị.
Do đó, tướng Hasan Husny Abdelwhab ở Tunis một tùy viên của cao ủy phủ của
Syrie, đã được lên trình bày về Hồi giáo.
Trái lại, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta không gặp các
phần tử Pháp ở Á châu; Ấn giáo và Phật giáo chỉ được đại diện bởi những người
Anh: Tỳ Khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Dasgupta (Calcutta), v.v...
“Mỗi ngày, ở Ba-lê cũng như ở Luân Đôn năm 1936, có một bài thuyết
trình vào buổi sáng, kế đó là tranh luận vào buổi chiều, sau đó thì đi viếng
thăm các cảnh lạ (Điện Versailles, các Viện bảo tàng, v.v...) và đến các trung
tâm trí thức của Ba lê (Viện Văn minh Ấn độ, Hồi giáo, Hội Liên hiệp Pháp Anh,
v.v...).
“Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta đã phê phán tổ chức Hội
nghị ở Luân đôn, nơi đó nhiều bậc trí thức đơn độc, không đại diện cho ai cả
(và đôi khi có một chút tự kiêu), đã chiếm diễn đàn trong 1 hoặc 2 giờ.
“Nay thì hội nghị ở Ba lê dành cho những đại diện của các cộng đồng
theo đúng từ ngữ của qui chế hội nghị lại Sorbonne. Như thế, các người không
chuyên nghiệp và tài tử phải tránh ra để nhường chỗ cho những đại danh như Giáo
sư Jacques Maritain (Viện Công giáo Balê), Giáo sư Dasgupta (Ấn giáo), Bác sĩ
Sié (Đại học Nam kinh), tướng Hasan Husny Abdelwahab, Tử tước Samuel (Cựu Cao
ủy ở Palestine), Tỳ khưu Thiltila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Hauler (Đại học
Tin lành Strasbourg), v.v...
“Thứ ba, ngày 11 thì chấm dứt các công việc và tranh luận trong tình
huynh đệ lịch sự nhứt. Họ chia tay với sự bịn rịn và đau lòng, sau khi biểu
quyết những nguyện vọng các giải pháp xem xét các dự án, các cải thiện, quyết
định địa điểm cho hội nghị sắp tới ở Hòa Lan, v.v...
Trong số rất nhiều sự việc thú vị, đáng chú ý là nguyện vọng yêu cầu
các nhà độc tài cư xử nhân đạo hơn với dân chúng, những lời khen ngợi về công
trình hòa bình của ông Chamberlain; lời cảm tạ đối với nhà cầm quyền Pháp đã
đối đãi tốt đẹp với các tôn giáo mà không cần chứng minh, khả năng chọn
Strasbourg, Jerusalem, Genève, v.v... làm nơi hội nghị sắp tới; sự kêu gọi các
Giáo hội nên cho phổ biến các công trình của hội nghị mà một diễn giả đã nói
rằng các chánh trị gia và những người cổ súy họ. Vấn đề người tỵ nạn được đặt
ra cho năm tới.
“Ủy ban Pháp quyết định tiếp tục tại Ba lê công việc làm cho các tôn
giáo lớn xích lại gần nhau hơn và hiểu biết nhau hơn. Nhiều hiệp hội liên tôn
được chú ý trong thủ đô, cung cấp cho các hội viên thích tham dự các cuộc hội
họp và đóng góp các cố gắng."
Từ đây hội nghị sẽ thay thế Hội Quốc liên đã bị đả phá bởi “Chúng tôi
nghĩ rằng không bao lâu nữa Đạo Cao Đài sẽ có vai tuồng quan trọng bởi cái
gương mẫu sống động của nó, trong các Hội nghị quốc tế về Tôn giáo.”
(Mở đúng 8 giờ ban mai, Đức Hộ Pháp truyền tụng Kinh Nhập Hội. Khi tụng
xong, Đức Ngài liền lên khai mạc).
Bài diễn văn khai mạc của Qua hôm nay có ý dài một chút, cốt yếu để
giáo hóa bên Phước Thiện. Vậy mấy em lóng tai nghe và suy nghĩ cho thấu lý cao
xa, để dễ bảo trách nhiệm khó khăn của mình.
Qua đã cho mấy em một dây hằng tâm để nương nó mà đi những bước đường
Thánh đức cho khỏi sụt sè bợ ngợ, lấy cả triết lý cao siêu của tạo đoan vi chủ
hành tàng thế sự. Ấy là một bài diễn văn mà mấy em chưa nghe từ thử.
Qua chẳng cần phải nói, mấy em cũng vẫn biết rằng: Đức Chí Tôn là Cha
của toàn vạn vật, cả cơ tạo đoan chia ra làm hai phẩm giá:
1 . Vô động vật
2 . Động vật
Vô động vật thì bất tri bất năng, vô tri vô giác; động vật thì hữu tri
hữu giác, tức hữu sanh, có sanh có tri giác, có lao động mới có sống, mà sự
sống ấy do Chí Tôn vi chủ. Có động vật thì có sanh quang Chí Tôn. Chí Tôn là
Cha của sự sống. Người ban cho động vật một gia tài vĩ đại hơn loài vô động
vật.
Qua chẳng cần thuyết, mấy em cũng đủ hiểu rằng: Cái tánh đức của động
vật vẫn là thiên nhiên, còn tánh đức của vô động vật nó đã triêm nhiễm vào tánh
chất của toàn vật loại nhứt là hạng hóa nhân nó hóa vô động vật, vì vô động vật
là lười biếng, còn lao động là siêng năng. Hại thay, quyền năng của Chí Tôn lại
chia ra hai tánh chất nên phân ra hai phẩm người:
1 . Hạng lao động thì giúp hay Chí Tôn thêm nữa
2 . Hạng vô động thì biếng nhác, duy có thừa hưởng công nghiệp mà an
vui gọi là hạnh phúc, nên mới nảy sanh ra trường phấn đấu.
Mé lao động coi bên kia như kẻ thù địch, còn bên vô động không chịu làm
chi hết mà chỉ kiếm mưu giựt giành cướp bóc, nên mới sanh ra trường hỗn độn
tương tranh về sự sống. Cái thuyết quái gở là một món thuốc độc đã làm cho hao
mòn tánh đức loài người từ thử.
Vì cớ nên Chí Tôn giải quyết điều ấy. Lạ chi một đại gia đình có 10 đứa
con, chẳng phải giỏi hết, cũng có đứa khôn đứa dại, đứa siêng năng đứa biếng
nhác, đứa thì coi sự cực nhọc hơn của mình là cái dại, chẳng cần nghĩ đến sự
hèn hạ của mình, nên muốn trên cả mọi người từ miếng ăn, chỗ ngồi, nơi ngủ, mà
chẳng hiểu rằng: tài năng mình không biến sanh, phải nương theo người mà sống,
vì vậy nên hễ có bù sớt của cải ra đặng nuôi ai thì để lòng khi miệt. Còn người
bị khi miệt thì giận dũi, nên mới tìm phương giựt giành cướp bóc mà không hiểu
rằng: của cải ấy chẳng phải của mình làm ra, đốì với anh em trong gia đình ấy,
những kẻ siêng năng thì thù địch những người kiếng nhác.
Thử hỏi ông cha thấy đứa con nghèo hèn bất năng ấy, có ghét bỏ chăng ?
Nếu ghét bỏ cho chúng nó chết đói thì tình cha con đâu có, đã biết lấy của đứa
siêng năng mà nuôi đứa biếng là điều bất công nhưng ông cha phải nhắm mắt đánh
liều để vậy.
Trên mặt thế, cái khuôn khổ gia đình như trào lưu xã hội, kẻ lười biếng
thì nhiều, người siêng năng thì ít, bảo sao đời không biến ra trường tranh đấu,
của làm thì ít, tiêu dụng lại nhiều.
Chúng ta thời như đám chim trời, còn lộc ăn như vé lúa rơi xuống đất,
con nào lẹ miệng ăn nhiều, giỏi thì no, dở thì đói. Nếu con đói ngước mặt lên
trời nói sao Cha không cho ăn để đói, là ngu. Của trên mặt đất nầy là của
chung, của Đấng tạo đoan. Ngài biến sanh cả cơ quan nuôi vạn vật, ta có quyền
hưởng lấy no là như mình giỏi, đói là tại mình dở. No đói, trọng hèn là do nơi
tài sức mình, chớ có than trách ai đặng đâu.
Việc phân phát trong khuôn khổ gia đình cũng có nặng nhẹ, sang hèn, nếu
cả thảy đều lựa nhẹ bỏ nặng, chuộng sang phụ hèn, thì gia đình ấy ra sao ?
Từ cổ chí kim, vì cơ sanh hoạt mà biến sanh chẳngbiết bao nhiêu trường
náo nhiệt, ganh lẫn, ghét nhơ, thù địch tranh giành mà gây nên trường thảm
khốc.
Ấy là một điều khó khăn mà từ thử đến chừ, dầu cho các bậc Thánh nhân
cũng không giải quyết đặng.
Qua còn nhớ ông Hoằng Sơn (La Fontaine) khi đầu thai qua Thái Tây, Ngài
có viết một bài ngụ ngôn nói về cái bao tử. Đến sau nơi xứ Hy Lạp (Grèce), có
một hạng người vì giận nhà vua nên bỏ lên núi ở độc lập một mình, ở đầu non
chót núi chớ chẳng chịu về tùng phục pháp luật của nhà vua, vì bọn họ thì cực
khổ nghèo nàn quanh năm cuối tháng, chỉ làm lụng để nuôi dưỡng nhà vua sung
sướng, nào là cung phi mỹ nữ, đài các nguy nga, nên họ chẳng dại gì mà quì lụy
trong xã hội nước Hy Lạp nữa, dầu ai có giảng giải thế nào cũng chẳng chịu về.
Buổi đó có một vị đại thần trong triều đình nước Hy Lạp đem bài ngụ ngôn tựa đề
bao tử, lên giải nghĩa, họ mới chịu nghe.
Trong bài ấy có ý nghĩa rằng: Tay chơn muốn tẩy chay bao tử, ngụ ý
rằng: mình làm cực nhọc, còn bao tử thì chỉ ở không an hưởng. Mảng nghĩ như vậy
nên cả tay chơn đều không làm việc nữa để cho bao tử chết đói, nào dè đâu một
hai ngày chẳng sao, qua đến năm bảy ngày bao tử không có ăn, cả tay chơn rũ riệt
cử động không nổi, rồi chừng ấy mới biết rằng: nếu bao tử không ăn thì mình
cũng phải chết, nên buộc lòng phải làm việc trở lại như cũ.
Vị đại thần lấy ý nghĩa của bài ngụ ngôn mà khuyên nhủ, làm cho các vị
trên núi hiểu, nên mỗi người vui lòng xuống núi chung lộn với người phàm thế,
bỏ tánh chấp nê thuở trước.
Trong cửa đạo ngày nay cũng vậy, có người tưởng sao mình làm lụng khổ
nhọc mà chỉ để nuôi những kẻ ngồi ngó đặng thừa hưởng, thậm chí cho đến đỗi họ
tranh đến chức sắc thiên phong, từ cái sang, cái áo, cái mão mà họ chẳng tự
biết rằng: mình sẽ làm đặng vậy chăng, đó là một triệu chứng đê hèn, triệu
chứng một sắc dân tự diệt.
Trong gia đình cũng vậy, có đứa cộng từ con số lời lỗ, có đứa ở ngoài
ruộng, có đứa chăn chim, có đứa cầm vòng hái, có đứa ngồi trong bếp, mỗi phận
sự đều khác nhau, nếu người trong bếp than nóng, người ngoài đồng than nắng,
gặt lúa than xót thì gia đình ấy sanh rối mà chớ.
Đến đây Qua luận về hai cơ quan: Hành Chánh và Phước Thiện. Chính mắt
Qua thấy, tai Qua nghe, hễ mấy em nuôi người thì miệt thị người.
Qua viễn kiến trước điều ấy, nên đã làm hiệu trước buổi mới khai đạo,
Qua đã làm Hộ Pháp rồi, nhưng tám chín năm về trước Qua nào có biết quyền hành
Hộ Pháp là chi, Qua chỉ xen lẫn, chia từ hột muối, gánh vác từ phận sự với mấy
em để làm gương cho mấy em noi theo. Qua mở Phạm Môn cốt để giáo hóa, tập tâm
đức nên ngày nay mới có khoa mục đặng thi vào cửa Phước Thiện. Qua đã nuôi nấng
giáo hóa mấy em từ kẻ răng chơn tóc nhưng Qua buồn sao trong trứng nở ra mà
không giống hình giống ảnh ?
Năm rồi nếu không do miệng mấy em thì mấy đứa con gái nhỏ biết đâu mà
nói: Không có Phước Thiện thì Cửu Trùng Đài chết đói. Đó là bằng chứng ỷ nuôi
người mà miệt thị người.
Qua nói thật, ngày nào Qua còn thấy như vậy nữa thì Qua nhứt định nâng
đỡ Cửu Trùng Đài với hoàn cảnh nghèo hèn, chớ mấy em có làm ra của vạn hộ đi
nữa, Qua cũng cấm Cửu Trùng Đài không cho hưởng. Cái trách nhậm nặng nhọc của
mấy em lúc nào Qua cũng phải nhìn nhận, mà chính mình Đại Từ Phụ cũng không bỏ,
cần chi mấy em tung hô lên để thị nhục người.
4 . Cấm kêu Đức Hộ Pháp bằng thầy (ngày 28-2 Canh Thìn 1940)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tứ niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn phòng
Phạm Hộ Pháp
Số: 5 CTĐ/53 PT
ĐẠO THÁNH LỊNH
Khi ban sơ, đạo mới phôi thai nên phải gặp nhiều điều trắc trở, lớp thì
trong thánh thể của Đức Chí Tôn chứa những hạng người xua quyền xu mị, chia phe
lập đảng để hại đạo dối thế gạt đời, khiến cho mấy em côi cút yếu thế cô thân
phải chịu điều áp bức đến đỗi rách rưới không kẻ ngó ngàn đói khó không người nuôi
dưỡng.
Bần đạo lấy làm đau đớn thương tâm mục kiến lắm điều khổ não nên liều
mình bỏ cả danh giá của phẩm vị chưởng quản HTĐ ra làm bạn với mấy em đặng toan
chia khổ. Hễ có thân mật thì ắt có tôn ti nên mấy em đã tặng cho làm thầy vì
vậy.
Nhờ phước Chí Tôn chan rưới nay quyền Đạo đã lập thành, Hội Thánh đủ
năng lực diệt mị trừ tà làm cho vẻ đạo đã ra thiệt tướng, bảo trọng nghiệp đạo
đặng giáo hóa chúng sanh. Ấy là hạn lệ Bần đạo đã gánh cái nạn làm bạn với mấy
em cô thế, nghèo hèn đã mãn, mà hễ mãn hạn làm bạn thì tức nhiên mãn hạn làm
thầy.
Vậy trong 10 năm khổ não truân chuyên, Bần Đạo đã hao biết bao tinh
thần trí não mới định nghỉ phận sự nặng nề ấy, nên:
THÁNH LỊNH:
Đệ nhứt điều: Cấm nhặt chẳng
cho ai đặng phép kêu thầy và Bần Đạo nhứt định chẳng làm thầy của ai nữa hết.
Nếu hoàn cảnh đạo may ra phải biến thiên thay đổi thế nào thì Bần Đạo
nếu phải buộc mình làm thầy lại một phen nữa thì chắc là những đứa trẻ con côi
cút, chửa hoang đẻ lạnh, những người hoạn tật nguyền, những kẻ góa bụa đói
rách, sẽ may mắn vào hạng môn đệ của Bần Đạo một phen nữa.
Nhưng Bần Đạo tưởng khi qua Hội Long Hoa (Congrès international des
Religions) rồi thì mới mong mỏi thấy đặng điều ấy.
Đệ nhị điều: Ba vị Quyền
Chánh Phối Sư và Trần Khai Pháp tuyên bố thánh lịnh nầy cho toàn đạo đều biết.
Lập tại Tòa Thánh ngày 28–2–1940 (dl 5–4–1940)
HỘ PHÁP
Ký tên: PHẠM CÔNG TẮC
Vâng lịnh ban hành cho chức sắc thiên phong nam nữ, chư chức việc và
chư đạo hữu lưỡng phái toàn 4 cơ quan của đạo: Hành chánh, Phước Thiện, Phổ Tế,
Tòa Đạo hiểu biết rõ từ đây phải tuân y theo đạo thánh lịnh nầy.
Khai Pháp HTĐ Q. Ngọc Chánh Phối Sư
Chưởng quản Sở PT Ký tên: Ngọc Trọng Thanh
Ký tên: Trần Duy Nghĩa.
Tin Đức Hộ Pháp bị
Pháp bắt và bị đưa đi an trí loang ra làm chấn động cả toàn đạo. Chức sắc và
đạo hữu xôn xao lo lắng, lại âu lo không rõ rồi đây nghiệp đạo sẽ ra sao. Chức
sắc đương quyền lúc ấy, một số tản cư đi lánh mặt, còn một số quyết chết vì Thầy
vì đạo ở lại làm việc.
Ngày 16-6 năm Tân Tỵ,
một phiên nhóm bất thường của các chức sắc tại Tòa Thánh để giao quyền cho ba
vị Chánh Phối Sư, trong lúc Đức Hộ Pháp vắng mặt. Nhưng không biết có điều gì
bí ẩn mà hai vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài là Phan Hữu Phước và Võ Văn Nhơn tranh
giành các bổn vi bằng trước mặt ba vị Chánh Phối Sư. Thế nên việc cầm quyền
thống nhất của ba vị Chánh Phối Sư không thành.
Tòa Thánh lúc ấy do
Giáo Sư Thượng Tước Thanh và Giáo Hữu Thượng Chất Thanh điều hành và sắp đặt
mọi việc để gìn giữ cơ nghiệp đạo. Tuy nhiên, hàng tháng hai ông mới đến thăm
một lần chớ không dám ở.
Ngày 1-6 năm Tân Tỵ,
Đức Hộ Pháp cùng năm vị chức sắc: Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Giáo Sư Thái Phấn
Thanh (bị bắt ở Cao Miên), Giáo sư Thái Gấm Thanh, Quyền Chánh Phối Sư Ngọc
Trọng Thanh, Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển bị dẫn giải về giam tại Sàigòn. Sau đây là
vài nét về chư vị chức sắc trên:
1 . Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa (1889-1954) được cầm Quyền Ngọc Chánh Phối Sư (1930), chưởng quản Phước
Thiện (1937). Năm 1946, Ngài lãnh chưởng quản Bộ Pháp Chánh, rồi qui vị ngày
22-1 Giáp Ngọ.
2 . Chánh Phối Sư Ngọc
Trọng Thanh từ lúc khai đạo đã có Ngài, sau ở Mã Đảo về vẫn tiếp tục làm việc
đạo.
3 . Giáo sư Thái Gấm
Thanh tên họ thật là Thái Văn Gấm, ngồi Đầu Tộc Đạo Châu Đốc ( 1932-1933), Gia
Định (1934-1935), Thượng Thống Công Viện (1936-1937), chủ trưởng Hội Thánh
Ngoại Giáo (1938-1939), đi mở đạo miền Trung (1940) và qui tại Mã Đảo (1943).
4 . Giáo Sư Thái Phấn
Thanh tức Trần Văn Phấn giữ chức chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kiêm Biên
(1941) thì bị Pháp bắt lưu đày, khi về nước Ngài sống ở Vũng Tàu, sau về Gò Vấp
và từ trần năm 1965 (Gia Định).
5 . Sĩ Tải Đỗ Quang
Hiển chết tại Mã Đảo, Phi Châu và về cơ xưng là Thánh Phi Châu có bài thi như
sau:
THI
Cuộc đời còn lắm nỗi gay go,
Các đấng ghe phen đã dặn dò.
Hành đạo Cao Đài cho phải đạo,
Học trò xiển giáo đáng danh trò.
Lợi quyền chớp nhoáng đừng mơ mộng,
Đạo đức trường tồn gắng chí lo.
Một kiếp phù sanh không mấy lát,
Thật hành cho vẹn Thích, Tiên, Nho.
Ngày 27-07-1941, Đức
Hộ Pháp và 5 vị chức sắc bị đưa xuống tàu Compiège cùng mười hai chánh trị phạm
tại cảng Nhà Rồng đi đến bến Diego Suarez, miền Bắc Madagascar. Tại đây đã có
11 chánh trị phạm người Việt khác đã bị Pháp đưa qua trước, hiệp chung là 29
người. Tất cả đều bị đưa đến quần đảo Comores.
Trong số chính trị
phạm gồm có 6 chức sắc Đạo Cao Đài, ba nhà cách mạng là Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn Thế Song, Ngô Văn Phiến, còn lại là đảng viên đệ tam quốc tế.
Sau khi đày Đức Phạm
Hộ Pháp giữa năm 1942, quân Pháp được lịnh vào đóng quân ngay trên nền Đền
Thánh mới xây cất, chưa kịp lót gạch và trang trí. Viên tiểu đoàn trưởng ra
lệnh cho binh lính đào đất dưới nền Hiệp Thiên Đài (vì chúng cho: “Hiệp Thiên
Đài còn thì Đạo còn, Hiệp Thiên Đài mất thì Đạo dứt”) chôn một trái mìn (mine)
một ngàn kí lô.
Thực dân Pháp nghi ngờ
Đạo Cao Đài có liên hệ với phát xít Đức vì trên nóc Hiệp Thiên Đài có chữ Vạn
nên chúng nghĩ thế nào phát xít Nhật cũng đến giải vây Tòa Thánh. Viên tiểu
đoàn trưởng lúc đó mới châm ngòi nổ, vừa diệt Nhật vừa diệt Đạo. Nhưng Nhật
không tới, viên tiểu đoàn trưởng đã được lệnh đổi đi và bàn giao cho thiếu tá
Rouband. Ơn trên xui khiến, viên tiểu đoàn trưởng không ghi “Mission
Impossible’ này trong biên bản nên Rouband khi được lệnh rút khỏi Tòa Thánh đã
không thi hành “Sứ mạng bất khả thi” này.
Vào tết Bính Thân
(1950), anh ba Tất (Lê Văn Tất) đọc tin này trên báo Paris Match có trình lên
Đức Hộ Pháp. Đức Ngài chỉ cười và bảo: “Nếu không có ai câu điện mà giựt thì nó
sẽ không nổ, để lâu ngày rồi nó cũng sét và trở thành đất mà thôi”. Mới hay,
nơi Thầy ngự là Bạch Ngọc Kinh tại thế, đâu thể phá đổ dễ dàng như ý nông cạn
của một ít người.
Để hiểu một ít về
Madagascar: nước này lệ thuộc Pháp từ thế kỷ XVII. Năm 1943, thuộc địa này bị
Anh chiếm nhưng Pháp vẫn còn chủ quyền (đây là chiến lược của phe Đồng Minh).
Năm 1946, Madagascar được độc lập, chính phủ liên bang được thành lập gọi tên
mới là Cộng Hòa Malgache (Larousse
illustré. Paris 1952, trang 1517 ).
Năm 1943, tình hình
thế giới biến chuyển, Hitler chiếm nước Pháp. Pétain lập chính phủ Vichy. De
Gaulle lập chính phủ lưu vong ở Anh. Pháp buộc phải dời Đức Hộ Pháp và các
chánh trị phạm tới một đảo nhỏ, kín đáo, sát đảo lớn tên Nosy Lava (hay Nosi
Lave) ở về phía Bắc Tây Bắc Madagascar. Tất cả bị câu lưu trong trại giam đến
ngày 24-11-1944 mới được ra ngoài lao động. Trong những ngày tù đày làm
coọc-vê, Đức Ngài được Đức Chí Tôn che chở, khiến cho bao tai nạn đều qua. Một
lần xe hơi chở Đức Ngài cùng mấy chục người tù qua một chiếc cầu bắt ngang
sông. Cầu gãy xe rớt theo thế mà bao nhiêu người cùng rơi theo, không ai hề hấn
gì cả. Một lần khác cũng xe chở tù trong đó có Ngài. Xe đang leo lên dốc núi
thì bị thụt lùi, lăn từ trên cao xuống. May sao chỉ một gốc cây bên bờ vực thẳm
mà ngăn được sức xe đang tuột dốc với một tốc độ kỳ dị. Tất cả mọi người đều
hồn lìa khỏi xác từ từ tỉnh lại. Bình tĩnh nhìn Ngài mà nói rằng: “Chúng ta
thoát chết đều là nhờ ông lão nầy”. Nhờ đó, từ đấy về sau ai ai cũng có thiện
cảm với Đức Ngài.
Đức Ngài quan sát vùng
quê Mã Đảo thấy người dân da đen, nơi nào cũng nghèo nàn. Họ làm ruộng theo
phương pháp cổ truyền. Họ lùa trâu bò quầng trên ruộng cho cỏ rạp xuống rồi
vạch đất mà cấy, không dùng súc vật cày bừa như ở nước ta. Ngài thấy rõ ràng
người Pháp không muốn mở mang nông nghiệp hay bất cứ việc gì mà để dân ngu hòng
dễ cai trị. Lòng nhân của một Thiên Quân xui khiến Ngài phải hành động cứu nhân
độ thế, dù bất cứ sắc dân nào. Ngài cùng Giáo Sư Phấn làm cày làm bừa rồi mắc
kế bò cày bừa thử nghiệm cho dân Malgache thực hành. Họ tri ân Đức Ngài. Từ đó,
phương pháp cày bằng trâu bò của nước ta được truyền rộng rãi trên Mã Đảo.
Dân Malgache cũng chưa
biết xay lúa giả gạo mà chỉ tuốt hột rồi tọt như dân thiểu số ở nước ta. Ngài
nhờ ông Trọng làm cối xay còn chính Ngài đụt khoét làm một cái cối giả gạo. Mới
được cơm ăn, còn nhà ở của dân đảo hầu hết là tranh lá, Ngài chỉ cho họ cách
làm lò nung gạch, in gạch, in ngói. Ngài cho phép dân chúng được phổ biến cách
làm gạch để chống lại độc quyền của bọn Pháp.
Cái ăn cái ở đã có
nhưng đầu óc còn ngu dốt thì không thể cãi hóa dân sinh dân trí một cách hữu
hiệu được. Đức Ngài coi dân đảo như đồng bào ruột thịt của mình cần khai hóa và
mở mang trí tuệ họ. Ngài lập một trường tiểu học gần nơi Ngài sinh sống, dạy
tiếng địa phương và tiếng Pháp. Vì thế họ coi Ngài như một Đấng Sư Biểu.
Chưa hết, Ngài còn chỉ
họ cách hầm vôi, cách làm vòng vàng, bông tai, cà rá, kiềng vàng... giúp cho
đời tươi đẹp hơn lên.
Một đệ tử đã cảm khái
những hoạt động khai hóa và từ thiện của Đức Ngài bằng bài thi sau:
THI
Mến ông thợ bạc gốc thầy tu,
Nuôi cả nhơn sanh bị nhốt tù.
Đẽo mẫu cày, bừa thâu lắm thóc,
Xây lò vôi, gạch, nhận nhiều xu.
Dắt dìu kẻ khó thành Vương Khải,
Dẫn độ người lành ngự Ngọc Hư.
Thầy tớ gặp nhau trên đảo vắng,
Pháo đâu như nổ dưới chân cù.
“Dẫn độ người lành ngự
Ngọc Hư”. Thật vậy, nhiệm vụ trọng yếu của Thiên Quân là truyền đạo độ đời. Một
hôm, thiêng liêng chuyển Đức Ngài đi qua đi lại nhà một cư sĩ trí thức ba lần.
Vì được Sư ông báo trước sẽ có vị Phật sống đến độ dẫn nên vị cư sĩ ra rước
Ngài vào nhà rồi quì xuống xin Ngài truyền tâm pháp tu chơn. Ngài mở huyền
quang khiếu cho cư sĩ được chứng ngộ tại thế. Một lần khác, cô Marie sinh viên
du học tại Pháp nằm mộng thấy thần linh mách bảo: trong nước xuất hiện vị Phật
sống. Cô bỏ học trở về nước dù bị cha mẹ trách mắng, cô kiên trì tìm gặp Đức
Ngài. Đức Ngài làm lễ nhập môn cho cô Marie vào đạo, rồi cô trở thành thư ký
cho ông “thầu khoán bất đắc dĩ” để giúp nhân sanh.
Đức Ngài được cô Marie
đưa đi tham quan cảnh hồ “Lac Tinivar”.
Hồ nầy nằm giữa hai
ngọn đồi cao, hình bầu dục, bề ngang độ 300 thước, bề dài 500 thước, chấm dứt
bằng một khoé ngắn, bên kia một khoé dài, kết hợp giống như một con mắt, mí
dưới thấp, mí trên cao, rặng cây làm viền giống như chân mày. Rõ ràng là con
mắt trái: “Thiên-nhãn”.
Trong những giờ rỗi
rảnh nơi xứ lạ quê người, Đức Ngài không bao giờ không vọng tưởng đến Đấng Chí
Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng. Đức Ngài cùng Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển phò
loan, được các Đấng giáng an ủi. Một hôm Đức Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cho bài thi
như vầy:
THI
Lược chiến từng quen đã bấy lâu,
Thiên cơ đã rõ máy cao sâu.
Dằn lòng nhẫn nại chờ đôi lúc,
Sẽ thấy khuôn linh phép nhiệm mầu.
Chào Thiên Tôn và chư
vị thiên phong, có Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng đến, để Bần Tăng đi triệu Thần Hoàng
Bổn Cảnh tới gìn giữ cơ.
Nhàn Âm Đạo Sĩ cười
... Bần Tăng lấy làm cảm xúc cho chư vị dường nầy. Hận thay cho giống dã man
tàn bạo... Trung Quân là Nam Kinh đó vậy. Nơi ấy là ổ của Việt kiều. Thời cuộc
Á Đông sẽ kết cuộc nơi đó.
THI
Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không cơ bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều linh địa,
Chuyển thế gặp thời phải múa đao.
Cõi Á đã trở thành nơi chủng-quốc,
Phương Âu sẽ diệt tận nô lao. (*)
Lửa hương đất Việt dầu quen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu.
* * *
(*) (Tức No si Lave ở về phía Bắc Tây Bắc
Madagascar )
Ít lâu sau cầu cơ, một
vị (phái nữ) giáng không xưng tên mà cho bài thi sau:
THI
Nô-si-lao tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượn thảm bủa ghềnh tình ột ạt,
Gió sầu xô đãnh ái tơi bời.
Yên phu điểu gợi thương cành sớm,
Giọng ngạn quyên khêu gọi buổi mai.
Tổ quốc đón đường bao dặm thẳng,
Xa đưa thăm thẳm một phương trời.
Nosy Lava, hòn đảo nhỏ
ở phía Tây Bắc quần đảo Madagascar. Về sao Vô Danh thị lại giáng cơ và nhủ:
“Chào Thiên Tôn và chư
vị Đại thiên phong. Thiếp vì có mạng lịnh đến đây làm bạn bút nghiên trong lúc
chư vị mang lịnh Chí Tôn cho ngơi nghỉ nơi đây. Chí Tôn than rằng: “Chức sắc
thiên phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn tài đặng làm tay qui phục
sanh chúng. Vì cớ ấy mà triết lý đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ”.
THI
Đã phong trần phải chịu phong trần,
Có thân âu phải biết thương thân.
Nam xa ví chẳng vì đường khó,
Việt đãnh mong chi đượm lửa mừng.
Nặng gánh giang sơn là Thương Trụ,
Nhẹ tay cung kiếm ấy Thường Quân.
Ngũ hồ tứ hải không lưu lạc,
Mặt địa cầu ta vốn định chừng.
Sau khi giải thích Nam xa Việt đãnh thế
nào, Vô Danh thị lại cho thi:
THI
Hòn đảo này đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám nhốt thầy tu.
Quả như oan nghiệt, vay rồi trả,
Thì lũ Tây man, Nhật Bổn trừ.
Những bài thơ trên đây
đều có tính chất tiên đoán thời cuộc ở xứ nhà. Vô hình trung tuy xa thiên lý mà
gần trong gang tấc. Tuy ít ai tin, nhưng việc gì tới sẽ tới.
Vô Danh thị là ai ? Đó là Đức Linh Sơn Thánh Mẫu vâng lịnh Thất Nương
Diêu Trì Cung đến viếng các Thánh bị nạn. Dù dấu tên nhưng Đức Hộ Pháp biết
được vì chiếc nhẫn nạm ngọc trên tay Ngài phát hào quang khi bà thăng. Hạt ngọc
nầy của ông Lễ Sanh Võ Văn Đợi tìm được ở Núi Bà biếu cho Ngài. Nên biết ông
Đợi theo Đức Hộ Pháp học tu tịnh đã chứng ngộ biết trước được nhiều việc nên
Ngài đổi tên ông Đợi ra Võ Linh Đoán và cho trụ trì ở Vạn Pháp Cung để rước các
thầy tu ở núi lỡ vận.
Biến cố Núi Điện điêu tàn, một nhóm chức sắc xin Đức Hộ Pháp cho rước
cốt Bà Đen về Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Ngài phê: “Bần Đạo vì thạnh tình lúc bị lưu
đày, Bà thường đến thăm mà thuận cho”.
Trong thời gian bị lưu đày, Đức Hộ Pháp thường cầu cơ, lúc với Sĩ Tải
Đỗ Quang Hiển, lúc với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Theo lời kể lại của ông Nguyễn
Thế Truyền, vào năm 1965, với ông Hội Trưởng Thánh Thất Bàu Sen, Phạm Duy Tẩy
và soạn giả (ông Truyền đến nhà anh Hai Tẩy để chích thuốc. Ở đây bổn đạo ai
cũng biết): Đêm Noel (1945) (Theo
lời kể của ông Nguyễn Thế Truyền, vào năm 1965 ), Đức Hộ Pháp và Ngài
Khai Pháp phò cơ, ông Nguyễn Thế Truyền làm đọc giả. Đức Lý giáng cơ cho biết
các ông sẽ được thả và đưa về Việt Nam vào cuối năm 1946. Rồi Đức Lý ân phong
cho ba ông:
1 . Ông Nguyễn Thế Truyền phẩm Bảo Địa Lý Quân, giữ tròn vẹn lãnh thổ
Việt Nam.
2 . Ông Nguyễn Thế Song phẩm Bảo Thương Quân áp dụng việc trao đổi và
điều hòa hàng hóa trong chúng sanh.
3 . Ông Ngô Văn Phiến phẩm Bảo Tinh Quân để bảo vệ môi trường và sinh
mạng nhân loại ...
Ngày 1 tháng 10 năm 1946, Đức Hộ Pháp và các ông được tự do và trả về
Việt Nam. Hai ông thường liên lạc với nhau.
“Tôi (L. H. CH.) thường gặp ông Nguyễn Thế Truyền khi tại Tòa Thánh Tây
Ninh, khi ở văn phòng liên lạc số 145 đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự
Trọng) hay địa chỉ của Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo chủ Đạo Cao Đài, người bạn
tù với ông ở Madagascar”. (Nhân
vật lịch sử - Nguyễn Thế Truyền, Tạp Chí Xưa & nay số 60 )
Một hôm Đức Hộ Pháp nói với Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, người được
Pháp cử làm đại diện tù nhơn tại Mã Đảo rằng: “Ba hôm nữa, chúng ta sẽ trở về
nước”. Ngài Trần Duy Nghĩa cho là chuyện huyền hoặc bịa đặt nên đáp: “Ông đã
bày đặt Thượng Đế, tiên, phật, chớ làm gì có, để ngày nay đến nỗi nầy”. Nói rồi
hất quần áo của Đức Ngài từ trên phảng rơi xuống đất. Đức Ngài rơi lệ, cúi
xuống nhặt và nói: “Thánh Pierre lần nầy là lần thứ ba ngươi phản ta”. Nên biết
ngươn linh của Ngài Trần Khai Pháp là Thánh Pierre.
Ba hôm sau quả như lời, quí vị được trả tự do. Ngài Trần Duy Nghĩa phải
lạy Đức Ngài để xin lỗi.
Bởi lẽ, sau khi người Pháp trở lại Đông Dương (tháng 9-1945), tình hình
Việt Nam lúc bấy giờ thật rối ren, đảng phái nổi dậy nhiều nơi. Người Pháp muốn
nắm lấy một vài đoàn thể có tổ chức chặc chẽ, đủ mạnh khả dĩ đương đầu với tình
thế lúc bấy giờ. Ở Việt Nam, ngày 8-4 Bính Tuất (8-5-1946), các cơ sở đạo tại
Sàigòn bị chính phủ Pháp phong tỏa và bắt giam các người lãnh đạo. Họ hăm dọa
đánh khảo và sau cùng yêu cầu hiệp tác. Sau 22 ngày bị bắt, bị đánh đập và sau
ba ngày hội đàm, Trần Quang Vinh và Ménage ký thỏa ước ngày 9-6-1946, đại để:
1 . Đối với Pháp: quân
đội Cao Đài ngưng chiến đấu và giải tán tất cả các bộ đội lưu động kháng chiến.
2 . Đối với Đạo: quân
Pháp ngưng các cuộc khủng bố, không bắt giam tín hữu, bảo đảm quyền tự do hành
giáo và truyền giáo. Mở cửa Tòa Thánh và các Thánh Thất, được tự do tế tự trong
phạm vi tôn giáo. Trao trả Đức Hộ Pháp và chư vị thiên phong về cố quốc, phục
hồi các quyền công dân cho chư vị đó.
Vì các điều khoản đó mà chính phủ Pháp mới trả tự do cho Đức Hộ Pháp.
Khởi đầu Giáo Sư Thượng Vinh Thanh (tức Trần Quang Vinh), ngày 16-8-1946 đến
gặp Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ Cédile và Đổng Lý văn phòng Frémolle bàn tính việc
rước Đức Hộ-Pháp, bằng máy bay để tỏ sự kính trọng đối với vị lãnh đạo một Tôn
giáo lớn.
Ngày 20-8-1946, nhà cầm quyền Pháp báo cho đạo biết chuyền tàu Ile De
France cập bến Vũng Tàu, trong đó có Đức Ngài. Giáo Sư Thượng Vinh Thanh vội ra
châu tri cho toàn đạo hay đặng chuẩn bị đón rước. Nhưng sau đó được tin mới,
trên tàu Ile De France sắp cặp bến không có Đức Hộ Pháp và chưa rõ ngày nào về.
Vì lẽ đó Pháp cho một ít người tuyên truyền rằng: Pháp không biết bao giờ thả
Đức Phạm Hộ Pháp. Mục đích của nhà cầm quyền Pháp là tránh dân đạo tụ tập đông
đảo mất an ninh.
Chiều ngày 21-8-1946, được tin chuyến tàu Ile De France đã cập bến Vũng
Tàu (Cap Saint Jacques) trong đó có Đức Hộ Pháp. Nhà cầm quyền Pháp chuẩn bị đi
rước bằng máy bay từ Cấp về Sàigòn.
09 giờ 20 sáng ngày 22-8-1946, phi cơ cất cánh tại phi trường Tân Sơn
Nhứt, phái đoàn gồm có Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, ông Frémolle, Đổng Lý Văn
Phòng của ông Cédile, Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ, ông Bazin, Sĩ quan Cò mật thám.
Khi đến Cấp, phi cơ bay lượn ba vòng trên chiếc tàu Ile De France rồi mới đáp
xuống phi trường...Nơi đó đã có quan chủ tỉnh Cap Saint-Jacques, M.Ropion, chờ
tiếp đón. Rồi cả thảy lên xe hơi xuống bến tàu. Khi gặp mặt Đức Phạm Hộ Pháp,
ai nấy đều mừng rỡ. Riêng ông Frémolle thì ôm lấy Đức Ngài mà tỏ tình tri ngộ
vì lúc ở Mã Đảo hai người đã quen biết nhau. Kế đến là quan tư Pháp Désanges và
phu nhơn, người có phận sự đưa Đức Hộ Pháp từ Mã Đảo đến Sàigòn gặp phái đoàn.
Sau khi thủ tục hành chính thông thường xong thì phái đoàn đưa Đức Ngài xuống
tàu nhỏ trở vào đất liền.
Ông chánh Chủ Tỉnh, M.Ropion rước Đức Ngài và phái đoàn về tư dinh đãi
buổi cơm trưa. Sau đó, Giáo Sư Thượng Vinh Thanh thuật lại giai đoạn mà Đức
Ngài bị nạn (1941-1946). Nào là Tòa Thánh bị chiếm, chư chức sắc phải hành đạo
ở Kiêm Biên (hạ tuần tháng 3 năm Nhâm Ngọ, 1942), hiệp tác với Nhật Bản (1-12
Nhâm Ngọ), ở hãng tàu Nitinan và Nội Ứng Nghĩa Binh (1-1 Ất Dậu), lập Cao Đài
Tham Mưu Quân Sự Vụ, hiệp tác với Mặt Trận Việt Minh, tới thoả ước ngày
9-6-1946. Riêng thỏa ước thì Đức Ngài có vẻ trầm ngâm khá lâu rồi mới
nói: “Luật công bình thiêng liêng của tạo hóa, dầu muốn dầu không cũng
không thể sửa cãi đặng... còn thiếu 2 năm 10 tháng mới may ra giải khổ ách cho
dân tộc Việt Nam dứt đặng ...”
Ý Đức Ngài muốn nói: hoàn cảnh thúc bách đã tạo ra quân đội nhưng cũng
là cái nạn mà Ngài phải lưu vong sau nầy, nhận thay cái khổ cho nhân sanh. Đức
Ngài đã biết trước mọi lẽ, nhưng không thể cãi lại luật thiên điều.
Tín đồ các nơi tấp nập kéo đến thăm Đức Ngài. Đức Ngài giang tay tiếp
từng người để tỏ lòng trìu mến. Đức Ngài ngùi ngùi kể lại những năm dài lao khổ
nơi hải ngoại mà các Đấng lúc nào cũng giáng cơ an ủi Đức Ngài. Tiếp đó là Giáo
Sư Thượng Vinh Thanh và bổn bộ lần lượt kể lại tất cả sự việc 5 năm qua buồn
vui lẫn lộn.
Ngày 30-8-1946, toàn đạo và chánh phủ làm lễ rước Đức Hộ Pháp về Tòa
Thánh. Đoàn xe gồm 5 chiếc của đạo và 7 chiếc của Pháp nhưng chỉ có 5 chiếc của
đạo mới đưa về tới Tây-Ninh.
Khi gần tới Tây Ninh thì có chủ tỉnh Tây Ninh ra nghinh tiếp và vào
dinh tỉnh trưởng đàm luận. Sau đó đoàn xe tiếp tục về Tòa Thánh đúng 12 giờ
trưa. Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài với toàn thể tín đồ nam nữ đã
xếp hàng dày đặc hai bên đường nghênh tiếp Đức Ngài. Xe vừa ngừng, Đức Ngài
xuống xe bước vào cửa Đền Thánh, Đức Ngài quá cảm động khi đối diện người xưa
cảnh cũ đến nỗi không ngăn được dòng lệ cảm hoài. Các chức sắc thấy thế cũng
chan hòa đồng nhịp tuông châu thương hận. Tiếng
đại hồng chung đổ hồi mừng người xưa trở lại. Người người trật tự đi sau lưng
Đức Ngài bước vào bửu điện đảnh lễ Đức Chí Tôn. Sau đó, Đức Ngài qua Giáo Tông
Đường làm lễ Đức Quyền Giáo Tông, đoạn xuống phòng khách dự chứng cuộc tiếp
nghinh. Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đại diện cho Hiệp Thiên Đài, Giáo Sư Thượng
Vinh Thanh đại diện cho Cửu Trùng Đài và một Sĩ quan Pháp đại diện cho chính
phủ bảo hộ, mỗi người đọc một bài diễn văn để chúc mừng. Sau cùng, Đức Ngài đáp
từ và tuyên bố về chủ trương của Đạo Cao Đài.
Bữa tiệc mừng ngày hồi loan của Đức Phạm Hộ Pháp bắt đầu trong bầu
không khí vui tươi cởi mở. Tất cả đều hướng về Đức Ngài trông đợi những ngày
thanh bình thạnh trị.
Sau đó Đức Cao Thượng Sanh đến thăm Đức Ngài, có lưu một bài thơ cảm
tác như vầy:
Cảm Tác
Nhành lá rừng tòng đã
điểm tươi,
Còn non còn nước lại
còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương
pha hận,
Gặp bạn này khi khóc
lộn cười.
Nguồn đạo xưa trong
đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt
một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng
để lời.
Cao Thượng Sanh
Họa Vận
Sắc son nhuộm tánh
đậm màu tươi,
Hay dỡ khen chê để
miệng người.
Đày đọa xét thân
không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận
quá buồn cười.
Vó ký từng trải đường
nguy hiểm,
Cánh hạc quen chìu
gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xã
tắc,
Nợ muôn đền một kể
chi lời.
Đức Hộ Pháp
Lại Họa Vận
Màu xe Tây vức ngắm
thêm tươi,
Hỏi khách hổn ngươn
đặng mấy người.
Ly hận ngày qua, non
ngó khóc,
Trùng hưng buổi hiện,
gió reo cười.
Cơ huyền trí tịnh tan
rồi hiệp,
Phép tạo tay cầm
ngược cũng xuôi.
Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
Đá kia cũng gật để
nên lời.
Cao Tiếp Đạo
Đức Cao Thượng Sanh ở lại để cúng rằm và dự lễ Hội Yến Diêu
Trì Cung, bà Bát Nương giáng cơ cho Đức Hộ Pháp thi:
THI
Đào nguyên lại trổ
trái hai lần,
Ai ngỡ Việt thường đã
thấy Lân.
Cung Đẩu ví xa gươm
Xích quỷ,
Thiên cung mở rộng
cửa Hà ngân.
Xuân Thu định vững
ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ
nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh
lau xã tắc,
Mở đường quốc thể
định phong vân.
Bát Nương
Họa Vận
Chông gai đường đạo
mãng dò lần,
Từ bước ta bà trở cố
lân.
Biển Bắc vừa nghe hơi
súng nổ,
Gành Nam kế lóng tiếng chuông ngân.
Buồm thuyền tế độ
sang mơ mộng,
Gió hạc chiêu tiên
giục định thần.
Cam lộ kìa ai dành để
sẵn,
Cành dương rửa sạch
nét phù vân.
Đức Hộ Pháp
Lại Họa Vận
Dựng gầy xã tắc bấy
nhiêu lần,
Mong mõi vùng Nam đặng thấy lân.
Đãnh Việt trời che
gìn cảnh trí,
Thuyền Nam đạo vững
lướt dòng ngân.
Đài hoa tạc để gương
anh kiệt,
Thiên khiển dành
riêng đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn
loạn lạc,
Làm trai tua vẹn trí
thanh vân.
Cao Thượng Sanh
Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan, ông Lễ Sanh Thượng Tý Thanh vào
viếng sư phụ. Đức Ngài nhìn ông rồi hỏi: “Sao mấy em cắt tóc ngắn hết vậy ?”
Ông Tý trình rằng: Khi vào làm hãng tàu Nitinan, Nhật buộc phải cắt tóc. Các
ông có cầu cơ được Đức Lý chuẩn thuận. Đức Ngài chuyển sang việc Nội Ứng Nghĩa
Binh tham gia đảo chánh ngày 9-3-1945. Đức Ngài nói: “Các em tham gia đảo chánh
thì tự nhận tương lai của mình, không em nào được vào lịch kỷ niệm của đạo
giống như chuyên viên đảo chánh Khương Thái Công cũng không được vào lịch kỷ
niệm”.
Ai cũng biết quân đội Cao Đài do ông Trần Quang Vinh lập từ Nội Ứng
Nghĩa-Binh (1945), trước khi Đức Hộ Pháp được trả tự do. Thế nên Đức Ngài minh
định: “Chỉ có quân đội Cao Đài thi hành những điều đã ký với Pháp, còn toàn thể
đạo đứng trung lập. Văn thơ số 115/HP-TTVP đề ngày 17-1-1949 gởi cho Thượng sứ
Pháp và Đại Tướng Blaizot, tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, Đức Ngài đã
viết rõ: “Sự hiện diện của những tổ-chức quân-lực Cao-Đài của chúng tôi đã đến
giai đoạn không còn cần thiết nữa. Chúng tôi để cho nhà binh Pháp tự do định
liệu ngày giờ để chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày nào tốt
ngày ấy”.
Chân dung Đức Hộ Pháp trong những năm bị lưu đày, thể hiện rõ tư tưởng
đại đồng, yêu thương nhân loại. Đức Ngài đã giúp dân Malgache cải thiện cuộc
sống và thân hữu với kẻ địch. Ngoài lòng yêu dân (Ngài có bút hiệu là Ái Dân)
còn nhớ cố hương trong những lúc rảnh rỗi, Đức Ngài trò chuyện với ông Nguyễn
Thế Truyền rất là tâm đắc.
Ông Truyền kể cho Đức Ngài về hoạt động của nhóm Ngũ Long (Phan Văn
Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh)
trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi này ở Pháp. Ông Truyền cho biết ông
Nguyễn Ái Quốc có tình yêu nước nồng nàn và mãnh liệt, nhất định phải giải
phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Nhờ đó hai ông thân nhau và lập ra nhóm Ngũ Bạch. Rồi cầu cơ Đức Lý
giáng cơ thu nhận ba nhà cách mạng vào hàng Bảo Quân. Xem thế dù hoàn cảnh khó
khăn nào, Đức Ngài luôn phổ độ chúng sanh như lời nguyện.
CHƯƠNG III
Nhìn cục diện quốc gia khoảng thời gian (1947-1954) thật là bi đát.
Chiến tranh Việt Pháp đến hồi quyết liệt thanh niên bị nướng vào trận Điện Biên
Phủ. Kết liễu là Hiệp Định Genève (1954) phân chia Việt Nam qua Bắc vĩ tuyến 17
lấy sông Bến Hải thay Linh Giang thời Trịnh Nguyễn.
Trong khi đó toàn thể tín đồ Cao Đài được yên lành, nhất là Thánh địa
Tây Ninh suốt gần 10 năm không nghe tiếng súng, dù là một tỉnh biên giới, rừng
thiêng lam chướng. Được vậy là nhờ có quân đội Cao Đài bảo vệ. Các chức sắc
được tự do hành đạo, khai đàn, thượng trang, cầu kinh, tế tự. Nơi nào có đạo là
nơi đó có bóng cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng phất phới. Các
chiến sĩ chẳng quản đồng sâu, nước mặn hay sằn dã thôn quê, họ chỉ một lòng vì
Thầy vì Đạo, còn hy sinh đồng lương eo hẹp của mình để lo cơ sở xã hội như
trường học, cô nhi viện.
Chính khoảng thời gian này Đức Phạm Hộ Pháp đã gia công thuyết đạo, các
tốc ký đã ghi chép và sưu tầm thành bộ “Lời Thuyết Đạo” sách trên 2 nghìn trang
chia làm 5 quyển. Quí nhứt là quyển “Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống” và quyển
“Bí Pháp” của Đạo Cao Đài. Các phố chợ, đường sá và nhà đất cũng được kiến
thiết và phân chia trong thời kỳ này.
Thời kỳ này, chấm dứt bằng buổi Lễ khánh thành Toà Thánh Tây Ninh kéo
dài trong 10 ngày (từ ngày 29-1 đến 8-2-1955 năm Ất Mùi) vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử Cao Đài giáo. Buổi lễ được hầu hết các quan khách quốc tế đến
tham dự, có cả thủ tướng Ngô Đình Diệm, người đã tạo ra biến cố 1955, chấm dứt giai
đoạn vàng son đó.
Số tín đồ Cao Đài trong 10 năm này tăng một cách nhanh chóng: 1953 có 1
triệu rưỡi (1.500.000) người, chưa kể các chi phái đến năm 1954 lên đến 2 triệu
rưỡi (2.500.000). Cũng nên biết là người theo Đạo Cao Đài nhập môn, lập thệ và
có “Sớ Cầu Đạo” hẳn hoi. Tất cả đều được liệt kê vào bộ sổ chứ không ước đoán.
Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp trở về Toà Thánh Đức Ngài triệu tập Hội nghị
Nhơn Sanh để chấn chỉnh guồng máy đạo. Trong huấn từ khai mạc Đại Hội ngày 1-12
Bính Tuất, Đức Ngài nói:
“Đã trót 5 năm dư, Bần Đạo bị đồ lưu nơi hải ngoại thì đã từng chịu
biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Đạo, nỗi sợ cho
vận nước tránh không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương
nhớ cả con cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.
Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay
màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ
non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi ! Dưới bức thê lương nầy ai là tri kỷ, tri âm
cùng Bần Đạo, ngoài ra chư hiền hữu, hiền muội thì Bần Đạo đã kiếm đặng ai.
Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà để tai lóng
tiếng.
Vậy Bần Đạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết tha hòa
giọng đau thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái một cảnh an nhàn
thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Bần Đạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái
của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử
thánh thể của Thầy, nên vừa để gót về đất tổ đình thì đã quên hẳn mảnh thân
tiều tụy hao mòn vội cầm quyền của đạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền,
rồi lại tìm phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm
nữa nên tức cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước”.
Mười lăm hôm sau, khai mạc Đại Hội Phước Thiện (tức ngày 15 tháng 12
Bính Tuất 1946) Đức Ngài nói:
“Hội Thánh có hai cơ quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương
khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn
thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.
Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương
cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ
đoạt mục đích tối cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng mới mong
thay hình thánh thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh”.
Như vậy vừa khai Hội Nhơn Sanh và Phước Thiện vừa thông báo chính thức
cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay rằng Đức Ngài tái thủ quyền Vạn Linh
khuyên toàn đạo chung hiệp xây dựng tổ đình và chơn truyền Đại Đạo.
Vào ngày 6 tháng 1 năm Đinh Hợi (27-1-1947) Đức Phạm Hộ Pháp làm lễ
trấn thần Đền Thánh. Cũng nên nhắc lại Toà Thánh khởi công năm 1933, bị ngưng
trệ vì ảnh hưởng lủng củng nội bộ. Năm 1936 Đức Ngài ra lệnh khởi công tạo tác
lại. Đến ngày 3 tháng 1 năm Đinh Hội các công thợ làm lễ bàn giao Đền Thánh cất
xong cho Hội Thánh. Đến ngày này thì Đức Phạm Hộ Pháp dạy Lễ Viện cúng giờ mẹo
rồi làm phép trấn thần.
Đúng chín giờ ngày 6-1 Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc tiểu phục, dạy Thừa Sử
Huỳnh Hữu Lợi và Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn theo Đức Ngài đến Báo Ân Từ. Đức
Phạm Hộ Pháp vào Điện làm lễ xong dùng nước âm dương giao cho Thừa Sử Lợi, Đức
Ngài lấy 3 bó nhang hành pháp xong thì giao cho Truyền Trạng Trấn.
Khi đến Đền Thánh, Đức Ngài ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài rải cam lồ thuỷ và cầm nhang
làm phép trấn thần. Kế tiếp đến tượng Phật Di Lạc, tượng Đức
Quyền Giáo Tông, bà Nữ Đầu
Sư đến tượng Ông
Thiện, Ông Ác.
Sau đó, Đức Ngài vào cửa Đền Thánh, đứng ngó vào Tịnh Tâm Điện trấn
thần cái Cân Công Bình trên
ngưỡng cửa, Đức Ngài nói: “Kể từ đây cái cân công bình thiêng liêng của
Đức Chí Tôn đã biến tướng thiệt hiện ở thế gian này để phân công chiết tội và
định phẩm vị toà sen của toàn con cái của Ngài”.
Đức Ngài sang phía trái Đền Thánh đứng ngang Cửu Trùng Đài cách 12
thước, trấn thần Long Mã. Trên
lưng Long Mã có bộ Lạc Thơ Bát
Quái và cây kiếm, nên có câu “Long Mã phụ hà đồ”. Long Mã chạy về
tây mà đầu quay về phía Đông, ý nghĩa Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây
cứu vớt chúng sanh.
Kế Đức Ngài đến Bát Quái Đài ngó lên trên trấn thần Tam Thế Phật:
1.
Phật Brahma: đứng trên một con thiên nga nhìn thẳng, đó là ngôi thứ
nhứt, tượng trưng thánh đức, thuộc về cơ sanh hoá.
2.
Phật Civa: đứng trên thất đầu xà (rắn 7 đầu) nhìn thẳng bên phải về
phía Tây lang Toà Thánh. Đó là ngôi thứ hai, tượng trưng phần âm có sanh có
diệt, ấy là cơ bảo tồn.
3. Phật Christna: đứng trên con giao long nhìn qua trái. Đó
là ngôi thứ ba tượng trưng phần trí não, thuộc cơ tranh đấu.
Đức Phạm Hộ Pháp đến
trấn thần bốn con Kim Mao Hẩu ở
hai nấc thang bên phải Đền Thánh. Rồi Đức Ngài vào cửa Cửu Trùng Đài, sang qua
bên tả trấn thần 4 con Kim Mao Hẩu. Đức Ngài nói: “Con Kim Mao Hẩu rất
mạnh và khoẻ, tượng trưng cái năng lực tinh thần con người, nhờ nó mà qua các
từng trời về cùng Thầy”.
Sau đó Đức Ngài vào
cửa bên trái Cửu Trùng Đài trấn thần Thiên Nhãn quanh tổ đình, lần lượt xuống tới Bát Quái Đài,
rồi sang bên phải, cả thảy là 23 thiên nhãn ngó ra ngoài. Vào trong đến cửa Cửu
Trùng Đài bên phải, lên trấn thần tượng Bát Tiên và sang bên tả trấn thần tượng Thất Hiền. Rồi Đức Ngài trở xuống bàn
Hộ Pháp trấn thần chữ Khí,
ngai Hộ Pháp có một con rắn 7 đầu: Thất
đầu xà, cái thân nó quấn dưới ngôi Hộ Pháp, đưa lên trên 3 đầu và gục
xuống 4 đầu, choàng cái mình quấn dưới ngôi Thượng Phẩm và cái đuôi dưới ngôi
Thượng Sanh.
Khi tọa, Đức Hộ Pháp
hai chân đạp lên hai đầu có tên Ai, Cụ, hai tay đè 2 đầu Ố, Dục, 3 đầu sau lưng
là: Hỉ, Lạc, Ái.
Còn 23 thiên nhãn nhìn
vào trong Đền, Đức Ngài không trấn thần vì người đạo quì ngang sợ ô uế.
Ngài Trương Hiến Pháp
nói: “Vì lời tiên tri của Đức Hộ Pháp nên Hội Thánh rất lo ngại nên
quyết đúc tượng của Đức Ngài gấp rút để trấn trên Thất Đầu Xà, mục đích trấn áp
thất tình của con người, để tránh bớt biến cố trong đạo, vì lời tiên tri ấy đã
biểu hiện rõ nét từ ngày Đức Thượng Sanh về cầm quyền tối cao trong đạo".
Quả càn khôn được
thánh giáo chỉ vẽ từ lâu nhưng chưa thực hiện được như thánh ý. Đến 8-1 Đinh
Hợi mới rước quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về Đền Thánh mà toàn đạo ngày nay đồng
kính bái.
Đức Hộ Pháp đã thuyết
giảng: “Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Đền Thánh, Đức Chí Tôn đã ngự
nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Đền Thánh
nầy mà tiến hóa mãi lên.
Đền Thánh kể từ đây
không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn
con cái của Đức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.
Nhờ những bàn tay
khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10
năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi
Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền
Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.
Đền Thánh làm xong,
nền đạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn
loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực nhơn
nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy”.
Ngài Trương Hiến Pháp
giải thích sự tích quả Càn Khôn như vầy:
“Thể theo thánh ý,
chư chức sắc tạo quả Càn Khôn đầu tiên......vì rủi ro, quả Càn Khôn ấy cháy
tiêu hết, duy có thiên nhãn thì còn y nguyên.
Hội Thánh kiến tạo
quả Càn Khôn khác thay thế. Hội Thánh đồng tình biểu quyết lấy lại thiên nhãn
cũ đặt lên quả Càn Khôn mới ngày nay...Khi hạ quả Càn Khôn cũ, cả thế giới và
trong đạo đều chấn động”.
Nơi thờ phượng Đức
Phật Mẫu hiện nay gọi là Báo Ân
Từ. Đền này được trần thiết thờ Đức Phật Mẫu từ ngày 1-2
Đinh Hợi (1947), sau khi rước quả Càn Khôn về Đền Thánh.
Đức Phạm Hộ Pháp trong
ngày lễ an vị có giảng:
“Từ đây chúng ta
rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Đạo Bần Đạo biết công
nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Đức Chí
Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.
Ngày mở đạo, vì cái
tình cảm ấy các vị Đại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Đền Thánh thì
Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì
làm sao ngang hàng với chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường
ấy không gì lường được”.
Vào năm Nhâm Thìn
(1952) nhân dịp sửa lại Báo Ân Từ. Đức Hộ Pháp chỉ vẽ đắp các tượng:
1 . Trên hết, Đức Phật
Mẫu cưỡi chim thanh loan
2 . Dưới đắp 9 tượng
Cửu vị Nữ Phật.
3 . Liên tiếp đắp bốn
vị nữ nhạc
4 . Tượng Đông Phương
Sóc, nhà văn hoá đời Hán
5 . Tượng Đức Cao
Thượng Phẩm
Việc tạc hình Đức Cao
Thượng Phẩm thay cho Hán Võ Đế, Đức Hộ Pháp giải thích:
“Nguyên căn Hớn Võ
Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập nước. Kỳ hạ nguơn này, Đức Cao Thượng
Phẩm cũng là ngươn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành Quốc Đạo nên tạc
hình Đức Cao Thượng Phẩm”.
Đức Hộ Pháp dạy đắp
chơn dung Đức Phật Mẫu:
“Hình của Đức Phật
Mẫu đắp theo hình chưng cộ bông Cửu Nương lần đầu tiên vào ngày 15-8 Đinh Hợi.
Hồi đó mượn của bà Phối Sư Hương Hiếu.
Đức Phật Mẫu có từ
thuở khai thiên do khí âm dương tạo thành, có quyền năng vô đối cũng như Đức
Chí Tôn, hữu hữu vô vô, nắm trọn mầu nhiệm của càn khôn vũ trụ. Chớ không phải
bí pháp biến thành thể pháp do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế có nghĩa là chỉ
mượn ý tạc hình đã có, chớ Phật Mẫu vốn vô vi”.
Sau khi dời Thánh
Tượng từ Gò Kén về chùa mới hơn một năm. Hội Thánh hội nghị quyết định mở
trường khai dân trí.
Chương trình học theo
chương trình nhà nước.
Tiểu học có các môn:
Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Cách trí, Vệ sinh, Nhạc, Vẽ, Thủ
công, cộng thêm các môn của đạo: Giáo lý, Hán văn.
Các lớp: Đồng ấu
(Cours enfantin), Dự bị (Cours prépa toire), sơ đẳng (Elémentaire), Trung đẳng
(Moyen), Cao đẳng (Supérieur) để thi tiểu học.
Trung học có các môn:
Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sử Địa, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng
thêm các môn của đạo: Giáo lý, Hán Văn.
Các lớp: năm thứ nhứt
(cours lè année), thứ hai (2è année), thứ ba (3è année), thứ tư (4è année) để
thi Brevet.
Tháng 9 năm 1928 khai
giảng năm học đầu tiên, trường Đạo Đức Học Đường có tất cả 210 học sinh. Nhân
ngày lễ phát thưởng năm đầu tiên cho học sinh trường Đạo Đức vào ngày 14-7 Kỷ
Tỵ (18-8-1929) Ngài Thượng Đầu Sư đến dự lễ để khích lệ thầy cô giáo và các em
học sinh. Ngài nói:
“Trong mấy năm dư
đạo nghèo nên mấy em chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè
cũng không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.
Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối đạo, truyền chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh chúng, học sinh đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức”.
Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối đạo, truyền chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh chúng, học sinh đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức”.
Bài huấn dụ của Ngài
Thượng Đầu Sư cho ta thấy mấy ý như sau:
- Lấy ván sạp làm giường: Thật vậy, nhà giáo viên, nhà lưu trú
học sinh đều kê đơn sơ bằng gỗ xẻ thành ván. Phần bìa thân cây thì làm bàn,
băng cho học sinh. Ai có sống, có học trong những năm hai mươi của thế kỷ XX
mới thấm thía được lời chân thật mà thân yêu, trìu mến của người Anh Cả.
- Ăn uống tương rau hẩm hút: Thật ra là nước muối, rau lang suốt
lá từ gốc tới ngọn (chớ không chỉ ăn ngọn), chuối xắc nguyên cây, bữa cháo bữa
củ mì. Các học trò thời ấy nói vui với nhau: "Nước tương Đại Đạo, cơm cháo
Tam Kỳ, củ mì Phổ Độ".
Chao ôi ! Ăn uống như
thế. Học lấy kiến thức để sau nầy “phổ độ nhân sanh”. Lý tưởng của trường đề ra
thật cao, qua câu liễn:
Đạo Đức truyền lưu hậu tấn hiếu trung phò xã
tắc
Học Đường giáo
hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san.
- Tập viết bằng lá buông: Cái nghèo khó thử thách lòng
trang hiếu học. Học mà không có tập mà phải viết bằng lá buông. Các thầy thương
trò mà phát minh ra tập lá.
Nhưng ngày nghỉ học,
thầy trò đi dã ngoại tìm rừng lá buông cắt đem về rọc bỏ phần sống lá. Thân lá
được cắt từng đoạn dài đều nhau độ 20cm, rồi đem phơi khô để lá buông từ màu
xanh lục chuyển sang màu vàng nhạt. Sau đó xếp lá chồng lên nhau rồi lấy tấm
ván ép cho bằng phẳng gọi đó là tập lá.
Mực viết trên lá buông
là cỏ mực. Cỏ mực nhổ trên ruộng rẫy về rồi giả nhuyễn, vắt lấy nước, vô bình
mực chia cho các học sinh. Chao ôi ! cái học kiểu “Trần Minh khố chuối” như thế
mà “hiếu trung phò xã tắc” là tấm lòng thiết thạch đối với quê hương, có chi
sánh nổi.
Sang năm 1931, Thượng
Chánh Phối Sư báo cáo trước Hội Nhơn Sanh có đoạn viết:
“Trong Toà Thánh có
lập một Đạo Đức Học Đường để dạy trẻ em, có 8 lớp học, 6 lớp con trai trình độ
lớp nhì, một lớp con gái Việt, 1 lớp con nít Đàn Thổ (Tà Mun). Tất cả được 274
trò. Các thầy dạy điều có bằng sơ học, làm công quả, không lấy tiền. Học trò
cũng không đóng học phí.
Ngoài ra, cứ mỗi
tối những người công quả nội ô Toà Thánh ước chừng 400 người đều phải theo học.
Có những lớp dạy chữ, dạy kinh, dạy đạo tuỳ theo sự hiếu học của mỗi người”.
Báo cáo của Hội Nhơn
Sanh năm 1932 xác nhận có nhiều tiến bộ:
“Trường Đạo Đức Học
Đường năm nay có mở thêm được ba lớp học nam nữa. Một lớp năm thứ nhì (Cours 2
è année) và hai lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin), cộng chung là 11 lớp. Số học trò
được 417. Trong đó có 312 trò nam và 105 trò nữ, thêm được 143 trò, nhiều hơn
năm ngoái.
Kỳ thi tiểu học vừa
rồi, nhà trường có 26 trò đi thi đều đậu hết. Có 21 trò đậu luôn phần Pháp văn
(mention francaise). Mấy cô giáo và thầy giáo dạy nơi trường đều siêng năng lo
lắng dạy dỗ. Không người nào ăn lương bổng hết”.
Ta thấy tinh thần thầy
cô qua mấy chữ “siêng năng lo lắng” và “không lương bổng”. Dạy ngày không đủ,
các thầy cô tranh thủ dạy đêm. Các học trò từ xa xôi ngoại ô thánh địa, tay cầm
đèn chông, chân trần mò mẫm đêm hôm khuya khoắt vào Đạo Đức Học Đường để ôn
thi. Sự tận tâm kia với kết quả 100% thật là xứng đáng.
Truyền thống đó được
nối dài cho đến tận năm 1952. Năm đó trường có 60 lớp lợp bằng tranh, tường xây
gạch đất không nung (gạch sống), chỉ có một dãy lớp ngói ở phía trước cho các
lớp 1è annéc, 2è année. Có 10 lớp Cao Đẳng (Cours supérieur) đi thi tiểu học
với 5.393 thí sinh thi tại tỉnh lỵ, chỉ rớt một trò vì bị bịnh bất thường. Đó
là thành quả kỷ lục đền đáp công ơn thầy trò dạy và học hằng đêm làm rạng danh
đạo thời ấy.
Chính năm 1952 ngôi
trường phổ thông ở trên đường Hoàng Tòng Hướng, ngoài cửa số 7 ngoại ô được
trùng tu và cất thêm hai dãy để nhận học sinh vừa mới thi đỗ tiểu học. Nhà
trường phải mở 12 lớp đệ thất vì phải nhận thêm hai lớp cho học sinh ngoài
tỉnh.
Ngày khai giảng Đức
Phạm Hộ Pháp đến dự và đổi tên trường phổ thông thành trường Nghĩa thục Lê Văn
Trung để nhớ ơn Đức Quyền Giáo Tông người có công đầu tiên khai hoá nhân sanh
tại vùng thánh địa.
Con cháu nối bước. Năm
1961, giáo sư Trần Văn Rạng dạy trường Trung học Công lập Tây Ninh đưa đơn xin
phép lập “Hội ái hữu cựu sinh Đạo Đức và Lê Văn Trung” được Bộ Nội Vụ cấp giấy
phép hoạt động số 128-NĐ ngày 20-10-1961.
Cuối năm 1949, ảnh
hưởng chiến tranh nhiều gia đình di cư về Toà Thánh đem theo con cái vô nghề
rỗi công. Trước hoàn cảnh đó, giáo sư Hồ Thái Bạch (Hiền Tài) họp cùng một số
người đồng chí hướng lập ra Bá Nghệ Đoàn.
Trụ sở Đoàn nằm giữa
Đường Nhơn và Bắc Tông Đạo. Bá Nghệ Đoàn dạy cho thanh thiếu niên nhiều nghề
như mộc, hồ, đan, khắc mộc gỗ...Trong đó, chỉ có hai nghề đan mây tre lá và
khắc mộc gỗ cho Chơn Truyền Ấn Quán có nhiều người theo học và phát triển nhất.
Số thanh thiếu niên tụ
tập ngày càng đông. Giáo sư Bạch quyết hợp thức hoá với đạo và đời. Ông làm đơn
gởi lên văn phòng Hộ Pháp xin thành lập Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài và Đạo Linh
Sơn với Hội Hướng Đạo Việt Nam.
Ngày 5 tháng 5 năm
Nhâm Thìn (1952), Đức Hộ Pháp ký Thánh lịnh số 18/TL cho phép Đoàn Hướng Đạo
Sinh Cao Đài được phép hoạt động theo lời hứa và Luật Hướng Đạo.
Lời hứa hướng đạo
Tôi xin lấy danh dự
của tôi mà hứa rằng:
- Làm tròn bổn phận
đối với tôn giáo và tổ quốc
- Giúp ích mọi người
bất cứ lúc nào
- Tuân theo luật Hướng
Đạo
Luật hướng đạo
1 . Hướng Đạo Sinh là
người trọng danh dự.
2 . Hướng Đạo Sinh
tuân theo luật Đạo, luật nước và người cộng sự.
3 . Hướng Đạo Sinh
giúp ích mọi người bất cứ lúc nào.
4 . Hướng Đạo Sinh là
bạn của mọi người.
5 . Hướng Đạo Sinh lễ
độ và nhã nhặn.
6 . Hướng Đạo Sinh yêu
các giống sinh vật
7 . Hướng Đạo Sinh
vâng lời.
8 . Hướng Đạo Sinh vui
vẻ khi gặp khó khăn.
9 . Hướng Đạo Sinh
biết tiết kiệm của người và của mình.
10 . Hướng Đạo Sinh
trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm.
Bài hát chính thức
của Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài
Lời và nhạc: Vân Đằng
Đưa nhau lên đường anh
em thanh niên
Kiến tạo thanh bình
chúng ta bước đều
Hướng Đạo Sinh Cao Đài
! HĐS nhân nghĩa,
Hướng Đạo Sinh Cao Đài
! Từ bi, bác ái, công bằng.
Ta đi lên gieo vui
tươi muôn nơi
Ta đi lên, người HĐS. Cao Đài !
Để thực thi luật Hướng Đạo “giúp ích mọi người” Ban Huynh Trưởng hội
họp quyết định thành lập trường tiểu học Minh Đức - Tân Dân. Cơ sở trường đặt
trong nội ô ở gần cửa số 3.
Trường do huynh trưởng Lê Hoàng Hải (Lễ Sanh) làm cai trường. Ban giáo
viên gồm có: Nguyễn Thành Kỉnh, Nguyễn Văn Trạng, Lê Văn Cẩn....
Những học sinh cô nhi, con chức sắc neo đơn đều được ăn cơm tại trai
đường của đạo. Ban giáo viên ăn cơm tại trụ sở Hướng Đạo do tiền lương của giáo
sư Bạch cung cấp. Ngoài ra, không có lãnh khoản tiền nào khác và được cầu phong
vào hàng chức sắc. Trường phải đóng cửa vì ban thanh trừng.
Các ngày lễ lớn Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài lãnh tổ chức các cuộc vui
như đốt lửa trại, trình diễn văn nghệ, biểu diễn xếp chữ, trồng tháp.
Hoạt động của Đoàn từ 1952 đến 1955 có ba điểm son lớn:
- Giúp đỡ tương trợ đồng bào bị lụt năm Nhâm Thìn (1952) ở Tây Ninh.
- Lưu diễn văn nghệ ở miền Tây với quái kiệt Trần Văn Trạch giúp đồng
bào bị hoả hoạn ở chợ Thiếc năm 1953 (Sài gòn).
- Giúp đồng bào di cư 1954 tại trại tạm cư Trường Trung Học Lê Văn
Trung và những hoạt động từ thiện khác.
Hiệp Thiên Đài có thì Cao Đài giáo mới phát sinh. Hiệp Thiên Đài là cơ
quan thông công với các Đấng thiêng liêng. Toà nhà này toạ lạc trên Bình Dương
Đạo (nay đổi là đại lộ Phạm Hộ Pháp) và được khánh thành vào ngày 8-12 Đinh Hợi
(1947).
Câu liễn:
HIỆP nhập Cao Đài bá tánh thập phương qui chánh quả
THIÊN khai huỳnh đạo ngũ chi tam giáo hội
Long Hoa.
Đức Hộ Pháp có đến thuyết giảng, trích lược một vài đoạn như sau: "Các
Đấng tự hữu, hằng hữu, thiên hạ tưởng không có, họ lầm từ trước, người ta tưởng
Đấng ấy không có, Đấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa.
Đấng ấy có mơ mộng gì vô hạn ? Nhứt là Ngự Mã Quân của Chí Tôn biết
trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh Kim Khuyết, bỏ
Thiên Cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu tôi
không lầm, cơ bút đã cho tôi biết các bạn Hiệp Thiên do nơi đâu sản xuất ? Do
để giữ quyền thiêng liêng nên mới có 12 vị Thời Quân, Thập Nhị Địa Chi tức là
cảnh thiêng liêng vô hình của chúng ta.
Trước khi lãnh lịnh trên Bạch Ngọc Kinh tạo nền chơn giáo, Chí Tôn
quyết định có Ngài giáng thế mới được, Ngự Mã Quân không cho, bắt buộc phải có
người thay thế cho Ngài tức là thánh thể của Ngài tại đây.
Ngài đi mà không cho thì phải có hình ảnh thế cho Ngài mới được.
Hình ảnh của Ngài là Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên”.
Từ ngày lập giáo HTĐ chỉ quy định có 4 cặp cơ:
1 . Cơ lập giáo (Cư, Tắc)
2 . Cơ lập pháp (Hậu, Đức)
3 . Cơ truyền giáo
(Sang, Diêu)
4 . Cơ bí pháp (Nghĩa,
Tràng)
9 . Phái Tiên Thiên về Toà Thánh
Toà Thánh Tây Ninh lúc
nào cũng sẵn sàng đón rước các chi phái đạo trở về hợp tác. Thánh huấn số 380
ngày 22-3 Kỷ Sửu (19-4-1949) ghi: “Bần Đạo đã ân xá cho toàn cả chi
phái, bất cứ là ai, nếu nhập môn lại và vâng y luật pháp Toà Thánh sẽ là tín đồ
chánh thức của Đạo Cao Đài”. Thánh lịnh số 535 ngày 4-6 Kỷ Sửu (29-6-1949)
chấp thuận phái Tiên Thiên do ông Nguyễn Bửu Tài lãnh đạo đưa về Toà Thánh Tây
Ninh. Tất cả chức sắc này đều tạm chức Hiền Tài (Ban Thế Đạo) để đợi quyền
thiêng liêng định đoạt. Nhưng vẫn được giữ các Thánh Thất và được tạm dùng cơ
bút tại tư gia để học hỏi riêng chớ không được phổ biến.
Thánh lịnh số 302 ngày
27-5 Canh Dần (11-7-1950) thì chư chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong
thông qui ngày 30-10 Kỷ Sửu đã đệ trình lên Đức Lý Giáo Tông xem xét ngày mồng
3 tháng 1 Canh Dần được ân phong vào hàng chức sắc Toà Thánh như sau đây:
1 . Phối Sư Thượng Tài
Thanh tức Nguyễn Bửu Tài (1)
2 . Phối Sư Thượng
Hiền Thanh tức Phan Lương Hiền
3 . Giáo Sư Ngọc Dừng
Thanh tức Đinh Văn Dừng
4 . Giáo Sư Ngọc Thiện
Thanh tức Phan Lương Thiện
5 . Giáo Sư Thượng Tấu
Thanh tức Trần Văn Tấu
Còn Giáo Hữu thì đủ 3 phái
có 26 vị. Lễ Sanh 3 phái có 35 vị. Từ đây cả thảy tùng quyền Ngọc Chánh Phối
Sư, chủ trưởng chức sắc.
Ngày 23-12 Canh Dần
(30-1-1951) Đức Phạm Hộ Pháp lại ký thánh lịnh số 13/TL phong thêm 5 vị Giáo
Sư, 3 vị Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh. Nhưng họ không quen việc phế đời hành đạo nên
lần lượt rời khỏi thánh địa.
(1) Sau Nguyễn Bửu Tài bỏ
Toà Thánh về Sóc Sãi được tôn là Giáo Tông
Ngoài thánh thất ra,
Cao Đài giáo còn có Tịnh Thất để cho những tín đồ cần tĩnh dưỡng tiếp điển với các
Đấng. Ngày 15 tháng 12 Canh Dần (1950) Đức Hộ Pháp đã trấn pháp Trí Huệ Cung,
trong có Thiên Hỉ Động là ngôi Tịnh Thất đầu tiên đúng theo kiểu mẫu của nền
Đại Đạo do Đức Hộ Pháp chỉ vẽ xây cất.
Trí Huệ Cung là Tịnh
Thất của nữ phái, còn nam phái thì có Vạn Pháp Cung, trong có Nhơn Hoà Động ở
sân đình dưới chân núi Điện Bà. Trí Huệ Cung thuộc Trường Hoà, cách Toà Thánh
khoảng 10 cây số đường trường. Ngoài ra, còn có Trí Giác Cung trong có Địa Linh
Động. Đây là nhà tịnh của bào huynh ông Phạm Công Tắc. Đức Hộ Pháp giảng về Trí
Huệ Cung như sau:
“Trí Huệ Cung là
một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói
rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta mà nó là của toàn thể
nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh chí linh Đức Chí Tôn
nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh chí linh tức nhiên không có quyền nào
nắm nó được vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể
con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, tôn giáo hay nòi
giống nơi mặt địa cầu nầy.
Cửa Thiên Hỉ Động
là cửa thiêng liêng hằng sống của toàn thể các đẳng chơn linh nên nó không chịu
thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô
tận, vô đối của Đấng Chí Linh hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi
mặt địa cầu nầy tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy”.
Kể từ ngày 16 tháng 1
năm Tân Mão (1951) Đức Hộ Pháp vào Trí Huệ Cung tịnh luyện (vì Vạn Pháp Cung
chưa xây cất) trong thời gian 3 tháng. Đêm 17-4 năm đó, sau khi Đức Ngài ra
khỏi nhà tịnh đã thuyết đạo tại Đền Thánh như sau:
“Vậy Bần Đạo giải
rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không
mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra
ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại đặng
đem cơ quan cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống
như Đức Thích Ca vào vườn bồ đề ngồi thiền định đặng xin giải thoát cho chúng
sanh”.
Khi Đức Ngài đến Trí
Huệ Cung để nhập Tịnh Thất có nhiều thư gởi đến xin nhập tịnh một lượt với Đức
Ngài. Đức Ngài giải thích:
“Ngày giờ ấy chính
mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa
thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập
Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời
làm sao. May duyên thay Đức Chí Tôn thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội
diện cùng các Đấng cầm quyền thiêng liêng của đạo.
Muốn định thiên vị
của mình quyền thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam lập của mình
mới được, gọi là nhơn luân.
Nếu người nào không
có tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu
vi của đời tức nhiên thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có bí
pháp để đạt pháp, đạt đạo.
Ấy vậy tam lập là:
lập đức, lập công, lập ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có tam
lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết ðịnh cho ta, ta
phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được”.
Vào ngày 1-4-Quí Tỵ
(1953) Đức Ngài thuyết về phương pháp tịnh luyện như vầy:
“Hôm nay Bần Đạo
thuyết minh cái bí pháp, tức nhiên cái bí pháp tịnh luyện và khuôn luật tấn hóa
tạo đoan của con cái Chí Tôn, đối với cơ huyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho
chúng ta đặng cho chúng ta đoạt cơ tấn hóa.
Thật ra Đức Phật Tổ
chỉ đoạt được có một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi, mấy người đã đoạt được
vị Phật đều là ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời,
sống lụng lại ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết luật nhơn quả
của ta rồi nhờ kiếp nầy có thể đem tương lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước
được. Đoạt bí pháp ấy chúng ta mới có thể biết ta là ai, ta biết đường lối
chúng ta đi thế nào, ta có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ không phải
làm cơ siêu thoát đặng. Đoạt cơ siêu thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh
cho chúng ta đó vậy”.
Nhắc lại, ngày 14-01
Đinh Hợi (1947) Đức Hộ Pháp đã ban hành đạo lịnh số 209 chỉ dẫn về: Phương
luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo, “phương pháp trị tâm” vì tâm là
hình ảnh thiên lương và luyện thân luyện trí.
11 . Lập phố chợ Long Hoa
Từ lúc đạo mới gom về
quây quần nơi Toà Thánh thì chợ Ngã Năm (gần cửa số 4 nội ô) sầm uất sung túc
nhất, thứ đến là chợ thương binh (vì phần đất này dành cho thương phế binh Cao
Đài, nay là chợ Hiệp Lễ) và chợ Từ Bi trước Toà Nội Chánh. Số đạo hữu này về
lập nghiệp tại vùng thánh địa ngày càng đông nên Đức Phạm Hộ Pháp mới cho thiết
đồ án lập chợ Long Hoa.
Ngày 5-6-1951, Đức
Ngài ban phép lành và trấn thần Long Hoa Thị và hiểu dụ: “Bần Đạo cho
lập gấp cái chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh. Ngày
giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng
rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như
thế nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển
thế và huyền diệu thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy”.
Sở dĩ, Đức Ngài nhấn
mạnh: phải có là vì bấy giờ khu chợ Long Hoa chỉ là khu rừng toàn gốc cây gò
mối, chỉ có một hai đường truông sình lầy, giữa đường toàn gốc cây. Người ta
khó tin nơi đây trở thành ngôi chợ sầm uất.
Trong ngày 15-7 Quí Tỵ
(1953) khánh thành văn phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị, Đức Ngài nói: “Bần
Đạo rất trông cậy ở lòng nhiệt thành của toàn thể hãy giúp cho Ban Quản Trị và
Hội Thánh hoàn thành chợ Long Hoa thiệt (vì hiện giờ chỉ là tạm thôi). Khi
thiệt thọ rồi Bần Đạo dám chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết
bao nhiêu tươi đẹp nữa và ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông Đường để đào
tạo đám thơ sinh tiếp tục làm thánh thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực,
tâm tình đặng cứu khổ chúng sanh”.
Ngày hôm sau, Đức Ngài
đến đôn đốc công việc khai phá và hiểu dụ: “Hôm nay sau chỉ có 2 năm
Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi nhà tịnh Trí Huệ Cung về nơi đây Qua ban phép
lành nơi chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm chợ Long
Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi.
Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm
một khối thì không có gì mấy em làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự
nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh
phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
Chợ Ngã Năm mấy em
đừng tưởng có phép tắc huyền bí, Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà lại
ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết rằng: Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến
triển mạnh, hơn nữa mấy em do vị tổ chức của mấy em mà thôi, đủ thấy chợ Ngã
Năm thế nào ? Đủ địa thế phương tiện họat động vĩ đại hơn nữa. Vì cớ cho
nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em
ngó thấy chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết, Qua đã ngó thấy chen chúc với nhau
rồi đó, Qua liệu phương làm sao mở mang rộng ra nữa cho mấy em”.
Ngoài ra còn có chợ
Cẩm Giang, Bến Kéo, Tân Dân thị (tức chợ Qui Thiện), Đức Ngài còn hoài vọng lập
chợ Thiên Vương ở Thiên Thọ Lộ (xã Trường Hoà).
Từ khi mở đạo thiết
lập Toà Thánh tạm Hội Thánh đã mở rộng cửa từ bi nuôi nấng nhân sanh. Ai ai
cũng được đến “Trai đường” (nhà
cơm chay) dùng bữa. Nhất là khoảng thời gian 1947-1950, học sinh thường ghé ăn
trưa nơi trai đường. Khách thập phương cũng được tự do vào dự cơm chay để nếm
mùi đạo đức.
Trai đường gồm có hai
dãy nhà dài xây cất bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố có thể chứa hàng ngàn
người ăn cùng một lúc, toạ lạc sau Nữ Đầu Sư Đường đối diện với Giáo Tông
đường.
Theo thánh lịnh số 57
ngày 1-7 Tân Mão (3-8-1951) vì tình trạng khó khăn nên Hội Thánh không còn đảm
đương cho mọi người như trước nữa. Từ đó, Hội Thánh chỉ cấp dưỡng cho các chức
sắc thiên phong nam, nữ Hành Chánh và Phước Thiện, các chức sắc Hiệp Thiên Đài
các công thợ, giáo nhi và đồng nhi, cô nhi và lễ nhạc.
Trong Cao Đài giáo
ngoài nhà thờ các Đấng thiêng liêng, còn có các phủ từ thờ tông đường như Lê
phủ từ, Phạm phủ từ, Văn phủ từ v.v...
Trong năm 1952, Đức
Phạm Hộ Pháp cho lập các phủ từ các họ nào chưa lập và phủ dụ: “Từ
trước đến giờ Đạo Cao Đài lấy Tông Đường làm nền móng cho Đạo Cao Đài, từ đây
sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa, sẽ càng cao trọng hơn nữa. Không vì đạo mà vì Tông
Đường ta tạo dựng rồi bá tộc kia cũng làm, ngày kia ai không đạo họ cũng về tộc
họ. Luôn dịp mấy em tạo Phủ Thờ này công nghiệp mấy em đối với Đạo Cao Đài một
cách gián tiếp đó vậy, mấy em không thất đạo, một gương vĩ đại đối với đạo mà
chớ”.
Trong dịp đến hội ở
Phạm phủ từ, Đức Ngài phát biểu: “Ngày hôm nay Bần Đạo vào hội đây
chẳng phải lấy danh thể Hộ Pháp, chỉ lấy danh thể Phạm Công Tắc mà thôi.
Chữ hiếu là đứng
đầu hết không trọn hiếu không thể gì làm mọi điều khác được, chúng ta muốn có
một nghiệp đạo của mình cho đặng tận thiện tận mỹ vĩ đại, có thể nói rằng ta
muốn cho danh thể tồn tại nơi mặt thế này bền bĩ lâu dài; đại nghiệp thiệt của
chúng ta là đấy.Về nghiệp đạo đức tinh thần các bậc tiền bối của ta có nói
rằng: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế", ta có thể làm Đạo lập thân
danh ta được mà phải có hiếu trước đã,
Tạo Phạm Phủ Từ
chẳng phải riêng trong cửa đạo hay nội trong nước Việt Nam mà thôi. Chúng ta có
thể ngó tới Bắc Việt, ngó tới Trung Hoa, Tông Đường của ta ở mé biển nữa thành
thử một cơ quan vĩ đại”.
Do quan niệm trên,
việc lập các phủ từ cũng nằm trong mục đích truyền đạo, trong phương tiện tông
đường.
14 . Lễ đăng điện Xá Lợi Phật
Sau khi Đức Thích Ca
viên tịch thì các tông đồ thiêu thi hài của Ngài. Lóng xương chưa thiêu huỷ hết
được cất giữ như báu vật gọi là Xá
Lợi Phật.
Đại Đức Narada Théra
Phó Giáo Tông Phật giáo Tích Lan đem cho nước Việt Nam 3 hạt ngọc xá lợi: một
cho đại thừa, một cho tiểu thừa Phật giáo Việt Nam và một cho tiểu thừa Phật
giáo Campuchia. Vì đại thừa Phật giáo chưa quyết định để hạt ngọc ở đâu nên Đại
Đức Narada Théra giao cho Hoàng thái hậu Từ Cung, để đức bà tặng nơi nào tuỳ ý.
Kèm theo 3 hạt ngọc có 3 cây bồ đề: một cây tặng tiểu thừa Việt Nam, một cây
tặng tiểu thừa Campuchia và một cây tặng Toà Thánh Tây Ninh trồng gần cây phướn
trước Đền Thánh.
Đêm 18-5 Quí Tỵ (1953)
thiết lễ đăng điện Xá Lợi Phật Đức Phạm Hộ Pháp thuyết giảng như sau:
“Hột Ngọc Xá Lợi
đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông
của Đạo Giáo Tích Lan lấy của tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh. Chúng ta thấy cả
hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ
đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni (Boudda Çakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada
Théra thuyết đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác
thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại.
Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã
lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với mãnh thân phàm của Ngài cũng như
ai kia vậy. Trước kia Đức Phật Thích Ca đã thành Phật đặng thì chúng ta cũng
thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Đạo mong mỏi cả con cái
Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy”.
Cây bồ đề trước Toà
Thánh hiện nay được trồng dịp này.
Vào rằm tháng 12 Đinh
Hợi (25-1-1948) Đức Hộ Pháp ký thánh lịnh thành lập Khảo Cứu Vụ để nghiên cứu
về giáo lý, triết lý, đạo pháp, hệ thống hoá tư tưởng Cao Đài. Nội dung:
- Tổ chức giảng đạo
tại Toà Thánh và các Châu Đạo để phổ thông giáo lý ĐĐTKPĐ và các tôn giáo.
- Tổ chức các lớp huấn
luyện chức sắc, chức việc để đủ tài sức truyền giáo.
- Xuất bản báo chí để
phổ thông chơn đạo.
Thánh lịnh còn ghi rõ
phương pháp làm việc, lề lối tổ chức, chương trình hoạt động. Riêng bí pháp
tịnh luyện và phép tham thiền có ghi trong đó.
Sau khi thánh lịnh ban
hành đúng 75 ngày, vào 5-2 Mậu Tý (1948) Đức Hộ Pháp nói: “Tội nghiệp
thay mấy anh lớn già yếu đã giải thoát không được hưởng một đặc ân gì. Hiện
thời bí pháp có ảnh hưởng đến nền đạo. Nơi Hiệp Thiên Đài lấy bí pháp tạo huyền
linh đài để tương liên với quyền năng vô hình." (Thông tin số
59).
Mãi đến ngày 4-5-Nhâm
Tý (1972), Ngài Trương Hiến Pháp Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài mới ban hành
thánh lịnh số 53-TL tái lập Khảo Cứu Vụ để đáp ứng nhu cầu tiến triển của nền
đạo.
Theo lời thuyết đạo
của Đức Hộ Pháp: Thập Nhị Bảo Quân là Hàn Lâm Viện của đạo, là hội đồng khoa
học xã hội tôn giáo. Tới nay Bảo Quân chưa đủ số nên chưa thực hiện được chức
năng. Do đó Khảo Cứu Vụ thay Bảo Quân làm những nhiệm vụ tương đối thấp hơn.
Bởi lẽ, công cuộc khảo cứu đòi hỏi phải có tri thức, khả năng chuyên môn và tầm
hiểu biết sâu rộng trên mọi lãnh vực. Nếu thực hiện được tư tưởng Đạo Cao Đài
sẽ đặng hệ thống hoá và luận tạng sẽ ra đời.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét