LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI VỀ GIÁO LÝ (1925 - 1955) - 6 / 7 ( HT. TRẦN VĂN RẠNG )


Phấn khởi về những thành quả tốt đẹp, Hội Thánh TTTN bổ thêm 2 vị chức sắc để tăng cường phái đoàn truyền giáo, đó là 2 vị: Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh và Nữ Lễ Sanh Hương Thơm (Nguyễn Thị Thơm là bạn đời của ông Lê Thế Vĩnh).
Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh lo tổ chức hệ thống hành chánh đạo, thành lập địa phận đạo Bắc Việt, Họ đạo Hà Nội, các Quận Đạo và Hương đạo, tạm cử chức sắc và chức việc cai quản các cấp.
Thấy đã ổn định việc đạo nơi đây, ĐHP liền rút Ngài Tiếp Thế và Bà Lễ Sanh Hương Thơm trở về TTTN. Hội Thánh liền bổ Giáo Sư Thượng Bảy Thanh hành đạo Hà Nội để tiếp nối và phát huy việc đạo tại đây và ông Giáo Sư Bảy thành công rực rỡ tại Hà Nội.

Nhưng ông Giáo Sư Bảy lại phạm tội lập phe phân phái nên bị ĐHP buộc lòng phải ra thánh lịnh ngưng quyền và giáng cấp xuống tín đồ sau đó thì trục xuất.
ĐHP bổ Giáo Sư Ngọc Non Thanh ra thay thế Giáo Sư Bảy và bổ Lễ Sanh Giáo Thiện Nguyễn Vãn Ráng (đạo hiệu Hiệp Phố) ra Hà Nội lập các cơ sở Phước Thiện.
Giáo Sư Ngọc Non Thanh yếu kém năng lực hành đạo làm việc không kết quả nên Hội Thánh rút về Tòa Thánh và bổ Giáo Sư Thái Đến Thanh ra thay thế.
Giáo Sư Đến là nhà nho học uyên thâm, thuyết đạo rất hay nên rất được các tín đồ trí thức cựu học tôn trọng. Mấy năm sau, chiến tranh thế giới lan rộng, các chức sắc đều trở về miền Nam, giao việc hành đạo lại cho các chức việc tại Hà Nội.

8 . Ước vọng của Hội Thánh Cao Đài
Cái nguyện vọng yêu thiết của chúng tôi là Pháp triều hải ngoại biến thành như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng mỗi ngày dưới tài hành động hay ho của Mẫu quốc và cả lực lượng của chúng tôi chú trọng về sự tăng tiến nầy làm thế nào cho các đồng hương chúng tôi thấy đặng và hiểu đặng.
Một nguyện vọng riêng nữa mà nguyện vọng nầy liên hiệp với tài cảm hóa Lang Sa là trong phận sự của chúng tôi khỏi bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo khác vì cả người tùng giáo có thể bị quấy tưởng rằng lòng phước thiện của chúng tỏi không chơn thật bởi không thể biểu diễn nó ra đặng.

Đã trải qua mấy năm rồi, vì không hiểu luật pháp Lang Sa thi hành nơi cõi Đông Dương, chúng tôi nong nả lập một dưỡng lão đường, một ấu trĩ đường, một cơ quan công nghệ cho hạng trai tráng và thất nghiệp và tìm muôn chước mong nâng đỡ các bạn chúng tôi, vì họ cần cho chúng tôi vừa giúp.
Chúng tôi đã bị buộc tội ra trước tòa án, và vì riêng chịu hại mà đặng hiểu rằng: Phước Thiện là điều độc chiếm của quốc gia hay là riêng để cho một phần người thôi.
Sự thi hành luật pháp nầy phản khắc với tôn chỉ cũ kỹ, quảng đại của Nho giáo và cũng là cái trở lực làm cho chúng tôi không thể tuyên truyền tư tưởng Pháp triều cho những hạng người chơn chất đến chúng tôi với tấm lòng chơn thật và trí ý đơn giản trong điều tận thiện. Họ không quen với Machiavel (mưu thần của Ý Đại Lợi nghĩa là xảo trá và gian ngược) và họ cũng không hiểu cái ý định của lẽ quốc chánh là gì ?

Trước mắt họ có hiển nhiên nhiều điều nghịch hẳn với tâm lý công bình của họ khi đã thấy những kẻ tùng giáo Gia Tô đặng bày bố các cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh phủ trợ giúp, còn Đạo Cao Đài đeo đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng với nguyên liệu hẹp hòi của họ mà cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ lấy nhau rất cần yếu cho những kẻ nghèo hèn là vì đạo thiếu quyền chủ sản (Personnalité civile).

Những huê lợi của chúng tôi đã bị phá tán ngay khi nó mới nảy sanh ra vì Đạo Cao Đài chẳng đặng làm chủ sản nghiệp chi của nó chưa đặng nhìn nhận về chánh thể và cũng không tạo đặng một hội giáo hầu làm chủ sản nghiệp.

Kể một người phẩm giá thường tình mà chống chỏi với dục tâm có thể khai quyết rằng: “Cả của cải nẩy là của tôi” và đặng làm chủ vĩnh viễn gia nghiệp của họ đứng tên, khi họ đã hiểu chúng tôi không có phương nào buộc tội họ trước tòa án thì mới để tin sao đặng ?
Chúng tôi cầu xin thiết yếu cho điều khuất phược ấy tiêu hủy và xin đặng phép lập một Hội giáo rồi lấy đó đứng làm chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.

Chừng đó, chúng tôi sẽ có đủ quyền nói đến lòng nhơn hậu của Pháp triều và bày tỏ ra rằng tinh thần Thiên Chúa giáo và Nho giáo không có phản khắc cùng nhau và tôn chỉ Lang Sa, nếu thật hành cho chánh đáng thì giúp hay cho sự mở mang và điều hạnh phúc cho quốc dân Nam Việt. Sự tăng tiến nầy, quốc dân Nam chẳng hề trông nơi vương quyền bạc nhược của họ mà có đặng.

Xin cho chúng tôi có phương pháp đặng đeo đuổi theo thượng đạt của chúng tôi tức là cái thượng đạt của các Ngài đó vậy và đừng để cho chúng tôi chịu khuất phược dầu trong xứ bảo hộ cũng vậy là nơi mà đạo của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với sự tham tàn đương nhiên thành hại.
Ấy chẳng phải nhà vua không muốn tôn chỉ của chúng tôi, mà tại các tham quan ô lại bị nó chỉ trích, nên xung đột chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái tài cảm hóa của nó.

Ấy là Việt Nam tối cổ của quan lại buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả giá trị tinh thần giáo lý của chúng tôi mà do các quan lại phát nộ e cho thất phát tiều lợi của họ. Thật chẳng hề khi nào phải chính nhà vua vì nhà vua cũng thường muốn cho cả quốc dân mình đặng hưởng hạnh phúc.

Chung quanh chúng tôi, xúm xít những hạng lao động về đất điền, hạng thương nhơn nho nhỏ, hạng người chơn thật chẳng biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành gọi là lành và chỉ trông mong nơi kết quả của sự làm lụng của họ, hạng đã đeo đuổi theo sự sanh hoạt “không trông công danh mà cũng khồng trông lợi lộc” là theo lời của Edmond Rostand; tuy họ không có tìm kiếm cái đặc ân nào, duy ít nữa muốn gìn giữ đặng cả của cải do bởi công trình làm lụng của họ.
Ấy vốn là những người đã không chịu từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng nhiều sở lợi họ có thể thâu thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự phải bất cứ nơi nào mà đến và kể cho rằng: xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh khiết có thể gần gũi cùng đạo nhà của họ là một điều thất đức.

Muốn làm cho ra hiện tượng những phương cải cách ấy, chúng tôi định, cũng như mọi việc khác là duy để tín nhiệm trọn vẹn nơi Pháp triều vì lịch sử của Pháp đã đứng đầu văn hóa, quyết định lẽ nầy và chúng lôi trông đợi với tấm tình nhẫn nại cho qua đỗi khảo đảo thử thất chúng tôi và những điều liễu kết hay ho đã thành tựu, e cho không thường trọn khai cho Pháp triều hiểu thấu.
Chừng ấy nước Pháp sẽ nhìn nhận chắc rằng: do nơi tay của nước Pháp thâu hềt đặc ân trước nhứt theo đường tấn hóa ban cho chúng tôi và trong cơn ấy nước Pháp sẽ ân hận lấy mình là trễ rộng đưa tay mà dìu đỡ chúng tôi đó.
Lập tại Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh
Ngày 12 tháng 11 năm 1937
Ký tên PHẠM CÔNG TẮC
Giáo chủ Đạo Cao Đài hay Phật giáo Chấn hưng

9 . Đạo luật năm Mậu Dần (ngày 8-1 Mậu Dần 1938)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh

TỜ KIẾT CHỨNG

của chư chức sắc thiên phong toàn thể Chánh Trị Đạo.
Nhóm tại Tòa Thánh ngày mùng 8 tháng giêng năm Mậu Dần (dl 7–2–1938). Khi Lễ Viện rước Đức Hộ Pháp đến nhà hội, chư chức sắc thiên phong nam nữ đồng đứng dậy chào mừng. Có mặt:

* HIỆP THIÊN ĐÀI:
- Đức Hộ Pháp
- Ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
- Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang Thế
- Ông Tả Phan Quân Trang Văn Giáo
- Ông Truyền Trạng Nguyễn Tấn Chức
- Ông Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển
- Ông Sĩ Tải Huỳnh Văn Đại
- Ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Hợi
- Ông Sĩ Tải Võ Thành Quốc
- Luật Sự Nguyễn Văn Hoa

* CỬU TRÙNG ĐÀI:
Nam phái:
- Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh
- Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng Chữ Thanh
- Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Phấn Thanh.
- Giáo Sư: 9 vị
- Giáo Hữu: . . . . . . . 13 vị
- Lễ Sanh: . . . . . . . 187 vị

Nữ phái:
- Bà Phối Sư Hương Hiếu
- Bà Giáo Sư Hương Nhiều
- Bà Giáo Sư Hương Quế
- Bà Giáo Sư Hương Châu
- Giáo Hữu: 6 vị
- Lễ Sanh: . . .

Đức Hộ Pháp mời chư Thánh đứng dậy tụng Kinh Nhập Hội, rồi để lời cám ơn chư chức sắc đương quyền tựu về dự hội đông đủ và dẫn giải các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, tóm tắt đại ý như vầy:

Hiện nay trong nền Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có bốn cơ quan là:
1 . Hành Chánh
2 . Phước Thiện
3 . Tòa Đạo
4 . Phổ Tế

HÀNH CHÁNH là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y luật pháp mà đi trên con đường đạo đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.

PHƯỚC THIỆN là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành luật pháp cho đặng dễ đàng trọn vẹn.

TÒA ĐẠO là cơ quan bảo thủ chơn truyền, gìn giữ luật pháp, chăm nom chư chức sắc, chức việc và đạo hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, binh vực những người cô thế hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt đạo, lại cũng là một cơ quan giúp cho hành chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyển mạnh mẽ, tôn nghiêm đặc sắc. Tóm lại là phương bảo toàn sanh chúng khỏi điều thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của chức sắc đương quyền hành chánh.

PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thốỉ tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ Hữu tâm tầm đạo.
Tổng hợp 4 cơ quan nầy lại gọi là toàn thể Chánh Trị Đạo.
Mỗi năm, ngày vía Đức Chí Tôn, cả chức sắc thiên phong nam nữ có trách nhậm trong nền Chánh Trị Đạo phải hội nhóm lại đặng chia ra quan sát tờ Vi Bằng của Quyền Vạn Linh ước vọng, cùng tầm phương pháp thật hành cho nên mặt Đạo.

Sau khi bốn cơ quan hiện hữu của toàn thể chánh trị đạo hiệp nhau lập luật và quyết định phương pháp thật hành thì buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành luật, vì bởi theo thiên ý của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho chúng sanh tự lập luật mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập thành với Tân Luật gọi là Luật Hội Thánh.

Ấy vậy, bên hành chánh, ông Ngọc Chánh Phối Sư hiệp cùng nhị vị Thái và Thượng Chánh Phối Sư lo sắp đặt đặng quan sát.
Bên Phước Thiện thì có ông Khai Pháp HTĐ làm đầu.
Bên Tòa Đạo thì chư vị Sĩ Tải HTĐ hiệp nhau lập luật và định phương pháp thực hành.
Bên Phổ Tế thì có Giáo Sư Thượng Đức Thanh và bà Giáo Sư Hương Quế hiệp nhau lo lắng.
Đến ngày 14 nầy, phải hội hiệp lại đặng chung nhau bàn định.
Tới đây hết điều bàn tính, Đức Hộ Pháp truyền tụng kinh Xuất Hội. Bãi hội lúc 11 giờ rưỡi

10 . Hội Thánh dạy toàn đạo cầu nguyện cho thế giới được hòa bình (ngày 13-8 Mậu Dần 1938)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng        
Nội Chánh

CHÂU TRI số 60

Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Gởi cho chư chức sắc thiên phong,
chức việc và đạo hữu nam nữ,
Kính chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội.
Hội Thánh cho toàn đạo biết rằng: Trong càn khôn thế giới chỉ có một Đấng công bình hơn hết, biết thương yêu nhơn loại là Đức Chí Tôn. Ngài biết cái đời người vì miếng đỉnh chung mới chất đầy oan nghiệt nơi bể khổ sông mê mà phải chịu đọa đày muôn kiếp.
Vì đó, Đức Chí Tôn mới hiệp cùng thần, thánh, tiên, phật, hầu khai mối đạo huyền vi nơi miền Đông Á cho toàn nhơn loạị hưởng nhờ về chủ nghĩa đại đồng hòa bình thế giới.
Muốn cho hòa bình thì phải biết thuận lòng trời mà thật hành chữ thiện, biết lẫn tuất thương sanh, biết yêu người mến vật, dầu cho cầm thú côn trùng cũng không nỡ đành lòng sát hại.
Huống cho con người tối linh hơn vạn vật, lại chẳng thương xót đó sao ? Dầu sắc dân nào cũng là con chung của một đấng tạo đoan, đồng sanh đồng hưởng nhưng phần đông bất tùng thiên lý mới hóa ra trường náo nhiệt não nề, rốt cuộc rồi biết bao nhiêu thống khổ, những điều đau thảm mất còn, đìu hiu cảnh vật.

Ai đứng làm người đã có đủ tai mắt như ai, há chẳng thương tâm đổ lụy về cái nạn ách nước tai trời với đao binh dấy loạn. Bởi vậy mấy tháng nay, chúng ta đã hết lòng cầu nguyện cho toàn thiên hạ được thái bình, dìu dắt nhau đi trên con đường thánh đức. Nhờ chí tâm thiện niệm của chúng ta ngày nay mới thấy câu: Hoàng Thiên bất phụ đạo tâm nhơn, nên lời chí nguyện kia đã kết quả.
Hiện giờ thế giới đã hòa bình, các nước liệt cường đã yên tịnh, thế thì tai biến đã hầu qua, chúng sanh cũng nên vui mừng thấy được những điều hạnh phúc, với cái lòng sở nguyện của chúng ta từ thử đến giờ, đời người dầu không rõ, Trời Phật cũng quang minh.

Vậy thì khi đến ngày 30–8 Mậu Dần, chức sắc, chức việc và đạo hữu nam nữ tựu lại thánh thất sở tại, trước dâng lễ Đức Chí Tôn, sau tỏ lòng cảm tạ ơn Ngài và chư thần, thánh, tiên, phật. Nhờ Ngài mà miền Âu Châu được hòa bình yên tịnh. Còn Á Đông cũng được biển lặng trời êm, khỏi xảy ra những điều khốc hại tai nàn cuộc đao binh rối loạn.
Chư đạo hữu phải thành tâm trai giới, hết lòng cầu nguyện mới cảm hóa lòng trời thì ắt gặp phước lành chan rưới.
Châu Tri nầy gởi cho toàn đạo thi hành y theo lịnh dạy.

Lập tại Tòa Thánh, ngày 13–8 Mậu Dần (dl 6–10–1938)
Quyền Thái CPS                       Quyền Thượng CPS                Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh                  GS Thượng Chữ Thanh      Ngọc Trọng Thanh

Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC

11 . Hội Thánh dạy cách lạy và tang tế sự (ngày 18-8 Mậu Dần 1938)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh

Văn phòng
Nội Chánh

CHÂU TRI số 61

Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Gởi cho chư chức sắc thiên phong, chức việc và đạo hữu nam nữ,
Kính chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội.
Từ ngày Đức Chí Tôn khai đạo đã 12 năm rồi mà chư chức sắc, chức việc và đạo hữu chưa hiểu cách lạy ra sao nên Hội Thánh nhắc lại một lần nữa, trong Tân Kinh trang số 5, còn Thánh Ngôn Hiệp Tuyển trang số 12, có cắt nghĩa rõ ràng, tại sao không chịu hiểu ?
Mỗi khi đàn lệ, ngày vía các Đấng hay là tuần tự, có nhiều vị không biết lạy là chi ? Buộc lòng Hội Thánh phải nhắc lại và chỉ rõ các khoản sau đây:
Khoản chữ A:
1 . Lạy Thầy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
2 . Lạy Phật, lạy Tiên, lạy Thánh: 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, (1) mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm đã rồi không cần nhắc lại.
(1) Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử là Tam Giáo Chủ và Tam Trấn mới lạy 9 lạy, còn các Thần, Thánh khác thì lạy có 3 lạy.
Còn xá bàn Hộ Pháp là tại Tòa Thánh và các thánh thất, còn các nhà tư như tuần tự có vọng bàn Hộ Pháp mới xá. Còn nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá, có nhiều khi nhà tư hoặc lễ vía hiến các Đấng cũng xá đó là sái phép.
3 . Từ Đầu Sư đổ lên qui vị hoặc tuần tự thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu và tước phẩm vị ấy.
4 . Từ Chánh Phối Sư đổ xuống Lễ Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.
5 . Chánh Trị Sự đổ xuống tín đồ lạy 4 lạy.
6 . Còn lạy người thì 2 lạy. Nhớ lấy dấu Phật Pháp Tăng duy có một mình Đức Chí Tôn mà thôi, còn lạy thần, thánh, tiên, phật thì không có lấy dấu chi hết.
Khoản chữ B:
1 . Về việc tuần tự, người nào được 10 ngày chay sắp lên mới được thọ bửu pháp, nghĩa là có làm phép xác thì được dùng Tân Kinh, từ nhứt tuần cho đến Đại Tường, còn dưới 10 ngày chay thì không được làm phép xác, không được tuần tự y theo Tân Kinh, chỉ được cầu siêu bạt tiến, nghĩa là: Tụng bài “Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ” và tụng “Di Lạc Chơn Kinh” mà thôi. Hai hạng nầy được thượng sớ cầu siêu cho vong linh.
2 . Con nít từ 3 tuổi sắp lên giữ được 10 ngày hoặc chay trường cũng được làm phép xác y như Tân Kinh. Tuy nhỏ tuổi mặc dầu mà chơn linh trong sạch lại biết tùng theo luật pháp của Đức Chí Tôn nên được hưởng ân huệ ấy.
3 . Trong nhà con kiến có đạo, có thờ Đức Chí Tôn mà cha mẹ hoặc một người con nào không có nhập môn, rủi có qui vị thì đạo hữu được đến cầu siêu hoặc bạt tiến, chớ không làm theo Tân Kinh và không thượng sớ được vì không có chưn trong đạo và không phải môn đệ của Đức Chí Tôn, cũng không được đi thuyền Bát Nhã.
4 . Việc quan hôn tang tế, nhứt nhứt đều dùng toàn đồ chay, nếu nơi nào còn làm nửa chay nửa mặn, chức sắc chức việc không được dự đến mà còn phạt chủ nhà là khác.
Châu tri nầy phải truyền bá cho toàn đạo nam nữ rõ, sau khỏi điều than van oán trách.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 18–8 Mậu Dần (dl 10–10–1938)
Quyền Thái CPS                       Quyền Thượng CPS                Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh                  GS Thượng Chữ Thanh      Ngọc Trọng Thanh

Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC

12 . Đức Hộ Pháp thuyết về chơn pháp (ngày 15-9 Mậu Dần 1938)
Đức Chí Tôn đào tạo chơn pháp vô lượng vô biên để cho nhơn loại thi hành mà đoạt phẩm vị thiêng liêng thần, thánh, tiên, phật.
Chơn pháp cũng có một như chơn luật vậy.
Chơn luật của Đức Chí Tôn đã chỉ rõ là thương yêu, còn chơn pháp là công bình.
Luật pháp của Đức Chí Tôn đã chỉ rõ ra sau đây thì toàn cả nhơn sanh đều nghe hiểu biết và thường nói: Chỉ có một điều là tại không thực hành. Nếu con người dưới thế nầy đồng thi hành y theo chơn pháp công bình thì đời sẽ trở nên tận thiện tận mỹ mà cơ tận diệt sẽ tiêu tan không còn thấy tấn tuồng bi ai thảm đạm như thế.
Tóm lại, cái sở hành chơn pháp công bình chỉ dùng một câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, nghĩa là: Những điều nào mình chẳng muốn ai làm cho mình phải buồn than đau đớn thì tức nhiên ta không nên làm mấy điều ấy cho người khác.

Pháp công bình của Đức Chí Tôn là một cây cân song bằng, một đầu là tiên thật, một đầu là quỉ ma, chánh tà phân biệt đôi bên, ấy là pháp công bình lành thưởng dữ răn, lành siêu dữ đọa.
Đức Chí Tôn muốn cho con cái của Ngài đều đặng cao thăng phẩm vị thiêng liêng, chớ không bao giờ Ngài tạo địa ngục để đày đọa hình phạt nhơn sanh mà trái lại do nhơn sanh tạo thành cảnh khổ ấy.

Ví dụ như một ông cha trong gia đình, có khi nào lập khám đường ngục thất để cầm tù con bao giờ. Những điều khổ hạnh ấy là tự nơi con đào tạo nơi mặt thế nầy, cũng là một trường học để cho con người suy gẫm, tự giác tâm hồn, hầu giải thoát bến mê, tầm đến cảnh thiêng liêng an nhàn tự toại.
Nếu con người muốn an nhàn tự toại nơi cảnh thiêng liêng hằng sống thì phải thực hành y theo chơn pháp của Đức Chí Tôn.
Ngày nào nhơn sanh trên mặt địa cầu nầy mà biết tôn trọng và thật hành y theo luật pháp của Đức Chí Tôn cho ra chân tướng thì mới mong thoát khỏi cơ tự diệt tức là ngày của nhơn sanh chung hưởng mọi diều hạnh phúc của Đức Chí Tôn ban tứ.

13 . Thành lập Hội Thánh Phước Thiện (ngày 19-10 Mậu Dần 1938)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tam niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn Phòng
Hộ Pháp           
Số: 48/PT         
ĐẠO NGHỊ ĐỊNH

Chiếu y Pháp Chánh Truyền ban quyền hàrih cho Giáo Tông và Hộ Pháp
Chiếu theo Đạo Nghị Định số 4/60 phân định quyền hành cho CTĐ và HTĐ ngày 4–11 Ất Hợi (dl 29–11–1935)
Nghĩ vì Hội Thánh duy có một mà quyền đạo có bốn phương là: Hành Chánh, Tòa Đạo, Phước Thiện và Phổ Tế.
Nghĩ vì CQPT cốt để mở đường thánh đức cho toàn sanh chúng có đủ phương thế nhập vào thánh thể, người ngoại giáo có thể nhờ nơi cửa Phước Thiện mà hiệp một cùng Hội Thánh, nên :

NGHỊ ĐỊNH

Điều thứ nhứt: Hội Thánh sẽ tuyển chọn trong hàng chức sắc thiên phong đủ hạnh đức, đủ công nghiệp đặng chiếc ra lo khai hóa, giáo hóa cả CQPT đặng cứu thế độ đời.
Điều thứ nhì: Chức sắc Phước Thiện chú trọng nhập vào Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, kể ra dưới đây:


1 . Minh Đức
2 . Tân Dân
3 . Thính Thiện
4 . Hành Thiện
5 . Giáo Thiện
6 . Chí Thiện
7 . Đạo Nhơn
8 . Chơn Nhơn
9 . Hiền Nhơn
10 . Thánh Nhơn
11 . Tiên Tử
12 . Phật Tử


Điều thứ ba: Những người ngoại giáo hay chư vị đạo nhơn các nền tôn giáo khác muốn nhập vào cửa đạo thì Hội Thánh sẽ do nơi công nghiệp Phước Thiện của họ mà định vị, tùy theo công nghiệp nhỏ lớn đặng định phẩm từ bực Minh Đức tới Chơn Nhơn mà thôi.
Còn bậc Hiền Nhơn đổ lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn chơn pháp nên các phẩm vị nầy phải có cơ bút giáng phong mới đặng.
Điều thứ tư: Cả CQPT đều giao cho HTĐ chưởng quản.
Điều thứ năm: Chức sắc Phước Thiện không có đạo phục riêng, duy đặng Hội Thánh ân tứ lịnh bài và sắc lịnh, kể ra sau nầy:
- Minh Đức và Tân Dân duy có lãnh cấp bằng, mặc áo đạo phục trắng trơn mà thôi, không có dấu hiệu chi ngoại thể.
Bậc chức sắc thiên phong hay là chức việc thì mặc đồ đạo phục của minh, những người ngoại giáo thì phải mặc khăn đen áo dài theo quốc phục.
- Thính Thiện, Hành Thiện và Giáo Thiện thì lãnh sắc lịnh phái Ngọc, có lịnh bài của mỗi phẩm vị ấy gắn giữa dây Sắc Lịnh ngay ngực.
- Chí Thiện, Đạo Nhơn và Chơn Nhơn mang dây sắc lịnh phái Thượng, có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị của họ ngay ngực.
- Hiền Nhơn, Thánh Nhơn và Tiên Tử thì mang dây sắc lịnh phái Thái, có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị của họ ngay ngực.
Phẩm Phật Tử thì do nơi cơ bút của Chí Tôn định và mặc sắc phục chi thì tự nơi Người định đoạt.
Điều thứ sáu: Sắc lịnh và lịnh bài của Phước Thiện duy mặc nơi thánh thất và Tòa Thánh để chầu lễ Đức Chí Tôn mà thôi, không đặng phép dùng theo đồ thường thế.
Điều thứ bảy: Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài tùy phận sự mình thi hành Đạo Nghị Định nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (dl 10–12–1938)
GIÁO TÔNG                   HỘ PHÁP
(ký tên)                               (ký tên)
LÝ THÁI BẠCH   PHẠM CÔNG TẮC

14 . Chánh phủ Pháp khoan hồng với Đạo Cao Đài (ngày 18-11 Mậu Dần 1938)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn phòng            
Nội Chánh
Số: 66
CHÂU TRI
Quyền THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

Gởi cho chư chức sắc thiên phong,
Chư chức việc và đạo hữu nam nữ.
Vừa rồi, Hội Thánh có tiếp đặng thêm một tin mừng nữa, do quan Trạng Sư Idylle cố vấn của đạo đưa đến là bức thơ của quan toàn quyền Đông Dương đã gởi cho người mà Hội Thánh dịch văn và ghim theo đây.
Chẳng cần nhắc, toàn đạo cũng hiểu rằng: Thuyền đạo đã lướt qua trận phong ba vừa rồi mà vẫn đặng vững vàng êm ái là cũng nhờ có ông Mandel, Tổng Trưởng thuộc địa Thượng Thơ đã tận tâm bảo bọc. Nhiều phen vị thượng quan nầy ra lịnh cho nhà cầm quyền nơi đây phải để cho Đạo Cao Đài tự do tín ngưỡng, cúng kiếng và phổ thông chơn giáo, khỏi bị điều trở ngại như việc đã xảy ra vừa rồi.
Kịp đến khi quan tân Thống Đốc Rivoal lên thay thế cho quan cựu Thống Đốc Pagès thì cũng vẫn sẵn có cái tri ý như quan Tổng Trưởng nên liền đổi ngay chánh sách cũ là cốt yếu để cho Đạo Cao Đài vùng vẫy trong bầu không khí khoan hồng hầu làm cho quyền đạo và quyền đời đặng tương liên hòa hiệp.
Ấy vậy, Hội Thánh xin toàn đạo khá để trọn vẹn tín nhiệm nơi sở hành chánh đáng và cao thượng của quan Tổng Trưởng thuộc địa Mandel, quan toàn quyền Brevié và quan Thống Đốc Rivoal mà bôi xóa những sự lầm lạc nhỏ nhen của một đôi nhà cầm quyển nơi đây đã tạo khổ cho đạo từ thử và nên khắc cốt ghi xương rằng: Những tay phá đạo tức là ân nhân của đạo hầu làm cho giống dân Pháp – Nam đặng gầy khối thương yêu mật thiết hơn nữa, y như lời dạy của Chí Tôn buổi nọ.
Hội Thánh để lời khuyến khích chư chức sắc thiên phong và toàn đạo nam nữ khá sấn tâm tiến bước thêm mãi trên con đường chánh đáng và cao thượng.

Lập tại Tòa Thánh, ngày 18–11 Mậu Dần (dl 8–1–1939)
Đồng ý kiến:
Quyền Thái CPS                       Quyền Thượng CPS                    Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh               GS Thượng Chữ Thanh              Ngọc Trọng Thanh

Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: PHẠM CÔNG TẮC

15 . Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài làm cơ quan chuyển thế (ngày 1-12 Mậu Dần 1938)
Nhơn loại trên mặt địa cầu nầy do nơi các chơn linh tùy theo căn quả mà luân hồi chuyển kiếp đến cõi trần, thành lập ra một trường học của đời.
Trong trường ấy có nhiều lớp và bài vở có nhiều đoạn rất hay ho để cho nhơn sanh phấn đấu cùng nhau mà đoạt cơ tấn hóa đến các bậc thần, thánh, tiên, phật.

Con người mỗi hàng phẩm đều có trình độ cao thấp khác nhau noi theo cái trách nhậm ấy thi hành cho đặng liễu kết hoàn toàn phòng lập cao phẩm nhơn tước hay là thiêng liêng chi vị.
Nói ví dụ, một cái gia đình hoặc xã hội quốc dân thì có vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu, v.v... Mỗi người đều biết cư xử cho trọn bổn phận, thật hành y theo khuôn luật là phụ từ tử hiếu, huynh đệ cùng phu nghĩa phụ tiết, trưởng huệ ấu thuận, quân nhơn thần trung, ngoài ra còn tình bậu bạn giao thiệp cùng nhau, phải gìn lòng thành tín ấy là đủ tư cách làm người, mới mong mỏi vào trường đạo đức, từ từ noi theo đẳng cấp mà thẳng tiến đến phẩm vị thiêng liêng, tức là cảnh thung dung an nhàn tự toại.

Trái lại, con người ở thế, đã chẳng lo nong nả bước hành trình cho xong mà lại còn chen lấn ồn ào dục vọng theo con đường tăm tối mơ mộng gọi là thích chí hân hoan, chẳng còn nhớ đến cái phận làm người bao nả.

Than ôi! Phong di tục dịch, đảo ngược nhơn luân, trong gia đình mỗi người tự do hành dộng, cha chẳng biết bổn phận làm cha, con không biết hiếu sự là gì, trai gái không thừa mạng mà cũng không phụng mẫu nghi... Còn vợ chồng thì sớm đổi chiều thay, không gìn câu tiết nghĩa, luân lý suy đồi, cang thường hư hoại, gia đình như thế thì tức nhiên đã mất quyền vi chủ.
Người đời thì tín ngưỡng theo thế lực kim tiền, ưu thắng liệt bại, yếu thiệt mạnh hơn, khôn còn dại mất. Mảng đua chen trên con đường vật chất hữu hình, không chú trọng đến thánh đức linh tâm, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương, tạo khuôn khổ cho đời thành ra trường tự diệt.

Hiện nay, cả hoàn cầu thế giới, nhơn sanh đồng hăng hái bôn xu trên chốn võ đài mà diễn ra một tấn tuồng phấn đấu lợi quyền.

Ôi ! Lương tâm khuyết điểm, chẳng kể gì đến dạo đức tinh thần, cõi đời ngày nay đã trở ra màn chiến tranh loạn lạc, do nơi các cơ trạng tả trên đây nên Đức Chí Tôn phải đến hoằng khai Đại Đạo đặng hiệp cả tánh chất lương sanh của con người duy nhứt vào đường chí thiện, trau giồi chơn tánh linh tâm cho trong sạch, mong ngày phản bổn huờn nguyên hiệp cùng vô vi chi đạo.
Mà muốn thành đạo vô vi thì trước phải dụng cơ quan hình thức đặng làm nấc thang tiến hóa, nghĩa là mượn chiếc thuyền nhà Nho mà đưa các chơn hồn vào đường tiên cảnh phật, nên có câu:
Phật đạo cũng như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.

Nếu muốn đi đến bồng lai đảo, niết bàn đặng làm tiên, phật, mà chẳng qua đò nhà Nho thì khó mong lên con đường bỉ ngạn.
Con người sanh ra ở thế nếu chẳng chen bước đem thân vào đường học cho làu thông các thứ tuồng đời đặng giáo hóa đoàn ấu thơ hậu tấn hay là chẳng đến trường đạo đức mà học hỏi cho rõ thấu các phương châm trọng yếu, tầm hỏi những sự chơn truyền cao siêu của đạo, đặng làm khách u nhàn thanh nhã, vui cảnh tự toại thung dung thì phải đành cam chịu phận thiệt thòi, chịu khổ hạnh trong chốn lao lung đời đời kiếp kiếp.

Tóm lại, kỳ hạ nguơn cuối cùng, luân lý cang thường điên đảo, cho nên Đức Chí Tôn giáng trần khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lập thành chánh giáo đại đồng, nghĩa là: cải cựu hoán tân, cải ác tùng lương, chuyển tạo cơ đời cho trở nên thuần phong mỹ tục, tức là qui tụ thánh đức của loài người lại thượng nguơn cho thuận lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thỉ.
Mỗi Họ Đạo gồm có một vị nghị viên nam và một vị nghị viên nữ, thay mặt cho Hội Thánh hàm phong.
Hằng năm, đến ngày mùng 5 tháng 5, cả Hội Thánh hàm phong phải nhóm đủ mặt tại Tòa Thánh một lần.
Mỗi vị chức sắc hàm phong có mặt tại buổi Hội nầy hoặc có chưn trong ủy Ban Hội Thánh hàm phong, hoặc không, hoặc vắng mặt mà có đệ tờ xin phép, như trong Thông qui kể sau đây thì đặng quyền lập mỗi vị một Ban Kỳ Lão gồm:
1 . Một Chánh Chủ trưỏng
2 . Một Phó Chủ trưởng
3 . Một Chánh Từ Hàn
4 . Một Phó Từ Hàn
5 . Từ 3 đến 12 Nghị viên tùy theo số kỳ lão nhiều hay ít (phải chọn trong hàng chức việc hoặc đạo hữu từ 61 tuổi đổ lên).

Mỗi vị chức sắc hàm phong nữ phái cũng đặng quyền lập một Ban Kỳ Lão nữ phái như bên nam phái vậy. Trừ ra những vị chức sắc hàm phong nào, dầu nam hay nữ đã vắng mặt trong bữa Hội ngày hôm nay không có xin phép trước thì mất quyền lập Ban Kỳ Lão như mấy vị đã có mặt dự Hội hoặc có xin phép trước.

Trong hạn kỳ 1 tháng, mỗi vị phải cử xong Ban Kỳ Lão của mình và giấy tờ về cuộc công cử nầy nếu thuộc về tỉnh đạo Biên Hòa, Gia Định, Định Tường thì giao cho Nghị viên, nam theo nam, nữ theo nữ, gởi ngay cho chánh Chủ Trưởng Ngọc Thức Thanh (Lê Minh Thức) làng Lộc Giang tổng Cầu An Thượng, quận Đức Hòa, Chợ Lớn.
Còn thuộc về tỉnh đạo An Giang và Long Hồ thì gởi cho ông Phó Chủ Trưởng Thượng Tiền Thanh (Nguyễn Văn Tiền) làng Tân Hòa, quận Mộc Hóa, Tân An rồi vị nầy lập tờ phúc gồm cả hồ sơ công cử gởi lên cho ông chánh Chủ Trưởng đặng đệ về Hội Thánh.

Mỗi quận đạo phải lập một Ban Kỳ Lão dưới quyền điều đình của vị hàm phong. Thoảng như trong quận đạo hoặc trong Họ Đạo nào có nhiều vị hàm phong thì phải chia nhau cho đồng.
Còn như trong đọ đạo nào chỉ có 1 vị hàm phong thì vị hàm phong ấy đặng quyền lập trong mỗi quận đạo thuộc về họ đạo sở tại của mình, một Ban Kỳ Lão và kiêm luôn cho đến ngày có vị hàm phong khác sẽ giao quyền hành ấy lại, nhưng phải đệ tờ Phúc cho Hội Thánh rõ trước khi lập.
Họ đạo nào không có Nghị viên thì vị hàm phong sở tại (có quyền lập Ban Kỳ Lão) đặng phép gởi ngay giấy tờ cho ông Chánh Chủ Trưởng hoặc Phó Chủ Trưởng tùy theo địa phận của mình thuộc về nơi nào.
KHAI PHÁP                      TỪ HÀN                    PHÓ TỪ HÀN
Chưởng quản PT            Sĩ Tải HTĐ                      Luật Sự HTĐ
Trần Duy Nghĩa                Đỗ Quang Hiển             Bùi Cung Kỉnh

Quyền Thái CPS                   Quyền Thượng CPS            Quyền Ngọc CPS
GS Thái Phấn Thanh          GS Thượng Chữ Thanh          Ngọc Trọng Thanh

Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng Quản nhị hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: PHẠM CÔNG TẮC





ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tam niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Nội Chánh
Số: 73       
CHÂU TRI
QUYỂN THÁI, THƯỢNG và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

Gởi cho chư vị Đầu họ đạo, Đầu quận đạo nam nữ, Nam Kỳ.
Kính chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội.
Việc cầu phong tới đây có nhiều điều trọng yếu, cần phải do theo đạo luật và phải quan sát tánh đức, công nghiệp mọi người mà đem vào sổ cầu phong y các khoản sau đây:
a . Về khoản ân phong: Chánh Trị Sự nam nữ phải giữ đủ 5 năm công nghiệp, tánh hạnh tốt, đủ tư cách làm người và giữ từ thập trai đổ lên, số phổ độ đặng 300 người, không kể số của Chánh Trị Sự trước đã độ.

Đạo hữu nào có công nghiệp vĩ đại, có tài năng đạo đức và đặng lòng tín nhiệm của nhơn sanh dâng lên hoặc công chúng hoan nghinh và buộc phải có chưn trong đạo hoặc mới nhập môn, phải quan sát đường đời của người coi đủ tánh đức và được công chúng hoan nghinh hay không, có đủ tài tình đức hạnh ra cầm giềng mối đạo các nơi thì mới đem vào sổ cầu phong nhưng phải độ đặng 500 tới 1000 tín đồ, được cầu phong vào hàng Lễ Sanh; từ 1000 tới 3000, được cầu phong Giáo Hữu; từ 3000 tới 10 000 được cầu phong Giáo Sư.
b . Khoản ân xá: Hội Thánh ân xá một lần chót, những hạng Phó Trị Sự và Thông Sự có đủ công nghiệp từ 8 năm sắp lên mà bị kẹt vì đạo luật, được đem vào sổ cầu phong trong năm Kỷ Mão, rồi sau không được ân xá nữa nhưng phải có độ đặng 300 người như Chánh Trị Sự mới được.
c . Khoản thăng thưởng: Những chức sắc từ Lễ Sanh đổ lên đúng 5 năm công nghiệp, tánh hạnh từ hòa, siêng năng sốt sắng, được lòng tín nhiệm của nhơn sanh, làm tròn phận sự, không bị một điều lỗi nào trong mấy năm hành chánh, được đem vào thông qui và cắt nghĩa cho rõ ràng đặng đem ra Quyền Vạn Linh công nhận.
Còn những vị nào dưới 5 năm công nghiệp mà lập đặng đại công, toàn sanh chúng đều hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, có tư cách xứng đáng tài tình mới đặng đệ lên Quyền Chí Tôn cầu xin thăng thưởng, còn những vị đúng 5 năm hành sự có phạm pháp hoặc tánh hạnh không từ hòa, không chánh đáng thì sẽ bị đình lại, không được đem vào sổ cầu phong.
Những vị nào hết tâm vì đạo, khổ hạnh vì đời mà bị bắt buộc tù lao nơi chốn ngục hình hoặc bị khổ sở tai họa được đem vào sổ cầu phong không cần đủ 5 năm công nghiệp chi hết, nhưng cũng phải quan sát tánh đức thế nào mới được.
d . Về khoản hàm phong: Những vị Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự đủ đầy công nghiệp 5 năm mà tuổi quá lục tuần, đặng đem vào thông qui hàm phong nhưng phải chịu các điều kiện như chức sắc ân phong vậy, còn chức sắc đương kim hành chánh tuổi quá lục tuần, nếu còn sức lực và thông minh mẫn đạt, lập công thêm nữa được, thì tùy ý của người. Chức sắc hàm phong đủ đầy công nghiệp 5 năm cũng được thăng thưỏng như chức sắc ân phong tùy theo đẳng cấp.
e . Về khoản truy phong: Những vị nào đủ đầy công nghiệp và tánh đức vẹn toàn mà qui vị trước ngày cầu phong, cũng đặng đem vào sổ truy phong sau khi Quyền Vạn Linh công nhận, buộc phải có công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ.

Trước đây vào năm 1934 có hội nghị quốc tế Thần Linh Học ở Barcelone, năm 1936 có hội nghị thế giới về tôn giáo ở Luân Đôn và tiếp theo là năm 1937 có hội nghị Thần Linh Học thế giới ở Glasgoww, nước Anh, Hội Thánh đều cử ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobon (người Pháp) làm đại điện Đạo Cao Đài đi dự các hội nghị nầy.
Đến ngày 2–7–1939, Hội Thánh cũng cử ông Gabriel Gobron đi đự hội nghị thế giới về tôn giáo tại Ba Lê, nước Pháp. Hội nghị nầy kéo dài từ ngày 2 đến 11–7–1939. Sau đây là bài viết của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron về các hội nghị nầy, trích trong quyển “Histoie du Caodaisme” của chính tác giả.
*  *  *

Chúng tôi (Gabriel Gobron) được Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Việt Nam) ủy nhiệm làm đại diện Đạo Cao Đài trong các hội nghị quốc tế về tôn giáo.
1. Hội nghị quốc tế Thần linh học Barcelone (1934)
Người ta đọc trong tạp chí La Revue Spirite (số tháng 10–1934, trang 505) trong một loạt các nguyện vọng được toàn hội chấp thuận:
“Mục thứ 8: Phong trào Cao Đài: Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài (hay Phật giáo canh tân, hay Thần linh học VN), Hội nghị quốc tế thần linh học lần thứ 5 họp ở Barcelone (từ ngày 1 đến 10–9–1934) thỉnh cầu rất cung kính chánh phủ Pháp vui lòng nhớ lại các lời hứa long trọng vào tháng 3 năm 1933 tại quốc hội Pháp của Thủ Tướng Sarraut, lúc ông là bộ trưởng thuộc địa, thiết lập với ân huệ cho những tín đồ Cao Đài một qui chế cũng rộng rãi như qui chế được hưởng bởi những người theo Thiên Chúa giáo hay các tín đồ Phật giáo trong các nước của Liên bang Đông Dương.”
2 . Hội nghị thế giới về tôn giáo ở Luân Đôn (1936)
Báo Le Cyne (ngày 20–9–1936) loan tin:
“Tại hội nghị quốc tế về tôn giáo tổ chức ở Luân Đôn, dưới sự chủ tọa của Ngài Francis Younghusband, nơi đó ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài, tham dự theo lời mời Tòa Thánh Tây Ninh, Đạo Cao Đài được thừa nhận là tôn giáo khoan dung nhứt thế giới. Trước đông đảo hội viên gồm đại điện của tất cả tôn giáo lớn trên thế giới và các đại diện báo chí quốc tế, đại diện Cao Đài tại Pháp tuyên bố: “Đạo Cao Đài là một thực nghiệm về sự hòa hợp các chủng tộc và các sắc dân mà quí vị hội họp nơi đây là vì mục tiêu ấy. Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân chắc chắn là mội thực nghiệm sống của sự kết hợp và phục nhứt các tôn giáo”.
Nhiều tràng pháo tay nhiệt liệt hoan nghinh câu kết luận ấy.
3 . Hội nghị thần linh học thế giới ở Glasgow (1937)
Nhựt báo L' Annam nouveau (14–11–1937) loan tin:
“Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài hay thần linh học VN, hội nghị thần linh học thế giới lần thứ 6 họp ở Glasgow (từ ngày 3 đến 10–9–1937), sau hội nghị thần linh học thế giới lần thứ 5 tại Barcelone, nêu ra nguyện vọng là những người theo thần linh học VN trong các nước của Liên bang Đông Dương được hưởng những tự do tín ngưỡng và thờ cúng như những người VN theo Thiên Chúa giáo hay đạo Tin Lành, dầu họ là dân thuộc địa, dầu bảo hộ, dân lai hay người ngoại quốc.
“Nguyện vọng nêu ra trong hội nghị thần linh học quốc tế ở Baecelone đã mở ra thời kỳ khá rộng rãi cho các tín đồ Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam”.
Nguyện vọng nầy được trình bày và bàn cãi trong bộ phận triết học của hội nghị được nhìn nhận bởi sự hoan nghinh trong buổi hội họp dân chúng tổ chức tại phòng triển lãm mỹ thuật McLellan ngày 9–9–1937.
4 . Hội nghị thế giới về tín ngưỡng tại Ba-lê (1939)
Tóm tắt bài tường thuật của lạp chí La Revue Spirite (Tạp chí Thần linh học) (Ba-lê, 8 – 9):
“Hội nghị thế giới về tín ngưỡng đã được tổ chức trước đây ở Luân Đôn, Oxford, Cambridge, năm nay tổ chức tại Ba-lê. Cộng sự viên của chúng ta là ông Gabriel Gobron, được ủy nhiệm bởi các tín đồ Cao Đài hay phật giáo canh tân ở Đông Dương đến tham dự.
Những lời trách cứ mà ông đã đưa ra trong hội nghị tại Luân Đôn có thể được lập lại nơi đây và hơn thế nữa: Những người tổ chức hầu hết là người Anh chỉ quan tâm đến các tôn giáo xưa có một quá khứ lâu dài và phong phú (lời phát biểu của ông Lacombe ngày 10–7–1939) và như vậy là đặt ra ngoài các tôn giáo mới những giáo lý mới và hơn nữa tôn giáo tổng hợp như Đạo Cao Đài có chủ trương dung hợp cơ bản những tín đồ Phật giáo, Công giáo, Lão giáo, Nho giáo, Hồi giáo, v.v...
Vô ích để nói rằng Thần linh học, Thông Thiên học, Nhân loại học, v.v... đều bị bỏ ra ngoài hội nghị nầy, chỉ tìm kiếm sự hợp tác trong “tôn kính” của những tôn giáo lớn và không bao giờ có sự dung hợp cơ bản hay tổng hợp.

Không có một so sánh nào về sự cao trọng của các tôn giáo được tha thứ. Giáo hội Công giáo tuy chánh thức vắng mặt nhưng được đại diện rộng rãi (Giáo sư Maintain, ông Lacombe, v.v...) và trong tất cả các ngày, Công giáo đều nhận được sự tôn kính.
Hàng trăm người, phần nhiều là dân anglo-saxon, sĩ quan, viên chức, giáo sư, quí tộc, trưởng giả – tham dự các ngày Công giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo, họ xen vào các cuộc tranh luận, đôi khi ngoài các đề tài nêu ra: Làm thế nào ngự trị tinh thần huynh đệ trên thế giới bởi sự tụ hội các tôn giáo ?
“Sự bảo trợ chánh thức ban cho hội nghị (ông Champetier de Ribes và ông Georges Mandel) sự tiếp nhận hội nghị tại trường đại học Sorbonne bởi ông Viện Trưởng Roussy, với sự tham dự của các thuộc địa Pháp (một vị tướng ở Tunis, một tỉnh trưởng ở Syrie, v.v...) một “Ủy ban Pháp” làm tăng uy thế của các buổi thảo luận long trọng tại giảng đường Richelieu từ ngày 2 đến 11–7–1939.
“Ưu điểm của hội nghị – ngoài những giới hạn hẹp hòi mà người ta qui định và những dự phòng chánh đáng – là kêu lên những quyền của con người, mà hiện thời bị chà đạp trong tất cả các chế độ độc tài.
“Một nguyện vọng là kêu gọi các nhà độc tài nên nhân đạo hơn nữa được hội nghị chấp nhận và vấn đề người tị nạn phải được ghi vào nghị trình của hội nghị sắp tới tổ chức ở Hòa Lan. Một lời kêu gọi gởi đến các Giáo hội chánh thức được đưa ra.
“Những khách đến viếng thăm điện Versailles, các viện bảo tàng Ba lê, các trung tâm trí thức, Thánh đường Hồi giáo, nơi đó nhân phẩm có tính cách của dân Ba Lê đón nhận một cách lịch sự các hội viên, v.v... đã theo dõi hội tập thường ngày. Quả thật, người ta nói nhiều nhưng người ta cũng hành động: một hội nghị như thế là một sự kiện đáng ghi nhớ. Người ta muốn tuyên bố nó quan trọng hơn cả hội nghị quốc liên, tiếp theo một trong những tiệc trà qui tụ nhiều hội viên mà một ngày nào đó khơi lên ngọn lửa của những tân tín đồ về lý tưởng tôn giáo".

Báo La Vérité ở Nam Vang, nơi đó có trụ sở của Hội Thánh Ngoại giáo Đạo Cao Đài, có tường thuật gần giống như trên (ngày 26–7–1939): Đạo Cao Đài trong Hội Nghị các tôn giáo lại Ba lê (trang 1 và 5):
“Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân đã được giới thiệu vào năm nay trong hội nghị các tôn giáo tại Ba Lê (từ ngày 3 đến 11 tháng 7) bởi ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài, ông gặp lại các nhân vật lãnh đạo mà ông đã quen biết tại Luân Đôn vào năm 1936, Ngài Francis Younghusband là chủ tọa và ông Arthur Jackman làm thơ ký.
“Chánh phủ Pháp đã tổ chức và bảo trợ hội nghị các tôn giáo, chính các ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa; ông Champetier de Ribes, Bộ Trưởng Bộ Trợ cấp; ông Viện trưởng Viện Đại học Ba lê, Bác sĩ Roussy, đã cung cấp giảng đường rộng lớn Richelieu của đại học Sorbonne làm nơi hội họp cho hội nghị.
Một ủy ban Pháp dưới quyền của Giáo sư Louis Massignon, gồm nhiều nhân vật: bà De Coral-Rémusat, ông Jean Herbert, bà De Margerie, công chúa A. Murat, ông De Traz, Ông Lacombe, giáo sư Daniel Rops, v.v... điều khiển các cuộc thảo luận, tập trung vào đề tài căn bản: Làm thế nào mở mang tinh thần hợp tác huynh đệ trên thế giới bởi các tôn giáo ?
“Chung quanh vấn đề đặt ra nầy, người ta chẳng những ghi nhận các ngày Công giáo, Tin lành, Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, v.v... tùy theo diễn giả chánh thức thuộc vào một trong những tín điều nào.
Như thế, thứ ba ngày 4 tháng 7 là ngày Công giáo: Giáo hội Công giáo chánh thức vắng mặt không tham dự các công việc của hội nghị nhưng Giáo sư Jacques Maritain, ông Laeombe và vài người Công giáo khác đóng vai trò hàng đầu trong tuần lễ hội nghị. Giáo hội Công giáo vô hình nhưng hiện diện.
“Nói thật ra thì tầm vóc của Hội Nghị không lớn lắm, cũng không quốc tế như người ta mong ước. Điều nầy do vài hạn chế đặt ra cho các hội viên:
1 . Không một tôn giáo nào được bày tỏ ưu điểm của mình để thu hút tín đồ của tôn giáo khác.
2 . Không có vấn đề thống nhứt hay dung hợp các tôn giáo, nhưng chỉ có sự hợp tác giữa các tôn giáo khác nhau đã bị chia rõ từ trước. Một tôn giáo thống nhứt tổng hợp như Đạo Cao Đài cảm thấy khó chịu trong Hội Nghị; cũng thế, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp tuyên bố với ông Òlivier Lacombe, Phó Chủ tịch ủy ban Pháp, rằng ông ta là người “tà giáo” duy nhứt trong hội nghị.
3 . Tiến trình của hội nghị theo nguyên tắc được dành cho các tôn giáo lớn và xưa, chứng tỏ sự lớn mạnh của họ bởi quá khứ lâu dài. (Lời nói của ông Lacombe ngày 1–7–1939).
“Ngài Francis Younghusband lúc bây giờ tuyên bố với ông Gabriel Gobron rằng ông Gobron là người được trọng đãi, được tự đo phát biểu và bàn cãi như tất cả mọi ngứời, sau khi ông trình ủy nhiệm thư của cấp thẩm quyền Đạo Cao Đài với phòng thư ký ở trường Sorbonne.
“Ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Thuộc địa xác nhận sự tham dự của các phần tử của đế quốc Pháp tham gia vào các công việc và tranh luận nơi hội nghị. Do đó, tướng Hasan Husny Abdelwhab ở Tunis một tùy viên của cao ủy phủ của Syrie, đã được lên trình bày về Hồi giáo.
Trái lại, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta không gặp các phần tử Pháp ở Á châu; Ấn giáo và Phật giáo chỉ được đại diện bởi những người Anh: Tỳ Khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Dasgupta (Calcutta), v.v...
“Mỗi ngày, ở Ba-lê cũng như ở Luân Đôn năm 1936, có một bài thuyết trình vào buổi sáng, kế đó là tranh luận vào buổi chiều, sau đó thì đi viếng thăm các cảnh lạ (Điện Versailles, các Viện bảo tàng, v.v...) và đến các trung tâm trí thức của Ba lê (Viện Văn minh Ấn độ, Hồi giáo, Hội Liên hiệp Pháp Anh, v.v...).
“Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta đã phê phán tổ chức Hội nghị ở Luân đôn, nơi đó nhiều bậc trí thức đơn độc, không đại diện cho ai cả (và đôi khi có một chút tự kiêu), đã chiếm diễn đàn trong 1 hoặc 2 giờ.
“Nay thì hội nghị ở Ba lê dành cho những đại diện của các cộng đồng theo đúng từ ngữ của qui chế hội nghị lại Sorbonne. Như thế, các người không chuyên nghiệp và tài tử phải tránh ra để nhường chỗ cho những đại danh như Giáo sư Jacques Maritain (Viện Công giáo Balê), Giáo sư Dasgupta (Ấn giáo), Bác sĩ Sié (Đại học Nam kinh), tướng Hasan Husny Abdelwahab, Tử tước Samuel (Cựu Cao ủy ở Palestine), Tỳ khưu Thiltila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Hauler (Đại học Tin lành Strasbourg), v.v...
“Thứ ba, ngày 11 thì chấm dứt các công việc và tranh luận trong tình huynh đệ lịch sự nhứt. Họ chia tay với sự bịn rịn và đau lòng, sau khi biểu quyết những nguyện vọng các giải pháp xem xét các dự án, các cải thiện, quyết định địa điểm cho hội nghị sắp tới ở Hòa Lan, v.v...
Trong số rất nhiều sự việc thú vị, đáng chú ý là nguyện vọng yêu cầu các nhà độc tài cư xử nhân đạo hơn với dân chúng, những lời khen ngợi về công trình hòa bình của ông Chamberlain; lời cảm tạ đối với nhà cầm quyền Pháp đã đối đãi tốt đẹp với các tôn giáo mà không cần chứng minh, khả năng chọn Strasbourg, Jerusalem, Genève, v.v... làm nơi hội nghị sắp tới; sự kêu gọi các Giáo hội nên cho phổ biến các công trình của hội nghị mà một diễn giả đã nói rằng các chánh trị gia và những người cổ súy họ. Vấn đề người tỵ nạn được đặt ra cho năm tới.
“Ủy ban Pháp quyết định tiếp tục tại Ba lê công việc làm cho các tôn giáo lớn xích lại gần nhau hơn và hiểu biết nhau hơn. Nhiều hiệp hội liên tôn được chú ý trong thủ đô, cung cấp cho các hội viên thích tham dự các cuộc hội họp và đóng góp các cố gắng."
Từ đây hội nghị sẽ thay thế Hội Quốc liên đã bị đả phá bởi “Chúng tôi nghĩ rằng không bao lâu nữa Đạo Cao Đài sẽ có vai tuồng quan trọng bởi cái gương mẫu sống động của nó, trong các Hội nghị quốc tế về Tôn giáo.”
(Mở đúng 8 giờ ban mai, Đức Hộ Pháp truyền tụng Kinh Nhập Hội. Khi tụng xong, Đức Ngài liền lên khai mạc).
Bài diễn văn khai mạc của Qua hôm nay có ý dài một chút, cốt yếu để giáo hóa bên Phước Thiện. Vậy mấy em lóng tai nghe và suy nghĩ cho thấu lý cao xa, để dễ bảo trách nhiệm khó khăn của mình.

Qua đã cho mấy em một dây hằng tâm để nương nó mà đi những bước đường Thánh đức cho khỏi sụt sè bợ ngợ, lấy cả triết lý cao siêu của tạo đoan vi chủ hành tàng thế sự. Ấy là một bài diễn văn mà mấy em chưa nghe từ thử.
Qua chẳng cần phải nói, mấy em cũng vẫn biết rằng: Đức Chí Tôn là Cha của toàn vạn vật, cả cơ tạo đoan chia ra làm hai phẩm giá:
1 . Vô động vật
2 . Động vật
Vô động vật thì bất tri bất năng, vô tri vô giác; động vật thì hữu tri hữu giác, tức hữu sanh, có sanh có tri giác, có lao động mới có sống, mà sự sống ấy do Chí Tôn vi chủ. Có động vật thì có sanh quang Chí Tôn. Chí Tôn là Cha của sự sống. Người ban cho động vật một gia tài vĩ đại hơn loài vô động vật.

Qua chẳng cần thuyết, mấy em cũng đủ hiểu rằng: Cái tánh đức của động vật vẫn là thiên nhiên, còn tánh đức của vô động vật nó đã triêm nhiễm vào tánh chất của toàn vật loại nhứt là hạng hóa nhân nó hóa vô động vật, vì vô động vật là lười biếng, còn lao động là siêng năng. Hại thay, quyền năng của Chí Tôn lại chia ra hai tánh chất nên phân ra hai phẩm người:
1 . Hạng lao động thì giúp hay Chí Tôn thêm nữa
2 . Hạng vô động thì biếng nhác, duy có thừa hưởng công nghiệp mà an vui gọi là hạnh phúc, nên mới nảy sanh ra trường phấn đấu.

Mé lao động coi bên kia như kẻ thù địch, còn bên vô động không chịu làm chi hết mà chỉ kiếm mưu giựt giành cướp bóc, nên mới sanh ra trường hỗn độn tương tranh về sự sống. Cái thuyết quái gở là một món thuốc độc đã làm cho hao mòn tánh đức loài người từ thử.
Vì cớ nên Chí Tôn giải quyết điều ấy. Lạ chi một đại gia đình có 10 đứa con, chẳng phải giỏi hết, cũng có đứa khôn đứa dại, đứa siêng năng đứa biếng nhác, đứa thì coi sự cực nhọc hơn của mình là cái dại, chẳng cần nghĩ đến sự hèn hạ của mình, nên muốn trên cả mọi người từ miếng ăn, chỗ ngồi, nơi ngủ, mà chẳng hiểu rằng: tài năng mình không biến sanh, phải nương theo người mà sống, vì vậy nên hễ có bù sớt của cải ra đặng nuôi ai thì để lòng khi miệt. Còn người bị khi miệt thì giận dũi, nên mới tìm phương giựt giành cướp bóc mà không hiểu rằng: của cải ấy chẳng phải của mình làm ra, đốì với anh em trong gia đình ấy, những kẻ siêng năng thì thù địch những người kiếng nhác.

Thử hỏi ông cha thấy đứa con nghèo hèn bất năng ấy, có ghét bỏ chăng ? Nếu ghét bỏ cho chúng nó chết đói thì tình cha con đâu có, đã biết lấy của đứa siêng năng mà nuôi đứa biếng là điều bất công nhưng ông cha phải nhắm mắt đánh liều để vậy.

Trên mặt thế, cái khuôn khổ gia đình như trào lưu xã hội, kẻ lười biếng thì nhiều, người siêng năng thì ít, bảo sao đời không biến ra trường tranh đấu, của làm thì ít, tiêu dụng lại nhiều.
Chúng ta thời như đám chim trời, còn lộc ăn như vé lúa rơi xuống đất, con nào lẹ miệng ăn nhiều, giỏi thì no, dở thì đói. Nếu con đói ngước mặt lên trời nói sao Cha không cho ăn để đói, là ngu. Của trên mặt đất nầy là của chung, của Đấng tạo đoan. Ngài biến sanh cả cơ quan nuôi vạn vật, ta có quyền hưởng lấy no là như mình giỏi, đói là tại mình dở. No đói, trọng hèn là do nơi tài sức mình, chớ có than trách ai đặng đâu.

Việc phân phát trong khuôn khổ gia đình cũng có nặng nhẹ, sang hèn, nếu cả thảy đều lựa nhẹ bỏ nặng, chuộng sang phụ hèn, thì gia đình ấy ra sao ?
Từ cổ chí kim, vì cơ sanh hoạt mà biến sanh chẳngbiết bao nhiêu trường náo nhiệt, ganh lẫn, ghét nhơ, thù địch tranh giành mà gây nên trường thảm khốc.
Ấy là một điều khó khăn mà từ thử đến chừ, dầu cho các bậc Thánh nhân cũng không giải quyết đặng.

Qua còn nhớ ông Hoằng Sơn (La Fontaine) khi đầu thai qua Thái Tây, Ngài có viết một bài ngụ ngôn nói về cái bao tử. Đến sau nơi xứ Hy Lạp (Grèce), có một hạng người vì giận nhà vua nên bỏ lên núi ở độc lập một mình, ở đầu non chót núi chớ chẳng chịu về tùng phục pháp luật của nhà vua, vì bọn họ thì cực khổ nghèo nàn quanh năm cuối tháng, chỉ làm lụng để nuôi dưỡng nhà vua sung sướng, nào là cung phi mỹ nữ, đài các nguy nga, nên họ chẳng dại gì mà quì lụy trong xã hội nước Hy Lạp nữa, dầu ai có giảng giải thế nào cũng chẳng chịu về. Buổi đó có một vị đại thần trong triều đình nước Hy Lạp đem bài ngụ ngôn tựa đề bao tử, lên giải nghĩa, họ mới chịu nghe.

Trong bài ấy có ý nghĩa rằng: Tay chơn muốn tẩy chay bao tử, ngụ ý rằng: mình làm cực nhọc, còn bao tử thì chỉ ở không an hưởng. Mảng nghĩ như vậy nên cả tay chơn đều không làm việc nữa để cho bao tử chết đói, nào dè đâu một hai ngày chẳng sao, qua đến năm bảy ngày bao tử không có ăn, cả tay chơn rũ riệt cử động không nổi, rồi chừng ấy mới biết rằng: nếu bao tử không ăn thì mình cũng phải chết, nên buộc lòng phải làm việc trở lại như cũ.
Vị đại thần lấy ý nghĩa của bài ngụ ngôn mà khuyên nhủ, làm cho các vị trên núi hiểu, nên mỗi người vui lòng xuống núi chung lộn với người phàm thế, bỏ tánh chấp nê thuở trước.
Trong cửa đạo ngày nay cũng vậy, có người tưởng sao mình làm lụng khổ nhọc mà chỉ để nuôi những kẻ ngồi ngó đặng thừa hưởng, thậm chí cho đến đỗi họ tranh đến chức sắc thiên phong, từ cái sang, cái áo, cái mão mà họ chẳng tự biết rằng: mình sẽ làm đặng vậy chăng, đó là một triệu chứng đê hèn, triệu chứng một sắc dân tự diệt.

Trong gia đình cũng vậy, có đứa cộng từ con số lời lỗ, có đứa ở ngoài ruộng, có đứa chăn chim, có đứa cầm vòng hái, có đứa ngồi trong bếp, mỗi phận sự đều khác nhau, nếu người trong bếp than nóng, người ngoài đồng than nắng, gặt lúa than xót thì gia đình ấy sanh rối mà chớ.

Đến đây Qua luận về hai cơ quan: Hành Chánh và Phước Thiện. Chính mắt Qua thấy, tai Qua nghe, hễ mấy em nuôi người thì miệt thị người.
Qua viễn kiến trước điều ấy, nên đã làm hiệu trước buổi mới khai đạo, Qua đã làm Hộ Pháp rồi, nhưng tám chín năm về trước Qua nào có biết quyền hành Hộ Pháp là chi, Qua chỉ xen lẫn, chia từ hột muối, gánh vác từ phận sự với mấy em để làm gương cho mấy em noi theo. Qua mở Phạm Môn cốt để giáo hóa, tập tâm đức nên ngày nay mới có khoa mục đặng thi vào cửa Phước Thiện. Qua đã nuôi nấng giáo hóa mấy em từ kẻ răng chơn tóc nhưng Qua buồn sao trong trứng nở ra mà không giống hình giống ảnh ?

Năm rồi nếu không do miệng mấy em thì mấy đứa con gái nhỏ biết đâu mà nói: Không có Phước Thiện thì Cửu Trùng Đài chết đói. Đó là bằng chứng ỷ nuôi người mà miệt thị người.
Qua nói thật, ngày nào Qua còn thấy như vậy nữa thì Qua nhứt định nâng đỡ Cửu Trùng Đài với hoàn cảnh nghèo hèn, chớ mấy em có làm ra của vạn hộ đi nữa, Qua cũng cấm Cửu Trùng Đài không cho hưởng. Cái trách nhậm nặng nhọc của mấy em lúc nào Qua cũng phải nhìn nhận, mà chính mình Đại Từ Phụ cũng không bỏ, cần chi mấy em tung hô lên để thị nhục người.

4 . Cấm kêu Đức Hộ Pháp bằng thầy (ngày 28-2 Canh Thìn 1940)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập tứ niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn phòng            
Phạm Hộ Pháp
Số: 5 CTĐ/53 PT
ĐẠO THÁNH LỊNH

Khi ban sơ, đạo mới phôi thai nên phải gặp nhiều điều trắc trở, lớp thì trong thánh thể của Đức Chí Tôn chứa những hạng người xua quyền xu mị, chia phe lập đảng để hại đạo dối thế gạt đời, khiến cho mấy em côi cút yếu thế cô thân phải chịu điều áp bức đến đỗi rách rưới không kẻ ngó ngàn đói khó không người nuôi dưỡng.
Bần đạo lấy làm đau đớn thương tâm mục kiến lắm điều khổ não nên liều mình bỏ cả danh giá của phẩm vị chưởng quản HTĐ ra làm bạn với mấy em đặng toan chia khổ. Hễ có thân mật thì ắt có tôn ti nên mấy em đã tặng cho làm thầy vì vậy.
Nhờ phước Chí Tôn chan rưới nay quyền Đạo đã lập thành, Hội Thánh đủ năng lực diệt mị trừ tà làm cho vẻ đạo đã ra thiệt tướng, bảo trọng nghiệp đạo đặng giáo hóa chúng sanh. Ấy là hạn lệ Bần đạo đã gánh cái nạn làm bạn với mấy em cô thế, nghèo hèn đã mãn, mà hễ mãn hạn làm bạn thì tức nhiên mãn hạn làm thầy.
Vậy trong 10 năm khổ não truân chuyên, Bần Đạo đã hao biết bao tinh thần trí não mới định nghỉ phận sự nặng nề ấy, nên:

THÁNH LỊNH:

Đệ nhứt điều: Cấm nhặt chẳng cho ai đặng phép kêu thầy và Bần Đạo nhứt định chẳng làm thầy của ai nữa hết.
Nếu hoàn cảnh đạo may ra phải biến thiên thay đổi thế nào thì Bần Đạo nếu phải buộc mình làm thầy lại một phen nữa thì chắc là những đứa trẻ con côi cút, chửa hoang đẻ lạnh, những người hoạn tật nguyền, những kẻ góa bụa đói rách, sẽ may mắn vào hạng môn đệ của Bần Đạo một phen nữa.
Nhưng Bần Đạo tưởng khi qua Hội Long Hoa (Congrès international des Religions) rồi thì mới mong mỏi thấy đặng điều ấy.
Đệ nhị điều: Ba vị Quyền Chánh Phối Sư và Trần Khai Pháp tuyên bố thánh lịnh nầy cho toàn đạo đều biết.
Lập tại Tòa Thánh ngày 28–2–1940 (dl 5–4–1940)
HỘ PHÁP
Ký tên: PHẠM CÔNG TẮC

Vâng lịnh ban hành cho chức sắc thiên phong nam nữ, chư chức việc và chư đạo hữu lưỡng phái toàn 4 cơ quan của đạo: Hành chánh, Phước Thiện, Phổ Tế, Tòa Đạo hiểu biết rõ từ đây phải tuân y theo đạo thánh lịnh nầy.
Khai Pháp HTĐ                      Q. Ngọc Chánh Phối Sư
Chưởng quản Sở PT               Ký tên: Ngọc Trọng Thanh
                                 Ký tên: Trần Duy Nghĩa.



Tin Đức Hộ Pháp bị Pháp bắt và bị đưa đi an trí loang ra làm chấn động cả toàn đạo. Chức sắc và đạo hữu xôn xao lo lắng, lại âu lo không rõ rồi đây nghiệp đạo sẽ ra sao. Chức sắc đương quyền lúc ấy, một số tản cư đi lánh mặt, còn một số quyết chết vì Thầy vì đạo ở lại làm việc.
Ngày 16-6 năm Tân Tỵ, một phiên nhóm bất thường của các chức sắc tại Tòa Thánh để giao quyền cho ba vị Chánh Phối Sư, trong lúc Đức Hộ Pháp vắng mặt. Nhưng không biết có điều gì bí ẩn mà hai vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài là Phan Hữu Phước và Võ Văn Nhơn tranh giành các bổn vi bằng trước mặt ba vị Chánh Phối Sư. Thế nên việc cầm quyền thống nhất của ba vị Chánh Phối Sư không thành.
Tòa Thánh lúc ấy do Giáo Sư Thượng Tước Thanh và Giáo Hữu Thượng Chất Thanh điều hành và sắp đặt mọi việc để gìn giữ cơ nghiệp đạo. Tuy nhiên, hàng tháng hai ông mới đến thăm một lần chớ không dám ở.

Ngày 1-6 năm Tân Tỵ, Đức Hộ Pháp cùng năm vị chức sắc: Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Giáo Sư Thái Phấn Thanh (bị bắt ở Cao Miên), Giáo sư Thái Gấm Thanh, Quyền Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển bị dẫn giải về giam tại Sàigòn. Sau đây là vài nét về chư vị chức sắc trên:
1 . Khai Pháp Trần Duy Nghĩa (1889-1954) được cầm Quyền Ngọc Chánh Phối Sư (1930), chưởng quản Phước Thiện (1937). Năm 1946, Ngài lãnh chưởng quản Bộ Pháp Chánh, rồi qui vị ngày 22-1 Giáp Ngọ.
2 . Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh từ lúc khai đạo đã có Ngài, sau ở Mã Đảo về vẫn tiếp tục làm việc đạo.
3 . Giáo sư Thái Gấm Thanh tên họ thật là Thái Văn Gấm, ngồi Đầu Tộc Đạo Châu Đốc ( 1932-1933), Gia Định (1934-1935), Thượng Thống Công Viện (1936-1937), chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo (1938-1939), đi mở đạo miền Trung (1940) và qui tại Mã Đảo (1943).
4 . Giáo Sư Thái Phấn Thanh tức Trần Văn Phấn giữ chức chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kiêm Biên (1941) thì bị Pháp bắt lưu đày, khi về nước Ngài sống ở Vũng Tàu, sau về Gò Vấp và từ trần năm 1965 (Gia Định).
5 . Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển chết tại Mã Đảo, Phi Châu và về cơ xưng là Thánh Phi Châu có bài thi như sau:
THI
Cuộc đời còn lắm nỗi gay go,
Các đấng ghe phen đã dặn dò.
Hành đạo Cao Đài cho phải đạo,
Học trò xiển giáo đáng danh trò.
Lợi quyền chớp nhoáng đừng mơ mộng,
Đạo đức trường tồn gắng chí lo.
Một kiếp phù sanh không mấy lát,
Thật hành cho vẹn Thích, Tiên, Nho.

Ngày 27-07-1941, Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc bị đưa xuống tàu Compiège cùng mười hai chánh trị phạm tại cảng Nhà Rồng đi đến bến Diego Suarez, miền Bắc Madagascar. Tại đây đã có 11 chánh trị phạm người Việt khác đã bị Pháp đưa qua trước, hiệp chung là 29 người. Tất cả đều bị đưa đến quần đảo Comores.

Trong số chính trị phạm gồm có 6 chức sắc Đạo Cao Đài, ba nhà cách mạng là Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Song, Ngô Văn Phiến, còn lại là đảng viên đệ tam quốc tế.
Sau khi đày Đức Phạm Hộ Pháp giữa năm 1942, quân Pháp được lịnh vào đóng quân ngay trên nền Đền Thánh mới xây cất, chưa kịp lót gạch và trang trí. Viên tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho binh lính đào đất dưới nền Hiệp Thiên Đài (vì chúng cho: “Hiệp Thiên Đài còn thì Đạo còn, Hiệp Thiên Đài mất thì Đạo dứt”) chôn một trái mìn (mine) một ngàn kí lô.

Thực dân Pháp nghi ngờ Đạo Cao Đài có liên hệ với phát xít Đức vì trên nóc Hiệp Thiên Đài có chữ Vạn nên chúng nghĩ thế nào phát xít Nhật cũng đến giải vây Tòa Thánh. Viên tiểu đoàn trưởng lúc đó mới châm ngòi nổ, vừa diệt Nhật vừa diệt Đạo. Nhưng Nhật không tới, viên tiểu đoàn trưởng đã được lệnh đổi đi và bàn giao cho thiếu tá Rouband. Ơn trên xui khiến, viên tiểu đoàn trưởng không ghi “Mission Impossible’ này trong biên bản nên Rouband khi được lệnh rút khỏi Tòa Thánh đã không thi hành “Sứ mạng bất khả thi” này.

Vào tết Bính Thân (1950), anh ba Tất (Lê Văn Tất) đọc tin này trên báo Paris Match có trình lên Đức Hộ Pháp. Đức Ngài chỉ cười và bảo: “Nếu không có ai câu điện mà giựt thì nó sẽ không nổ, để lâu ngày rồi nó cũng sét và trở thành đất mà thôi”. Mới hay, nơi Thầy ngự là Bạch Ngọc Kinh tại thế, đâu thể phá đổ dễ dàng như ý nông cạn của một ít người.
Để hiểu một ít về Madagascar: nước này lệ thuộc Pháp từ thế kỷ XVII. Năm 1943, thuộc địa này bị Anh chiếm nhưng Pháp vẫn còn chủ quyền (đây là chiến lược của phe Đồng Minh). Năm 1946, Madagascar được độc lập, chính phủ liên bang được thành lập gọi tên mới là Cộng Hòa Malgache (Larousse illustré. Paris 1952, trang 1517 ).

Năm 1943, tình hình thế giới biến chuyển, Hitler chiếm nước Pháp. Pétain lập chính phủ Vichy. De Gaulle lập chính phủ lưu vong ở Anh. Pháp buộc phải dời Đức Hộ Pháp và các chánh trị phạm tới một đảo nhỏ, kín đáo, sát đảo lớn tên Nosy Lava (hay Nosi Lave) ở về phía Bắc Tây Bắc Madagascar. Tất cả bị câu lưu trong trại giam đến ngày 24-11-1944 mới được ra ngoài lao động. Trong những ngày tù đày làm coọc-vê, Đức Ngài được Đức Chí Tôn che chở, khiến cho bao tai nạn đều qua. Một lần xe hơi chở Đức Ngài cùng mấy chục người tù qua một chiếc cầu bắt ngang sông. Cầu gãy xe rớt theo thế mà bao nhiêu người cùng rơi theo, không ai hề hấn gì cả. Một lần khác cũng xe chở tù trong đó có Ngài. Xe đang leo lên dốc núi thì bị thụt lùi, lăn từ trên cao xuống. May sao chỉ một gốc cây bên bờ vực thẳm mà ngăn được sức xe đang tuột dốc với một tốc độ kỳ dị. Tất cả mọi người đều hồn lìa khỏi xác từ từ tỉnh lại. Bình tĩnh nhìn Ngài mà nói rằng: “Chúng ta thoát chết đều là nhờ ông lão nầy”. Nhờ đó, từ đấy về sau ai ai cũng có thiện cảm với Đức Ngài.

Đức Ngài quan sát vùng quê Mã Đảo thấy người dân da đen, nơi nào cũng nghèo nàn. Họ làm ruộng theo phương pháp cổ truyền. Họ lùa trâu bò quầng trên ruộng cho cỏ rạp xuống rồi vạch đất mà cấy, không dùng súc vật cày bừa như ở nước ta. Ngài thấy rõ ràng người Pháp không muốn mở mang nông nghiệp hay bất cứ việc gì mà để dân ngu hòng dễ cai trị. Lòng nhân của một Thiên Quân xui khiến Ngài phải hành động cứu nhân độ thế, dù bất cứ sắc dân nào. Ngài cùng Giáo Sư Phấn làm cày làm bừa rồi mắc kế bò cày bừa thử nghiệm cho dân Malgache thực hành. Họ tri ân Đức Ngài. Từ đó, phương pháp cày bằng trâu bò của nước ta được truyền rộng rãi trên Mã Đảo.

Dân Malgache cũng chưa biết xay lúa giả gạo mà chỉ tuốt hột rồi tọt như dân thiểu số ở nước ta. Ngài nhờ ông Trọng làm cối xay còn chính Ngài đụt khoét làm một cái cối giả gạo. Mới được cơm ăn, còn nhà ở của dân đảo hầu hết là tranh lá, Ngài chỉ cho họ cách làm lò nung gạch, in gạch, in ngói. Ngài cho phép dân chúng được phổ biến cách làm gạch để chống lại độc quyền của bọn Pháp.

Cái ăn cái ở đã có nhưng đầu óc còn ngu dốt thì không thể cãi hóa dân sinh dân trí một cách hữu hiệu được. Đức Ngài coi dân đảo như đồng bào ruột thịt của mình cần khai hóa và mở mang trí tuệ họ. Ngài lập một trường tiểu học gần nơi Ngài sinh sống, dạy tiếng địa phương và tiếng Pháp. Vì thế họ coi Ngài như một Đấng Sư Biểu.
Chưa hết, Ngài còn chỉ họ cách hầm vôi, cách làm vòng vàng, bông tai, cà rá, kiềng vàng... giúp cho đời tươi đẹp hơn lên.
Một đệ tử đã cảm khái những hoạt động khai hóa và từ thiện của Đức Ngài bằng bài thi sau:
THI
Mến ông thợ bạc gốc thầy tu,
Nuôi cả nhơn sanh bị nhốt tù.
Đẽo mẫu cày, bừa thâu lắm thóc,
Xây lò vôi, gạch, nhận nhiều xu.
Dắt dìu kẻ khó thành Vương Khải,
Dẫn độ người lành ngự Ngọc Hư.
Thầy tớ gặp nhau trên đảo vắng,
Pháo đâu như nổ dưới chân cù.

“Dẫn độ người lành ngự Ngọc Hư”. Thật vậy, nhiệm vụ trọng yếu của Thiên Quân là truyền đạo độ đời. Một hôm, thiêng liêng chuyển Đức Ngài đi qua đi lại nhà một cư sĩ trí thức ba lần. Vì được Sư ông báo trước sẽ có vị Phật sống đến độ dẫn nên vị cư sĩ ra rước Ngài vào nhà rồi quì xuống xin Ngài truyền tâm pháp tu chơn. Ngài mở huyền quang khiếu cho cư sĩ được chứng ngộ tại thế. Một lần khác, cô Marie sinh viên du học tại Pháp nằm mộng thấy thần linh mách bảo: trong nước xuất hiện vị Phật sống. Cô bỏ học trở về nước dù bị cha mẹ trách mắng, cô kiên trì tìm gặp Đức Ngài. Đức Ngài làm lễ nhập môn cho cô Marie vào đạo, rồi cô trở thành thư ký cho ông “thầu khoán bất đắc dĩ” để giúp nhân sanh.
Đức Ngài được cô Marie đưa đi tham quan cảnh hồ “Lac Tinivar”.
Hồ nầy nằm giữa hai ngọn đồi cao, hình bầu dục, bề ngang độ 300 thước, bề dài 500 thước, chấm dứt bằng một khoé ngắn, bên kia một khoé dài, kết hợp giống như một con mắt, mí dưới thấp, mí trên cao, rặng cây làm viền giống như chân mày. Rõ ràng là con mắt trái: “Thiên-nhãn”.

Trong những giờ rỗi rảnh nơi xứ lạ quê người, Đức Ngài không bao giờ không vọng tưởng đến Đấng Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng. Đức Ngài cùng Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển phò loan, được các Đấng giáng an ủi. Một hôm Đức Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cho bài thi như vầy:
THI
Lược chiến từng quen đã bấy lâu,
Thiên cơ đã rõ máy cao sâu.
Dằn lòng nhẫn nại chờ đôi lúc,
Sẽ thấy khuôn linh phép nhiệm mầu.

Chào Thiên Tôn và chư vị thiên phong, có Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng đến, để Bần Tăng đi triệu Thần Hoàng Bổn Cảnh tới gìn giữ cơ.
Nhàn Âm Đạo Sĩ cười ... Bần Tăng lấy làm cảm xúc cho chư vị dường nầy. Hận thay cho giống dã man tàn bạo... Trung Quân là Nam Kinh đó vậy. Nơi ấy là ổ của Việt kiều. Thời cuộc Á Đông sẽ kết cuộc nơi đó.
THI
Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không cơ bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều linh địa,
Chuyển thế gặp thời phải múa đao.
Cõi Á đã trở thành nơi chủng-quốc,
Phương Âu sẽ diệt tận nô lao. (*)
Lửa hương đất Việt dầu quen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu.
*   *   *
 (*) (Tức No si Lave ở về phía Bắc Tây Bắc Madagascar )
Ít lâu sau cầu cơ, một vị (phái nữ) giáng không xưng tên mà cho bài thi sau:
THI
Nô-si-lao tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượn thảm bủa ghềnh tình ột ạt,
Gió sầu xô đãnh ái tơi bời.
Yên phu điểu gợi thương cành sớm,
Giọng ngạn quyên khêu gọi buổi mai.
Tổ quốc đón đường bao dặm thẳng,
Xa đưa thăm thẳm một phương trời.

Nosy Lava, hòn đảo nhỏ ở phía Tây Bắc quần đảo Madagascar. Về sao Vô Danh thị lại giáng cơ và nhủ:
“Chào Thiên Tôn và chư vị Đại thiên phong. Thiếp vì có mạng lịnh đến đây làm bạn bút nghiên trong lúc chư vị mang lịnh Chí Tôn cho ngơi nghỉ nơi đây. Chí Tôn than rằng: “Chức sắc thiên phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn tài đặng làm tay qui phục sanh chúng. Vì cớ ấy mà triết lý đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ”.
THI
Đã phong trần phải chịu phong trần,
Có thân âu phải biết thương thân.
Nam xa ví chẳng vì đường khó,
Việt đãnh mong chi đượm lửa mừng.
Nặng gánh giang sơn là Thương Trụ,
Nhẹ tay cung kiếm ấy Thường Quân.
Ngũ hồ tứ hải không lưu lạc,
Mặt địa cầu ta vốn định chừng.
      Sau khi giải thích Nam xa Việt đãnh thế nào, Vô Danh thị lại cho thi:

THI
Hòn đảo này đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám nhốt thầy tu.
Quả như oan nghiệt, vay rồi trả,
Thì lũ Tây man, Nhật Bổn trừ.

Những bài thơ trên đây đều có tính chất tiên đoán thời cuộc ở xứ nhà. Vô hình trung tuy xa thiên lý mà gần trong gang tấc. Tuy ít ai tin, nhưng việc gì tới sẽ tới.
Vô Danh thị là ai ? Đó là Đức Linh Sơn Thánh Mẫu vâng lịnh Thất Nương Diêu Trì Cung đến viếng các Thánh bị nạn. Dù dấu tên nhưng Đức Hộ Pháp biết được vì chiếc nhẫn nạm ngọc trên tay Ngài phát hào quang khi bà thăng. Hạt ngọc nầy của ông Lễ Sanh Võ Văn Đợi tìm được ở Núi Bà biếu cho Ngài. Nên biết ông Đợi theo Đức Hộ Pháp học tu tịnh đã chứng ngộ biết trước được nhiều việc nên Ngài đổi tên ông Đợi ra Võ Linh Đoán và cho trụ trì ở Vạn Pháp Cung để rước các thầy tu ở núi lỡ vận.
Biến cố Núi Điện điêu tàn, một nhóm chức sắc xin Đức Hộ Pháp cho rước cốt Bà Đen về Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Ngài phê: “Bần Đạo vì thạnh tình lúc bị lưu đày, Bà thường đến thăm mà thuận cho”.

Trong thời gian bị lưu đày, Đức Hộ Pháp thường cầu cơ, lúc với Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển, lúc với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Theo lời kể lại của ông Nguyễn Thế Truyền, vào năm 1965, với ông Hội Trưởng Thánh Thất Bàu Sen, Phạm Duy Tẩy và soạn giả (ông Truyền đến nhà anh Hai Tẩy để chích thuốc. Ở đây bổn đạo ai cũng biết): Đêm Noel (1945) (Theo lời kể của ông Nguyễn Thế Truyền, vào năm 1965 ), Đức Hộ Pháp và Ngài Khai Pháp phò cơ, ông Nguyễn Thế Truyền làm đọc giả. Đức Lý giáng cơ cho biết các ông sẽ được thả và đưa về Việt Nam vào cuối năm 1946. Rồi Đức Lý ân phong cho ba ông:
1 . Ông Nguyễn Thế Truyền phẩm Bảo Địa Lý Quân, giữ tròn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
2 . Ông Nguyễn Thế Song phẩm Bảo Thương Quân áp dụng việc trao đổi và điều hòa hàng hóa trong chúng sanh.
3 . Ông Ngô Văn Phiến phẩm Bảo Tinh Quân để bảo vệ môi trường và sinh mạng nhân loại ...
Ngày 1 tháng 10 năm 1946, Đức Hộ Pháp và các ông được tự do và trả về Việt Nam. Hai ông thường liên lạc với nhau.
“Tôi (L. H. CH.) thường gặp ông Nguyễn Thế Truyền khi tại Tòa Thánh Tây Ninh, khi ở văn phòng liên lạc số 145 đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng) hay địa chỉ của Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo chủ Đạo Cao Đài, người bạn tù với ông ở Madagascar”. (Nhân vật lịch sử - Nguyễn Thế Truyền, Tạp Chí Xưa & nay số 60 )


Một hôm Đức Hộ Pháp nói với Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, người được Pháp cử làm đại diện tù nhơn tại Mã Đảo rằng: “Ba hôm nữa, chúng ta sẽ trở về nước”. Ngài Trần Duy Nghĩa cho là chuyện huyền hoặc bịa đặt nên đáp: “Ông đã bày đặt Thượng Đế, tiên, phật, chớ làm gì có, để ngày nay đến nỗi nầy”. Nói rồi hất quần áo của Đức Ngài từ trên phảng rơi xuống đất. Đức Ngài rơi lệ, cúi xuống nhặt và nói: “Thánh Pierre lần nầy là lần thứ ba ngươi phản ta”. Nên biết ngươn linh của Ngài Trần Khai Pháp là Thánh Pierre.
Ba hôm sau quả như lời, quí vị được trả tự do. Ngài Trần Duy Nghĩa phải lạy Đức Ngài để xin lỗi.

Bởi lẽ, sau khi người Pháp trở lại Đông Dương (tháng 9-1945), tình hình Việt Nam lúc bấy giờ thật rối ren, đảng phái nổi dậy nhiều nơi. Người Pháp muốn nắm lấy một vài đoàn thể có tổ chức chặc chẽ, đủ mạnh khả dĩ đương đầu với tình thế lúc bấy giờ. Ở Việt Nam, ngày 8-4 Bính Tuất (8-5-1946), các cơ sở đạo tại Sàigòn bị chính phủ Pháp phong tỏa và bắt giam các người lãnh đạo. Họ hăm dọa đánh khảo và sau cùng yêu cầu hiệp tác. Sau 22 ngày bị bắt, bị đánh đập và sau ba ngày hội đàm, Trần Quang Vinh và Ménage ký thỏa ước ngày 9-6-1946, đại để:
1 . Đối với Pháp: quân đội Cao Đài ngưng chiến đấu và giải tán tất cả các bộ đội lưu động kháng chiến.
2 . Đối với Đạo: quân Pháp ngưng các cuộc khủng bố, không bắt giam tín hữu, bảo đảm quyền tự do hành giáo và truyền giáo. Mở cửa Tòa Thánh và các Thánh Thất, được tự do tế tự trong phạm vi tôn giáo. Trao trả Đức Hộ Pháp và chư vị thiên phong về cố quốc, phục hồi các quyền công dân cho chư vị đó.

Vì các điều khoản đó mà chính phủ Pháp mới trả tự do cho Đức Hộ Pháp. Khởi đầu Giáo Sư Thượng Vinh Thanh (tức Trần Quang Vinh), ngày 16-8-1946 đến gặp Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ Cédile và Đổng Lý văn phòng Frémolle bàn tính việc rước Đức Hộ-Pháp, bằng máy bay để tỏ sự kính trọng đối với vị lãnh đạo một Tôn giáo lớn.

Ngày 20-8-1946, nhà cầm quyền Pháp báo cho đạo biết chuyền tàu Ile De France cập bến Vũng Tàu, trong đó có Đức Ngài. Giáo Sư Thượng Vinh Thanh vội ra châu tri cho toàn đạo hay đặng chuẩn bị đón rước. Nhưng sau đó được tin mới, trên tàu Ile De France sắp cặp bến không có Đức Hộ Pháp và chưa rõ ngày nào về. Vì lẽ đó Pháp cho một ít người tuyên truyền rằng: Pháp không biết bao giờ thả Đức Phạm Hộ Pháp. Mục đích của nhà cầm quyền Pháp là tránh dân đạo tụ tập đông đảo mất an ninh.
Chiều ngày 21-8-1946, được tin chuyến tàu Ile De France đã cập bến Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) trong đó có Đức Hộ Pháp. Nhà cầm quyền Pháp chuẩn bị đi rước bằng máy bay từ Cấp về Sàigòn.

09 giờ 20 sáng ngày 22-8-1946, phi cơ cất cánh tại phi trường Tân Sơn Nhứt, phái đoàn gồm có Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, ông Frémolle, Đổng Lý Văn Phòng của ông Cédile, Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ, ông Bazin, Sĩ quan Cò mật thám. Khi đến Cấp, phi cơ bay lượn ba vòng trên chiếc tàu Ile De France rồi mới đáp xuống phi trường...Nơi đó đã có quan chủ tỉnh Cap Saint-Jacques, M.Ropion, chờ tiếp đón. Rồi cả thảy lên xe hơi xuống bến tàu. Khi gặp mặt Đức Phạm Hộ Pháp, ai nấy đều mừng rỡ. Riêng ông Frémolle thì ôm lấy Đức Ngài mà tỏ tình tri ngộ vì lúc ở Mã Đảo hai người đã quen biết nhau. Kế đến là quan tư Pháp Désanges và phu nhơn, người có phận sự đưa Đức Hộ Pháp từ Mã Đảo đến Sàigòn gặp phái đoàn. Sau khi thủ tục hành chính thông thường xong thì phái đoàn đưa Đức Ngài xuống tàu nhỏ trở vào đất liền.

Ông chánh Chủ Tỉnh, M.Ropion rước Đức Ngài và phái đoàn về tư dinh đãi buổi cơm trưa. Sau đó, Giáo Sư Thượng Vinh Thanh thuật lại giai đoạn mà Đức Ngài bị nạn (1941-1946). Nào là Tòa Thánh bị chiếm, chư chức sắc phải hành đạo ở Kiêm Biên (hạ tuần tháng 3 năm Nhâm Ngọ, 1942), hiệp tác với Nhật Bản (1-12 Nhâm Ngọ), ở hãng tàu Nitinan và Nội Ứng Nghĩa Binh (1-1 Ất Dậu), lập Cao Đài Tham Mưu Quân Sự Vụ, hiệp tác với Mặt Trận Việt Minh, tới thoả ước ngày 9-6-1946. Riêng thỏa ước thì Đức Ngài có vẻ trầm ngâm khá lâu rồi mới nói: “Luật công bình thiêng liêng của tạo hóa, dầu muốn dầu không cũng không thể sửa cãi đặng... còn thiếu 2 năm 10 tháng mới may ra giải khổ ách cho dân tộc Việt Nam dứt đặng ...”

Ý Đức Ngài muốn nói: hoàn cảnh thúc bách đã tạo ra quân đội nhưng cũng là cái nạn mà Ngài phải lưu vong sau nầy, nhận thay cái khổ cho nhân sanh. Đức Ngài đã biết trước mọi lẽ, nhưng không thể cãi lại luật thiên điều.
Tín đồ các nơi tấp nập kéo đến thăm Đức Ngài. Đức Ngài giang tay tiếp từng người để tỏ lòng trìu mến. Đức Ngài ngùi ngùi kể lại những năm dài lao khổ nơi hải ngoại mà các Đấng lúc nào cũng giáng cơ an ủi Đức Ngài. Tiếp đó là Giáo Sư Thượng Vinh Thanh và bổn bộ lần lượt kể lại tất cả sự việc 5 năm qua buồn vui lẫn lộn.
Ngày 30-8-1946, toàn đạo và chánh phủ làm lễ rước Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh. Đoàn xe gồm 5 chiếc của đạo và 7 chiếc của Pháp nhưng chỉ có 5 chiếc của đạo mới đưa về tới Tây-Ninh.

Khi gần tới Tây Ninh thì có chủ tỉnh Tây Ninh ra nghinh tiếp và vào dinh tỉnh trưởng đàm luận. Sau đó đoàn xe tiếp tục về Tòa Thánh đúng 12 giờ trưa. Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài với toàn thể tín đồ nam nữ đã xếp hàng dày đặc hai bên đường nghênh tiếp Đức Ngài. Xe vừa ngừng, Đức Ngài xuống xe bước vào cửa Đền Thánh, Đức Ngài quá cảm động khi đối diện người xưa cảnh cũ đến nỗi không ngăn được dòng lệ cảm hoài. Các chức sắc thấy thế cũng chan hòa đồng nhịp tuông châu thương hận.    Tiếng đại hồng chung đổ hồi mừng người xưa trở lại. Người người trật tự đi sau lưng Đức Ngài bước vào bửu điện đảnh lễ Đức Chí Tôn. Sau đó, Đức Ngài qua Giáo Tông Đường làm lễ Đức Quyền Giáo Tông, đoạn xuống phòng khách dự chứng cuộc tiếp nghinh. Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đại diện cho Hiệp Thiên Đài, Giáo Sư Thượng Vinh Thanh đại diện cho Cửu Trùng Đài và một Sĩ quan Pháp đại diện cho chính phủ bảo hộ, mỗi người đọc một bài diễn văn để chúc mừng. Sau cùng, Đức Ngài đáp từ và tuyên bố về chủ trương của Đạo Cao Đài.

Bữa tiệc mừng ngày hồi loan của Đức Phạm Hộ Pháp bắt đầu trong bầu không khí vui tươi cởi mở. Tất cả đều hướng về Đức Ngài trông đợi những ngày thanh bình thạnh trị.
Sau đó Đức Cao Thượng Sanh đến thăm Đức Ngài, có lưu một bài thơ cảm tác như vầy:

Cảm Tác
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn này khi khóc lộn cười.
Nguồn đạo xưa trong đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
Cao Thượng Sanh

Họa Vận
Sắc son nhuộm tánh đậm màu tươi,
Hay dỡ khen chê để miệng người.
Đày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó ký từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hạc quen chìu gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xã tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời.
Đức Hộ Pháp

Lại Họa Vận
Màu xe Tây vức ngắm thêm tươi,
Hỏi khách hổn ngươn đặng mấy người.
Ly hận ngày qua, non ngó khóc,
Trùng hưng buổi hiện, gió reo cười.
Cơ huyền trí tịnh tan rồi hiệp,
Phép tạo tay cầm ngược cũng xuôi.
Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
Đá kia cũng gật để nên lời.
Cao Tiếp Đạo

Đức Cao Thượng Sanh ở lại để cúng rằm và dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bà Bát Nương giáng cơ cho Đức Hộ Pháp thi:

THI
Đào nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai ngỡ Việt thường đã thấy Lân.
Cung Đẩu ví xa gươm Xích quỷ,
Thiên cung mở rộng cửa Hà ngân.
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
Bát Nương

Họa Vận
Chông gai đường đạo mãng dò lần,
Từ bước ta bà trở cố lân.
Biển Bắc vừa nghe hơi súng nổ,
Gành Nam kế lóng tiếng chuông ngân.
Buồm thuyền tế độ sang mơ mộng,
Gió hạc chiêu tiên giục định thần.
Cam lộ kìa ai dành để sẵn,
Cành dương rửa sạch nét phù vân.
Đức Hộ Pháp

Lại Họa Vận
Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu lần,
Mong mõi vùng Nam đặng thấy lân.
Đãnh Việt trời che gìn cảnh trí,
Thuyền Nam đạo vững lướt dòng ngân.
Đài hoa tạc để gương anh kiệt,
Thiên khiển dành riêng đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,
Làm trai tua vẹn trí thanh vân.
Cao Thượng Sanh

Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan, ông Lễ Sanh Thượng Tý Thanh vào viếng sư phụ. Đức Ngài nhìn ông rồi hỏi: “Sao mấy em cắt tóc ngắn hết vậy ?” Ông Tý trình rằng: Khi vào làm hãng tàu Nitinan, Nhật buộc phải cắt tóc. Các ông có cầu cơ được Đức Lý chuẩn thuận. Đức Ngài chuyển sang việc Nội Ứng Nghĩa Binh tham gia đảo chánh ngày 9-3-1945. Đức Ngài nói: “Các em tham gia đảo chánh thì tự nhận tương lai của mình, không em nào được vào lịch kỷ niệm của đạo giống như chuyên viên đảo chánh Khương Thái Công cũng không được vào lịch kỷ niệm”.

Ai cũng biết quân đội Cao Đài do ông Trần Quang Vinh lập từ Nội Ứng Nghĩa-Binh (1945), trước khi Đức Hộ Pháp được trả tự do. Thế nên Đức Ngài minh định: “Chỉ có quân đội Cao Đài thi hành những điều đã ký với Pháp, còn toàn thể đạo đứng trung lập. Văn thơ số 115/HP-TTVP đề ngày 17-1-1949 gởi cho Thượng sứ Pháp và Đại Tướng Blaizot, tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, Đức Ngài đã viết rõ: “Sự hiện diện của những tổ-chức quân-lực Cao-Đài của chúng tôi đã đến giai đoạn không còn cần thiết nữa. Chúng tôi để cho nhà binh Pháp tự do định liệu ngày giờ để chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày nào tốt ngày ấy”.

Chân dung Đức Hộ Pháp trong những năm bị lưu đày, thể hiện rõ tư tưởng đại đồng, yêu thương nhân loại. Đức Ngài đã giúp dân Malgache cải thiện cuộc sống và thân hữu với kẻ địch. Ngoài lòng yêu dân (Ngài có bút hiệu là Ái Dân) còn nhớ cố hương trong những lúc rảnh rỗi, Đức Ngài trò chuyện với ông Nguyễn Thế Truyền rất là tâm đắc.
Ông Truyền kể cho Đức Ngài về hoạt động của nhóm Ngũ Long (Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh) trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi này ở Pháp. Ông Truyền cho biết ông Nguyễn Ái Quốc có tình yêu nước nồng nàn và mãnh liệt, nhất định phải giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Nhờ đó hai ông thân nhau và lập ra nhóm Ngũ Bạch. Rồi cầu cơ Đức Lý giáng cơ thu nhận ba nhà cách mạng vào hàng Bảo Quân. Xem thế dù hoàn cảnh khó khăn nào, Đức Ngài luôn phổ độ chúng sanh như lời nguyện.

CHƯƠNG III

1 . Khái niệm về thời thái bình
Nhìn cục diện quốc gia khoảng thời gian (1947-1954) thật là bi đát. Chiến tranh Việt Pháp đến hồi quyết liệt thanh niên bị nướng vào trận Điện Biên Phủ. Kết liễu là Hiệp Định Genève (1954) phân chia Việt Nam qua Bắc vĩ tuyến 17 lấy sông Bến Hải thay Linh Giang thời Trịnh Nguyễn.
Trong khi đó toàn thể tín đồ Cao Đài được yên lành, nhất là Thánh địa Tây Ninh suốt gần 10 năm không nghe tiếng súng, dù là một tỉnh biên giới, rừng thiêng lam chướng. Được vậy là nhờ có quân đội Cao Đài bảo vệ. Các chức sắc được tự do hành đạo, khai đàn, thượng trang, cầu kinh, tế tự. Nơi nào có đạo là nơi đó có bóng cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng phất phới. Các chiến sĩ chẳng quản đồng sâu, nước mặn hay sằn dã thôn quê, họ chỉ một lòng vì Thầy vì Đạo, còn hy sinh đồng lương eo hẹp của mình để lo cơ sở xã hội như trường học, cô nhi viện.

Chính khoảng thời gian này Đức Phạm Hộ Pháp đã gia công thuyết đạo, các tốc ký đã ghi chép và sưu tầm thành bộ “Lời Thuyết Đạo” sách trên 2 nghìn trang chia làm 5 quyển. Quí nhứt là quyển “Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống” và quyển “Bí Pháp” của Đạo Cao Đài. Các phố chợ, đường sá và nhà đất cũng được kiến thiết và phân chia trong thời kỳ này.

Thời kỳ này, chấm dứt bằng buổi Lễ khánh thành Toà Thánh Tây Ninh kéo dài trong 10 ngày (từ ngày 29-1 đến 8-2-1955 năm Ất Mùi) vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Cao Đài giáo. Buổi lễ được hầu hết các quan khách quốc tế đến tham dự, có cả thủ tướng Ngô Đình Diệm, người đã tạo ra biến cố 1955, chấm dứt giai đoạn vàng son đó.
Số tín đồ Cao Đài trong 10 năm này tăng một cách nhanh chóng: 1953 có 1 triệu rưỡi (1.500.000) người, chưa kể các chi phái đến năm 1954 lên đến 2 triệu rưỡi (2.500.000). Cũng nên biết là người theo Đạo Cao Đài nhập môn, lập thệ và có “Sớ Cầu Đạo” hẳn hoi. Tất cả đều được liệt kê vào bộ sổ chứ không ước đoán.
2 . Hội nghị Nhơn Sanh và Phước Thiện
Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp trở về Toà Thánh Đức Ngài triệu tập Hội nghị Nhơn Sanh để chấn chỉnh guồng máy đạo. Trong huấn từ khai mạc Đại Hội ngày 1-12 Bính Tuất, Đức Ngài nói:
“Đã trót 5 năm dư, Bần Đạo bị đồ lưu nơi hải ngoại thì đã từng chịu biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Đạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.
Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi ! Dưới bức thê lương nầy ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần Đạo, ngoài ra chư hiền hữu, hiền muội thì Bần Đạo đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà để tai lóng tiếng.
Vậy Bần Đạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết tha hòa giọng đau thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái một cảnh an nhàn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Bần Đạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử thánh thể của Thầy, nên vừa để gót về đất tổ đình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tụy hao mòn vội cầm quyền của đạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nữa nên tức cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước”.
Mười lăm hôm sau, khai mạc Đại Hội Phước Thiện (tức ngày 15 tháng 12 Bính Tuất 1946) Đức Ngài nói:
“Hội Thánh có hai cơ quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.
Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích tối cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay hình thánh thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh”.
Như vậy vừa khai Hội Nhơn Sanh và Phước Thiện vừa thông báo chính thức cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay rằng Đức Ngài tái thủ quyền Vạn Linh khuyên toàn đạo chung hiệp xây dựng tổ đình và chơn truyền Đại Đạo.
3 . Lễ trấn thần Toà Thánh Tây Ninh:
Vào ngày 6 tháng 1 năm Đinh Hợi (27-1-1947) Đức Phạm Hộ Pháp làm lễ trấn thần Đền Thánh. Cũng nên nhắc lại Toà Thánh khởi công năm 1933, bị ngưng trệ vì ảnh hưởng lủng củng nội bộ. Năm 1936 Đức Ngài ra lệnh khởi công tạo tác lại. Đến ngày 3 tháng 1 năm Đinh Hội các công thợ làm lễ bàn giao Đền Thánh cất xong cho Hội Thánh. Đến ngày này thì Đức Phạm Hộ Pháp dạy Lễ Viện cúng giờ mẹo rồi làm phép trấn thần.
Đúng chín giờ ngày 6-1 Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc tiểu phục, dạy Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi và Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn theo Đức Ngài đến Báo Ân Từ. Đức Phạm Hộ Pháp vào Điện làm lễ xong dùng nước âm dương giao cho Thừa Sử Lợi, Đức Ngài lấy 3 bó nhang hành pháp xong thì giao cho Truyền Trạng Trấn.
Khi đến Đền Thánh, Đức Ngài ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài rải cam lồ thuỷ và cầm nhang làm phép trấn thần. Kế tiếp đến tượng Phật Di Lạc, tượng Đức Quyền Giáo Tông, bà Nữ Đầu Sư đến tượng Ông Thiện, Ông Ác.
Sau đó, Đức Ngài vào cửa Đền Thánh, đứng ngó vào Tịnh Tâm Điện trấn thần cái Cân Công Bình trên ngưỡng cửa, Đức Ngài nói: “Kể từ đây cái cân công bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã biến tướng thiệt hiện ở thế gian này để phân công chiết tội và định phẩm vị toà sen của toàn con cái của Ngài”.
Đức Ngài sang phía trái Đền Thánh đứng ngang Cửu Trùng Đài cách 12 thước, trấn thần Long Mã. Trên lưng Long Mã có bộ Lạc Thơ Bát Quái và cây kiếm, nên có câu “Long Mã phụ hà đồ”. Long Mã chạy về tây mà đầu quay về phía Đông, ý nghĩa Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh.
Kế Đức Ngài đến Bát Quái Đài ngó lên trên trấn thần Tam Thế Phật:
1. Phật Brahma: đứng trên một con thiên nga nhìn thẳng, đó là ngôi thứ nhứt, tượng trưng thánh đức, thuộc về cơ sanh hoá.
2. Phật Civa: đứng trên thất đầu xà (rắn 7 đầu) nhìn thẳng bên phải về phía Tây lang Toà Thánh. Đó là ngôi thứ hai, tượng trưng phần âm có sanh có diệt, ấy là cơ bảo tồn.
3. Phật Christna: đứng trên con giao long nhìn qua trái. Đó là ngôi thứ ba tượng trưng phần trí não, thuộc cơ tranh đấu.
Đức Phạm Hộ Pháp đến trấn thần bốn con Kim Mao Hẩu ở hai nấc thang bên phải Đền Thánh. Rồi Đức Ngài vào cửa Cửu Trùng Đài, sang qua bên tả trấn thần 4 con Kim Mao Hẩu. Đức Ngài nói: “Con Kim Mao Hẩu rất mạnh và khoẻ, tượng trưng cái năng lực tinh thần con người, nhờ nó mà qua các từng trời về cùng Thầy”.
Sau đó Đức Ngài vào cửa bên trái Cửu Trùng Đài trấn thần Thiên Nhãn quanh tổ đình, lần lượt xuống tới Bát Quái Đài, rồi sang bên phải, cả thảy là 23 thiên nhãn ngó ra ngoài. Vào trong đến cửa Cửu Trùng Đài bên phải, lên trấn thần tượng Bát Tiên và sang bên tả trấn thần tượng Thất Hiền. Rồi Đức Ngài trở xuống bàn Hộ Pháp trấn thần chữ Khí, ngai Hộ Pháp có một con rắn 7 đầu: Thất đầu xà, cái thân nó quấn dưới ngôi Hộ Pháp, đưa lên trên 3 đầu và gục xuống 4 đầu, choàng cái mình quấn dưới ngôi Thượng Phẩm và cái đuôi dưới ngôi Thượng Sanh.
Khi tọa, Đức Hộ Pháp hai chân đạp lên hai đầu có tên Ai, Cụ, hai tay đè 2 đầu Ố, Dục, 3 đầu sau lưng là: Hỉ, Lạc, Ái.
Còn 23 thiên nhãn nhìn vào trong Đền, Đức Ngài không trấn thần vì người đạo quì ngang sợ ô uế.
Ngài Trương Hiến Pháp nói: “Vì lời tiên tri của Đức Hộ Pháp nên Hội Thánh rất lo ngại nên quyết đúc tượng của Đức Ngài gấp rút để trấn trên Thất Đầu Xà, mục đích trấn áp thất tình của con người, để tránh bớt biến cố trong đạo, vì lời tiên tri ấy đã biểu hiện rõ nét từ ngày Đức Thượng Sanh về cầm quyền tối cao trong đạo".
4 . Lễ rước quả càn khôn an vị Toà Thánh
Quả càn khôn được thánh giáo chỉ vẽ từ lâu nhưng chưa thực hiện được như thánh ý. Đến 8-1 Đinh Hợi mới rước quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về Đền Thánh mà toàn đạo ngày nay đồng kính bái.
Đức Hộ Pháp đã thuyết giảng: “Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Đền Thánh, Đức Chí Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Đền Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên.
Đền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái của Đức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.
Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.
Đền Thánh làm xong, nền đạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực nhơn nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy”.
Ngài Trương Hiến Pháp giải thích sự tích quả Càn Khôn như vầy:
“Thể theo thánh ý, chư chức sắc tạo quả Càn Khôn đầu tiên......vì rủi ro, quả Càn Khôn ấy cháy tiêu hết, duy có thiên nhãn thì còn y nguyên.
Hội Thánh kiến tạo quả Càn Khôn khác thay thế. Hội Thánh đồng tình biểu quyết lấy lại thiên nhãn cũ đặt lên quả Càn Khôn mới ngày nay...Khi hạ quả Càn Khôn cũ, cả thế giới và trong đạo đều chấn động”.
5 . Báo Ân Từ
Nơi thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay gọi là Báo Ân Từ. Đền này được trần thiết thờ Đức Phật Mẫu từ ngày 1-2 Đinh Hợi (1947), sau khi rước quả Càn Khôn về Đền Thánh.
Đức Phạm Hộ Pháp trong ngày lễ an vị có giảng:
“Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Đạo Bần Đạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Đức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.
Ngày mở đạo, vì cái tình cảm ấy các vị Đại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Đền Thánh thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được”.
Vào năm Nhâm Thìn (1952) nhân dịp sửa lại Báo Ân Từ. Đức Hộ Pháp chỉ vẽ đắp các tượng:
1 . Trên hết, Đức Phật Mẫu cưỡi chim thanh loan
2 . Dưới đắp 9 tượng Cửu vị Nữ Phật.
3 . Liên tiếp đắp bốn vị nữ nhạc
4 . Tượng Đông Phương Sóc, nhà văn hoá đời Hán
5 . Tượng Đức Cao Thượng Phẩm
Việc tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thay cho Hán Võ Đế, Đức Hộ Pháp giải thích:
“Nguyên căn Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập nước. Kỳ hạ nguơn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là ngươn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành Quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm”.
Đức Hộ Pháp dạy đắp chơn dung Đức Phật Mẫu:
“Hình của Đức Phật Mẫu đắp theo hình chưng cộ bông Cửu Nương lần đầu tiên vào ngày 15-8 Đinh Hợi. Hồi đó mượn của bà Phối Sư Hương Hiếu.
Đức Phật Mẫu có từ thuở khai thiên do khí âm dương tạo thành, có quyền năng vô đối cũng như Đức Chí Tôn, hữu hữu vô vô, nắm trọn mầu nhiệm của càn khôn vũ trụ. Chớ không phải bí pháp biến thành thể pháp do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế có nghĩa là chỉ mượn ý tạc hình đã có, chớ Phật Mẫu vốn vô vi”.
6 . Đạo Đức Học Đường
Sau khi dời Thánh Tượng từ Gò Kén về chùa mới hơn một năm. Hội Thánh hội nghị quyết định mở trường khai dân trí.
Chương trình học theo chương trình nhà nước.
Tiểu học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Cách trí, Vệ sinh, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn của đạo: Giáo lý, Hán văn.
Các lớp: Đồng ấu (Cours enfantin), Dự bị (Cours prépa toire), sơ đẳng (Elémentaire), Trung đẳng (Moyen), Cao đẳng (Supérieur) để thi tiểu học.
Trung học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sử Địa, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn của đạo: Giáo lý, Hán Văn.
Các lớp: năm thứ nhứt (cours lè année), thứ hai (2è année), thứ ba (3è année), thứ tư (4è année) để thi Brevet.

Tháng 9 năm 1928 khai giảng năm học đầu tiên, trường Đạo Đức Học Đường có tất cả 210 học sinh. Nhân ngày lễ phát thưởng năm đầu tiên cho học sinh trường Đạo Đức vào ngày 14-7 Kỷ Tỵ (18-8-1929) Ngài Thượng Đầu Sư đến dự lễ để khích lệ thầy cô giáo và các em học sinh. Ngài nói:
“Trong mấy năm dư đạo nghèo nên mấy em chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè cũng không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.
Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối đạo, truyền chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một đồng lương, lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh chúng, học sinh đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường, bề ăn uống tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ, mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo đạo đức”.
Bài huấn dụ của Ngài Thượng Đầu Sư cho ta thấy mấy ý như sau:
- Lấy ván sạp làm giường: Thật vậy, nhà giáo viên, nhà lưu trú học sinh đều kê đơn sơ bằng gỗ xẻ thành ván. Phần bìa thân cây thì làm bàn, băng cho học sinh. Ai có sống, có học trong những năm hai mươi của thế kỷ XX mới thấm thía được lời chân thật mà thân yêu, trìu mến của người Anh Cả.
- Ăn uống tương rau hẩm hút: Thật ra là nước muối, rau lang suốt lá từ gốc tới ngọn (chớ không chỉ ăn ngọn), chuối xắc nguyên cây, bữa cháo bữa củ mì. Các học trò thời ấy nói vui với nhau: "Nước tương Đại Đạo, cơm cháo Tam Kỳ, củ mì Phổ Độ".
Chao ôi ! Ăn uống như thế. Học lấy kiến thức để sau nầy “phổ độ nhân sanh”. Lý tưởng của trường đề ra thật cao, qua câu liễn:
Đạo Đức truyền lưu hậu tấn hiếu trung phò xã tắc
Học Đường giáo hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san.
- Tập viết bằng lá buông: Cái nghèo khó thử thách lòng trang hiếu học. Học mà không có tập mà phải viết bằng lá buông. Các thầy thương trò mà phát minh ra tập lá.
Nhưng ngày nghỉ học, thầy trò đi dã ngoại tìm rừng lá buông cắt đem về rọc bỏ phần sống lá. Thân lá được cắt từng đoạn dài đều nhau độ 20cm, rồi đem phơi khô để lá buông từ màu xanh lục chuyển sang màu vàng nhạt. Sau đó xếp lá chồng lên nhau rồi lấy tấm ván ép cho bằng phẳng gọi đó là tập lá.
Mực viết trên lá buông là cỏ mực. Cỏ mực nhổ trên ruộng rẫy về rồi giả nhuyễn, vắt lấy nước, vô bình mực chia cho các học sinh. Chao ôi ! cái học kiểu “Trần Minh khố chuối” như thế mà “hiếu trung phò xã tắc” là tấm lòng thiết thạch đối với quê hương, có chi sánh nổi.
Sang năm 1931, Thượng Chánh Phối Sư báo cáo trước Hội Nhơn Sanh có đoạn viết:
“Trong Toà Thánh có lập một Đạo Đức Học Đường để dạy trẻ em, có 8 lớp học, 6 lớp con trai trình độ lớp nhì, một lớp con gái Việt, 1 lớp con nít Đàn Thổ (Tà Mun). Tất cả được 274 trò. Các thầy dạy điều có bằng sơ học, làm công quả, không lấy tiền. Học trò cũng không đóng học phí.
Ngoài ra, cứ mỗi tối những người công quả nội ô Toà Thánh ước chừng 400 người đều phải theo học. Có những lớp dạy chữ, dạy kinh, dạy đạo tuỳ theo sự hiếu học của mỗi người”.
Báo cáo của Hội Nhơn Sanh năm 1932 xác nhận có nhiều tiến bộ:
“Trường Đạo Đức Học Đường năm nay có mở thêm được ba lớp học nam nữa. Một lớp năm thứ nhì (Cours 2 è année) và hai lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin), cộng chung là 11 lớp. Số học trò được 417. Trong đó có 312 trò nam và 105 trò nữ, thêm được 143 trò, nhiều hơn năm ngoái.
Kỳ thi tiểu học vừa rồi, nhà trường có 26 trò đi thi đều đậu hết. Có 21 trò đậu luôn phần Pháp văn (mention francaise). Mấy cô giáo và thầy giáo dạy nơi trường đều siêng năng lo lắng dạy dỗ. Không người nào ăn lương bổng hết”.
Ta thấy tinh thần thầy cô qua mấy chữ “siêng năng lo lắng” và “không lương bổng”. Dạy ngày không đủ, các thầy cô tranh thủ dạy đêm. Các học trò từ xa xôi ngoại ô thánh địa, tay cầm đèn chông, chân trần mò mẫm đêm hôm khuya khoắt vào Đạo Đức Học Đường để ôn thi. Sự tận tâm kia với kết quả 100% thật là xứng đáng.
Truyền thống đó được nối dài cho đến tận năm 1952. Năm đó trường có 60 lớp lợp bằng tranh, tường xây gạch đất không nung (gạch sống), chỉ có một dãy lớp ngói ở phía trước cho các lớp 1è annéc, 2è année. Có 10 lớp Cao Đẳng (Cours supérieur) đi thi tiểu học với 5.393 thí sinh thi tại tỉnh lỵ, chỉ rớt một trò vì bị bịnh bất thường. Đó là thành quả kỷ lục đền đáp công ơn thầy trò dạy và học hằng đêm làm rạng danh đạo thời ấy.

Chính năm 1952 ngôi trường phổ thông ở trên đường Hoàng Tòng Hướng, ngoài cửa số 7 ngoại ô được trùng tu và cất thêm hai dãy để nhận học sinh vừa mới thi đỗ tiểu học. Nhà trường phải mở 12 lớp đệ thất vì phải nhận thêm hai lớp cho học sinh ngoài tỉnh.
Ngày khai giảng Đức Phạm Hộ Pháp đến dự và đổi tên trường phổ thông thành trường Nghĩa thục Lê Văn Trung để nhớ ơn Đức Quyền Giáo Tông người có công đầu tiên khai hoá nhân sanh tại vùng thánh địa.
Con cháu nối bước. Năm 1961, giáo sư Trần Văn Rạng dạy trường Trung học Công lập Tây Ninh đưa đơn xin phép lập “Hội ái hữu cựu sinh Đạo Đức và Lê Văn Trung” được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép hoạt động số 128-NĐ ngày 20-10-1961.
7 . Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài
Cuối năm 1949, ảnh hưởng chiến tranh nhiều gia đình di cư về Toà Thánh đem theo con cái vô nghề rỗi công. Trước hoàn cảnh đó, giáo sư Hồ Thái Bạch (Hiền Tài) họp cùng một số người đồng chí hướng lập ra Bá Nghệ Đoàn.
Trụ sở Đoàn nằm giữa Đường Nhơn và Bắc Tông Đạo. Bá Nghệ Đoàn dạy cho thanh thiếu niên nhiều nghề như mộc, hồ, đan, khắc mộc gỗ...Trong đó, chỉ có hai nghề đan mây tre lá và khắc mộc gỗ cho Chơn Truyền Ấn Quán có nhiều người theo học và phát triển nhất.
Số thanh thiếu niên tụ tập ngày càng đông. Giáo sư Bạch quyết hợp thức hoá với đạo và đời. Ông làm đơn gởi lên văn phòng Hộ Pháp xin thành lập Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài và Đạo Linh Sơn với Hội Hướng Đạo Việt Nam.
Ngày 5 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952), Đức Hộ Pháp ký Thánh lịnh số 18/TL cho phép Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài được phép hoạt động theo lời hứa và Luật Hướng Đạo.
Lời hứa hướng đạo
Tôi xin lấy danh dự của tôi mà hứa rằng:
- Làm tròn bổn phận đối với tôn giáo và tổ quốc
- Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào
- Tuân theo luật Hướng Đạo
Luật hướng đạo
1 . Hướng Đạo Sinh là người trọng danh dự.
2 . Hướng Đạo Sinh tuân theo luật Đạo, luật nước và người cộng sự.
3 . Hướng Đạo Sinh giúp ích mọi người bất cứ lúc nào.
4 . Hướng Đạo Sinh là bạn của mọi người.
5 . Hướng Đạo Sinh lễ độ và nhã nhặn.
6 . Hướng Đạo Sinh yêu các giống sinh vật
7 . Hướng Đạo Sinh vâng lời.
8 . Hướng Đạo Sinh vui vẻ khi gặp khó khăn.
9 . Hướng Đạo Sinh biết tiết kiệm của người và của mình.
10 . Hướng Đạo Sinh trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm.
Bài hát chính thức của Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài
Lời và nhạc: Vân Đằng
Đưa nhau lên đường anh em thanh niên
Kiến tạo thanh bình chúng ta bước đều
Hướng Đạo Sinh Cao Đài ! HĐS nhân nghĩa,
Hướng Đạo Sinh Cao Đài ! Từ bi, bác ái, công bằng.
Ta đi lên gieo vui tươi muôn nơi
Ta đi lên, người HĐS. Cao Đài !
Để thực thi luật Hướng Đạo “giúp ích mọi người” Ban Huynh Trưởng hội họp quyết định thành lập trường tiểu học Minh Đức - Tân Dân. Cơ sở trường đặt trong nội ô ở gần cửa số 3.
Trường do huynh trưởng Lê Hoàng Hải (Lễ Sanh) làm cai trường. Ban giáo viên gồm có: Nguyễn Thành Kỉnh, Nguyễn Văn Trạng, Lê Văn Cẩn....
Những học sinh cô nhi, con chức sắc neo đơn đều được ăn cơm tại trai đường của đạo. Ban giáo viên ăn cơm tại trụ sở Hướng Đạo do tiền lương của giáo sư Bạch cung cấp. Ngoài ra, không có lãnh khoản tiền nào khác và được cầu phong vào hàng chức sắc. Trường phải đóng cửa vì ban thanh trừng.
Các ngày lễ lớn Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài lãnh tổ chức các cuộc vui như đốt lửa trại, trình diễn văn nghệ, biểu diễn xếp chữ, trồng tháp.
Hoạt động của Đoàn từ 1952 đến 1955 có ba điểm son lớn:
- Giúp đỡ tương trợ đồng bào bị lụt năm Nhâm Thìn (1952) ở Tây Ninh.
- Lưu diễn văn nghệ ở miền Tây với quái kiệt Trần Văn Trạch giúp đồng bào bị hoả hoạn ở chợ Thiếc năm 1953 (Sài gòn).
- Giúp đồng bào di cư 1954 tại trại tạm cư Trường Trung Học Lê Văn Trung và những hoạt động từ thiện khác.
8 . Văn phòng Hiệp Thiên Đài
Hiệp Thiên Đài có thì Cao Đài giáo mới phát sinh. Hiệp Thiên Đài là cơ quan thông công với các Đấng thiêng liêng. Toà nhà này toạ lạc trên Bình Dương Đạo (nay đổi là đại lộ Phạm Hộ Pháp) và được khánh thành vào ngày 8-12 Đinh Hợi (1947).
Câu liễn:
HIỆP nhập Cao Đài bá tánh thập phương qui chánh quả
THIÊN khai huỳnh đạo ngũ chi tam giáo hội Long Hoa.
Đức Hộ Pháp có đến thuyết giảng, trích lược một vài đoạn như sau: "Các Đấng tự hữu, hằng hữu, thiên hạ tưởng không có, họ lầm từ trước, người ta tưởng Đấng ấy không có, Đấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa.
Đấng ấy có mơ mộng gì vô hạn ? Nhứt là Ngự Mã Quân của Chí Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh Kim Khuyết, bỏ Thiên Cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu tôi không lầm, cơ bút đã cho tôi biết các bạn Hiệp Thiên do nơi đâu sản xuất ? Do để giữ quyền thiêng liêng nên mới có 12 vị Thời Quân, Thập Nhị Địa Chi tức là cảnh thiêng liêng vô hình của chúng ta.
Trước khi lãnh lịnh trên Bạch Ngọc Kinh tạo nền chơn giáo, Chí Tôn quyết định có Ngài giáng thế mới được, Ngự Mã Quân không cho, bắt buộc phải có người thay thế cho Ngài tức là thánh thể của Ngài tại đây.
Ngài đi mà không cho thì phải có hình ảnh thế cho Ngài mới được. Hình ảnh của Ngài là Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên”.
Từ ngày lập giáo HTĐ chỉ quy định có 4 cặp cơ:
1 . Cơ lập giáo (Cư, Tắc)
2 . Cơ lập pháp (Hậu, Đức)
3 . Cơ truyền giáo (Sang, Diêu)
4 . Cơ bí pháp (Nghĩa, Tràng)

9 . Phái Tiên Thiên về Toà Thánh
Toà Thánh Tây Ninh lúc nào cũng sẵn sàng đón rước các chi phái đạo trở về hợp tác. Thánh huấn số 380 ngày 22-3 Kỷ Sửu (19-4-1949) ghi: “Bần Đạo đã ân xá cho toàn cả chi phái, bất cứ là ai, nếu nhập môn lại và vâng y luật pháp Toà Thánh sẽ là tín đồ chánh thức của Đạo Cao Đài”. Thánh lịnh số 535 ngày 4-6 Kỷ Sửu (29-6-1949) chấp thuận phái Tiên Thiên do ông Nguyễn Bửu Tài lãnh đạo đưa về Toà Thánh Tây Ninh. Tất cả chức sắc này đều tạm chức Hiền Tài (Ban Thế Đạo) để đợi quyền thiêng liêng định đoạt. Nhưng vẫn được giữ các Thánh Thất và được tạm dùng cơ bút tại tư gia để học hỏi riêng chớ không được phổ biến.
Thánh lịnh số 302 ngày 27-5 Canh Dần (11-7-1950) thì chư chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong thông qui ngày 30-10 Kỷ Sửu đã đệ trình lên Đức Lý Giáo Tông xem xét ngày mồng 3 tháng 1 Canh Dần được ân phong vào hàng chức sắc Toà Thánh như sau đây:
1 . Phối Sư Thượng Tài Thanh tức Nguyễn Bửu Tài (1)
2 . Phối Sư Thượng Hiền Thanh tức Phan Lương Hiền
3 . Giáo Sư Ngọc Dừng Thanh tức Đinh Văn Dừng
4 . Giáo Sư Ngọc Thiện Thanh tức Phan Lương Thiện
5 . Giáo Sư Thượng Tấu Thanh tức Trần Văn Tấu
Còn Giáo Hữu thì đủ 3 phái có 26 vị. Lễ Sanh 3 phái có 35 vị. Từ đây cả thảy tùng quyền Ngọc Chánh Phối Sư, chủ trưởng chức sắc.
Ngày 23-12 Canh Dần (30-1-1951) Đức Phạm Hộ Pháp lại ký thánh lịnh số 13/TL phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 vị Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh. Nhưng họ không quen việc phế đời hành đạo nên lần lượt rời khỏi thánh địa.
(1) Sau Nguyễn Bửu Tài bỏ Toà Thánh về Sóc Sãi được tôn là Giáo Tông
10 . Tịnh Thất và Trí Huệ Cung
Ngoài thánh thất ra, Cao Đài giáo còn có Tịnh Thất để cho những tín đồ cần tĩnh dưỡng tiếp điển với các Đấng. Ngày 15 tháng 12 Canh Dần (1950) Đức Hộ Pháp đã trấn pháp Trí Huệ Cung, trong có Thiên Hỉ Động là ngôi Tịnh Thất đầu tiên đúng theo kiểu mẫu của nền Đại Đạo do Đức Hộ Pháp chỉ vẽ xây cất.

Trí Huệ Cung là Tịnh Thất của nữ phái, còn nam phái thì có Vạn Pháp Cung, trong có Nhơn Hoà Động ở sân đình dưới chân núi Điện Bà. Trí Huệ Cung thuộc Trường Hoà, cách Toà Thánh khoảng 10 cây số đường trường. Ngoài ra, còn có Trí Giác Cung trong có Địa Linh Động. Đây là nhà tịnh của bào huynh ông Phạm Công Tắc. Đức Hộ Pháp giảng về Trí Huệ Cung như sau:
“Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh chí linh Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh chí linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, tôn giáo hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.
Cửa Thiên Hỉ Động là cửa thiêng liêng hằng sống của toàn thể các đẳng chơn linh nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy”.

Kể từ ngày 16 tháng 1 năm Tân Mão (1951) Đức Hộ Pháp vào Trí Huệ Cung tịnh luyện (vì Vạn Pháp Cung chưa xây cất) trong thời gian 3 tháng. Đêm 17-4 năm đó, sau khi Đức Ngài ra khỏi nhà tịnh đã thuyết đạo tại Đền Thánh như sau:
“Vậy Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn bồ đề ngồi thiền định đặng xin giải thoát cho chúng sanh”. 
Khi Đức Ngài đến Trí Huệ Cung để nhập Tịnh Thất có nhiều thư gởi đến xin nhập tịnh một lượt với Đức Ngài. Đức Ngài giải thích:
“Ngày giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí Tôn thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền thiêng liêng của đạo.
Muốn định thiên vị của mình quyền thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân.
Nếu người nào không có tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời tức nhiên thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có bí pháp để đạt pháp, đạt đạo.
Ấy vậy tam lập là: lập đức, lập công, lập ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có tam lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết ðịnh cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được”.
Vào ngày 1-4-Quí Tỵ (1953) Đức Ngài thuyết về phương pháp tịnh luyện như vầy:
“Hôm nay Bần Đạo thuyết minh cái bí pháp, tức nhiên cái bí pháp tịnh luyện và khuôn luật tấn hóa tạo đoan của con cái Chí Tôn, đối với cơ huyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng cho chúng ta đoạt cơ tấn hóa.
Thật ra Đức Phật Tổ chỉ đoạt được có một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi, mấy người đã đoạt được vị Phật đều là ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời, sống lụng lại ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết luật nhơn quả của ta rồi nhờ kiếp nầy có thể đem tương lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước được. Đoạt bí pháp ấy chúng ta mới có thể biết ta là ai, ta biết đường lối chúng ta đi thế nào, ta có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ không phải làm cơ siêu thoát đặng. Đoạt cơ siêu thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh cho chúng ta đó vậy”.

Nhắc lại, ngày 14-01 Đinh Hợi (1947) Đức Hộ Pháp đã ban hành đạo lịnh số 209 chỉ dẫn về: Phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo, “phương pháp trị tâm” vì tâm là hình ảnh thiên lương và luyện thân luyện trí.

11 . Lập phố chợ Long Hoa
Từ lúc đạo mới gom về quây quần nơi Toà Thánh thì chợ Ngã Năm (gần cửa số 4 nội ô) sầm uất sung túc nhất, thứ đến là chợ thương binh (vì phần đất này dành cho thương phế binh Cao Đài, nay là chợ Hiệp Lễ) và chợ Từ Bi trước Toà Nội Chánh. Số đạo hữu này về lập nghiệp tại vùng thánh địa ngày càng đông nên Đức Phạm Hộ Pháp mới cho thiết đồ án lập chợ Long Hoa.
Ngày 5-6-1951, Đức Ngài ban phép lành và trấn thần Long Hoa Thị và hiểu dụ: “Bần Đạo cho lập gấp cái chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh. Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy”.

Sở dĩ, Đức Ngài nhấn mạnh: phải có là vì bấy giờ khu chợ Long Hoa chỉ là khu rừng toàn gốc cây gò mối, chỉ có một hai đường truông sình lầy, giữa đường toàn gốc cây. Người ta khó tin nơi đây trở thành ngôi chợ sầm uất.

Trong ngày 15-7 Quí Tỵ (1953) khánh thành văn phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị, Đức Ngài nói: “Bần Đạo rất trông cậy ở lòng nhiệt thành của toàn thể hãy giúp cho Ban Quản Trị và Hội Thánh hoàn thành chợ Long Hoa thiệt (vì hiện giờ chỉ là tạm thôi). Khi thiệt thọ rồi Bần Đạo dám chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp nữa và ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông Đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục làm thánh thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực, tâm tình đặng cứu khổ chúng sanh”.
Ngày hôm sau, Đức Ngài đến đôn đốc công việc khai phá và hiểu dụ: “Hôm nay sau chỉ có 2 năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi nhà tịnh Trí Huệ Cung về nơi đây Qua ban phép lành nơi chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
Chợ Ngã Năm mấy em đừng tưởng có phép tắc huyền bí, Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà lại ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết rằng: Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến triển mạnh, hơn nữa mấy em do vị tổ chức của mấy em mà thôi, đủ thấy chợ Ngã Năm thế nào ? Đủ địa thế phương tiện họat động vĩ đại hơn nữa. Vì cớ cho nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em ngó thấy chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết, Qua đã ngó thấy chen chúc với nhau rồi đó, Qua liệu phương làm sao mở mang rộng ra nữa cho mấy em”.
Ngoài ra còn có chợ Cẩm Giang, Bến Kéo, Tân Dân thị (tức chợ Qui Thiện), Đức Ngài còn hoài vọng lập chợ Thiên Vương ở Thiên Thọ Lộ (xã Trường Hoà).
12 . Trai đường
Từ khi mở đạo thiết lập Toà Thánh tạm Hội Thánh đã mở rộng cửa từ bi nuôi nấng nhân sanh. Ai ai cũng được đến “Trai đường” (nhà cơm chay) dùng bữa. Nhất là khoảng thời gian 1947-1950, học sinh thường ghé ăn trưa nơi trai đường. Khách thập phương cũng được tự do vào dự cơm chay để nếm mùi đạo đức.
Trai đường gồm có hai dãy nhà dài xây cất bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố có thể chứa hàng ngàn người ăn cùng một lúc, toạ lạc sau Nữ Đầu Sư Đường đối diện với Giáo Tông đường.
Theo thánh lịnh số 57 ngày 1-7 Tân Mão (3-8-1951) vì tình trạng khó khăn nên Hội Thánh không còn đảm đương cho mọi người như trước nữa. Từ đó, Hội Thánh chỉ cấp dưỡng cho các chức sắc thiên phong nam, nữ Hành Chánh và Phước Thiện, các chức sắc Hiệp Thiên Đài các công thợ, giáo nhi và đồng nhi, cô nhi và lễ nhạc.
13 . Các phủ từ trong vùng Thánh Địa:
Trong Cao Đài giáo ngoài nhà thờ các Đấng thiêng liêng, còn có các phủ từ thờ tông đường như Lê phủ từ, Phạm phủ từ, Văn phủ từ v.v...
Trong năm 1952, Đức Phạm Hộ Pháp cho lập các phủ từ các họ nào chưa lập và phủ dụ: “Từ trước đến giờ Đạo Cao Đài lấy Tông Đường làm nền móng cho Đạo Cao Đài, từ đây sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa, sẽ càng cao trọng hơn nữa. Không vì đạo mà vì Tông Đường ta tạo dựng rồi bá tộc kia cũng làm, ngày kia ai không đạo họ cũng về tộc họ. Luôn dịp mấy em tạo Phủ Thờ này công nghiệp mấy em đối với Đạo Cao Đài một cách gián tiếp đó vậy, mấy em không thất đạo, một gương vĩ đại đối với đạo mà chớ”.
Trong dịp đến hội ở Phạm phủ từ, Đức Ngài phát biểu: “Ngày hôm nay Bần Đạo vào hội đây chẳng phải lấy danh thể Hộ Pháp, chỉ lấy danh thể Phạm Công Tắc mà thôi.
Chữ hiếu là đứng đầu hết không trọn hiếu không thể gì làm mọi điều khác được, chúng ta muốn có một nghiệp đạo của mình cho đặng tận thiện tận mỹ vĩ đại, có thể nói rằng ta muốn cho danh thể tồn tại nơi mặt thế này bền bĩ lâu dài; đại nghiệp thiệt của chúng ta là đấy.Về nghiệp đạo đức tinh thần các bậc tiền bối của ta có nói rằng: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế", ta có thể làm Đạo lập thân danh ta được mà phải có hiếu trước đã,
Tạo Phạm Phủ Từ chẳng phải riêng trong cửa đạo hay nội trong nước Việt Nam mà thôi. Chúng ta có thể ngó tới Bắc Việt, ngó tới Trung Hoa, Tông Đường của ta ở mé biển nữa thành thử một cơ quan vĩ đại”.
Do quan niệm trên, việc lập các phủ từ cũng nằm trong mục đích truyền đạo, trong phương tiện tông đường.
14 . Lễ đăng điện Xá Lợi Phật
Sau khi Đức Thích Ca viên tịch thì các tông đồ thiêu thi hài của Ngài. Lóng xương chưa thiêu huỷ hết được cất giữ như báu vật gọi là Xá Lợi Phật.
Đại Đức Narada Théra Phó Giáo Tông Phật giáo Tích Lan đem cho nước Việt Nam 3 hạt ngọc xá lợi: một cho đại thừa, một cho tiểu thừa Phật giáo Việt Nam và một cho tiểu thừa Phật giáo Campuchia. Vì đại thừa Phật giáo chưa quyết định để hạt ngọc ở đâu nên Đại Đức Narada Théra giao cho Hoàng thái hậu Từ Cung, để đức bà tặng nơi nào tuỳ ý. Kèm theo 3 hạt ngọc có 3 cây bồ đề: một cây tặng tiểu thừa Việt Nam, một cây tặng tiểu thừa Campuchia và một cây tặng Toà Thánh Tây Ninh trồng gần cây phướn trước Đền Thánh.
Đêm 18-5 Quí Tỵ (1953) thiết lễ đăng điện Xá Lợi Phật Đức Phạm Hộ Pháp thuyết giảng như sau:
“Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan lấy của tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Boudda Çakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada Théra thuyết đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với mãnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy. Trước kia Đức Phật Thích Ca đã thành Phật đặng thì chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Đạo mong mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy”.
Cây bồ đề trước Toà Thánh hiện nay được trồng dịp này.
15 . Khảo Cứu Vụ
Vào rằm tháng 12 Đinh Hợi (25-1-1948) Đức Hộ Pháp ký thánh lịnh thành lập Khảo Cứu Vụ để nghiên cứu về giáo lý, triết lý, đạo pháp, hệ thống hoá tư tưởng Cao Đài. Nội dung:
- Tổ chức giảng đạo tại Toà Thánh và các Châu Đạo để phổ thông giáo lý ĐĐTKPĐ và các tôn giáo.
- Tổ chức các lớp huấn luyện chức sắc, chức việc để đủ tài sức truyền giáo.
- Xuất bản báo chí để phổ thông chơn đạo.
Thánh lịnh còn ghi rõ phương pháp làm việc, lề lối tổ chức, chương trình hoạt động. Riêng bí pháp tịnh luyện và phép tham thiền có ghi trong đó.
Sau khi thánh lịnh ban hành đúng 75 ngày, vào 5-2 Mậu Tý (1948) Đức Hộ Pháp nói: “Tội nghiệp thay mấy anh lớn già yếu đã giải thoát không được hưởng một đặc ân gì. Hiện thời bí pháp có ảnh hưởng đến nền đạo. Nơi Hiệp Thiên Đài lấy bí pháp tạo huyền linh đài để tương liên với quyền năng vô hình." (Thông tin số 59).
Mãi đến ngày 4-5-Nhâm Tý (1972), Ngài Trương Hiến Pháp Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài mới ban hành thánh lịnh số 53-TL tái lập Khảo Cứu Vụ để đáp ứng nhu cầu tiến triển của nền đạo.
Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp: Thập Nhị Bảo Quân là Hàn Lâm Viện của đạo, là hội đồng khoa học xã hội tôn giáo. Tới nay Bảo Quân chưa đủ số nên chưa thực hiện được chức năng. Do đó Khảo Cứu Vụ thay Bảo Quân làm những nhiệm vụ tương đối thấp hơn. Bởi lẽ, công cuộc khảo cứu đòi hỏi phải có tri thức, khả năng chuyên môn và tầm hiểu biết sâu rộng trên mọi lãnh vực. Nếu thực hiện được tư tưởng Đạo Cao Đài sẽ đặng hệ thống hoá và luận tạng sẽ ra đời.
Home               1 ]   [ 2 ]   [ 3 ]   [ 4 ]   [ 5 ]   [  6  ]  [ 7 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét