LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI VỀ GIÁO LÝ (1925 - 1955) - 3 / 7 ( HT. TRẦN VĂN RẠNG )


Linh tánh Chí Tôn đã cho nó hay trước rằng Bần đạo sẽ phạt nó nên trốn mặt. Vì miệng nó mà Hộ Pháp chịu hàm oan, trốn tội sao cho khỏi.
Chư đạo hữu phải hiểu rằng, nếu không phải phép huyền vi mầu nhiệm của Chí Tôn thì chưa dễ làm cho mẹ của Thượng Sanh và Tiếp Đạo phải chịu oan khúc ấy đặng bao giờ.
Ngạn Sơn, khá để trí vào đó nghe !
Những điều nghị luận vô trí của chư đạo hữu lúc nọ chẳng trúng vào đâu hết mà còn hại cho Thánh Thất nơi đây bị truất bỏ, phần nhiều đạo hữu bị trục xuất là vì nhẹ tánh lầm nghe, nói đi nói lại mà ra đến đỗi ấy.

Ôi ! Hại thay cho cái miệng mà cũng giận thay cho phàm tánh đó chút. Nếu cả thế gian có đặng một người hiểu thấu cơ trời thì đạo không đến đỗi phải chịu bị bế lại gần mười ngàn năm nay nơi cõi Á Đông nầy vậy.
Phải chi có đạo tâm bền chặt thì đã thoát khỏi tội tình ấy rồi. Khá giận mà cũng khá thương đó chút.
Cười... Cũng như thần của Sen viết mà Bần đạo phải chịu tội liên can.
Cơ Bút ! Cơ Bút ! Hộ Pháp khá để ý cho lắm.
Cơ Bút có thể hại tiêu hủy đạo đặng đó. Từ đây Bần đạo không giáng cơ nơi nào hết, nếu có ai mượn danh Bần đạo mới đến hiệp cùng người.
Hộ Pháp ! Từ đây tới buổi về, để cho Cửu Trùng Đài liệu phương hành đạo còn Hộ Pháp chỉ lo về luật lệ xử đoán mà thôi, đừng giúp đỡ chi, rồi trước ngày đi giao quyền lại cho Tiếp Đạo…

13 . Đạo phục Bảo Sanh Quân (ngày 15-12 Đinh Mão 1927)

THÁI BẠCH

Hỷ chư đạo hữu.
Hoạch, nên may thiên phục theo lời dạy sau đây: Áo trắng y theo của Thập nhị Thời Quân và các chức sắc khác nơi Hiệp Thiên Đài. Mão trắng theo của Mỹ Ngọc, nhưng không có bông sen, ngay giữa mão thêu một Thiên Nhãn, chí bìa dưới mão lên cho đủ chỗ thêu Thiên Nhãn, chừa 4 phân, hai bên tả hữu mão, hai Thiên Nhãn, hết thảy là ba. Một sợi dây tiên thằng buộc vòng bìa mão, bề ngang 5 phân, bề dài 2 thước, buộc thế nào chừa Thiên Nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai. May cho kịp đặng mùng 1 hoặc mùng 2 tới đây hầu Đức Từ Bi. Sẽ dâng cho Lão coi khi may rồi nghe.

Thượng Trung Nhựt ! Đạo hữu cũng có nghe lắm diều dạy của chư tiên về nền đạo trong lúc nầy, vậy khá liệu mà làm phận sự. Thánh ngôn nào cang yếu nên xem cho thường mà nhớ lời của Đức Chí Tôn dạy về các sự hành động.

Đạo chậm tấn là bởi kẻ hành đạo, chẳng do thiên ý, mà nếu biết sái, chẳng chịu sớm sửa thì nền đạo phải hoại, kẻ hành đạo chẳng công chi mà chúng sanh cũng không mong độ rỗi đặng.
Nên biết à !
Sự cải thánh ngôn đặng tự tác theo trí phàm là một hại chẳng nhỏ, nên chăm nom và liệu mà ngăn ngừa thói tà mị của nhiều đạo hữu.

Nếu chẳng có Đức Từ Bi rộng thứ thì Lão bôi xóa hết trường công quả của Đại Đạo, đặng để cho nhiều đứa tự tôn chìm vào hang thẳm trót mấy kiếp mà răn các tánh trược phàm tục của chúng nó.

Đạo hữu nên chung trí với các đạo hữu khác có trách nhậm lớn lao và hiệp cùng Hiệp Thiên Đài mà sớm cải bước đạo lại nghe.
Hiệp Thiên Đài cũng tránh không khỏi sơ sẩy lớn lao, ba đạo hữu cũng khá biết mà ngăn mình, vì kẻ trở lòng chẳng chừng đổi, phải lấy hết tâm thành mà giữ cho khỏi các sự sẽ đến, cho khỏi hại đến lòng tín ngưỡng của nhơn sanh.
Chư đạo hữu sẽ thấy sự hành phạt riêng của mỗi đứa.
Chức sắc và công quả chụp ảnh lưu niệm trước Tòa Thánh tạm

Xây cất được một phần lầu Hiệp Thiên Đài


PHẦN THỨ NĂM
HÀNH ĐẠO NƠI TÒA THÁNH

CHƯƠNG I
ĐỨC CHÍ TÔN SẮP ĐẶT VIỆC HÀNH ĐẠO

1 . Thầy sắp đặt việc hành đạo nơi Tòa Thánh (ngày 5-1 Mậu Thìn 1928)
THẦY
Các con,
Hoạch ! Mặc Thiên phục rồi ra quì giữa, xích tới bàn… Con đặng đứng chép thánh ngôn.
Các con, Thầy muốn cho phần nhiều môn đệ Thầy đến hầu nơi Tòa Thánh kỳ vía tới đây, đứa nào phải gia đạo hàn vi không thể đến đặng thì niệm danh Thầy, dâng một tấm lòng thành thật cũng đủ là quí trọng. Nếu phần nhiều đến được thì làm cho cuộc lễ ra vẻ long trọng, hầu làm cho hưng vượng Tòa Thánh và thêm lòng ngưỡng mộ của chúng sanh.
Mỹ Ngọc ! Nhạc trong đạo chưa có vẻ chi hoàn toàn, con gắng lo đặng có thế dạy truyền ra cho nhiều đứa biết mà dùng trong khi hành đại lễ. Nhiều đứa có thể học được nhưng chẳng để lòng đến, nên lúc hữu sự, lễ nhạc gì đều chẳng trọn.
Trung ! Con hiệp với Mỹ Ngọc cho lịnh biểu các môn đệ Thầy, đứa nào có thể giúp về nhạc đặng thì gắng học cho đủ mà dùng, khỏi nhọc lòng cầu nơi ngoài. Con biết à.
Phú ! Học nhạc được, gắng sức giúp đạo. Còn nhiều đứa khác, Trung và Mỹ Ngọc liệu mà lựa cho đủ.

Trung ! Ngày 12 tới đây, con nhơn đi xuống Ca cho Thầy dạy, cho Thơ hay nó đi với con và mấy em.
Bính ! Con đặng thế cho Trung nơi Tòa Thánh, khi nào Trung phải vắng mặt nơi đó chút ít.
Trung ! Lịch phải ở Tòa Thánh với con, nó khứng không con ? (Bạch: Lịch nói khứng nhưng con đợi hoài tới nay chẳng thấy).
Cười... Nhiều đứa muốn trái thánh ý lắm. Thầy dạy từ đây, con và Lịch phải có mặt nơi Tòa Thánh, trừ ra đứa nào có lịnh dạy đi đâu hay là mắc đi việc chi về đạo phải vắng mặt thì có Phối Sư thế được mà thôi.

Con phải chăm nom từ chút và dọ tánh chư đạo hữu, chớ vội tin, lúc nầy nhiều đứa bị cám dỗ mà sái bước lần. Ấy là lúc tà chánh tranh giành với nhau. Đứa nào chẳng giữ được đường ngay thì khó mong đến cùng Thầy đặng đó. Đạo chẳng khó, duy nơi tấc lòng, mà thương hại thay ! Từ xưa, công quả của mấy bực chơn tu đều trôi theo dòng bích hết, cũng vì đó mà nay cũng khó thế tránh được.
Các con yêu dấu ! Nên giữ mình cho lắm !
Nương ! Công quả thiệt thòi ! Thầy sẽ định sau nầy. Con nên gắng hết lòng khuyên nhủ là đủ.
Hộ ! Thầy cho được tự liệu mà dìu dắt chư đạo hữu, con nên gắng sức. Thầy sẽ chứng lòng.
Thầy ban ơn cho các con. THĂNG.

2. Phương châm hành đạo (ngày 29-2 Mậu Thìn 1928)
LỜI TỰA

Thiết tưởng, đạo nào cũng dạy lánh dữ làm lành. Chủ nghĩa của mỗi tôn giáo thảy đều cao thượng nhưng nếu người hành đạo không noi theo một phương châm nào cho chánh đáng, tức nhiên đạo cao thượng cũng hóa ra hư hèn, rồi lâu đời mối chánh truyền phải mất.
Tôi vốn không từng viết văn, lẽ không nên làm sách, song nghĩ vì trách nhậm nặng nề, sở dĩ phải lược lục quyển sách “Phương Châm Hành Đạo” nầy mong rằng chư đạo hữu lưỡng phái nam nữ nhứt tâm hành sự theo qui tắc chuẩn thằng, thì rất may mắn cho nền đạo, mà lại cũng là một điều hân hạnh cho tôi lắm đó.
Mỗi lần thuyết đạo, chư vị thiên phong cũng nên đem quyển sách nầy ra đọc cho chư tín đồ nghe rồi giải rành thêm cho mọi người dễ hiểu.

Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 29 tháng 2 Mậu Thìn (1928)
Thượng Đầu sư LÊ VĂN TRUNG

Quyển sách “Phương Châm Hành Đạo” của Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt gồm 20 trang, có các mục sau đây:
1. Giữ Đạo:
- Làm lành lánh dữ
- Trau giồi đức hạnh: khiêm nhượng, nhẫn nại, thuận hòa, kiên tâm, thanh liêm.
2 . Người trong đạo phải đối đãi nhau thế nào ?
- Tín đồ
- Chức sắc
3 . Đối với người ngoại giáo:
- Đối với quan viên chức sắc
- Đối với người khác đạo
- Đối với người nghịch đạo
4 . Phổ thông thiên đạo:
- Thuyết đạo
- Khai đàn

5 . Phải năng hầu đàn
6 . Điều lệ hầu đàn: Khi nhập đàn
7 . Phải xem sách kỉnh, luật lệ
8 . Phải xem kinh sách thế nào ?
Ngoài ra, cũng trong năm Mậu Thìn (1928) nầy, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt hợp với Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt biên soạn cuốn: Tứ thời nhựt tụng kinh, chữ quốc ngữ có biên kèm chữ Nho và chữ Nôm để giải thích mỗi câu kinh.

3 . Thầy dạy Đức Hộ Pháp làm Tịnh thất (ngày 16-3 Mậu Thìn 1928)
THẦY
Các con,
Ứ hự ! Con đứa lớn không nên lớn, đứa nhỏ không nên nhỏ, uổng công Thầy dạy dỗ từ bấy lâu nay lắm !
Một nền đạo đức mà ra mất giá cũng tại nơi các con đó. Thầy đã lập trọn vẹn tư cách của nó, các con chỉ còn có ra công tô điểm cho nên mỹ lệ, mà các con để nông nỗi như vầy, Thầy cũng muốn bỏ đi đó chút, nhưng mà đoái đến nhơn sanh và công lao khó nhọc của nhiều kẻ nên dạ không đành, mà giận cái ngây dại của các con mà thêm nỗi nầy.
Thầy đã sắm sẵn đẳng cấp trật tự, quyền lịnh cho các con mà các con chẳng biết phận sự của mình, biểu sao nền đạo không bị đạp đổ, khi dễ phẩm vị thiên phong.

Cả chư thần, thánh, tiên, phật chinh lòng, muốn toan phế hủy. Đạo mới ra loạn lạc dường ấy.
Nay đã biết rằng kế thử nhơn sanh, làm cho hiểu rằng: Không Thầy nâng đỡ thì dầu cho một mối đạo nào chơn chánh, hiệp lý thiêng liêng đi nữa, thì cũng phải bị nơi tay các con mà qui phàm ra tả đạo.

Mặc dầu chớ Thầy rất phiền các con không nhớ lời Thầy đã tiên tri mọi điều cho các con biết trước hết. Vì vậy mà làm cho Thầy rất tiếc công khó nhọc với các con từ khi Thầy đến dạy dỗ. Nhiều đứa dám lộng ngôn gọi sức mình là đủ, không giữ hạnh khiêm cung, phải đắc tội cùng chư thần, thánh, tiên, phật.

Mưu mưu kế kế hại lẫn với nhau, Thầy đã dự định cho mỗi đứa đủ quyền kềm thúc lấy nhau, đặng giữ gìn thánh đức yêu sanh của Thầy mà binh vực lấy nhau, mà chẳng một đứa nào biết ngó đến phẩm giá mình, làm cho cả nhơn sanh phiền muộn.
Nếu Thầy phải chịu thất vọng một phen nầy nữa thì toàn địa cầu 68 phải bị đọa đời đời kiếp kiếp.

Thảm thay cho nhơn loại ! Đau đớn thay cho nhơn loại !
Thầy cho các con biết trước rằng: Ngọc Hư Cung hằng để ý vào công cán của các con và tội tình của các con. Thầy nhứt định không dạy dỗ chi nữa hết, song Thầy dặn các con một điều là cứ tuân y luật lệ và thánh ngôn của Thầy mà hành đạo.

Trung ! Cũng tại con nữa nghe.
Cư, Tắc, Chương ! Như Cửu Trùng Đài không nhìn nhận quyền hành của Hiệp Thiên Đài thì các con an phận, đợi lịnh Thầy dạy biểu ngày nào cần đến các con sẽ hay.
Hiếu ! Con đừng phiền não. Thầy tưởng trẻ không quên Thầy dạy dỗ. Phải nhớ lời Thầy, đừng trách bài thi khó khăn mà bỏ trường công quả.
Cư ! Con phải sửa soạn đem các chứng cớ của con mà trình bày cho Hội Thánh hiểu biết, đặng răn kẻ vô đạo nghe.
Tắc ! Làm Tịnh Thất cho rồi đặng mấy anh con vào ở. Biểu Lịch sửa đường vào Tịnh Thất ngay cửa nhà nó, cái Đài Luyện Khí trật hướng, phải xoay mặt qua chánh đông nghe.
Thầy ban ơn cho các con. THĂNG.

4 . Đức Lý khuyên Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài hiệp nhau điều đình nền đạo (ngày 7-5 Mậu Thìn 1928)
THÁI BẠCH
Lão giận không muốn cho hầu đó chút nhưng Chí Tôn đã phán dạy Lão phải tuân theo, cho vào.
Lão mừng chư đạo hữu. Cười…
Chư Hiền hữu, Lão nói thử rằng: Không biết Lão có nơi đây không há ? À há ! Giáo Tông mà làm gì hử ! Lão tưởng không cần nói thì chư đạo hữu cũng đủ biết rằng: Lão cầm quyền Giáo Tông đặng cũng nhờ nương theo chư đạo hữu mới có phần xác mà hành chánh đặng.
Lão chẳng có lời chi cám ơn chư hiền hữu đã tận tâm giúp Lão nên nền đạo ngày nay mới biến như vầy.
Cười.... Cửu Trùng Đài thì không quyền, Hiệp Thiên Đài thì không lịnh, Lão dầu để hết tinh thần thiêng liêng vào nữa cũng chẳng làm gì được, chi bằng Lão để cho chư hiền hữu dùng hết sức phàm điều đình, chừng nào không đặng, cầu đến Lão sẽ hay. Cười...
Lão cũng chẳng nên nói chi lắm mà làm cho phiền lòng Chí Tôn, vì lắm công chư hiền hữu, nên đạo mới ra đến đỗi nầy  !

5. Đức Cao Thượng Phẩm ra khỏi Tòa Thánh (ngày 25-7 Mậu Thìn 1928)
Nhắc lại, lúc trước vào đầu tháng 3 âm lịch năm Mậu Thìn, có vài chức sắc Cửu Trùng Đài làm đơn gởi lên Hội Thánh tố cáo Đức Thượng Phẩm thâm lạm tiền bạc của Hội Thánh.
Trong lúc Hội Thánh đang tra xét thì số người ầy xuống gặp ông Tư Mắt ở Sài Gòn, thêu dệt thêm nhiều điều phi lý để kích động Tư Mắt, vì họ biết ông Tư Mắt tánh tình bộc trực nhưng nông cạn, nóng nảy, lại hay làm liều, để kéo Tư Mắt về phe của họ. Nhóm của ông Tư Mắt, sau khi họp bàn, lập vi bằng tại Thủ Đức xong thì sau đó hẹn nhau đồng kéo lên Tòa Thánh Tây Ninh để vấn nạn Đức Cao Thượng Phẩm.

Họ đến Tòa Thánh Tây Ninh ngang nhiên làm các việc theo ý riêng của họ, không xin phép ai cả, không căn cứ vào luật pháp nào cả, bởi vì sau nầy được biết: Bên ngoài, họ được chánh quyền Pháp tại Tây Ninh xúi giục; bên trong thì họ được sự ủng hộ ngầm của hai Ngài Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh.
Họ yêu cầu họp các chức sắc hiện đang có mặt tại Tòa Thánh (gọi là họp Hội Thánh !) để xem xét việc nầy. Tổng số chức sắc hiện diện là 45 vị, đương nhiên trong số nầy có nhiều vị chức sắc đồng cánh với họ.

Họ trích điểm Đức Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp, cho rằng, Cửu Trùng Đài nay đã có đủ Cửu Viện làm việc rồi, còn Hiệp Thiên Đài có công phò cơ buổi đầu mở đạo, nay Đức Chí Tôn đã cấm cơ bút, nến quí Chức sắc Hiệp Thiên Đài hết nhiệm vụ, cần an tịnh nghỉ ngơi.
Họ tổ chức bỏ thăm lấy ý kiến: có 27 thăm đồng ý cho Đức Thượng Phẩm rời Tòa Thánh, trở về tư gia nghỉ ngơi, 15 thăm không đồng ý, 3 thăm trắng. Họ dùng hình thức có vẻ dân chủ nầy để lừa bịp dư luận vì những người bỏ thăm phần nhiều là thuộc phe cánh của họ và cuộc họp nầy không do Hội Thánh triệu tập. (Tài liệu lưu lại không ghi tến 45 vị Chức sắc nầy !)
Thế là họ buộc Đức Cao Thượng Phẩm và Bà Hương Hiếu rời khỏi Tòa Thánh trong vòng 24 giờ. Ông Tư Mắt đe dọa, nếu bất tuân, không chịu rời Tòa Thánh thì ông sẽ bắt trói nơi gốc cây, bắn bỏ !

Đức Hộ Pháp nói: dù 3 thăm trắng nhập với 15 thăm chống, thì cũng còn ít hơn số 27 thăm kia. Số 15 là con số của Hiệp Thiên Đài vì Hiệp Thiên Đài có 15 vị, số 27 là con số của Cửu Trùng Đài vì là bội số của 9, còn số 3 thì thêm vào bên nào cũng vậy thôi.

Bốn ngày sau, tức là ngày 29.7 Mậu Thìn, Đức Cao Thượng Phẩm cùng bà Hương Hiếu rời Tòa Thánh, dọn về ở nơi tư gia của Ngài tại làng Hiệp Ninh.
Đức Hộ Pháp sau đó cũng phải đi lánh nạn ở Thánh Thất Thủ Đức. Thánh Thất nầy do Ngài Thái Chánh Phôi Sư Thái Thơ Thanh lập ra.

6. Đức Hộ Pháp mua đất lập Phạm Nghiệp (Trung tuần tháng 8 năm Mậu Thìn)
Trung tuần tháng 8 năm Mậu Thìn (1928), Đức Hộ Pháp dùng tư bổn riêng của Ngài mua một phần đất cặp quốc lộ 22, gần chùa Gò Kén, để lập Phạm Nghiệp.
Đức Ngài đặt khoán cho ông Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh làm một cái nhà bằng gỗ, chừng nào làm xong thì chở tới dựng lên. Khi ngôi nhà được dựng xong thì Đức Ngài cho làm cái cổng, xây hai trụ hai bên, làm một tấm bảng lớn đề hai chữ Phạm Nghiệp và làm đôi liễn gắn vào hai trụ cổng:
Phạm nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng
Môn quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.

Trong thời gian lập Phạm Nghiệp, có một số đạo tâm tình nguyện đến xin giúp việc cho Đức Ngài, mỹ ý là họ muốn được gần gũi Đức Ngài để học đạo. Lần hồi số người nầy mỗi lúc một đông. Đây là bước khởi đầu để tiếp theo sau là Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn.

7. Đức Hộ Pháp đi Phú Mỹ (ngày 18-8 Mậu Thìn 1928)
Sau vụ ông Tư Mắt dùng bạo lực đuổi xô Đức Thượng Cao Phẩm ra khỏi Tòa Thánh về ở Thảo Xá Hiền Cung; còn phần Đức Hộ Pháp thì sau khi xây dựng Phạm Nghiệp, cũng phải đi lánh nạn ở Thánh Thất Thủ Đức. Thánh Thất nầy do Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh lập ra.

Trong thời gian Đức Hộ Pháp ở Thủ Đức, Đức Ngài chấp bút để học đạo với Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông.
Lúc đó có một nhóm đạo hữu Minh Thiện Đàn ở làng Phú Mỹ, Mỹ Tho được tin Đức Hộ Pháp đang ở Thủ Đức thì họ liền tìm đến viếng thăm Đức Ngài. Nhóm đạo hữu nầy gồm quí ông: Lê Văn Trung (Phú Mỹ), Huỳnh Văn Phuông, Hàm Sung, ông Minh, ông Phú. Năm vị nầy lưu lại Thánh Thất Thủ Đức 8 ngày, được Đức Hộ Pháp ban cho phép giải bịnh, vì năm đó có bệnh dịch tả lan tràn. Ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh hay tin cũng đến đây thọ pháp, được Đức Hộ Pháp ban phép và truyền thần cho ông Giáo Hữu về Phú Mỹ giải bịnh bổn đạo.

Quí ông xin phép Đức Hộ Pháp cho trở về Phú Mỹ chuẩn bị các công việc và xin Đức Hộ Pháp là 2 tháng sau sẽ lên rước Đức Ngài xuống Phú Mỹ, Đức Hộ Pháp chấp thuận.

Xin mở dấu ngoặc nói riêng về Minh Thiện Đàn:
Năm 1927, Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Cao Quỳnh Diêu vâng lịnh Đức Phật Mẫu đi xuống làng Phú Mỹ ở Mỹ Tho để tìm mua đất lập một Thánh Thất gọi là Khổ Hiền Trang, giao cho ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh làm chủ.
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ cho bài thi khoán thủ:
KHỔ thà cam chịu chớ đừng than,
HIỀN hảo càng nhau mới vẹn toàn.
TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá,
Dồi mài Chí thiện Thượng Minh Thanh.

Đức Phật Mẫu cũng giáng dạy phải khẩn đất nơi đây để lập một Sở Thảo Đường, ngày sau sẽ thành phước địa và cho bài thi sau đây:
THẢO ĐƯỜNG phước địa ngộ tùng hoa,
Lục ức dư niên võ trụ hòa.
Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,
Thế đăng Bồng đảo định âu ca.

Ngày 14-10 Đinh Mão (dl 8-11-1927),
Ông Đinh Công Trứ chấp cơ thì Đức Lý Giáo Tông giáng dạy lập Minh Thiện Đàn tại nhà của ông. Ông Lê Văn Trung ở gần nhà ông Trứ cũng gia nhập Minh Thiện Đàn (MTĐ). Hai ông được Đức Lý Giáo Tông dùng làm cặp phò loan chánh thức của MTĐ.

Ngày 15-1 Mậu Thìn (dl 6-2-1928)
Bắt đầu lập đàn cầu cơ thâu nhận người vào MTĐ, ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh chứng đàn, lập minh thệ cho mỗi người, rồi lập thông qui dâng về Tòa Thánh cho ba Ngài: Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Đức Hộ Pháp và Đức Thượng Phẩm. MTĐ cũng được lịnh đưa người trong đàn về Tòa Thánh, tùng lịnh Đức Cao Thượng Phẩm làm công quả khai phá đất rừng, cất được một cái nhà 7 căn gọi là: Nhà Sở Phú Mỹ.

Ngày 15-2 Mậu Thìn (dl 6-3-1928)
Đức Lý giáng cơ dạy lập luật điều chánh pháp, ấy là nội luật điều hành MTĐ.
Ngày 3-1 Kỷ Tỵ (dl 12-2-1929), Đức Quan Thánh Đế Quân giáng đàn, bảo ông Trung lập tại nhà của ông một cái đàn nữa gọi là Đồng Nghĩa Đàn để thâu môn đệ vào MTĐ.
Đến ngày 16-1 Kỷ Tỵ (dl 25-2-1929) Đức Lý Giáo Tông giáng dạy: “Minh Thiện là Qui Thiện, mà Qui Thiện là Phạm Môn, nên phải hiệp với Đức Hộ Pháp.” Do đó những vị trong MTĐ tìm cách liên lạc với Đức Hộ Pháp và xin rước Đức Hộ Pháp xuống Phú Mỹ

8 . Thầy dạy làm tháp cho Ca Bảo Đạo (ngày 19.10 Mậu Thìn 1928)
THẦY
Đại lụy ! Cái thảm trạng chia lìa may ra có thể làm cho các con đau đớn mà biết thương yêu nhau chăng ?
Thảm ! Từ thử chỉ có một mình Bảo Đạo là niên cao kỷ trưởng hơn các con hết mà buộc Thầy phải đem về, thì tưởng các con đã biết mình là côi cút về đường đời, không ai đủ trí thức hoàn toàn mà binh vực các con nữa, thì mới biết lập mình có đủ khôn ngoan tài tình đạo đức thì địa vị các con mới trở nên cao đặng.
Thầy đòi phen phải buộc lấy hình phạt mà làm ra phần thưởng, các con đã hiểu đạo đặng chút ít, Thầy tưởng chẳng cần phải cạn lời.
Thầy khuyên các con lấy Chương làm dây thân ái mà buộc nhau mới đặng hòa nhã nơi Hiệp Thiên Đài.

Thầy cho phép các con làm lễ táng nó cho long trọng, hầu nêu gương cho hậu tấn của Đạo.
Tắc ! Phải biểu Cư xuống cho kịp làm lễ y như lời Thầy dạy đám tang của Thụ. Nhớ làm, đừng bỏ nữa nghe con. Thầy cũng nên nhắc lại với các con rằng, đủ 3 năm, phải thiêu hài cốt, lên tượng, đặng đem nó vào Bát Quái Đài, nghe.
Nơi mộ nó, phải để quan tài khỏi mặt đất một tấc và xây tháp lên y như lời Thầy đã dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng “Bảo Đạo Chơn Quân” nhớ à ! Thầy thăng.

9 . Đức Cao Thượng Phẩm đăng tiên (ngày 1-3 Kỷ Tỵ 1929)
11 giờ trưa, Đức Cao Thượng Phẩm cho mời Đức Hộ Pháp cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thương Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh.

Đức Thượng Phẩm nhìn Đức Hộ Pháp trối rằng: “Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chức sắc chung lo nền đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự. Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn”.

Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt. Kế day qua nói với người bạn đời của Ngài, căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự. Nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt giống như người đang ngủ. Cả chức sắc có mặt đều cảm động và ngậm ngùi thương tiếc.
Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy, thúc xác ngồi kiết tường, trước mặt lập bàn hương án, chưng bông hoa trà quả. Đức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng liên đài hình bát quái.

Thời tý đại liệm, rồi thành phục, tế lễ theo nghi tiết.
Hội Thánh thông tri cho toàn đạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Đức Cao Thượng Phẩm được tiêu diêu nơi miền tiên cảnh.

Quàn tại Thảo Xá Hiền Cung 3 ngày, chức sắc và đạo hữu nam nữ điếu tế rất đông.
Chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ, Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng được về bái mạng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều được ân ban công nghiệp buổi khai đạo tròn sứ mạng.
 
  Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt
THI
CAO thanh miệng thế mặc chê khen,
THƯỢNG trí màng chi tiếng thấp hèn.
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.

Ngài tỏ vẻ vui mừng vì nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng sống.

CHƯƠNG II
HỘI THÁNH LẬP NỘI LUẬT

1 . Đức Hộ Pháp lấy Long Tuyền Kiếm (ngày 29-2 Canh Ngọ 1930)
Trước đây, vào ngày 18-10 Mậu Thìn (1928), khi Đức Hộ Pháp chấp bút, có Bát Nương giáng, mách cho Đức Hộ Pháp biết cần phải phá cái phép ếm Long Tuyền Kiếm của triều đình Mãn Thanh nước Tàu đem qua ếm nước Việt Nam, phá phép ếm xong thì thì nước Việt Nam mới có nhiều nhân tài nổi lên làm cho đất nước cường thịnh được. Chừng nào thuận tiện thì Bát Nương sẽ cho biết để đi lấy phép ếm độc hại nầy.

Từ khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ của nước Việt Nam đại thắng quân Mãn Thanh, giữ vững nền độc lập thì vua quan nhà Mãn Thanh rất tức giận, vì với một đại quốc như nước Tàu mà không thâu phục nổi một nước nhỏ bé như Việt Nam, họ suy nghĩ và khám phá ra rằng, nguyên do là nước Việt Nam có nhiều người tài giỏi. Do đó, triều đình Mãn Thanh sai các thầy địa lý giả dạng thương buôn, qua Việt Nam đi khắp nơi, từ Bắc chí Nam, để tìm các long mạch sản xuất nhân tài của Việt Nam. Họ nhận thấy, các long mạch đã chuyển từ miền Bắc vào miền Trung và sau cùng chuyển đến miền Nam, ở tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho. Đây là một long mạch đầy linh khí, nơi đây sẽ sản xuất nhiều nhân tài xuất chúng làm cho nước Việt Nam phú cường.

Họ liền dùng phép ếm long mạch, không cho long mạch phát tác và đặt nơi đây một cây kiếm linh, để nếu có nhân tài sản xuất ra thì bị cây kiếm linh nầy giết chết từ khi còn thơ ấu.
Đến đầu thế kỷ 20, nhà Mãn Thanh lại sai một thầy địa lý tài giỏi khác lén lút qua Việt Nam xem xét phép ếm trước và ếm thêm một lá phù nữa để tăng cường, có trấn tại đây một vị thần để gìn giữ phép ếm, không cho ai phá hủy.

Thời gian qua, một hôm Bát Nương giáng cơ nói với Đức Hộ Pháp: ngày 29-2 Canh Ngọ (1930) tới là lúc thuận tiện để Đức Hộ Pháp đi lấy Long Tuyền Kiếm tại Phú Mỹ, phá phép ếm của triều đình Mãn Thanh nước Tàu, rồi chỉ dẫn Đức Hộ Pháp cách lấy Long Tuyền Kiếm và cách phá phép ếm vì nơi dây có một vị thần linh giữ gìn, chỉ có người thiên mạng mới đến lấy được mà thôi, nếu là người phàm thì sẽ bị vị thần nầy xua đuổi hay giết chết.

Đến ngày nầy, 29-2 Canh Ngọ (dl 28-3-1930), Đức Hộ Pháp cùng với 2 vị nữ phái và 4 vị nam phái gồm: Lễ Sanh Thái Chia Thanh, ông Tri, ông Chiêu, ông Lư, đến Thánh Thất Khổ Hiền Trang ở Phú Mỹ để tổ chức đi lấy phép ếm Long Tuyền Kiếm. Đức Hộ Pháp nhờ quí vị trong Minh Thiện Đàn chuẩn bị xuồng ghe và các dụng cụ phát cỏ, đào đất.

Đức Ngài chấp bút, Lỗ Ban Sư giáng nói phải đi vào Sở Thảo Đường. Thảo Đường nầy là chỗ do Đức Phật Mẫu chỉ dạy, khẩn một lô đất hoang 60 mẫu và khai một con kinh về các năm trước là năm Mậu Thìn (1928).
Sáng sớm ngày 30-2 Canh Ngọ (dl 29-3-1930) Đức Hộ Pháp xuống ngồi trên một chiếc ghe với 2 chức sắc hầu cận, còn các vị khác xuống ngồi trên các chiếc xuồng, bơi dọc theo kinh chợ Thầy Yến, rồi đi vào Láng Cát.

Khi đến con kinh mà ông Đinh Công Trứ, ông Lê Văn Trung (Phú Mỹ) và bổn đạo Minh Thiện Đàn khai thác, các vị xuống ghe dừng lại, phái đoàn lên bờ. Nơi đây là Sở Thảo Đường, có tạo một ngôi nhà tạm bằng cây để thờ Đức Chí Tôn. Khu đất nầy là một gò đất cao, rộng, giống như một ngọn núi mới nổi chưa thành hình. Đức Hộ Pháp chấp bút, Lỗ Ban sư giáng chỉ dẫn Đức Hộ Pháp: Đi về hướng tây nam chừng 280 bước, gặp một cái gò cao nhứt, đó là chóp núi sẽ nổi, đào sâu xuống thì sẽ gặp Long Tuyền Kiếm.

Đức Hộ Pháp và phái đoàn đi đến nơi mà Lỗ Ban Sư hướng dẫn, Đức Ngài biểu đào sâu xuống, khi đào xuống khá sâu thì gặp một miếng đá lớn, khiêng miếng đá ấy lên, rồi đào xuống tiếp, gặp một khối đá nữa, trên mặt khối đá nầy có: 1 hình nhân bằng đồng, 1 lưỡi dao phai đã rỉ sét, 6 con cờ tướng (gồm 1 con tướng, 2 con sĩ, 2 con xe, 1 con chốt) và 6 đồng tiền kẽm, đặt ở 6 góc. Khiêng khối đá ấy lên và tiếp tục đào sâu xuống nữa thì đụng một cái hộp bọc chì, dài chừng 9 tấc, ngang 3 tấc, dầy chừng 1 tấc 8. Mọi người đều vui mừng.

Đức Hộ Pháp nói đây là hộp đựng Long Tuyền Kiếm, phải cẩn thận lấy lên cho nguyên vẹn.
Khi lấy hộp đựng Long Tuyền Kiếm lên thì có một mạch nước trắng xóa phun lên. Đức Hộ Pháp cho biết đó là long mạch. Đức Ngài hành pháp giải khai long mạch và ra lịnh đào một cái rạch nhỏ, từ ngọn Tràm Sập, băng qua long mạch, đến con kinh lớn, để dẫn nước từ long mạch ra sông, châu lưu khắp sông ngòi cho dân tộc Việt Nam hạnh hướng.

Đức Hộ Pháp nói: nay là ngày kỷ niệm nước Việt Nam dòng giống Lạc Hồng được hữu phước nhờ đạo trời khai mở, gỡ ách nạn cho dân tộc Việt Nam và cả nhơn loại, từ từ nước Việt Nam sẽ gỡ được ách nô lệ ngoại bang, dòng dõi tổ phụ ta sẽ được phục nghiệp, dân tộc ta sẽ có nhiều nhân tài xuất hiện, xóa ách nô lệ và làm cho đất nước phú cường. Nếu có chậm trễ là do dân tộc Việt Nam không sớm tôn thờ nền đại đạo của Đức Chí Tôn, không đủ thương yêu nhau, mãi lo tranh danh đoạt lợi. Lại nữa, tổ phụ ta đã vay nợ máu là Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, ai còn dính dòng máu oan nghiệt ấy thì phải trả cho dứt rồi mới vãn hồi được hòa bình độc lập thật sự được.

Việc đào con rạch nhỏ nầy để giải khai long mạch, trừ tuyệt phép ếm Long Tuyền Kiếm của Tàu, tất cả người Minh Thiện Đàn quyết tâm đào nội trong ngày cho xong, có chỗ nhằm đất của tư nhân, họ ra nằm vạ cản trở, nhưng khi họ nghe giải thích thì cảm thông cho việc làm công ích nầy. Đến khoảng 1 giờ chiều thì đào xong con rạch nhỏ nầy, nước trong long mạch chảy ra hòa vào nước sông, đi châu lưu cùng khắp.

Đức Hộ Pháp và phái đoàn trở về, dùng cơm tại nhà Ngài Lê Văn Trung (Phú Mỹ).
Sau đó, phái đoàn trở lại Thánh Thất Khổ Hiền Trang vào lúc 4 giờ chiều, nghỉ ngơi. Hôm sau, Đức Hộ Pháp đem Long Tuyền Kiếm cùng các vị chức sắc nam nữ trở về Tòa Thánh Tây Ninh.

Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung có thuật lại cho ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai nghe về việc có một người Tàu, không biết gốc gác ở đâu, đến Phú Mỹ, quanh quẩn nơi đó khá lâu, sau nầy khi Đức Hộ Pháp đi lấy phép ếm Long Tuyền Kiếm thì ông mới trực nhớ lại và đoán chắc người Tàu ấy đến Phú Mỹ là để ếm long mạch như đã nói ở trên.
“Thuở nhỏ, lúc ông Trung còn ôm cặp đi học, ông đi bằng xuồng đến trường học ở chợ Phú Mỹ, ông có biết một đám xác đem chôn nơi Láng Cát. Sau đó, lúc ở quán bên đường, ông có nghe một ông lão chuyên môn làm mướn trong vùng, ai mướn chi, ông cũng làm để kiếm sống, ở làng Phú Mỹ, mọi người đều biết ông. Ông lão cằn nhằn lông bông là bữa hổm có đi chôn một bà, phải đào huyệt tới bốn lần mới chôn được.

Nghe vậy, một người Tàu, đã có mặt tại Phú Mỹ và quanh quẩn nơi đây cả tháng rồi, ông Tàu nói là đi tìm bà con nhưng chưa gặp. Người Tàu nầy từ bàn kế bên bước qua hỏi ông lão là đám xác chôn ở đâu ? ông lão đáp là chôn ở Láng Cát. Người Tàu hỏi vì sao lại đào tới bốn huyệt vậy ?

Ông lão đáp: Bởi vì đào xuống gặp đá, đá cứng quá, mới bỏ chỗ đó, qua đào chỗ khác, cứ thế mà đào đến cái thứ tư là ra bìa gần kinh thì mới đào xuống được để chôn, nhưng chôn cũng không sâu vì đá, hơn nữa trời cũng quá khuya phải về.
Người Tàu liền mướn ông lão chèo ghe đưa ông ta đến chỗ đó để ông coi, giá là 2 cắc.
Ông lão kể câu chuyện tại quán. Sau khi người Tàu đó đi xem xong thì trở về. Người Tàu ấy lại hẹn với ông lão là ngày mai nhờ ông lão chèo đưa đi một chuyến nữa. Ông lão nói rằng: không hiểu ông Tàu đi lên bờ vào trong Láng Cát kiếm cái gì không biết, chỉ thấy ổng cầm trên tay một cái bọc gói kín và bưng theo một hủ cải bắc thảo.
Thế rồi thời gian trôi qua, ông lão làm mướn cũng không còn, và người Tàu cũng vắng đi từ dạo đó.

Cho đến một hôm, gần 14 hay 15 năm sau, sau khi Đạo Cao Đài khai mở, Đức Phạm Hộ Pháp được quyền thiêng liêng chỉ dẫn đến ngay tại Láng Cát làng Phú Mỹ lấy phép ếm Long Tuyền Kiếm của người Tàu.
Lúc bấy giờ, một sự trùng hợp như có sắp xếp, khiến vùng ký ức của ông Trung chợt được đánh thức, khiến ông nhớ lại tất cả. Nếu không có Đức Phạm Hộ Pháp đi lấy Long Tuyền Kiếm thì câu chuyện của thời quá khứ đã nằm yên trong dĩ vãng.
Cho nên, lần lượt tất cả những gì ông Trung ghi nhớ được lúc thiếu thời, giờ đây thuật lại cho Đức Hộ Pháp nghe.
Đức Hộ Pháp nói: Tại cái gò đất vàng đây là một cái núi chưa nổi. Sau nầy, nếu núi nổi lên thì tại đây có một thứ đá rất đẹp, nằm từng lớp, cứ lấy lên mà bán rất nhiều tiền vì nơi khác không có”.

Tại Báo Ân Từ Tòa Thánh, ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai cùng các vị Phạm Môn có nghe Đức Phạm Hộ Pháp thuật lại về cây Long Tuyền Kiếm ếm tại Láng Cát Phú Mỹ như sau:
“Ở sâu dưới đất 300 thước, có một long mạch (mạch nước ngầm) chạy từ núi Bà Đen, qua nội ô Tòa Thánh, xuống tới làng Phú Mỹ tình Mỹ Tho, trổ lên tại Láng Cát. Cho nên Láng Cát là một linh huyệt và vùng đất Phú Mỹ sẽ sản xuất nhiều nhơn tài cho nước Việt Nam.
Các nhà chiêm tinh và phong thủy Tàu biết được điều đó, nên sai thầy địa lý đem Long Tuyền Kiếm sang ếm ngay linh huyệt ấy, để khi có nhơn tài xuất hiện thì kiếm đó giết chết lúc còn trẻ, để nước Việt Nam không người tài giỏi chống lại người Tàu. Nhưng nghiệp quả của nước Việt Nam đã hết, Bát Nương Diêu Trì Cung giáng cơ nói với Đức Phạm Hộ Pháp đi lấy cái ếm Long Tuyền Kiếm.
Sau khi lấy xong, Đức Ngài dạy ông Trung đào một con kinh nhỏ băng ngang linh huyệt cho nước trong long mạch tràn lên, châu lưu khắp sông ngòi, phá tuyệt cái ếm của Tàu, mà dân Việt Nam lại hưởng được cái linh khí ấy của long mạch.

2 . Khởi công xây dựng Tòa Thánh (ngày 14-5 Canh Ngọ 1930)
THÁI BẠCH
Hỉ chư đạo hữu,
Trung, Thơ, nhị vị đạo hữu đó há ! Lão buồn xem đạo còn lắm nỗi khó khăn rối rấm, đường đi nước bước đã sớm chỉ cho hết vài phần mà đi lại cũng chưa gỡ được mối nào, mà con đường sai sót lại lần lần đi tới nữa. Mấy đạo hữu hiểu thánh giáo như người dốt bàn chiêm bao, rồi thì kẻ hiểu một đường, người thông một nẻo, mạnh ai nấy bàn, dường ai nấy đi, chớ chẳng chung trí đồng tâm mà làm trách nhậm.
Lão đã nói, mình duy biết lấy mình và cậy nơi sức mình mà thôi. Đạo chẳng phải một món hàng mà nay đem cầu người nầy, mai đem nài kẻ kia cho họ biết mà nhìn nhận, thật nên nhục thể đạo quá !

Đấng Chí Tôn đã gieo giống quí hóa rồi, thì cần phải vun trồng cho cội sởn sơ. Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược, nhành lá sum sê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng. Chừng hương nực mùi, hoa đơm trái rồi, ngàn dặm cũng tìm đến hưởng nhờ giống quí, nhọc chi phải hạ mình mà làm cho nhẹ nhàng phẩm giá.
Các đạo hữu cứ đường ngay thẳng tới, chung lưng đâu cật mà lo việc mình, thì muôn việc đều nơi Chí Tôn sắp đặt, nghe !
Trung, hiền hữu rõ chưa ? Đã lầm nhiều rồi đó. Danh đạo đã bán một lần rồi, ráng mà chuộc lại.
Tòa Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây Vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các đạo hữu đó.
Nên biết mà lo. Lão kỳ cho hết năm nay, nếu chưa có vẻ gì khởi công mà tạo tổ đình thì nền đạo chớ trông gì lập thành thiên niên được. Chừng ấy, cái họa muôn chung sẽ khởi mà hành động cho đến ngày tiêu diệt với quỉ vương. Một phần người đã mờ ám mê muội với lũ nó, rồi trông cho đến truyền nhiễm hết, rồi nơi đây là động quỉ đó.
Lão đợi chư đạo hữu đặng tái lãnh trách nhậm, nếu chẳng thi hành thì luôn Đức Chí Tôn cũng phải theo Lão mà ra khỏi kỳ phổ độ nầy.

Lão cho Trung, Thơ được quyền bàn tính gấp với mấy anh em mà thi hành.
Thơ, nên gắng công mà ráng sức lo nơi đây trước đã. Hiền hữu chuộc quả nhiều là nơi đó. Còn phần ở Hậu Giang, sau sẽ tính nghe. Lão trông mong. THĂNG

3 . Nghi tiết đại đàn và tiểu đàn cho các thánh thất (ngày 17-6 Canh Ngọ 1930)
Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu được lịnh của Đức Chí Tôn, soạn ra quyển sách mỏng: Nghi tiết Đại Đàn - Tiểu Đàn tại Tòa Thánh và các thánh thất, để thống nhứt về nghi lễ của đạo, đã được Đức Chí Tôn duyệt chấp thuận và cho phép ban hành. Đức Hộ Pháp làm văn thư gởi qua Cửu Trùng Đài để xem xét và ban hành. Nhưng tình hình đạo lúc đó chưa được êm ái, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phải chờ đợi, đến nay mới ra châu tri ban hành, áp dụng thống nhứt nơi các thánh thất địa phương.
Tờ châu tri ấy chép ra như sau:

Tòa Thánh, ngày 17-6 năm Canh Ngũ (12-7-1930).
CHÂU TRI

Gởi cho chư Hiền hữu chủ thánh thất, đầu họ và chức sắc Cửu Trùng Đài.
Hiền hữu yêu dấu,
Đức Hộ Pháp có gởi cho tôi một bổn lễ cúng Đấng Chí Tôn và Tam giáo của Hiệp Thiên Đài soạn lại y như sau đây.
Hôm 9-2-1930 sau ngày vía của Đấng Chí Tôn, tôi có đặt một bàn hội xem xét và hết thảy đều thuận ưng ban hành y theo cuốn lễ bổn ấy.
Từ đây chư Hiền hữu phải y theo đó mà hành lễ và dạy cách hành lễ cho chư đạo hữu lưỡng phái.
Đạo là chánh lý mà chánh lý thì có một nên cách hành lễ của đạo phải y nhau như một mà thôi. Ai canh cải bày biện coi cho huê mỹ thì tội trọng.
Từ đây, nếu còn đạo hữu nào không biết hành lễ thì lỗi về Giáo Hữu, Lễ Sanh, Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự, Họ nào theo Họ nấy.
Nay kính.

THƯỢNG ĐẦU SƯ Thượng Trung Nhựt.
* Tại Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn, ông Vương Quan Kỳ hành đạo không đúng phép, bị Đức Lý Giáo Tông cho sụt chức từ Giáo Sư xuống Giáo Hữu, nhưng ông vẫn còn ảnh hưởng nhiều nơi Thánh Thất Cầu Kho. Ông vận động các chức sắc Ban Cai Quản nơi đây không áp dụng nghi lễ theo châu tri nầy, vì trong đó có 3 bài thài dâng Tam Bửu mới, thay thế 3 bài dâng Tam Bửu cũ mà trước đây Ngài Ngô Văn Chiêu đã chuyển qua. (Ông Kỳ là người do Ngài Chiêu phổ độ).
Do đó Thánh Thất Cầu Kho không chịu tuân hành theo các nghi lễ trong cuốn sách của Tòa Thánh Tây Ninh.

Ngày 27-9 Canh Ngọ (dl 17-11-1930) Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt gởi văn thư cho Giáo Hữu Ngọc Minh Thanh Ban Cai quản thánh thất Cầu Kho một văn thư có đoạn như sau:
“Tôi xin nhắc: Đạo thì một gốc, hành lễ phải y nhau một thể lệ. Vì việc lễ nhạc đọc kinh các nơi không rập nhau một thể lệ nên năm ngoái, tôi có lập một ban hội để ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh làm Hội trưởng và mỗi thánh thất đều có người thay mặt, bàn hội ấy xem xét cuốn Nghi tiết Đại Đàn Tiểu Đàn. Ngày đại lễ Đức Chí Tôn, Hội Thánh cũng cử một ban hội để xem xét cuốn nghi tiết ấy. Lại nữa trong ban hội nầy có chức sắc thay mặt Cửu Trùng Đài, có chức sắc thay mặt Hiệp Thiên Đài, hiệp nhau xem xét hết lẽ rồi phần đông mới định ban hành cuốn nghi tiết ngày nay đã in ra đó…
“Tôi có được thơ của Hiền hữu Ngọc Minh Thanh ngày 14-11-1930 nói về cuốn sách Nghi Tiết Đại Đàn – Tiểu Đàn. Trong thơ Hiền hữu Ngọc Minh Thanh nói họ đạo Cầu Kho không thể hành lễ theo nghi tiết trong cuốn sách trên của Tòa Thánh gởi xuống.... Nếu chư Hiền hữu đầu họ đạo và chư Hiền hữu chủ thánh thất không thi hành các việc Tòa Thánh ban hành thì trước hết phải mang tội không vâng lịnh bề trên.
“Tôi cầu khẩn ai thông minh trí thức về Tòa Thánh giúp việc đặng đem tài trí ra giúp đạo giúp đời. Ai còn thế sự ràng buộc thì đặng dâng ý kiến (émettre les voeux), mỗi đầu năm có Hội Thánh, mới đem ý kiến ấy ra bàn nghị”
“Còn các việc Tòa Thánh ban ra thì phải ban hành lập tức một thể lệ. Đã lâu rồi, Đấng Chí Tôn kêu tôi mà nói: “Trung, bởi con sợ mích bạn hơn sợ Thầy buồn, nên mới có xưng bá xưng hầu để độc quyền lừng thế. Hành chánh phải y một thể lệ, chỗ nào có thánh thất chẳng vậy thì chẳng nhìn là nảy sanh ra nơi đạo Tam Kỳ, thì con hiểu lấy”.

4 . Phát giấy thông hành cho đạo hữu (ngày 8-10 Canh Ngọ 1930)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Năm thứ năm)
Tòa Thánh,
ngày 27-11-1930 (8-10 Canh Ngọ)

CHÂU TRI

Cho chư vị Đầu Quận Đạo và Chủ Thánh Thất.
Chư Hiền hữu, hạ ngươn vừa đến, tôi xin nhắc chư Hiền hữu coi lại mấy tờ châu tri của Tòa Thánh ban hành trong mấy năm nay.

Có chỗ không thi hành châu tri ấy, có chỗ thi hành không trọn vẹn, không sao lục phát ra cho Chánh Phó Trị Sự đặng truyền ra cho đạo hữu, nên nền đại đạo còn chinh nghiêng. Nhứt, tôi xin nhắc tờ châu tri số 44 đề ngày 16-6 âl.

Tôi có nhắc xem xét giấy răng cưa phát cho đạo hữu. Vạn sự khởi đầu nan. Hồi ban sơ, chúng ta muốn phổ thông đạo cho mau vì đạo khai trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh một ngày, nên ai cầu đạo thì phát giấy răng cưa (Certificat de Baptême) liền, không chờ cho thờ phượng và biết sám hối ăn năn rồi mới phát. Nhiều người giả đối đi nhập môn đôi ba chỗ, rồi xin giây răng cưa mỗi chỗ về, không thờ phượng, không lo tu hành ăn năn chừa lỗi, để giây răng cưa trong mình, đi nơi nầy chốn kia mà gạt gẫm đạo hữu thật thà hơn mình.
Vì thấy mối tệ ấy, tôi mới dạy tu bộ đạo hữu cho hoàn toàn đặng có bộ sổ đạo hữu thiệt thà thờ phượng.

Nay Hội Thánh có lập sắc phái như Certificat de Baptême của đạo Thánh giáo Gia Tô, như sắc phái của đạo Phật (Thiền lâm).
Chư Hiền hữu coi theo bộ đặng phát không sắc phái nầy, còn giấy răng cưa trước đây hủy bỏ hết. Chư Hiền hữu ráng chăm nom việc phát sắc phái đây, không cho thâu tiền của đạo hữu. Các Họ nạp bộ đạo cho Tòa Thánh thì có biên lai hết. Tòa Thánh cứ đo theo bộ đạo mà phát sắc phái cho các họ đạo. Nơi nào lập bộ bỏ sót tín đồ của Đấng Chí Tôn thì chịu tội lấy.
Việc phát giấy thông hành cho người đi lo hành đạo đặng ngăn ngừa những kẻ giả dối, trộm lịnh cướp quyền thì nhiều nơi chưa thi hành chi hết nên có nhiều người in giấy thiệp đề ở dưới tên mình “Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh” rồi đi nơi nầy chốn kia khoe nói đi phổ thông đạo, đi truyền đạo dạy luyện đạo, bày nhiều việc mơ hồ mộng mị.

Than ôi ! Đời hạ nguơn cuối cùng, mưu tà quái rất nhiều ngăn ngừa không xiết, cũng bởi trong đạo đố kỵ, ganh hiền ghét ngõ, không lập thế lo truyền trọn lời phủ ủy.
Việc mấy người đi tới công quả nơi Tòa Thánh cũng không tuân theo mấy lời đặn trong mấy châu tri nhắc trên đây.
Than ôi ! Người chèo thuyền hướng tới, lắm kẻ kéo trở lui, biết chừng nào qua biển khổ !
Nay kính.
Thượng Đầu Sư Chưởng Quản Tòa Thánh
THƯỢNG TRUNG NHỰT

5 . Đức Lý Giáo Tông tái thủ quyền hành (ngày 5-11 Canh Ngọ 1930)
Trước đây, Đức Lý Giáo Tông vì không thi hành được quyền hành Giáo Tông nên Đức Ngài xin Đức Chí Tôn từ chức.
Nguyên do nào đưa đến sự việc nầy ?

Bởi vì sau khi khai đạo chẳng được bao lâu thì có một vài chức sắc thiên phong có ý muốn tự lập riêng, thành lập các chi phái, không tùng phục mạng lịnh của Tòa Thánh Tây Ninh.
Đó là các ông:
• Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập chi phái Tiên Thiên ở Cai Lậy.
• Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) lập chi phái Cầu Kho tại Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn.
• Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập chi phái Minh Chơn Lý ở Cầu Vỹ, Mỹ Tho.
Đức Lý Giáo Tông muốn dùng quyền hành Giáo Tông của mình để trục xuất những chức sắc đã tách ra lập chi phái nhưng Đức Chí Tôn cản hoài không cho, bởi vì Đức Chí Tôn biết rằng, nếu đã phân lập chi phái thì không thế gì qui tụ trở lại được, nên Đức Chí Tôn cản Đức Lý để Đức Chí Tôn cố gắng kêu gọi những vị chức sắc ấy hồi tâm, trở về Tòa Thánh.
Do đó, Đức Lý Giáo Tông không thể điều hành được nền Đạo, nên Ngài buộc lòng phải xin từ chức.

Lòng thương yêu của Đức Chí Tôn thật vô hạn, nhưng các chức sắc lập chi phái, vì phàm tâm lấn lướt thánh chất, nên không một vị nào chịu trở về Tòa Thánh.
Do đó, Đức Chí Tôn đành phải triệu Đức Lý trở lại cầm quyền Giáo Tông để xử trị các chức sắc không tuân theo luật pháp của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh và Đức Chí Tôn dạy Hội Thánh làm lễ đăng điện cho long trọng để Đức Lý tái thủ quyền hành điều đình nền đạo.

6 . Đức Lý Giáo Tông lập thập hình (ngày 30-11 Canh Ngọ 1930)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LÝ GIÁO TÔNG

Chào chư hiền hữu, chư hiền muội.
Lão đến định các hình phạt hữu vi, mỗi đều để cho chư hiền hữu chư hiền muội hiệp tâm với Lão.
Vậy thì:
– Đại tội, Lão để số 1,
– Còn Tiểu tội thì Lão để số 10.
Tội thứ nhứt: Trục xuất.
Tội thứ nhì: Giáng cấp tới tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc như: Ai Lao, Tần quốc.
Tội thứ ba: Giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống tới hai hay là một cấp.
Tội thứ tư: Ngưng quyền từ 3 năm đến 5 năm.
Tội thứ năm: Ngưng quyền từ 1 năm tới 3 năm và phạt vào Tịnh Thất.
 Tội thứ sáu: Phạt vào Tịnh Thất từ 1 tháng tới 1 năm mà còn hành chánh như thường.
Tội thứ bảy: Thuyên bổ đi nơi khác chỗ của mình đương hành đạo.
Tội thứ tám: Phải về Tòa Thánh đặng gần Lão và Hộ Pháp đặng học đạo.
Tội thứ chín: Phải ăn năn sám hối thọ tội cùng chúng sanh.
Tội thứ mười: Hầu kẻ hữu đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học đạo.
Ấy là mười hình phạt riêng của Hội Thánh, chúng ta đồng ưng định. Vậy ngày mai, chiếu y theo trọng khinh mà định án nghe. * THĂNG

CHƯƠNG III
PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI

1 . Nghi tiết Đại Đàn – Tiểu Đàn sớ văn và lễ cúng tứ thời

SỚ VĂN
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(……… niên)
Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt
Thời duy, Thiên vận …………… niên, ...……… ngoạt, ...………… nhựt, ...……… thời, hiện tại Đại Nam quốc, Tây Ninh Tỉnh, ...…….... Quận, …………Tổng, ……………Thôn, cư trụ Tòa Thánh chi trung.
Kim hữu Thiên phong đệ tử thọ thiên ân ………………… công đồng thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền, thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI:
Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO:
Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn
Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM:
Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai
Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh
Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân
Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn
Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn
Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn
Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

LỄ CÚNG TỨ THỜI

Thường ngày tại Tòa Thánh và tại thánh thất các nơi.
Nghe dứt 3 tiếng chuông nhứt (1) thì mặc đạo phuc rồi nhập đại điện, đứng bài ban tề chỉnh, tay chấp ấn tý để ngay ngực, chờ 3 tiếng chuông nhì (2) thì bái đặng bước vào (4) giữa đứng một hàng 3 vị, ngó ngay Thiên Nhãn, xá 3 xá, chưn trái bước tới, chưn mặt quì xuống, ngó ngay Thiên Nhãn, giở tay ấn tý lên trán niệm: nam mô Phật, đưa tay qua gò má bên trái niệm: nam mô Pháp, đưa qua gò má bên mặt niệm: nam mô Tăng, để ngay chớn thủy niệm:
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (cúi đầu)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát (cúi đầu)
Nam mô Lý Thái Bạch Kim Tinh (cúi đầu)
Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân (cúi đầu)
Nam mô chư phật chư tiên chư thánh chư thần (cúi đầu)

Rồi thì đồng nhi tụng bài Niệm Hương, dứt rồi, lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy.
Kế tụng bài Khai Kinh, dứt thì cúi đầu.
Kế tụng bài: Đại La Thiên Đế, lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Kế tụng bài Phật giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Kế tụng bài Tiên giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm: Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Kế tụng bài Thánh giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
Rồi thì đọc bài Dâng Tam Bửu tùy theo giờ cúng.
Giờ Tý: đọc bài Dâng Rượu, lạy 1 lần 4 gật, niệm mỗi gật câu: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Giờ Mẹo: đọc bài Dâng Trà, lạy 1 lần 4 gật, mỗi gật niệm câu y như trên.
Giờ Ngọ: đọc bài Dâng Rượu, lạy 1 lần 4 gật, cũng niệm y như trên.
Giờ Dậu: đọc bài Dâng Trà, lạy 1 lần 4 gật, cũng niệm y như trên.
Kế đồng nhi đọc bài Ngũ Nguyện, rồi lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy.
Rồi thì đứng dậy, xá Thiên Bàn 3 xá, rồi day phía trái ra (5) Bàn Hộ Pháp xá 1 xá, rồi đứng bài ban lại, chờ 3 tiếng chuông dứt 3 câu kệ (3), xá 1 xá.
Chức sắc đi ra trước, kế người lớn, kế đồng nhi, đi cho nhẹ nhàng êm tịnh.
Tại nơi nhà tư của Đạo hữu, chẳng đặng phép cúng Đại đàn, cứ cúng y theo trên đây, đều khỏi có chuông và kệ.
(1) Gióng 3 tiếng chuông nhứt thì có 3 câu kệ như sau nầy: Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn, (dộng 1 dùi)
Pháp giới chứng sanh đồng đăng bỉ ngạn, (dộng 1 dùi)
Án dà ra đế dạ ta bà ha. (dộng 1 dùi)
(2) Gióng 3 tiếng chuông thứ nhì có 3 câu kệ như sau nầy:
Nhứt vi u ám tất giai văn, (dộng 1 dùi)
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác, (dộng 1 dùi)
Án dà ra đế dạ ta bà ha, (dộng 1 dùi)
(3) Gióng 3 tiếng chuông thứ ba cổ 3 câu kệ như sau nầy: Đàn tràng viên mãn chức sắc qui nguyên, vĩnh mộc từ ân phong điều võ thuận, (dộng 1 dùi)
Thiên phong hải chúng, quốc thới dân an, hồi hướng đàn trường tận thâu pháp giới, (dộng 1 dùi)
Án dà ra để da ta bà ha. (dộng 1 dùi)
(4) Khi bước vô thì chưn phía trong bửu điện bước vô trước
(5) Nghĩa là: xây vai mặt qua bên trái.

2. Ông bà Thái Thơ Thanh xin lập Thái Cực Đồ (ngày 2-1 Tân Mùi 1931)
Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Hương Thanh đồng dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin xây dựng Thái Cực Toàn Đồ nơi thánh địa.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Chánh ngoạt, sơ nhị nhựt, Tân Vị,
Khâm Thiên Tổng quản Tài Chánh, phụng sắc chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện, Nông viện, Phổ Độ viện, Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, quản lý tạo tác tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút,
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút.

Tượng mãn Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp ngũ châu, thì nền chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống đạo cả.

Vì vậy mà hai tôi nong nả đêm ngày lo mở mang cuộc thánh địa, chế ra miền Tây Vức, bởi nông trường cực nhọc, trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp thánh địa, nối dài ra tới ngã ba đường Mít Một (Boulevard d’Anglais), bề mặt tiền trên 2000 thước, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 thước của thánh địa nữa, cộng chung là 3000, cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang ba phía là: Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 thước vuông vức, cộng là 12 ngàn thước, đặng xây vách thành cao lớn giáp 4 phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là Thái Cực Toàn Đồ.

Trong chia ra hai cuộc: phía chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp chữ nổi cao “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, lộ ra bốn chữ to tát là “Đế Thiên Thượng Hoàng”; còn phía chánh Nam, cũng tại cửa thành ba mặt như nhau, đề hiệu “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, hiện bốn chữ “Đế Thích Phật Tổ”; phía chánh Tây, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có năm cửa Ngũ Chi Đại Đạo, hiện bốn chữ nổi “Thái Cực Toàn Đồ” lưỡng biên có hai cửa nhỏ hiện tám chữ “Tả Thông Quản Nội” và “Hữu Đạt Thừa Minh” còn chánh Đông Môn thì cửa thành y kiểu ba phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh.

Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra hai cuộc: Bên phía Bắc là Bạch Ngọc Kinh, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mã thoát trần, Đức Di Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội. Hai bên là rừng thiên nhiên, phía sau lập Cửu Viện Cửu Trùng Đài, thiên phong đường, Đầu Sư đường, Chánh Phối Sư đường, Hộ Pháp đường, Thái Y viện, Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất Sở và Học đường, Dưỡng đường, với các xưởng bá công kỹ nghệ.

Còn các con đường: 1. Như Lai Đồ, 2. Di Lạc Đạo, 3. Phước Đức Cù, 4. Oai Linh Tiên, 5. Bình Đẳng Đồ, 6. Sử Quân Tử, 7. Thái Hòa Lộ, 8. Bình Dương Đạo, 9. Tây Qui Trực Chỉ. 10. Thượng Hòa lộ. Còn bên phía Nam thì tạo Cực Lạc Vô Vi Cảnh Giới, là đắp con đường lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là Tứ Tượng Đồ biến Bát Quái, chính giữa ngã tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, giữa trung tim, un đúc một cảnh nội điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy. Trong cảnh Cực Lạc có Bát Bộ Kim Cang và Lục Thông Cơ Sở. Bát Bộ Kim Cang có 8 cảnh: 1. Quan Âm Các, 2. Long Nữ Điện, 3. Tàng Kinh Viện, 4. Phổ Đà Sơn, 5. Kim Cang Động, 6. Bồ Đề Ốc, 7. Tây Vức Trì, 8. Bát Bửu Tịnh Thất. Lục Thông Cơ Sở có 6 cuộc: 1. Giảng đường 2. Tịnh đường 3. Túc đường 4. Dưỡng đường 5. Thiên Ân đường 6. Học đường.

Còn nơi phía tả Đông Nam lại xây núi Phổ Đà Sơn, trên đảnh trung có cốt Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật. Trong Từ Bi Lâm, các cuộc nhỏ kể ra sau đây: tạo Thất Bửu tháp, cất Thưởng Liên đình và tạo Từ Thoàn lâm, trong cuộc Từ Thoàn có 3 con đường cái: 1. Bát Nhã Đạo, 2. Bồ Đề Lộ, 3. Như Ý Cảnh. Lựa những bậc chơn tu trường trai khổ hạnh, từ trung thừa sắp lên mới cho ở vào trong cuộc Từ Thiền Lâm nầy, Phạm Môn nầy vuông vức 300 công, Khách đình Sứ quán và Thông Thiên Đài cũng tại nơi trong đó, ấy là bên hướng Nam. Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí, Nhà Mát, Nhà Nghỉ, bực tín đồ nhập môn theo hạ thừa sắp lên thì được phép ở.

Ước mong ngày sau, Hội Thánh mở mang cuộc thánh địa nầy cho giáp hết khoảnh núi Điện Bà đặng ra vẻ nền chơn đạo. Trân trọng một bài kính cáo, nguyện cầu đạo mạch hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn.

Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh đề. Chuyển đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát từ bi chứng chiếu.
Ngu đệ tử phục thủ bá bái.
Đức Chí Tôn không giáng cơ trả lời tờ sớ nầy mà lại giao cho Đức Lý Giáo Tông trả lời.

3 . Lục Nương giải về Nhựt Nguyệt Mạo và đạo phục Bảo Quân (ngày 25-1 Tân Mùi 1931)
LỤC NƯƠNG
Em chào mấy anh và hiền tỷ.
Thưa chị đứng dậy.
Anh Cao Thượng Phẩm đến không đặng, nên cậy em thay mặt đổi lời.
Thưa anh Cao Văn Pháp, em chẳng hiểu ý Chí Tôn định y phục của hai anh thế nào nên tốt hơn là tìm thánh ngôn của Người mà coi lại.
Văn Pháp bạch: Lúc sửa Pháp Chánh Truyền trải qua những thiên phục của các chức sắc, Đức Giáo Tông đặt tên mão còn sót mão Hiệp Chưởng của Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Qua tưởng khi để mão Hiệp Chưởng không nhằm, xin em từ bi sửa lại giùm.
- Cười... Cái vòng tròn úp lên đầu mà đội là thể Nhựt hình, còn hình bán nguyệt của mão là thể Nguyệt tượng. Vậy thì gọi là Nhựt Nguyệt mạo.
Văn Pháp bạch: Còn sợi dây đai của Bảo Sanh Quân có hai vòng vô vi gọi là chi ? Qua kiếm thánh ngôn coi lại không đặng, em giúp luôn thể.
- Sợi dây của anh Bảo Sanh là Song Quang Thần Thông.
Văn Pháp bạch: Sợi dây đai của Qua cũng chưa biết gọi là chi mà để vào Pháp Chánh Truyền ?
- Bạch Tuyết Thần Thông.
Anh nghe và kiếm hiểu, anh Cao Văn Pháp

4 . Đức Quyền Giáo Tông kêu gọi chức sắc hành đạo theo Tân Luật (ngày 15-2 Tân Mùi 1931)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)

CHÂU TRI

Cho chư chức sắc thiên phong, chư vị chủ thánh thất, Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự, chư đạo hữu lưỡng phái.
Chư hiền hữu,
Trong 5 năm rồi, nền Đại Đạo biết bao khổ não truân chuyên mà tai nạn còn chưa dứt !
Ôi ! Mới rồi đây, trong bị tà quyền tàng ẩn, xô cho chúng ta dang nhau, kẻ tính độc quyền, người toan tự lập, cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ.

Người ngoài chưa rõ chơn lý chánh truyền của ĐĐTKPĐ lại nghe nội công vì hờn riêng mà phản đối, nên đem lời kích bác thánh giáo. Ấy cũng một hồi thử thất, một lúc khảo căn tu khuyên chư Đạo hữu chớ sờn chớ rúng. Bền lòng chặt dạ, dìu dắt nhau qua khỏi sông mê.
Đạo khai để tạo thế sửa đời. Có thiếu mới có tạo, có hư mới có sửa. Vậy thì cái khổ tạo thế sửa đời vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn. Phải biết phận mình mới an tâm tỉnh trí, liệu thế chuyển xây. Đã khó ắt có hay, đã gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.

Đã lâu rồi, Đức Lý Giáo Tông cho biết cuộc biến của đạo ngày nay. Xin xem bài thơ dưới đây thì rõ:
Màn trời đặng vẹt ngút mây trương,
Bước đến đài hoa thấy tỏ tường.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh tà hai nẻo tua tìm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loáng mùi hương.
Kế đây tôi xin nhắc chư hiền hữu:

Lời chê bai kích bác là thường tình thế sự, mình cứ mắt ngơ tai điếc, lo tuân y Tân Luật mà hành đạo thì đủ rồi, vì Tân Luật làm cơ qui nhứt của tam giáo.
Kể từ ngày ban hành Tân Luật ĐĐTKPĐ thì Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự đã bác cựu luật và cổ pháp.

Tôi xin sao lục Thánh Ngôn của Thầy hồi năm Bính Dần ra sau đây, xin chư Hiền hữu coi và chiêm nghiệm thì hiểu rõ cái tôn chỉ của ĐĐTKPĐ.
Ngày nay, đại đạo lại ban hành Pháp Chánh Truyền chú giải thì Tân Pháp đã đoạt đặng. Xin chư đạo hữu, đạo tỷ, đạo muội, lãnh mà coi thì rõ huyền bí trong đạo.
Về việc hành chánh trong Đạo thì có Nghị Định của Đức Lý Giáo Tông phân quyền rành rẽ cho chức sắc thiên phong. Xin chư vị thiên phong ráng lo sắp đặt Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự cho có quyền đặc biệt.

Mỗi làng cử một Chánh Trị Sự. Mỗi xóm có một Phó Trị Sự và một Thông Sự, coi dìu dắt mấy chục đạo hữu, phải biên tên họ ra và ký tên trong sổ.
Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự cứ lo khuyên đạo hữu làm lành lánh dữ, đừng dự vô cuộc loạn ly hay là việc chi trái đường đạo đức. An phận tùy duyên, lo làm ăn, khi rảnh thì sùng bái trời phật.
Thường ngày được vậy thì khỏe khoắn tinh thần, đã yên lòng mình thì chớ, lại thuận lý trời, xưa nay thung dung tự tại an nhàn vui vẻ mà ngâm câu của thánh hiền đã dạy:
Giàu ngày ba bữa, khó ba chiu,
An phận là hơn hết mọi điều.
Khát uống trà mai hơi ngát ngát,
Nực kề hiên trước gió hiu hiu.
Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa thảo bốn mùa ấy gấm thêu.
Đỏng đảnh khuya nằm, khi sớm thức,
Khác chi dân thuở dưới đời Nghiêu.
*
Hôm mai gió thổi hiu hiu,
Cỏ hoa là bức gấm thêu nên đồ.
Thanh u sẵn cảnh bốn mùa,
Lựa là cứ chốn giang hồ mới vui ?
Cảnh ưa làu cũng quen mùi,
Bên song hóng mát nhớ người hòa thi.
Hẹp hòi nào sá quản chi,
Phen thì dặm liều phen thì ngàn mai.

Vắn tắt ít lời khuyên nhủ, xin chư đạo hữu lãm tường.
Tòa Thánh, ngày rằm tháng 2 năm Tân Mùi.
Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.

5 . Đạo phục chức sắc và chức việc phải y một kiểu (ngày 26-2 Tân Mùi 1931)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Tòa Thánh, ngày
13.4.1931 (26.2 Tân Mùi).

CHÂU TRI

Gởi cho chư hiền hữu chủ thánh thất, chư chức sắc thiên phong, Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự lưỡng phái.
Mấy kỳ đại lễ rồi đây, tôi có để ý xem xét thấy phần nhiều chư chức sắc thiên phong, Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự mặc đạo phục mỗi người đều khác nhau, chẳng y theo một kiểu, vì sái cách thức đã chỉ trong luật đạo: lớp thì khác nhau, lớp thì áo dài đến gót, người thì áo cụt trên đầu gối, cho nên khăn cùng mão và thiên nhãn thêu trên mão cũng đều khác nhau, mỗi người một cách, miếng tam sắc để cũng trật, không theo 3 sắc phái. Ấy cũng bởi lỗi tại Hội Thánh chưa kịp sắp đặt được một sở lo về việc nầy cho có thể lệ, nên mỗi người tùy ý muốn riêng của mình mà mua sắm. Đạo thì một gốc, mỗi việc chi cũng do nơi gốc, mới hiệp lòng người, vừa thánh ý đặng.

Vì vậy nên ngày rằm tháng giêng, tôi có hội hiệp với 5, 3 vị đại thiên phong nam phái và bà Chánh Phối Sư nữ phái mà bàn tính việc nầy thì kết cuộc, bàn hội đã định lập tại Tòa Thánh một sở để chuyên lo riêng về việc may đạo phục và khăn mão y nhau một kiểu, để chư chức sắc thiên phong nam nữ lớn nhỏ và chư vị chức sắc, Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự nam nữ lãnh về mà dùng cho y một thức lệ.

Những đạo phục của Hội Thánh phát ra thì đều có đóng một con dấu riêng của Tòa Thánh trên chỗ nào dễ thấy, đặng ngăn ngừa những việc dối giả. Vậy từ đây, tôi xin khuyên chư chức sắc lưỡng phái, cả thảy đều thi hành y theo lời dạy trong tờ châu tri nầy thì sẽ được thêm một bước đường tấn hóa trong nền đại đạo.
Nay kính.
Chánh Ngọc Phối Sư: Ngọc Trang Thanh.

6. Pháp Chánh Truyền chú giải là tân pháp của ĐĐTKPĐ (ngày 26-5 Tân Mùi 1931)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Tòa Thánh
ngày 11-7-1931 (Ngày 26-5 Tân Mùi)

CHÂU TRI

Cho chư vị chức sắc đầu họ đạo và chủ thánh thất.
Cuốn Pháp Chánh Truyền chú giải là một bổn rất có ích, chẳng phải cho chức sắc thiên phong mà thôi, mà tín đồ cũng nên thỉnh mỗi người một cuốn đặng coi cho biết phận sự, quyền hành của các chức sắc đối với mình.
Khi trước định 6 cắc (0$60) 1 cuốn, nay Hội Thánh định lại 2 cắc (0$20) đặng cho mỗi đạo hữu đều có thể thỉnh được.
Pháp Chánh Truyền chú giải là tân pháp của Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngọc Chánh Phối Sư NGỌC TRANG THANH

7 . Đạo Cao Đài không làm chánh trị (ngày 14-7 Tân Mùi 1931)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Tòa Thánh ngày 27-8-1931 (14-7 Tân Mùi)
CHÂU TRI

Cho chư chức sắc thiên phong, chư vị đầu họ, chủ thánh thất và chư đạo hữu lưỡng phái.
Chư hiền hữu, chư hiền muội.

Trong việc biểu tình cộng sản đã xảy ra nơi nhiều tỉnh, có một phần ít đạo hữu chưa để đủ đức tin nơi đại đạo, hoặc là không thiệt vào đạo tu hành, ngã qua phía ấy, làm cho chánh phủ phải nghi ngờ mà phải phòng ngừa chúng ta, lằm cho chúng ta không được thong thả trong việc tín ngưỡng tôn giáo của chúng ta như khi mới khai Đạo.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của chúng ta sùng bái là đạo rất chơn chánh cao thượng của Đấng Chí Tôn lập ra mà độ rỗi nhơn sanh, dạy ròng những việc làm lành lánh dữ và bác ái chúng sanh, không có xen lộn vào đó những việc quốc sự bao giờ.

Muốn cho chánh phủ biết chắc lòng thành thật của chúng ta trong sự tín ngưỡng và sùng bái đạo của Thầy thì chúng ta chẳng sợ chi mà không làm giao ước với chánh phủ.
Vậy, xin chư hiền hữu chư hiền muội, mình là người ngay thật, vui ký tên vào tờ giao ước in sẵn gởi theo đây, đặng tôi sẽ đem trình cho chánh phủ xem xét rồi, nếu chánh phủ hết sự nghi ngờ thì chánh phủ sẽ để cho chúng ta đến các thánh thất làm lễ sùng bái Đức Chí Tôn thong thả cũng như người đạo Gia Tô đến các nhà thờ làm lễ cúng bái Đức Chúa Trời vậy.
Tờ giao ước nầy làm ra 4 bổn, 3 bổn gởi về Tòa Thánh Tây Ninh, 1 bổn để tại thánh thất mình.
Xin chư hiền hữu ráng lo giùm cho xong rồi gởi về Tòa Thánh trong tháng Septembre.
Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH

8 . Hội Thánh lập nội luật Tòa Thánh (ngày 1-10 Tân Mùi 1931)
Đạo Cao Đài được mở ra đến nay được 6 năm. Tòa Thánh là cội nguồn nền đạo nên cần phải có Nội Luật nghiêm trang, để cho chư chức sắc, chức việc và đạo hữu công quả lưỡng phái cư ngụ trong nội ô Tòa Thánh, để cho có trật tự, lễ nghĩa và đạo đức
 Hội Thánh lập ra một ban đặc biệt gồm chư chức sắc thiên phong của hai đài (Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài) để soạn thảo bổn Nội Luật nầy, sau đó lần lượt chuyển qua ba hội lập Quyền Vạn Linh: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội, để xem xét và sửa chữa. Khi ba hội công nhận Nội Luật nầy thì Hội Thánh mới ban hành từ ngày 15-1 Nhâm Thân (20-2-1932).
9 . Giáo hội Gnostique (Đức) xin hiệp với Cao Đài (ngày 4-10 Tân Mùi 1931)
Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người Đức đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh, lưu tâm đến tôn giáo nầy, nên đã ghi chép, chụp nhiều ảnh, rồi trở về hải thuyền đậu ở bến tàu Sài Gòn 3 ngày. Sau đó, người ta không gặp lại họ nữa, nhưng số báo BERLINER ILLUSTRIERTE ZEITUNG ra ngày 21.6.1931 đã được gởi đến Tòa Thánh, trong đó có một bài viết nhan đề: “Tôn giáo mới lạ của thế giới” do W. Bossard viết kèm theo nhiều hình ảnh của Tây Ninh.
Sau cùng, đến ngày 13-11-1931, một văn thư mới từ nước Đức gởi đến Tòa Thánh để đáp lại một quyển sách nói về Phật giáo chấn hưng của Ngài Lê Văn Trung.
Nội dung của bức thư nầy, Giáo hội Gnostique xin được liên hiệp với Đạo Cao Đài. Bức thư viết bằng Pháp văn, được dịch ra Việt văn sau đây:
ÉGLISE GNOSTIQUE của ĐỨC QUỐC
P. Futlingen, ngày 13 tháng 11 năm 1931.
Kính thưa Đức Ngài,
Cao cả, quyền năng và thánh thiện.
Thưa Đức Ngài, bức thông điệp của Đức Ngài đã tới vùng Trung Âu chúng tôi. Tổng Giáo Hội của Église Gnostique Đức quốc mà tôi là Trưởng lão, quyết định chuẩn bị liện hiệp với Đạo Cao Đài...
Tôi được lãnh nhiệm vụ báo tin cho Đức Ngài biết sự quyết định nầy và kính xin Đức Ngài thông truyền cho chúng tôi về lịch sử, hiến chương, giáo lý và những nghi lễ của nền Đại Đạo của Ngài bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, hoặc tiếng Hòa Lan, để nhờ đó chúng tôi có thể tổ chức các giáo hội Cao Đài ở những quốc gia như: Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Bỉ, Lithuaniens, Lettens và Estheniens.
Để vững tin vào sự thực hiện điều mong ước đó, xin Đức Ngài hãy xem tôi như người thuộc hạ khiêm tốn của Đức Ngài vậy.
Ký tên: GODWIN
Thánh Cha và Trưởng Lão cùa giáo hội Églỉse Gnostique Đức quốc.
Grand Maitre de I’Ordre des Chevaliers de ỉa rose mystique.
Địa chỉ: H. Godwin stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE.
10. Đại hội Nhơn Sanh lần 1 (ngày 15.10 Tân Mùi 1931)

Đúng 8 giờ sáng ngày 15-10 Tân Mùi, Đại Hội Nhơn Sanh lần đầu tiên nhóm họp tại Tòa Thánh Tây Ninh, do Ngài Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh làm chủ tọa.
Ngài Thượng Tương Thanh đọc một bài diễn văn tỏ bày việc đạo trước Hội Nhơn Sanh nhóm lần thứ nhứt tại Tòa Thánh.

Chư Hiền hữu,
Tôi lấy làm hân hạnh mà thấy chư hiền hữu chẳng nài đường xa khó nhọc, chẳng nệ tốn hao đến nhóm đông đảo, tôi rất cám ơn. 64 họ đạo có người thay mặt tại đây, còn 41 họ đạo không phái người đến nhóm mà thôi.
Hội Nhơn Sanh mới khởi sự nhóm kỳ nhứt nầy, tôi chắc chư hiền hữu ai cũng đến với trọn cái lòng sốt sắng về đạo, nên chi tôi xin ai nấy cũng lấy hết lòng hòa hảo mà đối đãi với nhau trong lúc bàn luận cho sự kết quả của cuộc nhóm nầy được hoàn toàn.
Trước khi đem các vấn đề ra mà bàn tính, tôi xin tỏ ít lời vắn tắt để nhắc lại cho chư hiền hữu rõ thêm các việc trong đạo đã làm hoặc chịu ảnh hưởng tới ngày nay.
NƠI THÁNH ĐỊA TÂY NINH

Cách vài tháng sau khi mở cuộc đại lễ khai đạo năm Dần nơi chùa Thiền Lâm Tự (Gò Kén) thì bị người bức sách đòi chùa lại. Hội Thánh lo hối hả mua sở đất cất Tòa Thánh tạm hiện giờ, dời qua đây là ngày 12 tháng 2 năm Đinh Mẹo.

Có thánh ngôn khi đó Thầy đã dạy phải lập Tòa Thánh nơi Tây Ninh đây mà thôi vì là thánh địa, không nên dời đi tỉnh khác. Thiệt quả như vậy, là tuy đạo lúc đó còn ít, lại bị nhiều việc khó khăn, mà nhờ nơi đây mở mang thêm rất mau. Trong 4 năm rồi, dẫu bị nhiều lần khảo nặng, thế mà đạo cũng cứ một ngày lên thêm một đồ sộ. Chư hiền hữu đến đây tận mắt đã thấy cuộc bành trướng hưng sùng của đạo nơi vùng nầy là thế nào ! Nếu không phải thiên ý tiền định thì bị các cuộc công kích kịch liệt bấy lâu nay cũng đủ xô qua cái ảnh hưởng điêu tàn rồi.

Chư hiền hữu thay mặt cho gần hết thảy tín đồ trong Nam Kỳ được thơ mời, vui đến đây là đã tỏ cái đức tin nơi đây là gốc. Tôi nhắc mấy lời trên nầy cốt để làm cho cái đức tin ấy được thêm bền vững mà thôi.
SỐ ĐẠO HỮU

Tôi tưởng cũng nến cho chư hiền hữu biết mà mừng, số đạo hữu chúng ta nay được 35 muôn (350.000) có đem vào bộ chắc chắn. Còn một phần mờ hồ còn để ra ngoài, đợi có tỏ thiệt dấu chắc tu mới đem vào bộ đạo. Nơi mấy tỉnh trung ương, số đạo hữu đông hơn hết: như Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, mỗi tỉnh được từ 3 muôn rưởi tới năm muôn đạo hữu. Ở miền Hậu Giang, Đạo còn thưa thớt, bởi sự phổ thông nơi ấy lúc trước không được dày công.

SỐ THÁNH THẤT

Hiện nay, đạo đã cất được 62 cái thánh thất. Có 43 cái lập tạm nơi nhà của đạo hữu dâng, cộng hết thảy là 105 cái thánh thất trong Nam Kỳ.
Cũng vì sự làm lễ sùng bái Đấng Chí Tôn nơi mấy thánh thất không được thong thả nữa nên tôi thường nghe đạo hữu than thở về sự nầy lắm. Ấy gốc bởi đức hạnh của phần đông còn kém mới mất lòng tin của chánh phủ đã đối với đạo chúng ta khi ban sơ. Những tờ giao ước của tôi xin chư đạo hữu các Họ vui lòng ký tên vào cái châu tri số 28 buộc chư đạo hữu phải học tập và giữ Ngũ Giới Cấm là phương châm làm cho chánh phủ vui xét sự thành thật của chúng ta mà đem lòng tin trước lại. Những tờ giao ước ấy, tôi đã đem nạp cho chánh phủ rồi. Chư hiền hữu về cần nhắc lại cho chư đạo hữu biết, giữ việc tu hành chơn thật thì chúng ta sẽ mau được sự thong thả của chúng ta yêu cầu đó.

TÀI SẢN

Hội Thánh tới ngày nay có mua sắm được một số đất 96 mẫu để làm thánh địa cất Tòa Thánh và các Viện, một sở kế cận 50 mẫu để cho đạo hữu cất nhà ở và lập nghĩa địa.
Hai sở đất nầy khi mua để tên bà Nữ Chánh Phối Sư là Lâm Thị Thanh và tên tôi là Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ chung, thế mặt cho đạo.
Muốn tránh sự bất hảo xảy đến ngày sau, tôi có làm cho Hội Thánh cầm một tờ khai rằng: Tiền mua đất nầy Hội Thánh trả hết, tôi có đứng thế mặt mà thôi.

Hội Thánh còn thâu nhiều sở đất của đạo hữu dâng để cất thánh thất các nơi, cũng mượn tên tôi đứng bộ thế và một sở ruộng 100 mẫu tại Bến Sỏi Tây Ninh của ông Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh và Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh dâng để làm của chung trong đạo.
Tôi cũng cố làm cho Hội Thánh cầm một cái Khai chứng rằng: Từ ngày tôi về Tòa Thánh hành đạo sắp đến, những tài sản chi mua sắm mà để tên tôi đứng tức là của Hội Thánh, cái tên của tôi không còn dùng ngoài đời mà mua sắm đứng bộ riêng cho tôi một tài sản chi nữa hết.

VIỆC CẤT TÒA THÁNH

Chư hiền hữu thấy trước bửu điện đây một cái hầm lớn, đó là cái nền Bát Quái Đài đã đổ gần 200 thước khối bê tông tráng ở dưới rồi. Đá sạn đã mua và dùng công quả lấy nơi hầm được ước 300 thước khối, cát cũng được gần như số đá, còn thiếu sắt và xi măng, ít tuần trước khi khởi sự đúc bê tông lên thì sẽ mua.

Hiện giờ họa đồ vẽ chưa rồi, song ông bác vật Kinh đã lãnh tất rồi số tiền 3000 đồng tiền mướn ông vẽ. Việc nầy Anh Cả chúng ta còn đương lo thư từ bàn tính với ông Kinh. Như xong thì ra giêng sẽ khởi công làm đặng.

Cái Tòa Thánh thế nào tôi tưởng cũng phải cất, nhưng đương thời kỳ kinh tế khuẩn bách nầy, đồng tiền eo hẹp, phải đình đãi ít lâu. Bây giờ có sẵn cát đá, năm tới lo đúc nội Bát Quái Đài lên mà thôi, còn Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài mắc tiền hơn, để sau nữa sẽ làm.

THÂU XUẤT

Từ ngày tôi về Tòa Thánh là 8.5.1931 tôi đã thấy có một bàn ủy viên đã cử lên để cầm quyền thủ bổn và giữ sổ sách thâu xuất của đạo. Trong bàn ủy viên ấy, bên nữ có Bà Chánh Phối Sư Hương Thanh, hai bà Giáo Sư Hương Tám và Hương Lự, bên nam có ông Phủ Cao Bình, hai ông Hội Đồng Hiển và Mên, 2 ông Giáo sư Lai và Thành, ông Giáo Hữu Bộ, ông Khưu Kim Ngọc và ông Lý Tân Sĩ, hết thảy là người đáng tin cậy, nắm giữ tiền tài của đạo. Sự thâu xuất phân minh, đâu đó có sổ sách và toa vé chiếu đối.

Năm nay ai cũng bẩn chật đồng tiền, nên số hành hương hỷ cúng kém hơn mấy năm trước, vừa đủ chi dụng trong Tòa Thánh, nhứt là nuôi miệng những người đến công quả, học đạo tu hành. Số người ăn ở thường trong Tòa Thánh nay còn chừng 400 lớn và nhỏ. Lúc trước số ấy kể đến ngàn, phần nhiều người còn ở lại đều có phận sự biết lo học đạo theo đường đạo đức.

NHÀ IN

Nhà in Thái Hòa Ấn Quán là của 3 Anh lớn (Thượng, Ngọc và Thái) vay 5000 $ mà lập riêng, có lời để hết cho Hội Thánh, lỗ thì 3 anh chịu. Kể từ đầu tháng 6 qua rồi tới nay, 3 anh đã tạm giao nhà in nầy về cho Hội Thánh. Đã trả nợ được 2000 $, còn thiếu 3000 $ nữa. Chừng nào Hội Thánh trả tất số nợ nầy thì sẽ làm chủ vĩnh viễn nhà in.
Khi trước, sở tổn công thợ mỗi tháng gần 300 $ và tiền lời của 5000 $ bạc là 75 $ nữa, cộng 375 $. Vì Hội Thánh nay dùng công quả nên công thợ sụt xuống còn vài chục và tiền lời còn 45 $, hiệp cộng là 62 $ mỗi tháng mà thôi.

Thế ít tốn như vầy, Hội Thánh lãnh nhà in mà dùng được, chừng trả tất số 3000 $ bạc nợ rồi thì còn ít sở phí nữa. Cái nhà in thiệt hữu ích cho đạo, có sẵn để in thánh ngôn, các kinh sách đạo, nhứt là châu tri dạy đạo khỏi mất công và tốn kém nhiều khi lên xuống Sài Gòn mỗi khi có đồ cần in.

GIÁO HUẤN

Việc nầy là chánh phận sự riêng của tôi. Tôi hết sức lo lắng sắp đặt, dạy dỗ khắp cả trong ngoài, ước mong làm sao cho mỗi người bước vào đường tu đều được nếm mùi đạo hạnh.
Hiện nay trong Tòa Thánh có lập một “Đạo Đức Học Đường” để dạy trẻ em. Có 8 lớp học: 6 lớp con trai (sức học tới lớp nhì), 1 lớp con gái an nam và 1 lớp con nít đàn thổ. Cả thảy cộng được 274 trò: 206 trai, 57 gái, 11 thổ. Trong số nầy có 67 trò mồ côi cha mẹ hoặc nghèo khổ, Hội Thánh nuôi ăn ở trong để tập đồng nhi.

Học trò đến học trường nầy đều là con cháu của đạo hữu ở xung quanh Tòa Thánh. Nơi trường không thâu học phí. Mấy thầy giáo và cô giáo đều có bằng cấp sơ học, dạy trẻ em để dâng công quả, không có lương bổng chi hết. Có vài vị còn ăn cơm nhà mà đi dạy nữa.
Mỗi đêm, từ 7 giờ tới 9 giờ, hết thảy những người công quả hiện diện trong Tòa Thánh đều phải học. Có nhiều lớp dạy: học chữ, học kinh, học đạo, tùy người dốt hay là hay chữ sẵn.

Tôi cũng đã lập, kể từ đầu tháng 9 an nan tới nay, 1 lớp học để dạy mấy vị Giáo Hữu học đạo, nhứt là khép vào cái thật hành Ngũ Giới cấm và Tứ Đại Điều Qui. Lớp nầy dạy mỗi kỳ 20 vị trong 15 ngày, mỗi vị phải đến học ít nữa là 3 kỳ, sau mới được đem vào chánh vị hoặc thăng cấp.
Sẽ có 1 lớp dạy Lễ Sanh, mở kể từ ngày 16 tháng 10 nầy, mỗi kỳ học 20 vị, trong 15 ngày, cũng như Giáo Hữu vậy. Lễ Sanh có học được 3 kỳ trong lớp nầy, sau mới được ứng cử vào hàng Giáo Hữu.

Nơi Tòa Thánh là gốc, tôi sắp đặt như vậy, ước mong ơn trên bố hóa cho nhứt nhứt đều ra vẻ đạo đức, cho người trông vào hết để lời kích bác. Còn ở ngoài các tỉnh, tôi cũng lo cách thế mà chỉ dẫn, dìu dắt chư đạo hữu trong đường đạo đức.
Hôm ngày 29 tháng 9, tôi đã có gởi một tờ châu tri số 28 khuyên hết thảy đạo hữu ráng học và tập tánh theo Ngũ Giới Cấm.

Tôi tính mỗi tháng sẽ gởi 2 lần châu tri dạy đạo cho các thánh thất. Nếu đạo hữu vui nhận mà noi theo thì bước đạo của mỗi người sẽ được vững vàng mà lần lần đến chốn.
Tòa Thánh, ngày 24.11.1931
Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH

11 . Đức Quyền Giáo Tông gởi thơ đến các nước (ngày 22-10 Tân Mùi 1931)
Bức thư viết bằng tiếng Pháp, Hội Thánh dịch ra tiếng Việt sau đây:
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 1-12-1931
Kính gởi: Chư vị Hoàng Đế, Quốc Vương,
Quí vị Nguyên Thủ, Lãnh Đạo các nước,

Chư vị Giáo Lãnh các tôn giáo.
Kính thưa quí Ngài,
Chúng tôi trân trọng và thành kính thông báo cùng quí Ngài: Đấng Tối Cao tức là Đấng Thượng Đế toàn năng, mà cũng là Đại Từ Phụ của tất cả nhơn loại, đã giáng lập trên một góc của nước Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh, một nền tân tôn giáo. Nền tân giáo nầy có thể canh tân toàn thể thế giới bằng một lý tưởng cao quí: Đó là tình thương vạn vật. Rồi đây, bởi sự chuyển xây của tạo hóa, các sắc dân sẽ đồng tâm hiệp lực, kết tình anh em với nhau và chừng ấy nền hòa bình thế giới sẽ phát hiện.

Chiến tranh ! Cuộc chiến tranh tội lỗi giữa huynh đệ giết nhau một cách ghê tởm, sự ghê tởm của thế kỷ 20 được mệnh danh là tiến bộ văn minh, vẫn có thể tránh được.
Sở dĩ chúng tôi nói đến “tội huynh đệ giết nhau” là vì, dầu cho chủng tộc nào có phân chia nòi giống nhưng tất cả đang sống trên quả địa càu nầy đều là con cái và tùy thuộc dưới quyền năng ngự trị của một đấng Cha chung là THƯỢNG ĐẾ, hay nói rõ hơn, là Đấng Chủ Tể cầm vận mạng của họ. Một khi các dân tộc gây hấn chiến tranh với nhau, điều đó có khác nào anh em một cha đã tự diệt nhau đó vậy.

Nhận lãnh nơi Đức Thượng Đế, bậc Từ Phụ của toàn nhơn loại, chúng tôi có sứ mạng truyền bá nền chánh giáo của Người đến khắp hoàn cầu. Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng về sự giáng hạ của Người trên đất nước nầy: nhiều phép lạ đã xảy ra giống như thời Chúa Jesus ngự đến ban phép lạ xưa kia ở Lourdes và các nơi khác.

Tin tưởng mãnh liệt vào hiệu năng của của nền tân tôn giáo này và hoàn toàn vững tin nơi thiện ý của mình, chúng tôi đã trình lên nhà cầm quyền thuộc địa Pháp một bản minh thệ viết tay (kèm theo đây có một bản) mà nội dung chúng tôi cam kết với lời hứa chịu tử hình rằng: Chỉ chăm lo về mặt đạo giáo chớ không mảy may nào làm rối loạn an ninh trật tự. Ngược lại, chúng tôi yêu cầu được sự giúp đỡ và hộ trợ của nước Pháp để thi hành sứ mạng truyền bá nền tân giáo nầy khắp hoàn cầu.

Đối với sự kính trọng của chúng tôi, tiếc thay, các vị đại diện của nhà cằm quyền thuộc địa Pháp vẫn không có hảo ỷ đáp ứng. Một số ít tỏ ra thông cảm, khoan dung. Một số khác lại áp dụng đủ mọi cách cốt để ngăn chận sự truyền bá nầy.

Đức Thượng Đế đã giáng dạy chúng tôi hoằng hóa chánh đạo của Người đến khắp hoàn cầu. Chúng tôi quả quyết không có gì lầm lẫn trong sứ mạng ấy. Đặt mình vào bổn phận, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu quí Ngài thông truyền cho toàn thể nhơn loại thế giới hiểu biết việc làm của chúng tôi, để mọi người hiểu rằng: giờ đại xá của Đức Thượng Đế đã điểm... và sự thống hợp của con cái Đấng Tạo Hóa là để phụng sự cho hòa bình hơn là tiếp tục tìm kiếm kế hoạch thống trị thế giới.

Muốn được vậy, chỉ cần làm sao cho tất cả người đời biết thương yêu đồng chủng và giữ gìn hạnh đức đúng theo đường lối mà Đức Chí Tôn đã vạch.
Chúng tôi chắc rằng: hơn ai hết, quí vị Đế Vương, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Giáo Chủ v.v.. đều muốn cho thần dân và thuộc hạ đang sống dưới quyền uy của quí vị, đều được sống mà không bị ám ảnh bởi sự sợ hãi triền miên về một trận chiến tranh tương lai mà các vũ khí tối tân sẽ gây nên những sự tàn phá và những sự ghê tởm không tả xiết. Hơn thế nữa, quí Ngài mong muốn họ sống một đời sống an bình hạnh phúc và vĩnh viễn thoát khỏi cơn ác mộng về một trận chiến tranh cận đại.

Chúng tôi yêu cầu quí Ngài sớm phái đến chúng tôi một số người để họ có thể hiểu rõ hơn những gì mà chúng tôi đã gầy dựng nên.
Đức Thượng Đế phán dạy chúng tôi như vầy: “Các con, mối Đạo của Thầy, nếu các con phát trễ một ngày thì mỗi ngày qua sẽ là dịp để cho hằng trăm ngàn linh hòn bị đọa lạc nơi chốn trầm luân.”

Giờ đây lời kêu gọi đã được truyền ra khắp chốn, chúng tôi nghĩ rằng mình đã làm tròn bổn phận. Tuy nhiên, khi nào có đủ phương tiện, chúng tôi sẽ đi khắp hoàn cầu để truyền đến mỗi dân tộc lời thánh giáo mới mẻ nầy.
Kính mong liệt vị chiếu cố và thể nhận nơi đây lòng tôn kính sâu xa của chúng tôi.
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Ông Lê Văn Trung
Người Việt Nam thuộc Pháp,
Đệ ngũ đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh,
Nguyên Nghị viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương,
Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương,
Đạo Cao Đài hay Phật giáo Canh Tân,
Tại Tây Ninh, Nam Kỳ thuộc Pháp.

12 . Giáo Hữu Trần Quang Vinh vận động tự do tín ngưỡng (ngày 22-11 Tân Mùi 1931)
Giáo Hữu Trần Quang Vinh sau thời gian truyền đạo và vận động tự do tín ngưỡng cho Đạo Cao Đài tại Pháp nay trở về Việt Nam. Nhơn dịp có cuộc đấu xảo quốc tế thuộc địa tại Vincennes – Paris vào năm 1931, chánh phủ bảo hộ Miên quốc phái ông Trần Quang Vinh là một công chức (thông phán hạng nhì) đi dự cuộc.
Tháng chạp năm 1930, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đến viếng Thánh Thất Kim Biên. Lúc ấy ông Thượng Vinh Thanh đã thăng Giáo Hữu. Hai vị đại thiên phong biết Hiển Trung sắp đi công cán bên Pháp nên dạy phải nương cơ hội nầy mà truyền giáo và tìm phương xã giao với các chánh khách Pháp triều, sở cậy họ binh vực quyền tự do tín ngưỡng của Đạo Cao Đài ở Đông Dương, đương bị chánh quyền thuộc địa và bảo hộ áp chế.

Ít hôm sau, Anh Cả Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp mời Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh đến thánh thất một lần nữa mà lần nầy hai anh lớn dạy đủ mọi việc khi đến Pháp phải lo, về mặt truyền giáo cũng như việc kêu ca với chánh phủ Pháp ra lịnh chấm dứt sự áp chế Đạo Cao Đài ở Đông Dương.

HOẠT ĐỘNG TẠI PHÁP QUỐC

Hiển Trung (Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh) đáp tàu đò của hãng Nhà Rồng, chiếc Chenonceau, tách bến Sài Gòn ngày 10-2-1931, tới Marseille ngày 5-3-1931, Paris ngày 7-3-1931. Thời gian ở Paris từ 7-3-1931 tới 5-12-1931, trọn 9 tháng.

Ngoài phận sự lo cho cuộc đấu xảo Vincenne - Paris, Hiển Trung có thừa ngày giờ lo đạo, hằng tiếp xúc với nhiều nhân vật, nào là Nghị sĩ, Luật sư, Giáo sư, Sĩ quan, Ký giả, đại khái là Hội Nhân Quyền (Ligue đes Droits de l’ Homme) mà Tổng Thơ Ký là ông Emille Kahn, kế tiếp là ông Henri Guernut, ông nầy là Nghị sĩ danh tiếng ở quốc hội Pháp.
Mọi việc hoạt động trọn 9 tháng ở Pháp không thể kể xiết, những tài liệu sanh hoạt lần lượt gởi về Tòa Thánh cho Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.

Công việc truyền giáo và vận động cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng ở Đông Dương, ông Hiển Trung thuyết phục và gầy dựng được một số nhơn vật và chánh khách Pháp có thiện chí đối với Đạo Cao Đài, trong số ấy có 5 vị kể tên sau đây được thọ phong chức sắc vào năm 1932:
1 . Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: Gabriel Gobron, Giáo sư Trung học.
2 . Nữ Giáo Sư: Bà Félicien Challaye, bạn của ông Giáo sư Đại học Sorbonne.
3 . Giáo Hữu: Charles Bellan, cựu tham biện ở Đông Dương.
4 . Giáo Hữu: Gabriel Abadie de Lestrac, Lục sự Tòa án Paris
5 . Nữ Lễ Sanh: Bà Marguerite Gobron, sau thăng Giáo Hữu (bạn ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron)

Cuối mùa đông năm Tân Mùi (1931), ông Trần Quang Vinh đã mãn hạn công tác tại Pháp quốc và trở về Việt Nam. Bận về cũng trùng với chiếc tàu Chenonceau nữa. Tàu tách bến Marseille ngày 5-12-1931, cặp bến Nhà Rồng Sài Gòn ngày thứ tư 30-12-1931, lúc 7 giờ sáng.

Hiển Trung đứng trên boong tàu ngó xuống, ngoài mẹ và gia đình thân quyến, lấy làm bất ngờ nhận thấy có dạng các anh lớn trong đạo cũng đồng đi rước Hiển Trung, xin kể ra:
1 . Anh Cả Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
2 . Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
3 . Ông Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh.
4 . Ông Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu.
5 . Giáo Sư Thượng Tuy Thanh (Từ Huệ).
6 . Giáo Hữu Thái Gấm Thanh (Tử Hóa)
7 . Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển, Bí thơ của Đức Hộ Pháp

Thuở ấy tình hình trong nước được yên tỉnh dễ dàng, nên khi tàu cặp bến xong xuôi, ráp thang lên tàu vững vàng, thì thay vì hành khách lên bờ, trái lại thuyền trưởng cho phép những người đi rước xuống tàu trước, rồi để cho bà con thân quyến tự tiện đi tìm người mình rước mà mừng rỡ.

Hiển Trung quá xúc động, một đàng là mẹ, cả gia đình bà con, một đàng nữa là Anh cả, Đức Hộ Pháp và các bạn chức sắc bao quanh. Mừng không thể tả, trả lời người nầy, nói chuyện với người nọ, rồi tất cả xuống phòng ăn, bảo “garcon” là bồi giúp việc đem trà, café, bánh mì bơ và đủ thứ bánh trái. Thật là một tiệc bất ngờ, ai ai cũng ăn uống vui vẻ chuyện trò. Lúc thái bình có sự dễ dàng như vậy đó. Hiển Trung ngồi gần Anh Cả, Đức Hộ Pháp và các chức sắc chung một bàn, bà con thân quyến ngồi nối tiếp và thêm một bàn nữa.
Mãn tiệc trà cũng gần 9 giờ, thay vì Hiển Trung bao trả tiền tiệc trà nầy, mấy bà con ở Long Xuyên lên rước giành trả tiền hết. 9 giờ đem hành lý lên bờ.

Hiển Trung xin phép mẹ và gia quyến để đi cùng một đoàn với chức sắc, từ bến tàu ra tới cửa Nhà Rồng, vì xe đậu ngoài đường Jean Eudel. Đi bộ, vừa đi vừa nói chuyện hết sức vui vẻ. Anh Cả nắm tay Hiển Trung kéo đi sụt lại sau nói nhỏ như vầy: “Thơ nó nhờ moi mời toi chiều nay lối 7 giờ đến nhà nó ăn cơm. Nó ngại toi phiền nó rồi từ chối nên mới cậy moi.”
Hiển Trung liền đáp với Anh Cả như vầy: “Anh Cả mời thì tự nhiên em phải vâng, mà dầu cho Anh lớn Thơ mời thì em cũng nhận, không lẽ em cố tâm phiền ảnh về vụ trước hay sao?” Đó rồi Anh Cả chỉ nhà của Anh lớn Thơ ở Tân Định và hẹn cho đúng giờ.
Ra tới đường cái, Anh Cả, Đức Hộ Pháp và các chức sắc bắt tay từ giã Hiển Trung, hẹn nhau là chiều tối sẽ tái ngộ.

13 . Thượng Hội ân xá chức sắc thiên phong (5-12 Tân Mùi 1931)
Sau khi lập Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Đài xử phạt định án 37 chức sắc cao cấp CTĐ và HTĐ, việc định án nầy làm cho nhơn sanh và Hội Thánh cảm thấy có điều gì như chưa ổn lắm, nên trong kỳ Đại Hội Nhơn Sanh lần đầu tiên vào ngày 15-10 Tân Mùi, Hội Nhơn Sanh dâng thỉnh cầu lên Hội Thánh xin ân xá cho 37 chức sắc kể trên. Hội Thánh sau đó nhóm họp, xin dâng ý kiến nầy của nhơn sanh lên Thượng Hội quyết định.
Thượng Hội nhóm tại Tòa Thánh ngày 29-11 Tân Mùi (dl 6.1.1932), quyết định ân xá cho tất cả chức sắc bị Tòa Tam Giáo định án trong 2 kỳ Tòa Tam Giáo vừa qua, nếu như các vị chức sắc nầy trở về Tòa Thánh chung lo việc đạo trong vòng 3 tháng kể từ ngày 15-12 Tân Mùi.
14. Chương trình hành sự của Hiệp Thiên Đài (ngày 17-12 Tân Mùi 1931)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)

CHÂU TRI
Cho chư vị thiên phong chức sắc,
Đầu Họ Đạo, chủ Thánh Thất và chư đạo hữu nam nữ.
Ngày mùng 8 tháng giêng năm tới đây, nhằm ngày vía Đấng Chí Tôn, chư chức sắc Hiệp Thiên Đài sẽ về Tòa Thánh mà tái thủ phận sự, hiệp với chức sắc Cửu Trùng Đài lo vun bồi nền đạo. Ấy là ngày hội hiệp, là ngày ra vẻ cơ đạo phục hưng, chúng ta nên vui mừng mà cám đội ơn Thầy và chư thần thánh tiên phật. Vậy, khuya mùng 8, xin chư đạo hữu, ai không đến thánh thất được, ở nhà hãy cúng thời Tý mà dâng lễ vui mừng lên Đại Từ Phụ và cầu xin Đấng Chí Tôn ban bố ân huệ cho trong đạo nơi nơi được thượng hòa hạ lục.
Tôi xin tuyên bố ra dưới đây cái chương trình của Hiệp Thiên Đài lập ra mà đặt bày phận sự.
Tòa Thánh, ngày 1.2.1932.

Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH.
CHƯƠNG TRÌNH
*  *  *
Khoản thứ nhứt: Về cơ bút
Phận sự hiện thời về cơ bút của chức sắc Hiệp Thiên Đài theo lời giải của Hộ Pháp.
Buổi mới lập đạo, thánh ý đã định giao trách nhiệm phò loan cho 4 cặp cơ và mỗi cặp đều có phận sự đặc biệt là:
Cơ lập đạo (Enseignements religieux)
Cơ pháp (Législatìon – Sacerdoce)
Cơ phổ độ (Propagande de la Foi)
Cơ bí pháp (Enseignements ésotériques)

1 . Hộ Pháp và Thượng Phẩm là cơ lập đạo.
Tiên khởi Đức Chí Tôn đã dụng đặng rửa lỗi cho chúng sanh, xây nền đạo, dựng Hội Thánh, lập Tân Luật và Pháp Chánh Truyền mà thể cho thiên điều và hiến pháp thiên đạo.
Khi Thượng Phẩm qui vị thì cơ phong thánh đã xong phận sự và nền đạo cũng đã lập hoàn toàn thì chức sắc phải chịu luật lệ công cử và duy có tuân y Pháp Chánh Truyền mà điều độ chúng sanh, đạo hữu duy có tuân y Tân Luật đoạt lần phẩm vị. Cho nên về cơ bút thì cơ lập đạo tức là Hộ Pháp và Thượng Phẩm đã trọn vẹn phận sự rồi.

2 . Hậu và Đức là cơ pháp.
Chuyên về Hiến pháp của Đạo (Legislation religieuse). Hiến Pháp của Đạo là Tân Luật và Pháp Chánh Truyền thì không ai đặng phép canh cải thêm bớt mà cơ Pháp không biết và nhứt là không có Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài công đồng nhìn nhận, cũng như buổi lập luật, thánh ý đã muốn cho cả Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài phải công đồng nhận chịu.

3 . Mỹ Ngọc và Sang là cơ phổ độ để dẫn chúng sanh vào cửa Đạo.

4 . Nghĩa và Tràng là cơ bí pháp của đạo, nhưng hiện thời Tịnh Thất của Đạo chưa thành lập thì phận sự chưa đến.
Những lời chép trên đây là do theo lời Hộ Pháp giải.
Khoản thứ nhì: Kiểm duyệt thánh ngôn cũ và làm lịch sử đạo
Hiệp Thiên Đài phải có một Ban Kiểm Duyệt để thâu hết về một mối các thánh ngôn từ ngày khai đạo đến giờ.
Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải hành đạo do theo thánh ngôn kiểm duyệt rồi mà thôi.
Ban Kiểm duyệt Hiệp Thiên Đài phải lãnh phần làm lịch sử của đạo.
Khoản thứ ba: Thể lệ chấp cơ và ban hành thánh ngôn
Điều thứ nhứt: Mỗi khi Hội Thánh Cửu Trùng Đài muốn cầu Đức Chí Tôn thì phải viết tờ cho Hộ Pháp biết ý nguyện của mình về phận sự của cặp cơ nào.
Điều thứ nhì: Hộ Pháp sẽ tùy theo mà cho cặp cơ ấy hay, nghĩa là như cầu hỏi về luật pháp thì Hộ Pháp sẽ cho cặp cơ Hậu và Đức biết trước, vv... đoạn trả lời cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài và định ngày giờ thỉnh cầu.
Điều thứ ba: Không được phép cầu nơi nào khác hơn là tại bửu điện Hiệp Thiên Đài.
Điều thứ tư: Mỗi lần cầu, duy có Hộ Pháp và Giáo Tông đặng hầu đàn và một chức sắc Hiệp Thiên Đài làm ký lục mà thôi, trừ ra khi nào cơ giáng dạy kêu ai thì người ấy mới được đến hầu.

Điều thứ năm: Chấp cơ rồi thì Hộ Pháp, Giáo Tông và 3 Chức sắc Hiệp Thiên Đài có tại đàn sẽ kiểm duyệt thánh ngôn liền, rồi giao cho Giáo Tông ban hành.
Điều thứ sáu: Trước khi ban hành, Giáo Tông phải để cho Bàn Kiểm Duyệt thánh ngôn của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài xem trước, như Bàn Kiểm duyệt nầy xin ngưng ban hành thì Giáo Tông phải trả lại cho Hộ Pháp đặng định ngày cầu Đức Chí Tôn hỏi lại.

Chức sắc thiên phong Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài ký tên dưới đây đồng nhìn nhận tờ chương trình hành đạo nầy và định:
Thứ nhứt: Tuyên bố tờ chương trình nầy
Thứ nhì: Ngày mùng 8 tháng giêng tới đây là ngày cả chức sắc Hiệp Thiên Đài sẽ về Tòa Thánh mà tái thủ phận sự.

Làm tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 24 tháng 1 năm 1932 (âl 17.12 Tân Mùi).
Ký tên:
Thượng Đầu Sư Quyền Giáo Tông
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Thượng Chánh Phối Sư
THƯỢNG TƯƠNG THANH

Thái Chánh Phối Sư
THÁI THƠ THANH

Ngọc Chánh Phối Sư có xin kiếu.

- Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC
- Hiến Pháp Đức
- Khai Pháp Nghĩa
- Tiếp Pháp Tràng
- Bảo Thế Phước
- Khai Thế Thâu
- Tiếp Thế Vĩnh
- Tả Phan Quân Mùi

CHƯƠNG IV
HỘI NHƠN SANH



1 . Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn (ngày 3-1 Nhâm Thân 1932)
Đúng ngày mùng 3 tháng Giêng năm Nhâm Thân, tất cả các anh em Phạm Môn nam nữ và luôn cả cha mẹ vợ con của anh em đều tựu đến Sở Trường Hòa rất đông, phỏng chừng lối ngàn người.

Nhắc lại, Phạm Môn phôi thai từ năm Mậu Thìn (1928), khởi thủy do Đức Hộ Pháp mua lại phần đất tại xóm Trường Đua thuộc xã Hiệp Ninh, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, tạo một ngôi nhà đầu tiên bằng cột cây lợp tranh, do ông Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh lãnh làm khoán. Trong lúc đang kiến tạo ngôi nhà này thì có một số người đạo tâm đến xin làm giúp cho Đức Hộ Pháp, mục đích của họ là muốn gần gũi Đức Hộ Pháp để học đạo và cứ như thế số người đạo đến xin làm giúp mỗi ngày một đông.

Đến năm Canh Ngọ (1930), Đức Hộ Pháp mới nói với những người nầy rằng: Chỗ nầy không phải chỗ làm công quả, nếu ai muốn làm công quả thì vô Tòa Thánh mà làm. Còn như em nào muốn theo Qua thì phải làm tờ hiến thân trọn đời vào Phạm Môn và phải có cha mẹ với vợ bằng lòng ký tên cho hiến thân mới đặng, đồng thời tờ hiến thân phải có Đầu Họ Đạo vi chứng.

Những anh em nầy họp nhau bàn tính, kết quả anh em đồng ý làm tờ hiến thân. Khi làm xong đệ lên Đức Hộ Pháp, Ngài xem xong rồi Ngài đệ luôn qua Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Từ ngày anh em làm tờ hiến thân rồi, Đức Ngài buộc làm công quả mỗi tháng phải đủ 27 ngày, nghỉ 3 ngày là: mùng 1, 20 và nếu tháng thiếu thì nghỉ ngày 29.

Đến đây thấy số người hiến thân khá đông, phần ăn uống có phần thiếu thốn, mấy người lớn tuổi có phần hiểu biết hơn, mới phân ra một số đi cưa cây làm cửa để trang trí ngôi nhà mới cất, còn một số thì lo kiếm ruộng đặng làm. Khi bàn tính xong thì trình lên Đức Ngài hay, được Đức Ngài chấp thuận và hỏi mướn số ruộng của Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh ở Bến Sỏi Tây Ninh. Vụ làm ruộng do ông Võ Văn Lẽo làm chủ sở và nhờ anh em ở xã Ninh Điền và Trà Siêm giúp trâu cày ruộng và lúa giống.

Khi ngôi nhà được trang trí xong thì Đức Hộ Pháp dạy làm tấm bảng đề 2 chữ lớn PHẠM NGHIỆP và đăng đôi liễn:
"PHẠM nghiệp thừa nhàn, lợi lộc công danh vô sở dụng,
MÔN quan tích đạo, tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu."

Sau đó, Đức Ngài lại dạy anh em vô gần Tòa Thánh để tạo Sở Khách Đình, kế lộ Phước Đức Cù, phía sau là rừng cấm. Đức Hộ Pháp giao nhà sở nầy cho ông Nguyễn Văn Lư làm chủ sở. Trong lúc tạo cơ sở nầy thì lương thực rất thiếu thốn, mỗi bữa ăn toàn là khoai mì với lá đậu rồng, lá cây búng chấm với nước muối, đời sống rất kham khổ nhưng tinh thần anh em thì rất mạnh.

Đến cuối năm Canh Ngọ (1930), Đức Hộ Pháp cho anh em xuống mở sở Phạm Môn tại Tâm Lạch thuộc xã Trường Hòa, do ông Lê Văn Lưu làm chủ sở, sắp đặt việc nhà cửa và canh tác ruộng rẫy.

Ông Phạm Văn Màng lãnh nhiệm vụ coi anh em người Miên làm hằng ngày, vì sở này có lối 40 người Miên kể cả nam nữ, còn người Việt lối 20 người, ông Lại Văn Sắc lo về lương thực và ngoại giao. Khi mới đến thì ở tạm nơi nhà của ông Út Giáp (Phạm Văn Giáp) vì nhà của ông Giáp gần chỗ tạo nhà sở, phần lớn trong nội vụ kiến tạo tại nhà sở nầy đều nhờ sự giúp đỡ của anh em ông Giáp. Nguyên bởi lúc nầy ông Giáp đang giúp việc cho Đức Hộ Pháp tại Hộ Pháp Đường. Khi khởi sự mở ruộng rẫy tại sở nầy, chính Đức Hộ Pháp ra cầm cày, anh em dắt trâu, cày đủ 3 vòng rồi, Đức Ngài mới trao lại cho anh em Phạm Môn ở sở tiếp tục cày.

Cũng trong năm nầy, Đức Hộ Pháp dạy anh em Phạm Môn phải học thuộc lòng thập điều giới răn đặng khi Đức Ngài biểu đọc lại thì phải đọc liền. Thập Điều Giới Răn như dưới đây:
1 . Phải tuân y Luật pháp Chơn truyền của Chí Tôn.
2 . Phải trọn hiếu với Tông đường phụ mẫu, trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha.
3 . Phải trọn giữ trai giới.
4 . Phải xa lánh các đảng phái.
5 . Phải thật hành phước thiện, nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ.
6 . Không đặng thâu của chúng sanh.
7 . Coi anh em đồng đạo như ruột thịt.
8 . Không được bội sư phản bạn.
9 . Phải ở như các Thánh Hiền, đừng phạm tội vong công bội đức.
10 . Phải thương yêu loài người và loài vật, kỉnh trọng mạng sanh vừa theo tánh chất của Chí Tôn là Chúa sự sống.

Đến năm Tân Mùi (1931), Đức Hộ Pháp dạy ông Trịnh Phong Cương ra tạo sở Giang Tân kế mé sông Vàm Cỏ Đông thuộc xã Trường Hòa, sát ranh với xã Long Thành.
Sở Nam Công Nghệ gần Ngã Ba đi Suối Đá và đi Chà Là, tại nách đường đi vô Thái Bình Nghĩa địa do ông Võ Văn Đợi tự Đại làm chủ sở.

Sở Nữ Công Nghệ ở gần Ngã Tư Ao Hồ, kế bên cửa số 7 ngoại ô thánh địa do ông Đinh Văn Tiết làm chủ sở. Sở Dưỡng Lão Đường cũng gần Ngã Tư Ao Hồ do ông Lê Văn Tri làm chủ sở.
Đến cuối năm Tân Mùi (1931), Đức Hộ Pháp cho hay đến ngày mùng 3 tháng giêng năm Nhâm Thân (1932) sẽ làm lễ Hồng Thệ (thọ Đào Viên Pháp) tại sở Trường Hòa.

2 . Hội Thánh in Thánh ngôn hiệp tuyển (ngày 14-1 Nhâm Thân 1932)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thất niên)

Kính cùng chư vị chức sắc thiên phong, Đầu Họ Đạo, chủ thánh thất và đạo hữu nam nữ.
Ngày lễ Vía Đấng Chí Tôn vừa rồi, chư chức sắc và đạo hữu các nơi, không có thơ mời gọi chi hết, mà tựu về Tòa Thánh rất đông đảo, hội hiệp cùng nhau, làm cho cuộc lễ thêm long trọng. Ấy là cái ảnh hưởng hưng sùng của đạo đó. Ai lên đây cũng đều tỏ dấu vui mừng, trước là chầu lễ Thầy, sau gặp gỡ bạn tu, chúc đạo đức cho nhau năm mới.

Y như lời tôi đã nói trong châu tri số 42, ngày lễ đó, chư vị bên Hiệp Thiên Đài có hiệp về Tòa Thánh đủ hết, trừ ra một vị mắc việc có xin vắng mặt mà thôi.
Nay chư chức sắc bên Hiệp Thiên Đài được trắng như băng, tái thủ phận sự lại rồi, nên tôi cho chư hiền hữu hay mà mừng cho nền đạo, từ đây sẽ đặng vững vàng thêm nữa và đường đạo của chúng ta sẽ được mau trổi bước.

Nhơn dịp, tôi để lời cám ơn chư hiền hữu có lòng sốt sắng mà thi hành châu tri số 41 về sự giữ trọn chay 3 ngày Tết. Tuy nhiều nơi được châu tri trễ, song tôi hay phần đông sẵn lòng làm theo, vậy cũng đủ chứng cho đạo tâm phấn chấn của chư hiền hữu.

Nơi Tòa Thánh đã in Thánh Ngôn Hiệp Tuyển lại rồi, khi trước, thỉnh theo giá cũ là 1 $ một cuốn, nay nhờ nhà in của Hội Thánh nên hạ xuống 0 $20 một cuốn, đủ tiền giấy và tiền in thiệt rẻ cho đạo hữu ai ai cũng có thể thỉnh được, coi cho biết rõ tôn chỉ ĐĐTKPĐ. Tôi ước mỗi đạo hữu biết chữ, nến có một quyển trong nhà mà đọc đi đọc lại cho rõ thông các lời thánh giáo của Thầy. Còn Lễ Sanh, Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự nam nữ, mỗi người đều phải có một cuốn mà học….

3 . Nội luật Thượng Hội (ngày 22-1 Nhâm Thân 1932)

THƯỢNG HỘI
NỘI LUẬT

Toàn thế giới càn khôn chỉn có 2 quyền: trên là quyền hành Chí Tôn của Đấng Tạo Hóa, dưới là quyền hành của vạn linh, nghĩa là sanh chúng.
Quyền hành Chí Tôn trọn nơi thế nầy là tại quyền Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một. Hai bên phản khắc nhau thì Chánh Trị Đạo phải bị đổ.
Quyền hành vạn linh nghĩa là của sanh chúng đều có đủ trọn vẹn nơi: Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh hiệp đồng. Nếu 3 Hội phản khắc nhau thì quyền hành ấy tiêu hủy.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có 3 Đài:
1. Cửu Trùng Đài: là thể phần xác, vì Đấng Chí Tôn không xuống thế với xác thân trong buổi khai đạo nơi miền Á Đông kỳ thứ 3 nầy. (3è Amnistìe de Dieu en Orient)
Lại dùng huyền diệu vô vi bí mật cơ bút y theo thiên thơ tiền định mà khai và truyền đạo. Ấy vậy, Cửu Trùng Đài là TINH là thân thể.
2. Hiệp Thiên Đài: là KHÍ, là khí lực, nghĩa là luồng điển quang liên kết cả thánh đức cùng xác thịt (Lien de relation ou flamme divine) làm trung gian hiệp Cửu Trùng Đài với Bát Quái Đài.
3. Bát Quái Đài: là THẦN là thiêng liêng (Puissance maitresse qui dirige l’ Univers ou autrement dit : Sagesse ou Intellegence divine).
Cửu Trùng Đài là hình thể hữu vi của Đấng Chí Tôn, chia ra 3 Hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội.
Ba Hội nầy hiệp cùng nhau là hình thể hữu vi của Đấng Chí Tôn nên phải có quyền đặc biệt đủ phương độ tận nhơn sanh vô nền đại đạo lo tu hành ra bực thượng sanh.

THƯỢNG HỘI
Điều thứ nhứt: Thượng Hội gồm có:
1. Giáo Tông . . . . . . . . . . . . . Hội Trưởng
2. Hộ Pháp. . . . . . . . . . . . . . . Phó Hội Trưởng
3. Thượng Phẩm. . . . . . . . . . Hội viên
4. Thượng Sanh. . . . . . . . . . . . —nt—
5. Ba vị Chưởng Pháp. . . . . —nt—
6. Ba vị Đầu sư nam phái. . —nt—
7. Đầu Sư nữ phái . . . . . . . . —nt—
Điều thứ nhì: Mỗi khi hội thì mỗi vị phải có mặt, trừ ra khi nào vì việc đạo mà phải đi xa thì mới được phép vắng mặt, khi nào có bịnh không dự hội được thì phải có thơ xin kiếu và chọn vị nào trong hội thay mặt cho mình.
Điều thứ ba: Thượng Hội để xem xét và phê chuẩn:
1 . Các điều của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh bàn luận về việc Đạo.
2 . Các điều ước (voeux) của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh, trừ ra các điều nào, hoặc của Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh đã đánh đổ, hay là của Hội Thánh mà đã bị Hội Nhơn Sanh đánh đổ, thì không được phép đem vào Thượng Hội, nếu không có đơn của hai ông chủ hai Hội kêu nài.
3 . Thượng Hội bàn luận và định đoạt cặc việc cần gấp hoặc yếu trọng phải ban hành trong Đạo.
Điều thứ tư: Trừ ra mấy vị Đại Thiên phong có quyền trong Thượng Hội chỉ trong điều thứ nhứt, thì không có ai khác được dự thính Thượng Hội.
Điều thứ năm: Thượng Hội chọn một vị Từ Hàn trong hàng thiên phong Cửu Trùng Đài từ Giáo Sư đổ lên.
Từ Hàn lo giữ gìn giấy tờ, sổ sách của Thượng Hội và trước mỗi kỳ Hội, phải tùng Giáo Tông đặng lập chương trình và viết thơ mời hội, khi Thượng Hội nhóm thì dự thính và lo biên các lời luận của mỗi Hội Viên đặng chừng mãn Hội, tức cấp lập Tờ Kiết Nhận mỗi kỳ Hội, với phải nhắc nhở những điều Thượng Hội đã có định trước mà Hội Viên quên trong lúc hội nhóm. Sau khi hội nhóm, phải lo phụ giúp Giáo Tông thi hành các điều bàn định.
Điều thứ sáu: Từ Hàn được lãnh phận sự công quả trong 4 năm kể từ ngày Thượng Hội chọn. Trong 4 năm, nếu Từ Hàn không tròn phận sự thì Thượng Hội chọn người khác thế; nếu tròn phận sự công quả, siêng năng đạo đức đủ, khi mãn 4 năm thì Thượng Hội cũng chọn cử lại nữa.
Điều thứ bảy: Ba vị Đầu Sư nam phái và Đầu Sư nữ phái có quyền cai trị về phần đạo và phần đời của chư môn đệ Chí Tôn thì phải lập Tờ Phúc những điều bàn tính của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh. Tờ phúc ấy phải đệ lên cho Giáo Tông xét nét rồi đem ra Thượng Hội bàn tính trước Hội thường niên ít nữa là 15 ngày.
Điều thứ tám: Cả tờ giấy chi đem ra Thượng Hội phải cho cả Hội Viên quan sát xét nét trước khi ngày nhóm Hội ít nữa là 7 ngày.
Điều thứ chín: Mỗi vị Hội Viên có trọn quyền bàn cãi các việc đem ra Hội đặng cho Giáo Tông và Hộ Pháp rõ thấu chơn lý mà định quyền chánh trị của Đạo. Thượng Hội cốt yếu là giúp Giáo Tông và Hộ Pháp hiểu thấu tâm lý nhơn sanh và Hội Thánh đặng xây chuyển quyền hành Chí Tôn theo vạn linh ước vọng.
Nếu muốn bàn cãi việc chi thì xin phép ông Hội Trưởng rồi chờ được phép mới mở lời bàn tính, chớ nên cản lời của Hội Viên khác đương luận và tỏ ý kiến.
Thảng như có nghe một Hội Viên bàn tính điều chi không phù hạp với mình thì biên cho nhớ rồi khi Hội Viên ấy dứt tiếng, xin phép Hội Trưởng đặng tỏ ý kiến của mình. Trong mỗi việc đem ra bàn luận, mỗi Hội Viên được xin nói đến ba lần, mỗi lần không quá 5 phút đồng hồ, hay là một lần không quá 15 phút.
Điều thứ mười: Trong mỗi việc, chừng cả Hội Viên tỏ hết ý kiến và bàn luận rồi thì Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới tỏ bày sau rốt, chừng rồi, Hội Trưởng định bỏ thăm, bên nào phần đông thì Thượng Hội tuân theo.
Điều thứ mười một: Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một thì là Quyền Chí Tôn nên không có bỏ thăm. Nếu cả Ba Hội phản khác nhau thì quyền Chí Tôn, nghĩa là của Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một vi chủ, định thế nào thì chánh trị của đạo y theo thế nấy. Còn như quyền hành Giáo Tông và Hộ Pháp phản khắc nhau nữa thì cả thảy về chánh trị và chúng sanh đều bị hủy bỏ. Chừng ấy, Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội phải nhóm lại mà định đoạt sửa cải lại nữa. Nếu có việc chi trái luật đạo thì Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp cùng nhau đặng trọn quyền ban xuống cho Đầu Sư định đoạt lại.
Điều thứ mười hai: Mỗi năm, sau ngày lễ Noel thì nhóm Thượng Hội thường lệ đặng xem xét và phê chuẩn:
1 . Các việc Đạo đã ban hành trong năm.
2 . Các việc của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh đệ lên.
3 . Các việc đạo sẽ ban hành năm tới.
4 . Sổ thâu xuất năm qua rồi.
5 . Sổ thâu xuất và phỏng định năm tới.
6 . Sổ trục xuất tín đồ, án Tòa Tam Giáo hình phạt và các việc tạp tụng Hòa Viện.
7 . Cầu phong.
Điều thứ mười ba: Ngoài hội thường lệ thì 3 tháng Thượng Hội nhóm một lần. Còn có việc gấp thì Hội Trưởng gởi tờ mời hội liền hay là gởi tờ hỏi ý kiến cửa chư Hội Viên.
Điều thứ mười bốn: Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp phải đình hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào đại điện mật nghị rồi phải trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.
Điều thứ mười lăm: Ngày sau có điều chi cần ích cho Thượng Hội thì sẽ đem thêm vô Nội Luật nầy.
Làm tại Tòa Thánh, ngày 22 tháng Giêng năm Nhâm Thân.
(dl 27.2.1932)
     HỘ PHÁP                                                   QUYỀN GIÁO TÔNG
Phạm Công Tắc                                                Thượng Trung Nhựt
(ấn ký)                                                  (ấn ký)

4 . Ngài Ngô Văn Chiêu liễu đạo (ngày 13-3 Nhâm Thân 1932)
Ở Cần Thơ, Ngài Ngô Văn Chiêu không chịu ở nhà ai hết. Các đệ tử của Ngài bèn cất cho Ngài, một cái am cách châu thành Cần Thơ 3000 thước trước Chiếu Minh nghĩa địa. Ngài dạy phải làm bằng cây lợp lá đơn sơ thôi, bởi chỉ dùng chừng một tuần nhựt, làm tử tế không ích gì lại tốn kém. Trong lúc cất am, Ngài tạm ở cái am của bà tư Huỳnh kế bên.

Những ngày ở Cần Thơ có những điều đặc biệt sau đây:
1 . Ngài dạy dùng vải để chép những bài thánh giáo dạy giữ y qui củ của Ngài khai đạo kỳ ba nầy. Một ít bài thi chép trên vải còn giữ lại tại nhà bà Đốc Lý ở Thủ Đức hiện giờ.
2 . Hai ngày trước khi liễu đạo, Ngài kêu bà hội đồng Thơm dặn như sau và phải truyền nháy lại lời của Ngài:
a . Trước đàn hay chùa, phải làm 8 cái bồn trồng bông, tròn vuông dài gì cũng được, để trồng 8 thứ bông khác nhau. Nếu có viền cỏ chung quanh bồn thì cũng phải cho phân minh, không được lộn một bồn mà hai ba thứ bông.
b . Bông chưng trên thiên bàn cúng thì phải chưng đủ 3 thứ : bông sen, cây trước và cây dương liễu, không có dương liễu thì dương thường cũng được, vì là ý đạo sẽ dùng ngày sau.
c . Chưng trái cây cũng chỉ 5 thứ mà thôi, không được 6 hay 7 vì năm thứ ấy tượng trưng cho ngũ hành trong cơ thể mình, tức là ý đạo.
d . Là Đại Đạo Vô Vi nên ý Ngài muốn bảo mua cái vỏ trái bầu khô treo giữa nhà rồi thắp nhang cặm cúng được rồi.

Nhưng trong lúc ấy, ông hội đồng Huy và tư Huỳnh mua xong cái ghế thờ chở vô và xin thầy dạy cách sắp đặt thờ cho đúng. Ngài thấy chở vô là có ý buồn rồi, Ngài nói với Bà Thơm: Sau nầy sẽ có cơn khảo đảo về việc sắp đặt thiên bàn.

Giờ Tý ngày 13, tại nhà ông tư Huỳnh có đàn. Bạch Hạc đồng tử báo riêng rằng ông tư Huỳnh có lỗi với Ngài và hiện Ngài còn đó, mau vô xin lỗi, để Ngài qui rồi thì khó xin được. Lối bốn năm giờ sáng, thì ông tư Huỳnh áo khăn đường hoàng, vào quì ngay tại thảo lư trước màn vừa thưa vừa khóc xin lỗi Ngài. Một hồi lâu, Ngài bảo ông Tư Huỳnh ra sau lấy con dao xắt chuối, ông Tư cũng không hiểu ất giáp gì, đi lấy con dao đem lên. Ngài biểu: Anh tư Huỳnh lấy con dao chuối đó chặt tôi ít dao cho rồi. Ông Tư hoảng sợ bỏ dao, lạy Ngài xin tha thứ. Ngài bảo ông Tư về. Ông Tư mới đứng dậy, vái dài rồi ra về. (Theo lời Bà Tư Huỳnh thì Ngài biết sau nầy ông Tư Huỳnh nghe lời ông Phán Quí mà đổi Tam Thanh ra Tam Giáo).
Khi ông Tư ra về rồi thì Ngài kêu, bà Thơm và bà Huỳnh lại nói rằng: "Anh Tư bảo tôi đi đấy." Các đệ tử sau nầy mới biết rằng lời nói ý kín trên đây ứng lời thánh ngôn tại nhà ông Tư.

LIỄU ĐẠO TRÊN CỬU LONG GIANG (TIỀN GIANG)

Ngài thường nói rằng: Đức Đại Từ Phụ đã định cho Ngài bỏ xác trên sông Cửu Long, nên mới có câu:
"Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên"

Sáng ra Ngài nhắc chừng bà Tư Huỳnh lo dùm xe cộ cho Ngài về Tân An và cứ nói hoài câu đó sợ trễ giờ. Bà Tư kính trọng Ngài lắm, nên muốn dần dà lưu Ngài lại. Thấy vậy, Ngài biểu mời ông hội đồng Thơm vô. Ông Hội đồng khăn áo bước lên thảo lư lại quì trước Ngài rồi Ngài dạy chi không biết và dùng tiếng Pháp làm mấy bà lén nghe mà không hiểu gì hết chỉ thây ông Hội đồng quì khoanh tay và kính cẩn nghe, vâng vâng dạ dạ.

Đến khi ông Thơm đem xe vô, các bà bàn tán xôn xao, Ngài nói đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.
Lúc ây, cô năm Nguyệt hỏi Ngài: Cha đi về Tân An phải không ? Ngài cười bảo: Cha đi bí mật.
Giờ Ngọ ngày 13, Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện công phu và sắp đặt: Ngài ngồi trên giữa, hai hàng hai bên:
- Bà hội đồng Thơm
- Cô Tám Lưu
- Bà đốc Thượng
- Ông đốc Thượng
- Bà tư Huỳnh
- Cô năm Nguyệt
- Bà Niệm
- Ông hội đồng Huy.

Sau giờ công phu, anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe, đi theo có bà Thơm, bà Huỳnh, cô năm Nguyệt và anh đồng Ngưng. Ngài thì ngồi một mình băng sau, còn Bà Tư, Bà Thơm ngồi sụt xuống hai bên dưới chân Ngài.

Da mặt và mình mẩy Ngài từ từ đổi ra vàng như nghệ. Xe đến bến đò Cần Thơ, ngừng để mua vé đò, bọn trẻ nhỏ xúm lại hỏi ông đau chi mà vàng lườm như vậy ông ? Bà Thơm lấy mấy tấm màn xe che lại thì Ngài gỡ xuống mà không nói.
Đến đò Mỹ Thuận, bà Tư vào chờ mua vé, mấy đứa nhỏ cũng bu xem và hỏi như ban nãy. Ngài bảo: Đã đến giờ rồi mà chưa đi, kêu chị Tư ra đi. Cô năm Nguyệt thưa: Còn chờ mua giấy đò rồi đi liền.

Xe xuống đò Mỹ Thuận xong, đò xô ra độ hai ba phút đồng hồ tại sông Tiền giang thì hồn Ngài lìa xác. Ngài xuất hồn đi êm ru, không ai hay cả, cho đến mấy người đệ tử theo trên xe hầu Ngài cũng chẳng hay. Tới chừng có người làm ở dưới đò Mỹ Thuận thấy tri hô lên nói: Mấy bà đi đâu mà đem ông già chết đi theo, có giấy phép hay không ? Mấy Bà hoảng hốt, khóc và xin quày đò trở lại.

Thế là Ngài liễu đạo nhằm ngày 13.3 Nhâm Thân lối 3 giờ chiều (dl 18-4-1932).
Đò quay lại, xe lên bờ thì vừa kịp lúc xe của ông tư Huỳnh và ông hội đồng Huy vừa đến. Tất cả hay sự việc đều quay trở lại thảo lư Cần Thơ. Đến nơi phò xác vô đặt ngồi tại thảo lư, lúc bấy giờ nước da mặt Ngài trở lại trắng và con mắt bên trái bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống, còn con mắt bén mặt thì nhắm như thường.

Đức Hộ Pháp thuyết đạo trong lễ Hội Yến DTC tại

Cửu Long Đài năm 1948

Học sinh Đạo Đức Học Đường biểu diễn và cộ diễu hành trong lễ Hội Yến DTC năm 1948

CHƯƠNG V
DIÊU TRÌ CUNG CHO THI

1 . Hội Thánh cẩn thận cơ bút (ngày 30-5 Nhâm Thân 1932)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thất niên)
Tòa Thánh,
ngày 3-7-1932 (30-5 Nhâm Thân)

Kính cùng chư vị thiên phong, chư vị chủ thánh thất, chư vị Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự, chư đạo hữu lưỡng phái.
  Chư hiền hữu,
Đời thường tồn vong ưu liệt,
Đạo có động tịnh chuyển xây.

Từ thử nền Đạo truân chuyên biết mấy, nào cuộc thử Thánh vì công bình thiêng liêng phải vậy, lắm lúc bị thế tình biếm nhẻ chê bai, đòi phen gặp nội biến, khiến chư hiền hữu ưu sầu đổ lụy thẩm bâu ! Mấy cuộc giông tố qua rồi, mới thấy rõ tâm thành đức vẹn của Đạo hữu lưỡng phái, gan đồng dạ sắt của Thầy un đúc bấy lâu không dời đổi.

Thiệt là:
Chí hào kiệt trí tri dễ núng,
Dạ anh hùng trài trại không lay.

Vậy mới gọi là người thỉ chung như nhứt, dầu chết cũng thủ trung giữ hiếu. Người như vậy dầu không biết Đức Từ bi đi nữa thì Ngài cũng tầm mà rước về đặng ban ân huệ cho. Ấy là nền đạo mới qua rồi.

VIỆC CƠ BÚT

Thầy hằng nhắc tôi hồi buổi ban sơ:
“Dầu một Chí Thánh hạ trần mà trong thiên thơ không định để cầm bút cho Thầy truyền đạo thì Thầy cũng không dùng.”

Thánh giáo nầy chỉ cho ta hiểu rõ rằng:
Cơ truyền đạo khác hẳn với cơ bút khác.
Trước khi đạo khai thì nhiều người lập đàn cầu tiên phật đặng xin thuốc chữa bịnh hay là hỏi việc gia đình thế sự. Mỗi lần lập đàn thì trầm hương nghi ngút, bông hoa rực rỡ, ăn chay nằm đất mấy ngày rồi khẩn cầu tiên phật. Tiên phật thấy lòng thành cầu nguyện mới từ bi giáng dạy, cho thấy huyền diệu và mầu nhiệm thiêng liêng. Ấy là cơ thế.

Còn khai đạo thì có thiên cơ tiền định, mấy vị phò loan thì có định trong thiên thơ.
Chẳng vậy sao nhiều người trường trai giới sát chơn tu mà Thầy không biểu phò loan cho Thầy truyền đạo, còn mấy vị phò loan của Hiệp Thiên Đài, Thầy không phú việc chánh trị của đạo ?

Nếu ai cũng phò loan truyền đạo được thì chữ thiên cơ không giá trị, nội hoàn cầu cũng phò loan lập ĐĐTKPĐ, như vậy mới ra sao há ?
Việc thế thì cũng có các tư kỳ phận, việc d0ạo lớn lao tối trọng tối quí thì cũng phải có riêng phần tiền định.
Tôi xin sao lục thánh ngôn về việc cơ bút ra đây cho chư Hiền hữu xem tường tận.

Lục rút thánh ngôn của Đức Lý hồi ban sơ:
Ngày Thứ bảy, 15-1-1927.
THÁI BẠCH

Hỷ chư đạo hữu, chư đạo muội, chư chúng sanh.
Chư đạo hữu bình thân…………………………
Đạo của Thầy ngày nay và từ đây sắp tới, nhơn loại hoan nghinh lắm đó. Lão rất vui mừng thấy hạnh của chư hiền hữu, công quả trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy lắm nỗi nặng nề.

Mười phần nhơn sanh, chư hiền hữu phải độ tới chín. Than ôi ! Hễ Đạo càng thạnh thì nghịch lại càng nhiều. Trên chánh phủ hằng để mắt nghi nan, dưới bọn ma hồn quỉ xác theo kích bác. Chư Hiền hữu phải chịu và sẽ phải chịu hổ nhục trăm điều. Nếu Lão có lời căn dặn là thấy sự cực nhọc của chư hiền hữu muốn toan cất bớt, nên phải dặn lấy sự cẩn thận nhịn nhục dè dặt mà hành đạo. Chánh phủ hằng dòm hành chư Hiền hữu.

Nghĩ nỗi buồn cười ……………………
Trị nhi vô giáo, nay đặng hữu trị hữu giáo mằ lại nghi nan. Ấy cũng một lũ phàm.
Lão khen nhiều người chẳng kể quyền cao tước trọng, phế trọn sự đời mằ hành đạo, nhứt là người đương thời dưới quyền chánh phủ, như hai cột đạo là Tương và Trang, kế nữa người đại công là Hóa. Chẳng cần phải nói đến mấy em nhỏ chịu cực nhọc cùng Đạo trăm điều. Khen thay ! Dường ấy mà chẳng một lời than thở.

Lão mới để dạ lo lường, nếu Lão nói rõ ra, e cho chư hiền hữu phải kinh khủng sợ sệt, nên dặn rằng: Đạo vốn nơi cơ bút mà phát thành. Vậy Lão khuyên cẩn thận cho lắm.
Đời với đạo chẳng đồng, tuy biết có đời mới có đạo, có đạo mới nên đời, nhưng đạo đời hằng nghịch lẫn.

Vậy Lão tỉ thí như trong bọn chư hiền hữu muốn phản loạn, nắm cơ viết đùa ra hay là quỉ nhập, viết ra rằng: Thầy xúi chư hiền hữu làm giặc, thì đạo phải thế nào ?
Thượng Trung Nhựt trả lời: Như có thánh ngôn bất chánh thì chư đệ tử không tuân theo.
Cười... Nếu nói dễ dàng dường ấy còn luận đến làm gì.

Như Lão chẳng vì lời Thầy dặn bảo thì đã cấm cơ bút rồi. Vậy đạo chưa thành, Lão kỳ tới cuối tháng 6 năm tới thì cấm tuyệt cơ bút phổ độ, sắp đặt lại: Dạy đạo thì có Cư, Tắc phò loan, đại đàn thì có Đức, Hậu, Mỹ Ngọc và Sang phò, còn kỳ dư dùng khai tiểu đàn mà thôi, nghe à !

Chẳng phải vậy gọi chắc, chánh trị muốn thế nào thì đặng thế ấy, nhứt là quốc gia chư hiền hữu còn dưới quyền chánh phủ Lang Sa cai trị. Lão tưởng chẳng nói thì chư hiền hữu cũng đủ hiểu, mấy đứa nhỏ là mấy tướng soái của Thầy lập thành đạo. Vậy cứ tuân y theo lời Lão dặn, nếu muốn chắc nữa thì cứ đem chúng nó cả thảy là 15 đứa với Mỹ Ngọc mà tuyên bố cho cả quốc dân biết thì đủ, nhưng lão dặn thêm một điều nầy là còn cả thảy mấy em chẳng phải phò loan đặng huyền diệu hết, như kể ra thì có 3 cặp mà thôi, còn các cặp khác phải cẩn thận cho lắm, vì thần chúng nó không đủ trọn mà cầm tánh mạng nhơn sanh, hay là ngăn ngừa tà ma quỉ mỵ xung nhập, nghe à ! Thăng.
(Lục rút y bổn chánh)

Còn nhiều thánh ngôn dạy về cơ bút, tôi không thế đem ra đây cho choán giấy. Luôn dịp, tôi cũng lục rút ra đây những lời của Đức Allan Kardec là ông tổ của việc cơ bút bên Thái Tây than trong cuốn sách “Le livre des Médiums” của Ngài, những điều rất khó khăn trong việc cơ bút. Người Âu Mỹ học việc chi cũng tầm cho thấu đáo tôn chỉ chớ không phải biết niệm chú vẽ bùa mà đốt rồi dám xưng là pháp sư.
Tại sao nguồn Đạo phát tại Tây Ninh ?
Kinh sách xưa nay là thánh ngôn từ ban sơ cũng chỉ rõ, Đạo phát ư Đông.

Như mấy câu sau nầy chỉ rõ cớ ấy:
“Ánh thái dương giọi trước phương Đông.” (De V Orient, F Occident voit poindre r aurore).
Hồi ban sơ, Bàn cổ sơ khai, đạo Phật, Tiên, Thánh khai cũng tại miền Á Đông phát ra trước. Chừng đạo truyền qua Thái Tây, cũng phát ra tại Asie-Mineure (Tiểu Á) là hướng Đông của Âu Châu, Tây Ninh là Đông phương của Nam Kỳ. Bởi cớ ấy và thiên cơ tiền định, nên đạo khai tại Tây Ninh y như mấy lời thánh ngôn sau đây:

“Ngày mùng 1-8 Bính Dần (7-9-1926).

CAO ĐÀI
Thầy, các con.
Trung, con nghe,
Con biết rằng Tòa Thánh, Thầy phải lập tại Tây Ninh, Thầy đã cho con hiểu là thánh địa nữa. Nguồn đạo Thầy do nơi đó mà xuất thấu thế gian……

Hồi năm Bính Dần ngày ngươn đán, có đàn trong chùa phật tại làng Long Hòa (Rạch Kiến) Chợ Lớn.
Thượng Tương Thanh, Thượng Hóa Thanh và Thượng Hoa Thanh chứng đàn. Sau khi Tam giáo chủ giáng cơ, Thần Hoàng làng Long Hòa giáng cho bài thơ nầy:
Thần tải lộ an độ chúng sanh
Hoàng Thiên nhứt nhãn đáo thiền thanh.
Long Thành chí hiệp tùng chơn đạo,
Hòa nhã hiệp đồng thị thái khanh.
(Long Thành: làng Long Thành là chỗ lập Tòa Thánh bây giờ)
Tự nơi trời định, nào có ai dám ôm giành đạo ca củm cho mình đặng.”

Trong mấy năm ban đầu, sau khi khai đạo tại Gò Kén, phận tôi phải đông xông tây đục, đi nâng đỡ đức tin của chư đạo hữu các nơi, Hộ Pháp phải đi mở đạo tại Kim Biên, để cho Thượng Phẩm điều đình Tòa Thánh với anh Thái Bính Thanh giúp việc, còn anh Ngọc Lịch Nguyệt thì điều đình Vĩnh Nguyên Tự và lên xuống Tòa Thánh.

Trong lúc ấy, tại Tòa Thánh, hồn Đạo thạnh hành, chùa rách phật vàng, lều tranh xịch xạc, giạu le thưa thớt, Thánh địa hoang vu rừng rậm mà trọn câu phổ độ, người tới Tòa Thánh tầm đạo dư muôn.

Tuồng đời ấm lạnh biết bao ! Trong đạo tranh giành lẫn nhau, người hiền phải lui chơn thối bước. Hơn một năm kế đó, hồn đạo đìu hiu, Tòa Thánh thưa người lui tới, thuyền Bát Nhã gần xa bến.
Trống Lôi Âm tiếng giục cơn sầu !
Chuông Bạch Ngọc hơi reo đoạn thảm !
Đấng Chí Tôn dạy tôi phải về chưởng quản Tòa Thánh, và ngày 15–4–1928 (âl 26–2 nhuần Mậu Thìn), trước khi tôi về Tòa Thánh, thiên phong ở Tòa Thánh có cầu Đức Lý Giáo Tông chỉ dạy công việc, vì nền đạo truân chuyên

2 . Ngưng chức Phối Sư Thái Ca Thanh (ngày 24-7 Nhâm Thân 1932)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thất niên)

NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
kiêm chủ trưởng chức sắc nam phái.

Chiếu theo Đạo Nghị Định số 4 lập ra ngày mùng 3–10 Canh Ngọ (dl 22–11–1930), điều thứ 2, thứ 5 và thứ 7, định quyền hành của Ngọc Chánh Phối Sư;
Nghĩ vì khi nhập môn cầu Đạo thì Phối Sư Thái Ca Thanh có minh thệ như sau đây: “Biết một đạo Cao Đài Thượng Đế mà thôi, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài…….”

Nghĩ vì ngày mùng 1–9 Mậu Thìn (dl 13–10–1928), nơi Ngọc đàn lập tại Thánh Thất Thủ Đức cho thiên phong hồng thệ thì Thái Ca Thanh có lập thệ rằng: “Nhứt nhứt do một lịnh Thầy, chẳng dám chuyên quyền mà chia phe lập phái...”
Nghĩ vì tôn chỉ của đạo buộc cả môn đệ của Chí Tôn phải hòa thuận nhau, phải tuân theo trật tự, lớn nhỏ phải phân minh, cấm lập phe phân phái,

Nghĩ vì Phối Sư Thái Ca Thanh đã không tuân lịnh Tòa Thánh mà lại còn lập ra một phái, trước kêu là Đại Đạo Tam Kỳ Minh Lý Hội, sau sửa lại “Minh Chơn Lý, Hiệp Ngũ Chi”, dùng cơ bút không phải nơi Hiệp Thiên Đài mà mê hoặc nhơn sanh, làm cho chức sắc và tín đồ xa chơn truyền của Đại Đạo, rồi nghịch với Tòa Thánh là nguồn đạo của Đức Chí Tôn, ấy là một bằng cớ phản Đạo.
Home               1 ]   [ 2 ]   [ 3 ]   [ 4 ]   [ 5 ]   [  6  ]  [ 7 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét