LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI VỀ GIÁO LÝ (1925 - 1955) - 5 / 7 ( HT. TRẦN VĂN RẠNG )


Điều thứ mười sáu: Thượng Hội.
Bữa lễ khai Hội thường lệ thì ba nam Chánh Phối Sư đến rước Giáo Tông và Hộ Pháp, Nữ Chánh Phối sư thì đi rước Nữ Đầu Sư.
Cả chức sắc HTĐ và CTĐ nam nữ hiện diện tại Tòa Thánh mà không có phận sự cần yếu, mặc thiên phục đến trước điện hầu chực tiếp rước.
Khi Giáo Tông và Hộ Pháp đến thì Lễ Viện cho lịnh đánh 6 hồi trống và chuông (đánh bát nhã, mỗi hồi 12 tiếng), dứt hồi chuông trống thì chư Nghị viên vào Đại Điện làm lễ bái Đức Chí Tôn, nhạc đánh bản Nhạc Tấu Quân Thiên. Chừng nhạc dứt, cả Nghị viên tọa vị mới khai Hội.

Bốn Chánh Phối Sư tạm xuất ngoại, chờ có lịnh mời mới đến. Cả chức sắc khác vào Thiên Phong Đường chờ, chừng bãi Hội đến hầu lễ đưa.
Hội nhóm tại Bửu Điện, nơi Đại Điện nổi hương đăng, cửa màn mở ra, 6 Lễ Sanh ba phái đứng hầu trong Bát Quái Đài, 2 Nữ Lễ Sanh hầu bàn Phật Quan Âm, 2 Lễ Sanh phái Ngọc hầu bàn Quan Thánh. Mỗi giờ đồng hồ phải thay đổi.
Ty tuần phòng cảnh Sát và Bảo Thể Quân có một Giáo Sư phái Ngọc cai quản đứng trước cửa hầu giữ chỉnh tề cho đến bãi Hội. Mỗi 2 giờ thì đổi phiên. Chức sắc ấy mặc thiên phục và buộc dây sắc lịnh tam sắc đạo của Hiệp Thiên Đài ban cho trong lúc hội nhóm, khi Hội giải tán, đem nạp lại cho HTĐ.
Lúc bãi Hội, chư Nghị viên ra về, Lễ Viện cũng cho lịnh đánh 6 hồi chuông trống, là lễ đưa. Bốn Chánh Phối Sư đưa chư Nghị viên đến dinh mỗi vị.
Điều thứ mười bảy:
Thượng Hội thường xuyên thì nhóm tại Giáo Tông Đường, không có mấy lễ rước đưa như hội thường lệ.
Ty Cảnh Sát Tuần Phòng cũng canh giữ nhưng mặc y phục thường và không buộc dây sắc lịnh. Lễ Viện không đổ chuông trống và đánh nhạc.
Điều thứ mười tám: Nếu ngày sau có điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích thì truất bỏ hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 16–11 Giáp Tuất (dl 22–12–1934)
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)

*   *   *
HỘI NHƠN SANH
NỘI LUẬT
Chương thứ I: Về Đại Hội tại Tòa Thánh

Điều thứ nhứt: Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ tư, đỉều thứ bảy của Đức Lý Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp thì Thượng Chánh Phối Sư là Nghị Trưởng của Hội Nhơn Sanh.
Hội Nhơn Sanh sắp đặt như vầy:
1 . Thượng Chánh Phối Sư:. . . . . . . . . . . . . . . . Nghị Trưởng
2 . Nữ Chánh Phối Sư:. . . . . . . . . . . . . . . . . Phó Nghị Trưởng
3 . Lễ Sanh, Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự, Phái viên: . . Nghị viên
4 . Một Nghị viên nam và 1 Nghị viên nữ:. . . . . . .Từ Hàn
5 . Hai Nghị viên nam và 2 Nghị viên nữ:. . . . . . Phó Từ Hàn
Điều thứ hai: Thái và Ngọc Chánh Phối Sư và các Quản Lý Tòa Nội Chánh (ngày nay gọi là Thượng Thống các Viện) đều đến dự Hội hoặc trả lời những điều nào Nghị viên không rõ mà xin bày tỏ, hoặc minh triết những vấn đề Nghị viên hạch hỏi. Nếu một vấn đề nào bị công kích thì Chánh Phối Sư hay là Quản Lý thuộc về vấn đề ấy phải trả lời hay bày tỏ cho khỏi sanh điều khó khăn cho việc bàn cãi.
Điều thứ ba: Một Chức sắc HTĐ đến chứng kiến và bảo thủ luật lệ không cho Hội phạm đến.
Điều thứ tư: Hội Nhơn Sanh để bàn tính những việc:
1 . Giáo hóa nhơn sanh.
2 . Lo liệu phương hay cho Đạo với Đời khỏi điều phản khắc, và nâng cao tinh thần trí thức của nhơn sanh.
3 . Phổ độ nhơn sanh vào cửa Đạo, dìu dắt tín đồ cho khỏi trái bước và trọn vâng các luật lệ của Đạo.
4 . Xin sửa cải thêm bớt hay hủy bỏ những luật lệ của Đạo không phủ hạp với trình độ trí thức, tình thần của nhơn sanh.
5 . Lo cho nền Đạo được trong ấm ngoài êm và đủ phương liệu đặng phổ thông nền chơn giáo.
6 . Xem xét và công nhận phương diện chánh trị của Đạo, quan sát sổ thâu xuất tài sản và nghị số phỏng định năm tới.
Điều thứ năm: Mỗi năm, Hội Nhơn Sanh nhóm nhằm ngày rằm tháng giêng, những Hội viên và Phái viên phải có mặt tại Tòa Thánh ngày 13 tháng đó và phải ở lại cho đến ngày bãi hội. Khi đến Tòa Thánh thì lại Nội Chánh (Lại Viện) ghi giấy thông hành, chừng về cũng trở lại Nội Chánh ghi giấy thông hành. Nếu vô cớ đến trễ thì không đặng dự nhóm.
Điều thứ sáu: Mỗi năm, mùng 1 tháng chạp thì Nghị Trưởng gởi chương trình những vấn đề sẽ đem ra bàn giải cho các Đầu tỉnh đạo lúc Hội Nhơn Sanh nơi tỉnh đạo nhóm ngày rằm tháng nầy, đem ra bàn cãi xem xét trước cho kỹ lưỡng.
Điều thứ bảy: Hội viên và Phái viên nhớ mỗi năm đến lệ về nhóm chớ không có thơ mời, cũng nhớ đem giấy chứng rằng mình là Nghị viên hay Phái viên đặng nhập Hội.
Điều thứ tám: Nghị viên muốn xin canh cải, thêm bớt, hủy bỏ điều chi trong Luật Đạo hay là điều chi khác nữa thì phải gởi tờ xin 20 ngày trước bữa hội nhóm, cũng phải chỉ rõ mình xin sửa cải, thêm bớt hay là hủy bỏ việc gì.
Điều thứ chín: Khi nhóm hội, cả Nghị viên phải tuân y thể lệ của bổn “Luật Lệ chung các Hội”. Nếu vô cớ mà không đến nhóm hội, thì phải bị mất quyền Hội viên hay là Phái viên. Nếu là Hội viên thì mất quyền ấy 3 năm, còn Phái viên thì trong 3 năm không quyền ra ứng cử. Cả Nghị viên phải mặc thiên phục hay là đạo phục tùy theo phẩm mình.
Điều thứ mười: Nội trong 20 ngày sau khi hội nhóm thì Từ Hàn phải lập vi bằng cho rồi, trong đó có Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam nữ và một Chức sắc HTĐ ký tên vào. Vi bằng nầy phải lập 5 bổn: 1 bổn gởi cho Thượng Hội, 2 bổn gởi cho Hội Thánh, 1 bổn cho HTĐ, và giữ lưu chiếu 1 bổn. Khi Hội Thánh và Thượng Hội gởi lại Thượng Chánh Phối Sư 3 bổn đã công nhận hay là bác bỏ khoản nào thì Thượng Chánh Phối Sư giữ lưu chiếu 1 bổn và gởi ngay cho Nữ Chánh Phối Sư và Ngọc Chánh Phối Sư mỗi vị 1 bổn đặng lo liệu cách thi hành.
Điều thứ mười một: Trước bữa Đại Hội mà nam nữ phải nhóm chung nhau, Thượng Chánh Phối sư hoặc Nữ Chánh Phối Sư đặng có điều chi phải hỏi ý kiến riêng Hội viên phái của mình thì được quyền mời nhóm nam theo nam, nữ theo nữ.
Kỳ nhóm nầy, Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập vi bằng 2 bổn, Nghị Trưởng và Từ Hàn ký tên, để lưu chiếu một bổn, còn một bổn, như Chánh Phối Sư Nam thì gởi cho Chánh Phối Sư Nữ, còn Chánh Phối Sư Nữ thì gởi cho Chánh Phối Sư Nam, hầu hiểu rõ những điều của mỗi phái đã bàn tính.
Điều thứ mười hai: Nhóm ngoại lệ.
Khi có việc chi thật trọng hệ cần yếu thì được phép nhóm ngoại lệ Đại Hội tại Tòa Thánh, một năm một kỳ mà thôi. Thiệp mời nhóm gởi trước 15 ngày, hoặc gởi điện tín thì 3 ngày trước.
Chương thứ II: Về sự chọn cử Phái Viên
Điều thứ mười ba: Lễ Sanh, Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự đều có quyền đến dự nhóm Hội Nhơn Sanh, nhưng bữa ấy mà cả thảy đều đến Tòa Thánh thì nơi làng nơi quận không còn Chức sắc, chức việc, phận sự phải bỏ bê, e xảy ra điều khó khăn. Vậy định như sau đây rất tiện:
Sau khi nhóm tại tỉnh, đặng bàn cãi quyết định và lập vi bằng các vấn đề trong chương trình của Thượng Chánh Phối Sư gởi đến thì mỗi phẩm chọn cử một Hội viên đặng thay mặt cho tỉnh mình hầu đến Tòa Thánh mà dự Đại Hội.
Còn Phái viên thì cũng một vị như mấy phẩm đã kể trên đây. Việc chọn cử nầy phải tuân y Đạo Nghị Định thứ 20 của Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp. Tại tỉnh thành Tây Ninh là tỉnh thánh địa, cũng tùy một luật ấy.
Nghị viên Hội Nhơn Sanh lãnh trách nhậm một hạn kỳ là 3 năm. Phái viên đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh chụp 3 tấm hình giao Đầu Tỉnh Đạo, gởi cho Nội Chánh (Lại Viện) đặng gắn vào giấy chứng và sổ bộ, cùng vô khuôn treo tại nhà Hội.
Cả Lễ Sanh, chức việc và Phái viên không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thong thả đến Tòa Thánh nhập Hội, nhưng được dự thính mà thôi. Nơi Hội có sắp đặt chỗ ngồi cho chư vị được dự thính.
Muốn tỏ ý chi cho Hội thì do nơi chư Nghị viên tỉnh đạo của mình mà thôi.
Chương thứ III: Hội Ngánh thường xuyên
Điều thứ mười bốn: Lập một Hội Ngánh thường xuyên đặng bàn tính các điều thường, ngoại chương trình, không việc trọng hệ cần yếu xảy ra thình lình, nhứt là việc Thượng Chánh Phối Sư hoặc chức sắc nào mà Hội Thánh cho quyền thông công cùng chánh phủ. Thượng và Nữ Chánh Phối Sư cũng làm Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn Chánh Phó nam nữ cũng lãnh y phận sự, Nghị viên thì sắp đặt y như sau đây:
Cũng có mặt một vài chức sắc Nội Chánh tùy theo việc bàn tính và một chức sắc Hiệp Thiên Đài.
Một năm nhóm 3 kỳ (4 tháng 1 kỳ):
- Nhóm kỳ nhứt: mồng 6 tháng 4
- Nhóm kỳ nhì: ngày 13 tháng 8
- Nhóm kỳ ba: ngày 13 tháng 11
Phải đến trước bữa Hội 1 ngày.

Khi có việc trọng hệ gấp rút thì Nghị Trưởng được quyền gởi điện tín mời nhóm, nhưng mà một năm không quá 2 lần. Điện tín mời nhóm gởi 3 ngày trước bữa nhóm.
Nội trong 10 ngày sau khi nhóm hội thì lập vi bằng và làm y như nhóm Đại Hội.
Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam nữ với một chức sắc HTĐ ký tên tờ vi bằng. Lúc Đại Hội Nhơn Sanh thường lệ, trước khi giải tán, thì chư Nghị Viên các tỉnh Nam Kỳ (nam, nữ riêng nhau) phải phái mỗi tỉnh một vị đặng thay mặt nơi Hội Ngánh thường xuyên cho tỉnh của mình.

Toàn các nước lân bang cũng đồng quyền y như phép công cử nơi Việt quốc mà sắp đặt những Phái viên nhập về Đại Hội Nhơn Sanh theo luật lệ sở định nầy. Nghị viên Nam và Nữ phải đồng một số. Tòa Thánh sẽ lập nhà khách để cho chư Phái viên ngoại bang đến cư ngụ, nhứt là sẽ cấp đất Nội Ô Tòa Thánh đặng chia cho mỗi tỉnh đạo cất nhà cửa cùng cơ sở vĩnh cửu đặng người thay mặt mình ở thường xuyên gần Tòa Thánh.
Điều thứ mười lăm: Ban ủy viên xem xét tài chánh.
Hội Ngánh thường xuyên chọn 3 Nghị viên nam và 3 Nghị viên Nữ, đặng mỗi kỳ nhóm lệ thường xuyên, 3 ngày trước bữa nhóm, xem xét sổ sách của Hộ Viện, rồi lập tờ phúc đem ra trình cho Hội.
Mỗi kỳ nhóm lệ thì Nghị Viên lãnh làm kiểm soát phải đến Tòa Thánh trước 3 ngày đặng có thì giờ xem xét sổ sách.
Điều thứ mười sáu: Nếu ngày sau có điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích thì truất bỏ hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 16 tháng 11 năm Giáp Tuất
(Le 22 Decembre 1934)
Hộ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)

*   *   *

HỘI THÁNH
NỘI LUẬT
Chương thứ nhứt: Đại Hội Hội Thánh

Điều thứ nhứt: Chiếu theo Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định thứ tư, điều thứ 5 và thứ 6 của Đức Lý Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp thì các phẩm vị chức sắc kể sau đây đặng vào Hội Thánh:
1 . Thái Chánh Phối Sư:. . . . . . . . . . . . . . . . . Nghị Trưởng
2 . Nữ Chánh Phối Sư:. . . . . . . . . . . . . . . .Phó Nghị Trưởng
3 . Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu nam nữ:. . . . . . .Nghị viên
4 . Một Nghị viên nam và một Nghị viên nữ:. . . .Từ Hàn
5 . Hai Nghị viên nam và hai Nghị viên nữ:. . . . Phó Từ Hàn
6 . Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư với Chánh, Phó Quản Lý Cửu Viện thay mặt Nội chánh đứng minh triết các vấn đề chư Nghị viên không rõ đem ra hạch hỏi, được quyền bàn cãi và bỏ thăm.
7 . Thập nhị Thời Quân HTĐ phải có mặt tại ba Hội Nhóm đặng lo bảo thủ đạo luật không cho Hội phạm đến.
Nếu một vấn đề nào, sau khi bàn cãi rồi mà Cửu Trùng Đài bỏ thăm thuận, còn Hiệp Thiên Đài thì bỏ thăm nghịch hoặc là Cửu Trùng Đài bỏ thăm nghịch mà Hiệp Thiên Đài bỏ thăm thuận thì vân đề ây phải bàn tính lại mà bỏ thăm lại. Nếu hai phen bàn cãi mà vẫn cũng còn phản khắc nhau thì Chánh Chủ Hội tuyên bố liền rằng vấn đề ấy sẽ dâng lên Thượng Hội định đoạt.
Điều thứ hai: Chức sắc hàm phong được dự thính mà thôi. Có chỗ sắp đặt riêng cho những vị nầy ngồi.
Điều thứ ba: Hội Thánh bàn định mấy việc sau đây:
1 . Các vấn đề của Hội Nhơn Sanh đã bàn định hoặc của Thượng Hội gởi xuống đặng lập phương ban hành
2 . Lo về sự phổ độ, việc hành đạo tha phương, tài liệu, tài chánh của Đạo và của nền chánh trị của đạo
3 . Bàn cãi và công nhận số phỏng định thâu xuất năm tới.
4 . Xin sửa cải thêm bớt hay là hủy bỏ những luật lệ không phù hạp với sự tấn hóa về tâm ttí nhơn sanh.
5 . Các việc có ảnh hưởng về nền Đạo.
Điều thứ tư: Mỗi năm hội nhóm thường lệ một kỳ, ngày Rằm tháng 7. Nội trong ngày 12 tháng 7, Nghị viên phải có mặt tại Tòa Thánh và phải ở lại cho đến ngày mãn hội. Khi đến Tòa Thánh thì lại Nội Chánh (Lại Viện) ghi giấy thông hành, chừng về cũng trở lại Nội Chánh ghi giấy thông hành. Nếu vô cớ mà đến trễ thì không đặng dự nhóm.
Điều thứ năm: Nghị Trưởng lập chương trình các việc sẽ đem bàn tính, rồi nội ngày rằm tháng 6, gởi cho cả Ttiên phong mỗi vị một bản.
Điều thứ sáu: Nghị viên mỗi năm đến lệ về nhóm, chớ không có thơ mời riêng.
Điều thứ bảy: Nghị viên muốn xin canh cải thêm bớt, hủy bỏ điều chi trong luật đạo hay là điều chi khác nữa, thì phải gởi tờ xin trước ngày mồng 1 tháng 6 đặng Hội Thánh xem xét và Nghị Trưởng ghi vào chương trình.
Như có điều chi muốn hạch hỏi hay là công kích tại giữa Hội, thì trong tờ xin chỉ rõ ràng về khoản chi, trước ngày Rằm tháng 6 đặng Hội Thánh đủ thời giờ mà minh xác.
Trong mấy ngày hội nhóm, Nghị viên được quyền xin hạch hỏi hoặc công kích Nội Chánh. Nội Chánh có quyền trả lời liền lúc đó, hầu làm cho vui lòng Nghị viên. Thảng như nhằm việc trọng hệ phải quan sát lại, thì Nghị Trưởng được quyền đình lại đến kỳ hội nhóm thường xuyên đem vấn đề ấy ra mà minh triết, hoặc gởi thơ cùng châu tri trả lời các điều hỏi.
Điều thứ tám: Khi nhóm hội, chư Nghị viên tuân y luật lệ chung các Hội. Buổi nhóm, nếu vô cớ mà không đến nhóm hội thì phải bị đệ ra Tam Giáo Tòa.
Tư cách Nghị viên: Cả Nghị viên phải mặc thiên phục cho trang hoàng giữ vẻ nghiêm trang.
Điều thứ chín: Nội trong 20 ngày sau khi nhóm, thì Từ Hàn lập vi bằng (5 bổn) (Nghị Trưởng Chánh Phó và Từ Hàn nam nữ với một Chức sắc Hiệp Thiên Đài ký tên) giữ lưu chiếu 1 bổn, đệ lên Thượng Hội 3 bổn, và Hiệp Thiên Đài 1 bổn. Chừng Thượng Hội gởi trả 3 bổn lại, Nghị Trưởng giữ lưu chiếu 1 bổn, và giao cho Ngọc Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư mỗi vị 1 bổn đặng ban hành.
Điều thứ mười: Nhóm ngoại lệ.
Khi có việc chi thật trọng hệ cần yếu thì được phép nhóm ngoại lệ, một năm một kỳ mà thôi. Thiệp mời nhóm gởi trước 15 ngày hoặc gởi điện tín thì 3 ngày trước.
Điều thứ mười một: Trước bữa Đại Hội mà nam nữ phải nhóm chung nhau, Thái Chánh Phối Sư hoặc Nữ Chánh Phối Sư có điều chi phải hỏi ý kiến riêng chức sắc phái của mình thì được quyền mời nhóm riêng. (Nam theo nam, nữ theo nữ).
Kỳ nhóm nầy, Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập vi bằng 2 bổn, Nghị Trưởng và Từ Hàn ký tên để lưu chiếu 1 bổn, còn 1 bổn thì như Chánh Phối Sư nam gởi cho Chánh Phối Sư nữ, còn Chánh Phối Sư nữ thì gởi cho Chánh Phối sư nam, hầu hiểu rõ những điều mà mỗi phái đã bàn tính.
Chương thứ hai: Hội Ngánh thường xuyên
Điều thứ mười hai: Lập một Hội Ngánh thường xuyên đặng bàn tính các việc thường, ngoại chương trình hoặc điều trọng hệ cần yếu xảy ra thình lình, nhứt là việc Thượng Chánh Phối Sư hay là chức sắc nào của Hội Thánh được quyền giao thông với chánh phủ. Mỗi năm nhóm 3 kỳ. (4 tháng 1 kỳ)
Kỳ nhứt: ngày 13 tháng 2
Kỳ nhì: ngày 13 tháng 6
Kỳ ba: ngày 13 tháng 10

Nội ngày 12 phải có mặt tại Tòa Thánh. Nội trong 10 ngày sau khi nhóm thì lập vi bằng và làm y như nhóm Đại Hội. (Vi bằng cũng có 5 vị kể phẩm tước trong điều thứ 9 ký tên vào).
Khi có việc trọng hệ cần kíp thì Nghị Trưởng được quyền gởi điện tín mời nhóm, nhưng mà một năm không quá hai kỳ. Điện tín mời gởi 3 ngày trước bữa nhóm. Nghị viên, nếu vô cớ không đi nhóm thì bị đệ ra Tam Giáo Tòa.
Hội viên của Ban thường xuyên phải lập như sau nầy:
Thái Chánh Phối Sư cũng làm Nghị Trưởng
Nữ Chánh Phối Sư làm Phó Nghị Trưởng
Từ Hàn nam nữ lãnh y phận sự

Số Nghị viên định như sau đây:
a . Thượng và Ngọc CPS và chư Quản Lý Nội Chánh, như Quản Lý Viện nào vắng mặt thì Phó Quản Lý thay thế.
b . Chín Nghị viên chọn trong thiên phong các tỉnh chia ra 9 quận như sau đây:
1 . Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An
2 . Gia Định, Tây Ninh
3 . Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một
4. Mỹ Tho, Gò Công
5. Bến Tre, Trà Vinh
6 . Sa Đéc, Vĩnh Long
7 . Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên
8 . Cần Thơ, Rạch Giá
9 . Bạc Liêu, Sóc Trăng
(Mỗi Quận cũng cử thêm 1 Nghị viên)

Mỗi nước lân bang như Cao Miên, Ai Lao, được cử từ 1 đến 3 Nghị viên tùy ý (cũng cử 1 hoặc 3 chánh và 1 hoặc 3 phụ).
Nghị viên quận ở Nam Kỳ lãnh trách nhiệm 1 năm mà thôi. Còn Nghị viên các nước lân bang được lãnh 1 năm hoặc 3 năm tùy ý. Nghị viên nam và nữ phải đồng một số. Tòa Thánh sẽ lập khách đình để cho chư vị ấy đến cư ngụ.
Điều thứ mười ba: Ban ủy viên xem xét tài chánh. Hội ngánh thường xuyên chọn 2 Nghị viên nam và 2 Nghị viên nữ ở các tỉnh Nam Kỳ hoặc các nước lân bang đặng mỗi kỳ 4 tháng, 3 ngày trước khi nhóm hội thường xuyên, xem xét sổ sách bút toán của Hộ Viện một lần rồi lập tờ phúc đem ra trình khi nhóm hội.
Mỗi kỳ nhóm Hội ngánh thì Nghị viên lãnh làm kiểm soát, phải đến Tòa Thánh trước 3 ngày đặng có thì giờ xem xét sổ sách.
Điều thứ mười bốn: Nếu ngày sau còn điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích cho Hội Thánh thì truất bỏ hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 16 tháng 11 năm Giáp Tuất
(Le 22 Decembre 1934)
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)


Đức Hộ Pháp thiền định, làm việc và sinh hoạt hằng ngày.



1 . Ông Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông của Ban Chỉnh Đạo (ngày 8-1 Ất Hợi 1935)
Chi phái Bến Tre lập đại hội Vạn Linh kéo dài 4 ngày, từ ngày 8-1 Ất Hợi đến ngày 11-1 Ất Hợi (dl từ 11 đến 14-2-1935)  dưới quyền chủ tọa của ông Lê Bá Trang  (Thượng Chưởng Pháp Bến Tre để biểu quyết các vấn đề sau đây:
1 . Chọn cử người cầm giềng mối đạo, thay thế Đức Quyền Giáo Tông  Lê Văn Trung đã quy vị.
2 . Định thái độ đối với bức thư của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đòi các giấy tờ đất đai nơi thánh địa do ông Nguyễn Ngọc Tương đứng tên trong bộ trước đây.
3 . Việc trở về làm việc nơi Tòa Thánh Tây Ninh.
Về việc chọn cử người cầm giềng mối đạo thay thế Đức Quyền Giáo Tông. Sau 3 ngày bỏ phiếu bầu cử chức Giáo Tông, khui thùng phiếu, kết quả đếm được:
- Ông Lê Bá Trang được 27 phiếu
- Ông Nguyễn Ngọc Tương được 5326 phiếu
- Về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo được 5225 phiếu.
(Theo tài liệu của Ban Chỉnh Đạo Bến Tre)

Như vậy ông Nguyễn Ngọc Tương đắc cử Giáo Tông Bến Tre và ông nhận sự đắc cử nầy trong ngày 11-2 Ất Hợi.
Đại hội Vạn linh tại thánh thất An Hội Bến Tre đều bỏ phiếu tán thành việc trở về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo, nên cử ra một phái đoàn đại diện rất đông đảo do ông Lê Bá Trang dẫn đầu đi lên Tây Ninh vào ngày 20-1 Ất Hợi để điều đình với Đức Hộ Pháp cho họ được làm lễ tấn phong ông Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông tại TTTN, sau đó tổ chức cửu viện và làm việc luôn tại Tòa Thánh.

Tin này được lan truyền nhanh chóng đến TTTN. Hội Thánh Tây Ninh liền triệu tập cuộc họp khẩn cấp để đưa ra các biện pháp đối phó cần thiết trong trường hợp chi phái Bến Tre gây bạo động chiếm đoạt Tòa Thánh giống như ngày 20 tháng giêng năm trước. Ba vị Chánh Phối Sư nam và vị nữ CPS liền khẩn cấp ra châu tri cho toàn đạo biết, kêu gọi các đạo hữu gấp rút về Tòa Thánh cho kịp xem tận mắt cuộc khuấy động nầy.

Phái đoàn do ông Lê Bá Trang hướng dẫn lên TTTN rất đông đảo, gồm khoảng 800 người vào ngày 16-1 Ất Hợi (dl 19-1-1935) trước ngày ấn định khi hội ở Bến Tre 4 ngày, để gây bất ngờ cho TTTN không chuẩn bị đề phòng kịp.

Nếu có lòng chơn thật hòa hợp hòa bình thì ông Trang chỉ cần lập phái đoàn gồm năm bảy người là đủ, cần gì phải 800 người để gây áp lực. Đến nơi, ông Trang nhìn thấy Tòa Thánh được giữ gìn nghiêm nhặt với một lực lượng bảo vệ trật tự hùng mạnh nơi các cửa ra vào nội ô. Phái đoàn của ông Trang mất hết khí thế tỏ ra e dè, ông Trang viết 2 cái thơ: 1 gởi Đức Hộ Pháp và 1 gởi ban phụ chánh, cho biết ông và nhơn sanh muốn vào Tòa Thánh để điều đình việc hòa hiệp chung cùng lo việc đạo như xưa (không dám nói việc làm lễ đăng điện tại TTTN cho ông Tương lên ngôi Giáo Tông).

2 . Thầy phong Dương Văn Giáo chức Bảo Cô Quân (ngày 10-1 Ất Hợi 1935)

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI giáo đạo nam phương
Thầy chào các con,
Thầy đã hết lòng cầu khẩn Lý Thái Bạch cho các con, song chánh trị đạo là quyền đặc biệt của Thầy đã ban cho nó, lại gặp buổi khó khăn, chinh nghiêng rối rắm nên nó phải giữ nghiêm luật pháp khó nỗi tuân vì.

Thầy đã sai Trung đến yết kiến nó đặng cầu rỗi cho toàn Hội Thánh, nhưng đặng hứa có một điều là thâu nạp cả sớ cầu phong, nhưng dặn buộc những kẻ ấy phải trọn hiến thân cho đạo. Hộ Pháp dẫn đến trước mặt nó từ người đặng cho nó định phân phẩm tước.

Tắc ! con nghe Thầy dặn: Con ngày nay đã cầm sanh mạng của đạo nơi tay, con lại đủ quyền năng đạo đức với nghị lực tinh thần, con phải có dạ yêu thương những người vô duyên bạc phước. Con cầm một cây phướn chiêu hồn đi đầu thánh thể của Thầy thì con phải nhớ đường trường sơn hải, nguy hiểm khó khăn của bước thiêng liêng là dường nào, rồi chậm chậm dừng chơn đợi đoàn con dại của Thầy với nghe. Con ráng lấy chút dạ từ bi chở che đứa bịnh, ấy là con làm ơn riêng cho Thầy đó.

Giáo ! Con đặng phong vào chánh vị Bảo Cô Quân. Thầy cậy con một điều là để hết dạ yêu thương, binh kẻ hèn, giúp người khổ. Con nắm lưỡi gươm huệ kiếm đặng dẹp lối chông gai cho đạo êm đềm bước tục. Ấy là trách nhậm khó khăn nhưng cũng là phương làm con nên vinh diệu.
Tắc ! Con phải tuyên bố lịnh Thầy cho nhơn sanh đều biết nghe. Con đã cầu xin, lần lượt Thầy sẽ ban chức phẩm…..
Sau khi cầu phong cho các vị công quả Phạm Môn vào hàng Lễ Sanh Giáo Thiện (chỉ có ông Trịnh Phong Cương được phẩm Giáo Hữu), Đức Hộ Pháp định bổ mỗi vị lãnh trách nhậm làm Đầu Họ Phước Thiện một tỉnh.
Như vậy, Đức Hộ Pháp chính thức khai mở Cơ Quan Phước Thiện kể từ ngày 15-2 Ất Hợi. Phạm Môn đã bị chánh quyền Pháp đóng cửa nên biến thành Cơ Quan Phước Thiện khắp cả các địa phương.
Đức Hộ Pháp chọn 20 vị Lễ Sanh Giáo Thiện để bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện 20 tỉnh trong Nam Kỳ, rồi dạy bắt thăm hễ ai trúng đâu thì đi đó.
Đức Hộ Pháp lại ban cho những vị được cầu phong kỳ nầy (15-2 Ất Hợi, dl 19-3-1935) mỗi vị một đạo hiệu.
Đức Hộ Pháp có thuyết đạo về Phạm Môn ngày 30-8 Quý Tỵ (dl 7-10-1953) như sau:
Phạm Môn là gì ? Do nơi đâu mà nảy sanh ra Phạm Môn ?
Phạm Môn là nhà phật, Phạm là phật, Môn là cửa, tức cửa phật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển I trang 119 về khoảng thi văn có một bài thi tứ tuyệt, chính mình Đức Chí Tôn giáng cho thi như vầy:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn
Vô lao bất phục hồi chơn mạng
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, nghĩa là gì ?

Nghĩa là Chí Tôn kêu cả con cái Đức Chí Tôn thức giấc cho mau hiến thân vào cửa Phạm.
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn nghĩa là khuyên chúng sanh ráng tu hành, tùng khuôn viên kỷ luật nhà phật thì ngày sau linh hồn đặng siêu thăng thoát hóa vào cõi thiêng liêng hằng sống.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng nghĩa là Đức Chí Tôn dạy con cái của Ngài, không có công lao khổ hạnh trong cửa đạo thì không thể nào trở về ngôi xưa vị cũ cho đặng.
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn nghĩa là nhằm lúc thế kỷ 20 nầy, thời kỳ Đức Chí Tôn rộng mở cửa phật độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu tỉnh ngộ, hủy cả hành vi thế sự đem thân vào cửa đạo chịu nâu sòng khổ hạnh cho đặng thì tự nhiên đắc đạo tại thế đó vậy.

Thưa chư chức sắc thiên phong nam nữ,
Bài thi nầy do chính Đức Chí Tôn giáng dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển hai mươi mấy năm trường, song ít ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền vi mầu nhiệm của đạo. Do bởi tấm màn bí mật nên khó nổi truy tầm, song cũng có lắm người vén được màn bí mật ấy, nên ngày nay nhơn sanh mới hưởng được giọt nước cam lồ của Đức Từ Bi chan rưới cho toàn nhơn loại.
Đời quá bạo tàn cho nên Đức Chí Tôn giáng trần mở đạo cho con cái của Ngài biết các ngôi thần thánh tiên phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu.
Trong thời ấy, Bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục linh xuống thế mở đạo, con mở bí pháp trước hay thể pháp trước ?
Bần đạo mới trả lời: - Xin mở bí pháp trước.

Chí Tôn nói: - Nếu con mở bí pháp trước thì phải khổ đa, đang lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở bí pháp trước cả sự bí mật huyền vi của đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở thế pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu vi hư hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn là mặt bí pháp còn thì đạo còn.

Bí pháp là Hiệp Thiên Đài giữ.
Thể pháp là Cửu Trùng Đài cầm quyền đặng giáo hóa.
Đang khi cơ quan Cửu Trùng Đài mở mang bành trướng  về mặt phổ thông chơn giáo thì bên Hiệp Thiên Đài, Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn mở Phạm Môn. Dùng tấm màn bí mật bao phủ khuất lấp cả hành vi, không kẻ phàm nào hiểu đặng.

Mười mấy năm khổ hạnh nâu sòng trong cửa Phạm ẩn dật, tạo nên cả cơ thể hữu tướng dường ấy. Hại thay ! Chúa quỉ biết rõ cơ mầu nhiệm nên mới tương liên cùng chánh phủ Pháp tìm hiểu yếu lý huyền vi của Phạm Môn, liền ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sanh ra trăm ngàn sở phước thiện.
Từ ngày Phước Thiện ra đời cho đến nay thì toàn cả nhơn sanh nam nữ vào cửa Phước Thiện nầy mà đoạt vị rất nhiều, đã hiển nhiên đi theo bài thi của Đại Từ Phụ mà Bần đạo vừa đọc trên đây.

Thưa chư chức sắc thiên phong nam nữ.
Cơ đạo của Chí Tôn giáng lập kỳ ba là cốt yếu vớt cửu nhị ức nguyên nhân phần nhiều còn hỗn loạn trong hàng tín đồ, đặng vạch lối tìm đàng mở ngõ hầu trở về ngôi Phạm.
Trường xuất thánh của đạo, Đại Từ Phụ đã mở rộng mà hại thay những người giữ cửa rất hẹp hòi lại quá ư nghiêm khắc, Phước Thiện Phạm Môn ra đời kêu réo mỏi hơi, song hàng nguyên nhân phần nhiều bị đóng cửa chẳng vào thì ngày nào độ tận chúng sanh mới trọn chữ phổ độ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn nói rằng: “Nếu con người ở dưới thế này muốn làm giàu thì phải làm ra nhiều của, còn thần thánh tiên phật muốn đắc đạo thì phải có công quả. Thầy đến thế nầy, Thầy lập một trường công đức. Vậy các con muốn đoạt thủ địa vị mình thì phải đến trường Thầy mà thi thố, chớ không đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.

4 . Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn lập các phẩm chức sắc cấp dưới Hiệp Thiên Đài (ngày 16-2 Ất Hợi 1935)

CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN hay VICTOR HUGO

Cười…Khi nãy có Thượng Phẩm và Quyền Giáo Tông nơi đây, song hai vị mới hộ tiếng nữ phái.
Cười…Quí hóa dữ ha !
Thưa Hộ Pháp, Bần đạo để lời chia vui cùng Ngài. Khi hôm qua, nhờ có thánh chỉ Chí Tôn nên mới đặng rộng đường xuất thánh.
Bần đạo có để lời trân trọng cầu thưởng cho học tu nên mới đặng cao phong phẩm giá. Cười…
Phẩm trật rắc rối khó nói rõ, nhưng chia ba:
Pháp, Đạo, Thế thì theo sự hiểu biết của Bần đạo như vầy:
Sĩ Tải là Secrétaire Archiviste
Lên phẩm Truyền Trạng là Greffier
Rồi lên phẩm Thừa Sử là Commissaire de la justice
Phẩm Giám Đạo là Inspecteur
Lên phẩm Cải Trạng là Avocat
Lên phẩm Chưởng Ấn là Chancelier
Lên phẩm ấy rồi tùy phái lên đại vị Hiệp Thiên Đài  nhưng phải biết rằng: Chưởng Ấn phải lên địa vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mà đắc công phổ thông đặng một nước nào rồi mới vào chánh vị.
Lợi và mấy vị kia là Sĩ Tải của HTĐ mà thôi.
* Thăng.


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Phạm Hộ Pháp
Số: 3                                                     SẮC LỊNH

Cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.
Bần đạo xin cho chư chức sắc thiên phong và đạo hữu lưỡng phái rõ, vì quan toàn quyền có lòng nhơn cho ĐĐTKPĐ được sự tự do tín ngưỡng và cúng kiếng thong thả như các đạo đã có nơi miền Đông Pháp nên Hội Thánh cần phải tái mở rộng cửa các thánh thất, hằng ngày cho nhơn sanh đến sùng bái Đức Chí Tôn, kể từ ngày 22-5-1935 (20-4 Ất Hợi) là ngày vía kỷ niệm Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn hay là Victor Hugo.

Chư Đầu tỉnh đạo phải chăm nom việc cúng kiếng tứ thời và ngày vía, cúng sóc vọng theo kiểu mẫu đã thi hành nơi Tòa Thánh từ thử.
Hội Thánh phải ban tờ kiết chứng và giấy căn cước của đạo cho chư Đầu tỉnh đạo đặng mỗi khi hành đạo nơi nào đều trình cho viên quan quý chức ngoài đời, hầu ngăn ngừa những điều giả dối đã xảy ra lâu nay.
Xin Ngọc Chánh Phối Sư phải tức cấp ấn tống sắc lịnh nầy đặng truyền bá cùng các nơi.

Tòa Thánh, ngày 12-4 Ất Hợi (14-5-1935)
HỘ PHÁP
Chưởng quản nhị hữu hình đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: Phạm Công Tắc

2 . Thành lập họ đạo và thánh thất Hà Nội (ngày 20-5 Ất Hợi 1935)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập niên)
Tòa Thánh Tây Ninh

Địa phận Bắc Kỳ
Thánh thất Hà Nội
Văn phòng Tiếp Thế

CHÂU TRI

Cho chức sắc thiên phong nam nữ.
Cho chức việc và đạo hữu lưỡng phái.

Châu tri số 1:
Kính cùng chư hiền huynh và chư hiền tỷ,
Mối đạo nơi Bắc thành đã trải qua một cơn khảo đảo rất dữ dội nhưng cũng vì đó mới thấy được tâm thành trí vẹn của chư hiền huynh chư hiền tỷ và cuộc hiệp nhứt ngày 14 tháng 5 rồi đây đặng hành đại lễ tại thánh thất Hà Nội là một bước rất vẻ vang cho đạo lắm vậy.
Bần tăng xin để lời khen ngợi tất cả chư chức sắc, chức việc và chư đạo hữu lưỡng phái: cái công trình vĩ đại của nhiều vị, Hội Thánh vẫn chẳng quên, mà sự lạc lầm của một vài người Hội Thánh cũng vui lòng hỷ xả.

Hiện nay đạo đã đến thời kỳ phải ra thiệt tướng thì tất nhiên toàn đạo phải chung chịu dưới một mặt luật mà thôi, thế nên Bần tăng xin khuyên toàn đạo từ đây phải tuân y theo luật lịnh dưới đây mà hành chánh tùy theo phẩm trật và chức trách của mỗi vị. Bần tăng buộc lòng cho hay trước rằng, thoảng còn ai vi lịnh tự quyền lập điều phạm pháp thì Hội Thánh sẽ tức cấp chiếu y luật đạo mà trục ra khỏi thánh thể Chí Tôn cho khỏi rối loạn chơn truyền chớ không dung dưỡng nữa.

LUẬT LỊNH

Về việc lập họ đạo Hà Nội.
Điều thứ nhứt: Xứ Bắc Kỳ (Hà Nội và Hải Phòng) đối với đạo là một địa phận đạo dưới quyền chưởng quản của một vị Đầu địa phận đạo.
Điều thứ nhì: Kể từ ngày 14-5 Ất Hợi (14-6-1935), châu thành Hà Nội đối với Hội Thánh là một họ đạo ở dưới quyền chưởng quản của một vị đầu họ đạo và một vị phó đầu họ đạo.
Điều thứ ba: Họ đạo Hà Nội chia ra 3 quận đạo ở dưới quyền chưởng quản của 3 vị đầu quận đạo. Chư vị đầu quận đạo phải do theo họa đồ của Bần tăng đã vẽ và có treo tại thánh thất Hà Nội mà trông nom quận mình.
Điều thứ tư: Quận đạo chia ra Hộ đạo, Hộ đạo chia ra Ấp đạo. Chánh trị sự làm đầu một Hộ đạo, Phó trị sự và Thông sự làm đầu một Ấp đạo.
Điều thứ năm: Mỗi vị Đầu quận đạo sẽ tùy theo số đạo hữu trong quận mình mà chia ra Hộ đạo và Ấp đạo, công cử Chánh, Phó trị sự và Thông sự.
Điều thứ sáu: Mỗi khi công cử chức việc Đầu hộ đạo phải nhóm đạo hữu tại thánh thất phải lập vi bằng rồi lập tờ phúc nạp cả vi bằng cho Đầu quận đạo phê chuẩn.
Chức việc được đắc cử phải có Đầu họ đạo công nhận và ngày nào được chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo ban đạo cấp rồi mới vào chánh ngạch
Điều thứ bảy: Mỗi tháng Đầu quận đạo phải lập Nguyệt để (y theo kiểu mẫu HT ban hành) đệ lên cho Đầu họ đạo biết rõ tình hình và cả cơ hành động của đạo trong quận mình. Đầu họ đạo cũng phải lập Nguyệt để gởi cho đầu địa phận. Đầu địa phận gởi Nguyệt để đến chủ trưởng HTNG.
Điều thứ tám: Đầu địa phận phải tùng vị chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo (HTNG)
Đầu họ đạo phải tùng lịnh Đầu địa phận.
Đầu quận đạo (ĐQĐ) phải tùng lịnh Đầu Họ Đạo
Chánh, Phó trị sự và Thông sự phải tùng lịnh ĐQĐ
Không ai được vượt bực giao thiệp ngay với chức sắc trên mình, hay là điều chi mà không cho người mình tùng quyền hay trước.

THÁNH THẤT HÀ NỘI

Điều thứ chín: Từ đây, họ đạo Hà Nội duy có một tòa nhà chung để sùng bái Đức Chí Tôn là thánh thất Hà Nội, hiện nay đặt tạm nơi đường Lê Lợi số 61. Thánh thất là nơi trụ cà khối đức tin của nhơn sanh, là nhơn chống vững ngọn cờ đại đạo. Vậy chúng ta phải để hết lòng nhiệt thành về việc tô điểm và tu bổ làm sao cho thánh thất càng ngày càng được hưng sùng cường thịnh. Thế tình thường hay trông nơi ngọn cờ ấy mà định phân thế lực và mối tương thân tương ái của đạo, xin chư hiền huynh và chư hiền tỷ khá nhớ.
Điều thứ mười: Ngoài ra ngày sóc vọng mỗi tuần đều có đại đàn tại thánh thất bữa thứ bảy, đúng 8 giờ rưỡi tối.
Điều thứ mười một: Duy có tại thánh thất mới được cho phép nhập môn, được làm phép giải oan, phép tắm thánh vv…Đầu quận đạochỉ được nhóm đạo hữu cùng là chức việc tại thánh thất mà thôi, trừ ra khi nào có làm lễ thượng tượng cho đạo hữu hay có quan hôn tang tế thì mới được tựu nhóm tại nhà riêng.
Điều thứ mười hai: Đầu họ đạo phài do theo nội luật thánh thất mà sắp đặt việc hành chánh tại thánh thất và do theo quyển Nghi tiết Đại đàn và Tiểu đàn mà hành lễ.
Điều thứ mười ba: Mỗi khi hành lễ, phải có trật tự, phải êm thấm, không được vô lễ trước bửu điện.
VỀ VIỆC BAN HÀNH LUẬT ĐẠO
Điều thứ mười bốn: Bần tăng hạn kỳ cho 1 tháng. Chức sắc và chức việc phải có đủ đạo phục, phải biết trách nhậm mình tức là phải thông thuộc luật đạo.
Chư đạo hữu phải thuộc tất cả kinh điển của đạo.
VỀ TÌNH ĐỒNG ĐẠO
Điều thứ mười lăm: Toàn đạo phải biết thương yêu và kính trọng nhau như con một cha, anh em một nhà, cần lấy lòng thành thật đối đãi nhau, gặp lúc tai nạn hết lòng giúp đỡ, nhứt là khi tang chế, phải sốt sắng, phải chịu khó đến viếng thăm an ủi, lo việc người đồng đạo như việc nhà mình.

*   *   *

Bước đường đạo nơi đây còn dài, chư hiền huynh và chư hiền tỷ còn phải gặp nhiều khó khăn, vậy Bần tăng xin ráng cầm vững đạo tâm, chung chịu khổ hạnh với Đức Chí Tôn được đủ tinh thần xem những ma lực của tà quyền như luồng gió thoảng qua, rồi cứ bắt tay nhau anh trước em sau mà đến nơi bồng đảo. Chúng ta phải ráng làm thế nào cho tâm thánh chủ trương phần vật dục mãi mãi thì mới mong chuyển được cảnh đời loạn ly tà mị ra thế giới chơn chánh hòa bình.

Làm tại thánh thất Hà Nội, ngày 20-5 Ất Hợi (20-6-1935)
Tiếp Thế, Quyền Đầu Sư
Lê Thế Vĩnh
Vâng lịnh thi hành:
Giáo Hữu Thái Abadie Thanh
Giáo Hữu Thượng Ngoạn Thanh
Giáo Hữu Ngọc Biên Thanh
Lễ Sanh Thượng Nghĩa Thanh
Lễ Sanh Thượng Điểm Thanh
Lễ Sanh Ngọc Hòa Thanh

3 . Chia Nam Kỳ thành 5 tỉnh đạo (ngày 15-7 Ất Hợi 1935)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Vp Nội Chánh
Số: 46
NGHỊ ĐỊNH

Chiếu y PCT ban quyền hành cho Chánh Phối Sư
Chiếu y Đạo nghị định thứ 4 phân định quyền hành Thái, Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư
Chiếu y Đạo nghị định thứ 9, 12, 18, 21 và 24 giao quyền hành chánh Chánh Phối Sư CTĐ cho 3 vị: Khai Đạo, Khai Thế và Khai Pháp HTĐ
Chiếu y Đạo nghị định thứ 3 phân định quyền hành và địa phận đặc biệt cho chức sắc thiên phong từ phẩm Phối Sư trở xuống.
Chiếu y Đạo nghị định thứ 5 buộc cả chức sắc thiên phong phế đ7ì hành đạo
Nghĩ vì hiện thời nền đạo có đủ chức sắc thiên phong từ Giáo Sư trở xuống tới Lễ Sanh đặng cai quản các Tỉnh đạo, Họ đạo và Quận đạo nên Hội Thánh định sáp nhập các địa phận đạo lại và lựa chọn trong hàng chức sắc ấy các vị xứng đáng đặng bổ dụng
Nghĩ gì việc cai quản trong địa phận các tỉnh đạo, các họ đạo và các quận đạo phải sắp đặt lại cho chức sắc có đủ quyền thay mặt Hội Thánh nên:

NGHỊ ĐỊNH

Điều thứ nhứt: Sáp nhập lại các địa phận đạo tại Nam Kỳ và phân định làm 5 Tỉnh đạo kể ra sau nầy và giao cho 5 vị Giáo Sư lãnh cai quản về trách nhậm Đầu tỉnh đạo
1. Tỉnh đạo Biên Hòa: những hạt: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, Cấp Saint Jacques đều thuộc về tỉnh đạo Biên Hòa.
Ông Giáo Sư Thượng Thình Thanh (Nguyễn Văn Thình) lãnh làm Đầu tỉnh đạo Biên Hòa.
2. Tỉnh đạo Gia Định: những hạt: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An đều thuộc về tỉnh đạo Gia Định.
Ông Giáo Sư Thượng Sáng Thanh (Trần Ngọc Sáng) lãnh làm Đầu tỉnh đạo Gia Định.
3. Tỉnh đạo Định Tường: những hạt: Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre đều thuộc tỉnh đạo Định Tường.
Ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh (Nguyễn Văn Minh) lãnh làm đầu tỉnh đạo Định Tường.
4. Tỉnh đạo Long Hồ: những hạt: Vĩnh Long, Sa đéc, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng đều thuộc tỉnh đạo Long Hồ.
Ông Giáo Sư Thượng Trí Thanh (Nguyễn Văn Trí) lãnh làm đầu tỉnh đạo Long Hồ.
5. Tỉnh đạo An Giang: những hạt: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu đều thuộc tỉnh đạo An Giang.
Ông Giáo Sư Thượng Đức Thanh (Nguyễn Hữu Đức) lãnh làm đầu tỉnh đạo An Giang.
Điều thứ hai: Kỳ cho hạn lệ 2 tháng kể từ ngày ban hành nghị định nầy, nghĩa là tới ngày 15-9 Ất Hợi, mấy vị Giáo Sư kể danh trên đây phải đến ngụ và lập văn phòng tại thánh thất sở tại địa phận mình được bổ dụng mà hành chánh.
Về các việc giao lãnh các công văn và các việc sắp đặt nơi mỗi hạt đều phải có vi bằng giao lãnh phân minh đặng đệ về Tòa Thánh.
Điều thứ ba: Chiếu theo đạo nghị định thứ 5 của Đức Lý Giáo Tông, vị Giáo Sư nào không tuân y điều thứ 2 trên đây thì không kể vào Hội Thánh và mất quyền tham dự việc chánh trị của đạo.
Điều thứ tư: Nghị định nầy hủy bỏ các nghị định trước về việc thuyên bổ chức sắc thiên phong Đầu tỉnh đạo Nam phái.
Điều thứ năm: Quản lý Lại Viện lãnh ban hành nghị định nầy kể từ ngày 15-7 Ất Hợi.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 15-7 Ất Hợi (dl 13-8-1935)
Đồng ý kiến
Thái CPS                      Thượng CPS                           Ngọc CPS
Khai Đạo HTĐ Khai Thế HTĐ                        Khai Pháp HTĐ
Phạm Tấn Đãi    Thái Văn Thâu                         Trần Duy Nghĩa

Phê chuẩn:
Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh

4 . Các Đấng cho kinh Tận độ (ngày 1-8 Ất Hợi 1935)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy em,
Mấy em sao không ở Tòa Thánh cầu Kinh, lại về ngoài này ?
Hộ Pháp bạch: -…………………………………………
- Chưa. Còn Kinh Phổ Hiền, Kinh Từ Hàng và Kinh Nhiên Đăng.
Hộ Pháp bạch: -…………………………………………
- Mấy vị Phật không giáng nơi nào khác hơn Tòa Thánh. Trễ rồi, thôi thì nghĩ đặng hai em dưỡng thần, song đừng chơi quá đa nghe. Còn nhiều, song bây giờ có ba vị ấy là cần kíp vì là phép siêu hồn.
Tám ! Mấy bà Diêu Trì biểu em nán đợi đặng cho kinh, rồi họ sẽ tái giáng. Cười…
Giỏi chọc hoài, có Thánh Màng theo Qua muốn giáng cơ nói chuyện. Qua ngày mai sẽ có mặt trong lúc cho Kinh. Kiếu mấy em. THĂNG.

5 . Giáo Sư Thượng Bảy Thanh truyền đạo khắp Đông Pháp (ngày 4-8 Ất Hợi 1935)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(3 è me Amnistie de Dieu en Orient)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Hộ Pháp
ĐẠO NGHỊ ĐỊNH THỨ 54

Chiếu y PCT ban quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp.
Nghĩ vì nền đạo cần phải có người chấp chưởng điều đình nên:

NGHỊ ĐỊNH

Điều thứ nhứt: Ông Giáo Sư Thượng Bảy Thanh lãnh trách nhậm đi truyền bá Đại Đạo toàn khắp cả Đông Pháp.
Chư Đầu địa phận mỗi xứ phải giúp ích chức sắc nầy về phần phổ thông mỗi khi có người cần dùng việc chi.
Điều thứ nhì: Quyền Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Nữ Chánh Phối Sư, Thái, Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư, mỗi vị tùy phận sự lãnh thi hành Đạo nghị định nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 4-8 Ất Hợi (1-9-1935)
HỘ PHÁP
Chưởng quản nhị hữu hình đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: Phạm Công Tắc

Vâng lịnh ban hành.
Ngày 29-9 Ất Hợi (dl 28-10-1935)

Quyền Thái CPS           Quyền Thượng CPS    Quyền Ngọc CPS
Thái Tu Thanh    Thượng Thành Thanh   Ngọc Trọng Thanh

6 . Bà Đoàn Thị Điểm ra thai đố cho Văn Minh Điện (ngày 14-8 Ất Hợi 1935)

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

Em chào chư đại huynh,
Em để lời cám ơn Lê Chơn Quân vì em lo đất Bắc. Cười…Em nói thố lộ, xin Lê Chơn Quân miễn phiền.
Thiếp hèn lâu quên thi phú văn từ rất nhiều nhưng nay vì có lịnh tôn sư của thiếp là Thất Nương giao Văn Minh Điện, nên gắng tận tâm lo cho ra vẻ đẹp, xin chư đại huynh giúp sức. Cười…
Thiếp có điều ngại ngùng muốn xin chư đại huynh nhưng chẳng biết có vui lòng nạp lời chăng ?
Hộ Pháp: - ……………………………………….
- Em muốn những thai đề chi chỉn để danh chư đại huynh đứng mà thôi. Cười….Cười….
Tiếp Đạo giỏi về phương ấy lắm nên thiếp cậy làm Giám thai, Khai Pháp làm Giám trường, Tiếp Thế làm giám khảo. Cười……

* Ra đối để Tiếp Đạo đứng tên
Sơn hà hữu ảnh tri sanh giác
Xã tắc vô ngôn thức tuyệt hưng

* Thai cho Khai Pháp đứng
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gặp ghình khó đi
Xuất vật dụng: Cái khổ vải.

* Thai cho Tiếp Thế đứng
Tỏ soi kia cũng là đèn
Dầu chẳng vẹn tuyền cũng tiếng là trăng
Xuất vật dụng: Đôi đồng xứng

* Thai cho bà Nữ Chánh Phối Sư đứng
Ai kêu ai hú bên sông
Em đương vá áo cho chồng em đây
Xuất vật dụng: Cặp mắt kiếng

* Thai cho ông Quyền Thái Đầu Sư
Đèn ai leo lét bên sông
Hay đèn mẹ chồng đi rước nàng dâu
              Xuất vật dụng: Cái cầu khỉ
              * Thôi. Thăng.

Đêm sau, bà Đoàn giáng cơ tiếp tục ra thai đố để giúp vui trong cuộc thi Văn Minh Điện đêm rằm.

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

Chào lịnh Hộ Pháp và Lê Chơn Quân,
Em lấy làm tiếc cho cuộc vui nầy, vì sanh hoạt chi lịnh mà bất minh quang nguyệt điện. Em cũng y phận sự cho thai, tùy ý chư huynh định người thu văn.
* Công chàng đạp tuyết vày sương
Ngày nay thiếp hưởng một đường vinh huê
Xuất quả: Trái mầng quân

* Ba phen lên ngựa mà về
Cầm cương kéo lại xin đề câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi câu chờ câu nhớ câu thương
Xuất quả: Trái mãng cầu
* Dưới đời ai tốt bằng sen
Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.
Xuất nhứt tự: chữ CÙN
* Đã hay lộng lộng phép trời
Mà chưa ghê sợ, buông lời lộng ngôn.
Xuất vật dụng: Cái khung cửi
* Linh đinh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước gởi mình vào đâu.
Xuất vật dụng: Cái vựa lúa
* Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Xuất nhứt tự: chữ DỊU
* Khát nước cầm gáo mà trông
Chàng như chim nọ xổ lòng bay xa
Xuất quả: Trái đào
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập niên)
Tòa Thánh Tây Ninh,
ngày 15-8 Ất Hợi (12-9-1935)
Văn phòng
Cửu viện nữ phái
Số: VI   
CHÂU TRI

Gởi cho chư chức sắc thiên phong, chánh phó đầu tỉnh đạo, chánh phó đầu họ đạo, chánh phó đầu quận đạo, chánh phó trị sự và thông sự và chư đạo hữu nữ phái và chủ thánh thất các nơi…
Kính cùng đồng đạo, chư hiền tỷ, chư hiền muội.
Chiếu theo lời đề nghị của Hội Thánh hôm mùng 9-4 Ất Hợi, bàn tính vấn đề rất thiết yếu là tu bổ HTĐ, CTĐ và BQĐ (Tòa Thánh) bố cáo trước 1 năm rồi lai niên sẽ khởi công tạo tác. Tôi vì phận sự trên ra tờ châu tri nầy.

Điều đại khái trong đạo cần yếu phải chỉnh đốn bửu điện Thầy, đền thờ cho sum nghiêm, mới có thể cảm xúc lương tâm người, thấy cảnh tịnh trường mà khởi lòng mộ đạo. Đạo Thầy phát khởi tại Tây Ninh, trổ ngõ khai đường đào tạo nền chánh giáo, rồi lần lần hột giống thiêng liêng rải rác mới có thánh thất tỉnh quận các nơi, Tòa Thánh chánh là cây có cội, nước có nguồn, còn các thánh thất cũng như ngọn ngành sông rạch. Nay chúng ta muốn cho vững bền mối đạo thì phải bồi đắp chỗ ngọn nguồn. Ấy là vấn đề đáng thi hàtnh cần gấp.
Tu bổ Tòa Thánh bởi cho 2 chủ nghĩa:
Thứ nhứt: Đại Đạo hiện nay phổ thông phát đạt, ngoại giao lân bang, dây liên lạc đã hòa thân thì nghĩa đồng thanh phải nhiều bề giao thiệp. Nếu đền thờ Thầy không lo chấn chỉnh, rồi một ngày kia có ngoại quốc nghe tiếng tới triêm yết thì chỉ thấy một cái chùa thon von nhen nhúm nơi góc rừng sâu, có ai công nhận rằng nền Đại Đạo. Còn so sánh với các nhà thờ tôn giáo khác, cùng các nơi vân am tự vũ thua kém biết chừng nào. Nghĩ con Thầy hiện nay nhập môn kể ra có số ngàn số triệu mà sao chỗ thờ Thầy lại nỡ để chật hẹp như lúc đạo mới sơ khai thì đối với phận sự thì chúng ta e chưa tròn trách nhậm.
Thứ nhì: Lại càng thiết yếu hơn nữa, lúc ban sơ tạo lập vì người đương ít, tiền không có, chung đậu nhau kẻ của người công, dùng cây tạp gỗ rừng tạm thời sơ lược, tới nay đã kinh niên hủ hoại, nếu không lo sửa sang lại, e cho gặp cơn mưa to gió lớn, một tòa lương đống phải phú thep trận cuồng phong. Cung điện Thầy chinh nghiêng thì đại đạo tất nhiên điên đảo, chừng đó cảnh trạng đạo nghĩ ra thế nào, nên tốt hơn là phải dự phòng toan trước.
Sự tu bổ đáng lẽ đã làm trước kia ba bốn năm rồi nhưng vì vận hội trong đạo chưa tới thời kỳ làm nên năm nào cũng bàn tính mà không năm nào chiếm đặng mục đích thi hành. Ấy cũng do làn sóng thị phi nghịch lẫn, nghiêng ngã nhơn tâm, khiến ra công việc đạo phải ngưng trở.
Nghị định mấy năm trước cũng thiệt rất cám ơn đồng đạo quí vị sẵn dạ giúp dùm, nhưng sở dĩ không đủ sức làm là vì Hội Thánh nghèo mà miêng ăn thì đông, nên tọa thực sơn băng, tiền hỷ cúng bao nhiêu cũng phải hết.

Tình cảnh hiện nay muốn tu bổ thì không biết nương cậy thế lực nơi đâu, nên xin cặn kẽ trần tình trong đồng đạo lấy thiện tâm vun bồi nền tôn giáo, dùng đơn tâm un đúc cảnh đạo trường, làm con thầy phải tríu mến theo Thầy, hầu báo đáp hồng ân trong muôn một.
Bởi nghĩ rằng, lòng Thầy vì thương xót dân tộc bơ vơ đường tối hang sâu nên phải giáng hạ phàm trần, dìu dắt dân đen con đỏ, đất Nam Việt dựng nền phổ độ, dẫn con cháu Tiên Long Hồng Lạc lên cảnh thanh hư, ấy lòng bác ái từ bi vô cùng vô tận.
Nay chúng ta biết đặng đạo chơn mà chỗ đền thờ Thầy lại sơ sài chật hẹp thì trong lương tâm nghĩ lại sao đành.
Bấy lâu vì hoàn cảnh khuynh nguy, bất đắc dĩ phải dằn lòng cam chịu, chớ hiện nay nhờ ơn trên chánh phủ chiếu gương huệ nhãn soi thấu lòng chơn thật của chúng ta, cử động hành vi không bề cấm kỵ.

Vậy chúng ta rất nên đội ơn người trên rộng lượng mà cũng nhơn cơ hội may mắn nầy gắng lòng báo bổ cho khỏi phụ trách nhậm làm con, nóng nhiệt thành đâu cật chung lưng đem hết cả nghị lực tinh thần tô điểm vẽ vời cho rỡ ràng cung đình tam giáo, một mai đặng nở mặt với lân bang chư đồng đạo, thì nền đại đạo chắc có thể thạnh phát trường khai mà chị em ta cũng bòn mót đặng một phần lập công bồi đức.
Xin khuyên đồng đạo gắng lòng.
Nay kính.
Chủ trưởng chức sắc nữ phái
Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh

8 . Bát Nương giáng cơ tại thánh địa Bạch Vân Nam Vang (ngày 24-8 Ất Hợi 1935)

BÁT NƯƠNG

Em chào mấy anh. Có Lục Nương và anh què
Cười…Á ! Khí ạ ! Chị thấy người ta ăn gian em nên đến hỏi em muốn làm Giáo Sư không ? Chị lo cho. Cười…Thằng ham chức quá phải chơi ! Cười…
Đây em mới hỏi Đức Hộ Pháp, vậy chớ anh cầu phong cho ai lên chức Giáo Sư nam ?
Đức Hộ Pháp:…………………………….
- Phải. Còn nữa ?........................................
- Phải. Nghĩa là anh đã xin cho 3 người, duy có Từ Huệ bị bác, còn 2 người kia đặng chớ ? Vậy thì mấy anh cả tiếng kêu em Khí và chị Huê là Giáo Sư giùm coi. Phong Chí bạch:………….
- Cười…Nè anh Gió, tôi không cầu anh nghe không.
- Em Hiển, Qua mừng cho em đó. Em muốn kẹo phải không ? Ở quì đó em. Thi nè:
Quen chiều non nước lúc xuân xanh
Tên tuổi đài mây đã sẵn dành
Lộc thế rẻ mùi chê mặn lạt
Ơn trời nên phận gắng đua tranh
Lẫy lừng cánh hộc xông trường võ
Đầm ấm duyên loan để chí thành
Vùng vẫy võ môn qua mấy cấp
Soi tâm đêm quạnh phó Trường Canh.
  Em nhớ lời chị dặn, gắng trọn trung trọn hiếu nghe !

9 . Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cơ tại thánh địa Bạch Vân Nam Vang (ngày 25-8 Ất Hợi 1935)

TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ
Bần tăng chào chư quí vị,
Bần tăng lấy làm thậm cảm nhưng cơ quan phổ tế Tần nhơn hỡi còn trở ngại trong năm ba tháng nữa mới yên.
Thi
Lượng trên đã mở nỗi oan xưa
Tần quốc từ đây hưởng phước thừa
Dặm khổ dân chưa an bước thảm
Đường hay nước đã vẹn danh xưa
Nóc chiền thiên cổ di hồn tục
Cửa thánh kỳ ba độ nghiệp vua
Ngán lỡ công bình mưới tuế lụn
Khuôn hồng soi rạng đất mây mưa

Cười…Các tôi con của rồng nay độ rắn, hỏi dưới mắt Tạo Công còn chi hay hơn nữa chăng ?
Rồng rắn, rắn rồng, có rắn mới hóa rồng, có rồng mới nên phận rắn. Xin lấy ý nghĩa sâu xa mà hiểu thì cái vui mới ra thú vị.
Cười…Mừng, mừng, mừng ! Thăng.
(Tiêu Diêu Đạo Sĩ là Bradaya La Hán)

10 . Cơ quan Phước Thiện là của Hội Thánh (ngày 19-12 Ất Hợi 1936)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập nhứt niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
VP Nội Chánh
Số: 15
Tòa Thánh ngày 19-12 Ất Hợi (dl 13-2-1936)

CHÂU TRI

Quyền Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư
Hội Thánh xin nhắc lại cho toàn đạo nam nữ lưỡng phái đều biết rằng: Hội Thánh lập cơ quan Phước Thiện cốt để giúp cho những bậc tu hành tìm phương nuôi sống lấy nhau, khỏi phải xin ăn thập phương bá tánh.
Nhóm đủ 3 hội nghĩa là quyền Vạn Linh cũng công nhận điều ấy nên Hội Thánh mới thi hành, trích ra một hạng chức sắc thiên phong Lễ Sanh Giáo Thiện. Vậy thì CQPT là do Hội Thánh làm chủ.
Nay nghe ra như có lời ác cảm gieo truyền rằng: Đức Hộ Pháp tái lập Phạm Môn lại trong mấy tỉnh. Điều ấy là điều huyễn hoặc vì chính ngày nay Đức Hộ Pháp đã nắm chủ quyền của đạo thì người chẳng còn lập chi riêng ngoài quyền Hội Thánh của người nữa.
Xin toàn đạo đừng tin theo những lời huyễn hoặc.
              Quyền Thái CPS          Quyền Thượng CPS                Quyền Ngọc CPS
   Thái Tu Thanh Thượng Thành Thanh                  Ngọc Trọng Thanh


Ngày 27-12 Ất Hợi (1935) Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa chưởng quản CQPT đánh điện tín cho các vị Đầu họ Phước Thiện cho phép các vị về nhà ăn tết Bính Tý, rồi phải có mặt tại TTTN vào ngày mùng 8-1 Bính Tý để cúng đại lễ Đức Chí Tôn và đãi lịnh Hội Thánh.
Qua ngày 9-1 Bính Tý, Đức Hộ Pháp kêu hết những vị Đầu họ Phước Thiện họp đủ mặt tại Hộ Pháp Đường để Đức Ngài ban cho mỗi vị 4 phép bí tích, kể ra:
- Phép giải oan
- Phép tắm thánh
- Phép đoạn căn (hành phép xác)
- Phép hôn phối

Đức Hộ Pháp gọi từ vị Giáo Thiện đến để trục thần khai khiếu, truyền dạy cách thức hành pháp. Đức Hộ Pháp lại ban cho mỗi vị một cây bạch đăng (đèn cầy trắng) dặn khi nào gặp việc khó khăn không giải quyết được, đợi đến lúc 12 giờ khuya đốt cây bạch đăng này lên và thành tâm cầu nguyện thì Đức Hộ Pháp biết và sẽ đến giúp cho.

Khi các việc xong, Đức Ngài dặn cúng lễ rằm tháng giêng tại Tòa Thánh xong thì trở xuống địa phương lo phận sự của mình. Bản chỉ dẫn hành các phép bí tích của Đức Ngài sẽ gởi xuống sau. Việc hành phái này phải ráng tập luyện, khi nhận thấy làm được rồi mới thực hành và khi hành pháp sự kết quả thế nào, nhớ phúc trình về cho Đức Ngài biết.
Nhờ Đức Hộ Pháp truyền thần khai khiếu và truyền pháp nên việc hành pháp rất kết quả nhứt là phép giải oan và giải bịnh, sự hiệu lực thấy hiển hiện trước mắt nên mỗi kỳ đàn, bổn đạo tựu đến cúng rất đông để được giải oan luôn thể.

2 . Đoàn Thị Điểm giáng cơ cho Tân Kinh (ngày 16-1 Bính Tý 1936)

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

Thiếp cúi mình chào chư vị và chư hiền tỷ, hiền muội.
Thưa, thiếp đã đặng lịnh cho thiếp giáng cơ lập kinh thế đạo nhưng rủi không cơ thành ra trễ nãi. Xin thứ lỗi cho thiếp hầu cơ từ ngày mai đặng làm trọn phận.
Thưa thiếp chào cố nhân. Miền Nam định nhiều vị hữu căn kiếp, xin cố nhân để tâm nơi ấy mà độ giùm thiếp, rất cám ơn. Thăng.

3 . Đức Hộ Pháp mở khoa thi Luật Sự Hiệp Thiên Đài đầu tiên (ngày 23-5 Bính Tý 1936)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhứt niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng        
Phạm Hộ Pháp 
Số: 34   
SẮC LỊNH

Cho ba Chánh Phối Sư, nữ Chánh Phối Sư
Lê Tiếp Thế, Cao Tiếp Đạo và chủ trưởng HTNG
Nghĩ vì trên phẩm Thông Sự và Chánh Trị Sự là hạng chức việc có cầm mảy mún quyền hành pháp luật của Hiệp Thiên Đài chưa định, nên:
Bần Đạo sẽ mở khoa mục, chương trình và ngày tháng sẽ định bởi một sắc lịnh sau nữa, tuyển chọn hạng Luật Sự (Agent judiciaire) trong chức việc nam nữ lưỡng phái kể ra sau nầy:
1 . Chánh Trị Sự nam nữ đặng trọn quyền dự thi khi đã hành đạo trên 3 năm với trách nhậm của mình.
2 . Thông Sự nam nữ đặng trọn quyền dự thi khi đã hành đạo trên 5 năm với trách nhậm của mình.
3 . Tín đồ nam nữ đã giữ pháp luật và trọn trung trọn nghĩa cùng đạo từ buổi ban sơ.
Bổn hồ sơ (Giấy tánh hạnh, tờ kiết chứng công nghiệp và đơn xin dự thi) nạp về Hiệp Thiên Đài, phải có giấy chứng nhận của làng đạo, quận đạo, họ đạo và tỉnh đạo sở tại và có Tòa Nội Chánh tiến dẫn cho vào khoa mục mới đặng.
Chức Luật Sự của Hiệp Thiên Đài để trấn nhậm một họ đạo làm đầu Chánh Trị Sự và Thông Sự về mặt luật pháp nhưng tùng quyền của Sĩ Tải.
Luật Sự đặng quyền xem xét luật pháp của toàn tín đồ và chức việc trong bổn họ, đặng quyền xem xét về công cử, đặng dự thính ban nội trị và lấy khẩu chiêu, đặng kiểm soát và thi hành trạng án của Sĩ Tải truyền xuống.
Luật Sự không có quyền xử đoán. Mọi điều chi về mặt Tòa Đạo thì Luật Sự không đặng quyền hành định đoạt, duy đặng phép tư lên Sĩ Tải HTĐ mà thôi.
Cấm nhặt Luật Sự không đặng phép tham dự vào việc chánh trị của đạo, nếu trái mang lịnh nầy phải bị đệ ra tòa tam giáo trừng trị nghiêm nhặt tùy theo nặng nhẹ, trọng khinh của tội phạm pháp chánh.
Xin chư hiền huynh và hiền tỷ tuyên bố sắc lịnh nầy cho toàn đạo nam nữ đều biết.
Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 23-5 Bính Tý (11-7-1936)
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị hữu hình đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: Phạm Công Tắc

4 . Ông Lê Bá Trang quy liễu tại Bến Tre (ngày 29-5 Bính Tý 1936)
Ông Lê Bá Trang (sanh năm 1879 tại Sa Đéc), sau thời gian 2 tuần lễ bị bịnh kiết lỵ thì mất tại Bến Tre ngày 29-5 Bính Tý (dl 17-7-1936) hưởng được 58 tuổi.
Lúc mất, ông Trang giữ chức Thượng Chưởng Pháp của chi phái Bến Tre nên xác được liệm vào liên đài. Hội Thánh Bến Tre định an táng ông tại phía sau thánh thất An Hội Bến Tre, nhưng sau đó ông Nguyễn Ngọc Tương cử người về Tây Ninh xin Hội Thánh Tây Ninh cho đem xác ông Trang lên táng nơi thánh địa, được Đức Hộ Pháp bằng lòng.
Hội Thánh Bến Tre liền cử ông Cao Quỳnh Diêu và ông Phạm Văn Ngọ lên Tây Ninh trước để lo việc xây nền tháp, sắp đặt việc tang và việc ăn ở cho phái đoàn đưa tang.
Liên đài quàng tại thánh thất An Hội 3 ngày, các chức sắc, chức việc và đạo hữu của Bến Tre tế lễ đầy đủ.

Sáng sớm ngày 21-7-1935 liên đài được đưa về Tòa Thánh Tây Ninh. Khi đến Bến Kéo cách Tòa Thánh chừng 8 cây số, phái đoàn đưa tang tạm dừng lại, ông Nguyễn Ngọc Tương thay đạo phục, mặc vào đại phục Giáo Tông rồi tiếp tục đưa liên đài của ông Lê Bá Trang đến Tòa Thánh, đến nơi vào khoảng 3 giờ chiều, phái đoàn dừng lại trước của số 1 nội ô để báo cho Hội Thánh Tây Ninh biết.

Nhân dịp đưa liên đài của ông Lê Bá Trang về Tòa Thánh Tây Ninh, ông Nguyễn Ngọc Tương ngầm mưu đồ chiếm đoạt Tòa Thánh và lên ngôi Giáo Tông.
Ông sắp đặt kế hoạch rất kỹ, lại được thống đốc Nam Kỳ là Pagès đỡ đầu và tham biện tỉnh Tây Ninh ủng hộ, cho nên ông tổ chức phái đoàn đưa tang rất hùng hậu khoảng 2000 người. Khi liên đài của ông Trang và phái đoàn đưa tang đến cửa số 1 nội ô Tòa Thánh thì phải dừng lại vì các Bảo Thể gác cửa không cho vào, đợi lịnh của Hội Thánh. Khi đó ông tỉnh trưởng Tây Ninh Vilmont cho một đám lính da đen vào để giữ gìn an ninh trật tự nhưng sự thật là để ủng hộ ông Tương. Đám lính da đen nầy không phân biệt ai là đạo hữu của Tòa Thánh Tây Ninh, ai là tín đồ của ông Tương vì đều mặt đồ trắng giống nhau nên họ ra lịnh giải tán tất cả, không cho tựu tập đông đảo và họ đứng gác dài theo đường. Ông Tương có đến can thiệp nhưng họ nói không biết. Thế là ông Tương bị mất đi lực lượng tay sai hùng hậu.

Đức Hộ Pháp cho người ra yêu cầu ông Tương cổi đạo phục Giáo Tông thì mới cho vào Tòa Thánh vì đây là cuộc rước liên đài của ông Quyền Đầu Sư Lê Bá Trang chớ không phải rước Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (Đức Hộ Pháp không nhìn nhận phẩm vị Giáo Tông của ông Tương) hơn nữa Đức Hộ Pháp biết rõ âm mưu bất chánh của ông Tương là nhân dịp đưa liên đài của ông Trang vào Tòa Thánh thì ông Tương với phẩm phục Giáo Tông, ông sẽ lên ngự trên ngai Giáo Tông và cho đông đảo đệ tử của ông chiếm đoạt luôn Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông Tương không chịu cổi đạo phục Giáo Tông ra hai bên dằn co mãi như vậy cho đến gần 5 giờ chiều. Bà vợ của ông Trang chờ lâu quá nên đến phàn nàn với ông Tương và cũng yêu cầu ông Tương nên thay đạo phục Giáo Tông bởi vì đây là lễ tang của chồng bà, chớ không phải lễ gì khác của đạo, để sớm đưa liên đài vào Tòa Thánh kẻo tối nhưng ông Tương vẫn chưa chịu cổi đạo phục Giáo Tông.

Bỗng trời chuyển mưa, một cơn mưa rất lớn và kéo dài, những người theo đưa tang bị ướt hết quần áo và cảm thấy rất lạnh. Ông Tương cũng chịu lạnh không nổi, đành phải cổi đạo phục Giáo Tông ra và mặc quần áo khô vào cho ấm. Lúc đó mưa tạnh, cửa nội ô mở ra, Hội Thánh mời phái đoàn đưa liên đài vào Tòa Thánh, lúc ấy phái đoàn đưa tang chỉ còn lưa thưa ít người, mọi mưu toan của ông Tương đều thất bại.
Ngày hôm sau, cử hành lễ tang của ông Lê Bá Trang xong thì đưa liên đài nhập tháp, xây bên cạnh đông lang.

Mọi người nhìn ông Tương với đôi mắt rất lãnh đạm. Ông Tương nhận thấy không còn có cách nào để thực hiện mưu tính của mình nên đành trở về Bến Tre trong nỗi hậm hực và chán nãn ê chề !
Đây là mưu toan chiếm đoạt Tòa Thánh lần cuối cùng để lên ngôi Giáo Tông của ông Nguyễn Ngọc Tương cũng không thành công (vì Đức Quyền Giáo Tông đã giáng cơ mách trước với Đức Hộ Pháp những âm mưu của ông Tương trong dịp đưa tang nầy và chỉ rõ cho Đức Hộ Pháp phương cách đối phó với ông Tương và nhóm người của ông).

Kể từ khi ông Trang chết ông Tương như mất cánh tay mặt, lại thất bại ê chề trong mưu toan chiếm đoạt TTTN lần cuối, khiến ông đành an phận tại Bến Tre trong sự đau buồn, không còn muốn tranh đấu với TTTN nữa. Từ đây cơ đạo tại Tây Ninh được yên và bắt đầu phát triển.

5 . Ông Lê Bá Trang bị đọa ở cõi Âm Quang (ngày 11-6 Bính Tý 1936)

THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy em,
Thượng Phẩm nói với Qua rằng: Mấy em đợi.
Ôi ! Qua nghĩ lại quá sức tức mình, mấy em nghĩ coi một kiếp sanh đâu có mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem như nháy mắt mà ảnh hưởng sâu sắc biết là bao.
Nào là danh, nào là vị, nào là tước, nào là quyền, nào là vinh, nào là trọng, rốt lại thì cũng không còn mảy mún giá trị chút ít gì nơi cõi hư linh hằng sống, bất quá như cơn vui dự đặng một tiệc ngon ngọt của khách phong trần say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

Qua đến viếng Trang nơi Lạc Hồn Trì thấy nó nằm mê man sảng sốt, đau lòng hết sức như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng thì dầu Qua có đến gần nó lúc nầy cũng không bổ ích chút nào cả.
Phải đợi cho nó từ từ định tỉnh, may ra có tay Thất Nương giải mộng thì thỉnh thoảng định tỉnh tâm thần. Nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với một người điên, chọc thêm loạn trí.
Tám ! Em nên thường phò loan đặng Qua truyền tin Trang cho em hiểu. Ấy là một điều mấy em nên học hiểu. Khi nãy Qua thấy em có khách nhiều thì phải. Thôi Qua đi.
Vĩnh ! Em ráng lo chỉnh đốn lần lần việc làm kẻo để đạo bành trướng đổ xòa ra làm không kịp, em nghe. Thăng.

6 . Toàn quyền Pasquier nhận tội đàn áp Đạo Cao Đài (ngày 3-8 Bính Tý 1936)

PIERRE PASQUIER

Salut Hautes Âmes. Tôi nói tiếng An Nam.
Tôi đã cầm đặng một cuốn sách Nho, học thông đạo lý. Cái tư tưởng của tôi buổi nọ nó thiên thật về bên Khổng giáo, chớ không phải hướng qua bên Phật đạo. Tôi càng suy xét thì lấy làm lạ vì cớ nào tôi lại dựng nhà thiền toan phá Đạo Cao Đài buổi nọ.
Quái dị thay ! Tôi đã dám xưng mình là văn sĩ nho phong, kinh truyện văn chương trước mắt mà lại chịu thiệt thòi sai sót chẳng hiểu đặng rằng Nho giáo chuyển luân tạo dựng toàn cầu tân thế.
Sự lạc lầm ấy do đâu mà có ?
Ôi quan trường ! ôi nha lại ! Vì mi mà làm cho ta phải đui mắt, linh hồn phạm tội nghịch ý Chí Tôn, thiên điều tàn sát. Hận thay ngôi vị đế vương là đao kiếm trù mạng linh hồn mà chớ. Gớm thay ! Ghê thay !
Thi
Vương bá bửu ngôi thị ngục hình
Thiên lao như thử tấc công khanh
Đồ thân phát phối cầm dân mạng
Y phục đai cân thị tử thành.
                                                                                                * Thăng

7 . Đức Hộ Pháp cấm chức sắc, tín đồ làm chánh trị (ngày 17-8 Bính Tý 1936)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhứt niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng        
Phạm Hộ Pháp
SẮC LỊNH thứ 45

Nghĩ vì ĐĐTKPĐ lập thành cốt để làm cho cả thiên hạ đặng thái bình đại đồng thế giới.
Chiếu theo thánh giáo của Đức Chí Tôn đã dạy rằng: Thầy lấy gương giải hòa đặng hai nước Pháp – Nam đề huề mà làm đề mục cho toàn cầu thấu đáo chơn truyền của đạo và để gương mẫu cho các dân tộc khác noi theo hiệp chủng hầu tránh cho khỏi các nạn phấn đấu tiêu diệt lẫn nhau.

Nghĩ vì đạo chúng ta ngày nay mà đặng Đại Pháp công nhận cho đặng tự do cũng nhờ các bậc ân nhân của chúng ta tại Thượng và Hạ Nghị Viện Pháp triều mà quan Tổng Trưởng thuộc địa đương kim là ông Marius Moutet đứng đầu trong ấy thi ân nghĩa đối với Ngài đạo khá ghi lòng tạc dạ.
Nghĩ vì ông Marius Moutet đã để tâm binh vực thương tưởng quê hương nhà Nam từ thử đến chừ đủ bằng cớ, mà nay Ngài đã lựa một vị cựu thần là quan Tổng Thống toàn quyền đại thần Brévié trấn nhậm nơi cõi Đông Dương nầy thì chỉ rõ rằng Ngài tín nhiệm đặng sai đến làm nên cho xã hội quốc dân nhà Nam mà chớ. Trái lại, nếu có điều chi biến động thì là hại danh thể của ông Marius Moutet, Pháp triều sẽ cho rằng vì Ngài quá thương nhà Nam nên mới có gây nên loạn lạc.
Nghĩ vì Bần Đạo sợ cho tín đồ của Đạo Cao Đài nhẹ tánh nhẹ lòng nghe lời cám dỗ mà lầm lạc, phạm quốc pháp và đạo pháp, nên:

SẮC LỊNH

Cho toàn đạo gắng để hết lòng tin cậy nơi quan tân toàn quyền Brévié và cấm nhặt cả chức sắc, chức việc và tín đồ nam nữ lưỡng phái chẳng đặng xu hướng theo quốc sự, nhứt là những đảng phái đương đồ mưu tính kế làm cho rối loạn quốc gia.
Truyền lịnh cho đạo phải hiệp đồng cùng chánh phủ đặng lo phương thế cho dân hưởng điều hạnh phúc, mà điều hạnh phúc do nơi tay chánh phủ Pháp triều mà có.
Chức sắc thiên phong nam nữ của Hội Thánh phải tuyên truyền sắc lịnh nầy cho toàn đạo đều biết.
Lập tại TTTN, ngày 17-8 Bính Tý (dl 2-10-1936)
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị hữu hình đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: Phạm Công Tắc

Vâng lịnh ban hành
Tòa Thánh, ngày 17-8 Bính Tý (dl 2-10-1936)
                         Thái CPS                     Thượng CPS               Ngọc CPS
                         Thái Tu Thanh      Thượng Thành Thanh    Ngọc Trọng Thanh

8 . Lễ đại tường Đức Quyền Giáo Tông (ngày 13-10 Bính Tý 1936)
Tưởng từ khi khai đạo đến giờ chưa có cuộc lễ nào long trọng cho bằng và đối với các lễ lớn ngoài đời cũng chưa có lễ nào hơn được.
Trên một tháng trước ngày lễ, chức việc và đạo hữu các nơi đã lần lượt về Tòa Thánh đặng công quả về các việc sắp đặt tại Đại Đồng Xã.

Ngày mùng 8, số về trước kể về nam nữ và đông nhi có trên 1500 làm cho quang cảnh tại Tòa Thánh rất nên náo nhiệt và vui vẻ vô cùng.
Ban ngày thì lớp lo xây dựng cho hoàn thành Báo Ân Từ, lớp phá hai bên rừng thiên nhiên, lớp khai đường đấp lộ, lớp cưa cây cất giàn, đóng cầu, lớp vẽ sơn thủy, lớp may cờ vv… Chiều thì mấy vị giáo viên, thơ ký và giáo nhi dắt đồng nhi nam nữ ra tập dượt lễ mừng đạo, tối thì nào là tập lễ sĩ, nào là tập học sinh trường Đạo Đức diễn tuồng Thánh Tâm Ái, nào là thuyết đạo vv…Trọn ngày từ sớm mơi tới khuya đi đâu cũng thấy đạo hữu lo làm việc rất hăng hái.
Càng gần đến ngày lễ thì đạo hữu lại về càng đông, quang cảnh càng rộn rịp nhưng vẫn được ở luôn luôn trong một bầu không khí nồng nàn mùi hòa ái. Quả thật một cảnh bồng lai ở một góc trời Nam ta vậy.

Đạo han hữu các nơi về đều hân hoan là vì thấy trong một thời gian rất ngắn và giữa lúc nền kinh tế trong xứ bị khó khăn mà Hội Thánh ráng tạo lập được nhiều nơi đẹp đẽ.
Tới Tòa Thánh đã thấy được một cái cửa vô cùng đồ sộ kế ở bên trong, hai nhà kỷ niệm nam nữ rất ngộ nghĩnh. Từ của vô tới Đại Đồng Xã tới Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Báo Ân Từ vv…thì cờ đạo phất phơ, xem rất vui mắt.

Công cuộc sắp đặt tại Đại Đồng Xã có trật tự và oai nghiêm lắm.
Ngang qua cái hầm bát quái trước Tòa Thánh có bắc một cái cầu rộng lớn mà đạo hữu đều gọi là Ngân Hà Kiều, qua cái cầu rồi tới cửa tam quan bề cao trên 7 thước, bề dài 12 thước, trên hết có vẽ thật lớn mấy chữ “Đại Đồng Xã” và “Place de la Fraternité Universelle” trên đầu cửa giữa có để năm “1925 – 1936” hai bên là hai câu liễn Giáo Tông như vầy:
GIÁO hóa nhơn sanh nhựt nhựt trung tâm qui thiện quả
TÔNG khai tăng chúng thì thì trọng đạo hiệp chơn truyền

Hai cửa vô hai bên là cửa nữ phái và nam phái trên có vẽ cành nho, có lá nho và trái nho để thể tinh, khí, thần hiệp nhứt.
Hai bên cửa giữa có treo những hình của Đức Quyền Giáo Tông, một bên về phần đời, một bên về phần đạo của Ngài. Hai bên cửa nam nữ thì treo hình lễ táng của Ngài. Cả lịch sử vẻ vang của Ngài đều bày giải rõ tại đó cho mỗi người đều biết.
Vào khỏi cửa Đại Đồng Xã thì thấy chính giữa sân một cây cờ đạo rất lớn, cờ màu trắng có 3 vòng xanh, vàng, đỏ kết tréo ngang thể tam giáo quy nhứt.

Ở mút đầu sân Đại Đồng Xã là đài Cửu Trùng Thiên bề cao 9 thước, bề dài 20 thước, chính giữa có một chữ Vạn màu vàng thật lớn, trên hết là chơn dung của Đức Quyền Giáo Tông vuông vức mỗi bề 8 thước.
Hai bên Cửu Trùng Thiên từ hai góc bức chơn dung hơn 16 thước bề cao, có giăng qua hai bên rừng thiên nhiên hai hàng cờ Pháp và vạn quốc.

Dài theo hai bên rừng thiên nhiên là giàn để cho chức sắc, chức việc và đạo hữu ngồi xem lễ, chung quanh sân Đại Đồng Xã có cắm cờ đạo và thắt tuội treo bông, đốt đèn điện xem rất ngoạn mục.

9 . Đức Hộ Pháp làm lễ khởi công xây dựng Tòa Thánh (ngày 1-11 Bính Tý 1936)

Đức Hộ Pháp nhận thấy đã đến lúc tình hình đạo sự thuận lợi cho việc xây cất Tòa Thánh nên ngày 1-11 Bính Tý (dl 14-12-1936) Đức Ngài làm lễ khởi công xây cất Tòa Thánh.
Đức Hộ Pháp xây cất Tòa Thánh bằng vật liệu kiên cố ngay trên nền Tòa Thánh tạm đã cất bằng cây gỗ trước đây, vì Đức Hộ Pháp dự tính cất Tòa Thánh theo kích thước nhỏ hơn bản cẽ của Đức Lý Giáo Tông, vì đạo mới trải qua nhiều cơn sóng gió, số tín đồ nghèo quá và chưa được nhiều, lại bị các chi phái phân chia giành giựt.

Trước năm 1934, lúc Đức Quyền Giáo Tông còn khỏe mạnh, Đức Ngài cùng vơi Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh đã khởi sự cất Tòa Thánh theo họa đồ của Đức Lý Giáo Tông vẽ theo kiểu vở thiên đình (bề dài 135m, bề ngang 27m, không kể hành lang 2 bên và phía sau, phía trước có bao lơn đài, bề cao lầu chuông và lầu trống 36m, nền Bát Quái Đài cao 9m), vị trí xây cất là Đại Đồng Xã mà cái hầm bát quái ngay tại cột phướn trước Tòa Thánh hiện nay.

Vì có lời dạy của Đức Chí Tôn khi đó đạo còn rất nghèo, Đức Chí Tôn dạy Đức Hộ Pháp cất Tòa Thánh theo họa đồ của Đức Lý Giáo Tông nhưng dùng thước mộc để kích thước nhỏ hơn cho bớt tốn kém, nên Đức Hộ Pháp cất Tòa Thánh lúc đó với kích thước như sau: bề dài từ bậc 5 cấp đến cuối BQĐ là 98,5m, bề ngang kể cả hành lang 2 bên là 22m, bề cao lầu chuông và lầu trống là 27m, nền BQĐ cao 2,4m.

Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa chưởng quản PT dạy các vị đầu họ PT trong 20 tỉnh Nam Kỳ tổ chức các sở lương điền, công nghệ, thương mãi, phải dành hoa lợi gởi về Tòa Thánh để giúp lương thực cho các công thợ xây cất, đồng thời chiêu mộ các công quả có tay nghề xây dựng: thợ hồ, thợ mộc, thợ cưa, thợ sắt, thợ đấp vẽ vv… đưa về Tòa Thánh nhập với số công quả nơi Tòa Thánh tổng cộng được 500 công quả nam và nữ làm việc thường xuyên.

Đức Hộ Pháp dạy: “Nếu ai bằng lòng hy sinh làm công quả tạo tác tổ đình thì phải lập thệ thủ trinh trong suốt thời gian tạo tác để được tinh khiết, dầu nam hay nữ cũng vậy, không được có vợ hay có chồng, sau khi Tòa Thánh được tạo xong thì nếu công thợ nào muốn lập gia đình thì Đức Ngài sẽ giải thệ cho”.

Đức Hộ Pháp định xây cất Tòa Thánh mới tại vị trí Tòa Thánh tạm nên khi khởi công thì trước hết phải dở Tòa Thánh tam cho trống chỗ, dời quả càn khôn và tượng của các Đấng giáo chủ về thờ tạm nơi Báo Ân Từ chừng nào cất xong Tòa Thánh mới thì sẽ làm lễ an vị trở lại.
Khi dời quả càn khôn về Báo Ân Từ qua cửa chánh không lọt vì cửa Báo Ân Từ hơi hẹp một chút, buộc phải ép quả càn khôn móp vô một chút thì mới lọt qua cửa.
Đức Hộ Pháp khóc và nói rằng: “Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ lắm”.

Năm Bính Tý (1936), Đức Hộ Pháp lãnh tạo tác Tòa Thánh do Hội Thánh Cửu Trùng Đài không làm được nên giao trọn cho Đức Ngài. Do đó, Đức Ngài triệu tập tất cả các vị công quả hiến than trong Minh Thiện Đàn, trong Phạm Môn và Phước Thiện với 21 vị đầu họ đạo PT về hội tại Tòa Thánh để chung lo việc tạo tác cho được thành công. Đức Ngài nói:
- Đã bao phen Cửu Trùng Đài khởi làm Tòa Thánh đều bỏ dở là tại hai ông Tương và Trang phản loạn chống lại Đức Quyền Giáo Tông. Thời gian qua mấy em cố gắng bảo vệ nghiệp đạo là làm hậu thuẫn cho Giáo Tông và Hộ Pháp, nay mấy em chung sức giúp Qua một thời gian nữa để lo tạo tác Tòa Thánh cho xong vì Qua đã lãnh với Hội Thánh rồi. Các họ đạo PT lo khai mở các sở lương điền, công nghệ, thương mãi để có lợi tức đem về lo lương thực và vật liệu, đồng thời thâu người hiến thân làm công thợ xây dựng Tòa Thánh.

Đức Hộ Pháp giao cho ông Giáo Thiện Nguyễn Văn Thế với Giáo Sư Thượng Minh Thanh đến tỉnh Châu Đốc, sẵn có Giáo Sư Thượng Quyện Thanh (Nguyễn Văn Quyện) và Giáo Thiện Trần Văn Mến lo mộ công quả và người hiến thân vào Phước Thiện để đưa về Tòa Thánh.

Các nơi đều hưởng ứng, số người hiến thân được 670 vị, gởi trước về Hội Thánh 36 vị để bổ vào các sở, trong đó đặc biệt có ông Phạm Ngọc Trấn được bổ làm giáo viên Đạo Đức Học Đường, ông Đinh Công Biện được bổ về ban nhạc, thợ hồ Cương được bổ làm đốc công. Sau khi ông Cương bỏ dở, Giáo Sư Thượng Minh Thanh đưa ông Lê Văn Bàng (người Cái Bè, Mỹ Tho) vào làm đốc công tạo tác Tòa Thánh, sau nầy ông Bàng lên làm Tổng Giám.

Ông Thới là chủ sở Cái Bè lo vận chuyển bằng ghe, ông Giáo Thiện Lê Trung Cang ở Phú Mỹ vận động lương thực cùng chở về Tòa Thánh, rồi lần lượt các họ đạo đưa công quả hiến thân về tổng cộng được 4120 người. Tùy theo tài sức của mỗi người, Đức Hộ Pháp bổ dụng vào các công việc thích hợp trong công cuộc xây dựng Tòa Thánh.
Việc tạo tác Tòa Thánh khởi đầu rất thuận lợi do Đức Hộ Pháp tổ chức đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Những kẻ đối nghịch cùng Đức Hộ Pháp ghen tức, một mặt rơi thơ xuyên tạc, một mặt vu cáo với chánh quyền Pháp để ngăn chận không cho lương thực vận chuyển về Tòa Thánh.
Đức Hộ Pháp nói:
- Họ quyết tâm bỏ cho thầy trò mình chết đói, họ lại loan tin thất thiệt để ly gián thầy trò mình không thể xây cất được Tòa Thánh.
Không thể tả hết những nỗi khó khăn khổ sở trong giai đoạn nầy mà ông Tương Bến Tre là nhân vật chính gây ra dựa vào thế lực của nhà cầm quyền Pháp xúi giục.
Rồi mọi việc vu cáo và phá hoại của kẻ nghịch cũng lần lần được sáng tỏ, nhơn sanh thấy rõ ai là kẻ gian người nịnh, ai là người hết lòng lo cho Thầy cho đạo.
Công việc tạo tác Tòa Thánh được tiếp tục trở lại tiến hành khả quan như trước.



Mãi đến đầu năm 1937, HTNG ở Kim Biên (Nam Vang) bổ Giáo Sư Thượng Bảy Thanh đi hành đạo Hà Nội thì GS Bảy mới chịu lãnh lịnh ra đi. HTNG đánh điện cho Ban Cai Quản thánh thất Lê Lợi tại Hà Nội biết để chuẩn bị đón tiếp.

Ông GS Bảy cùng với thư ký Nguyễn Kim Sa khởi hành từ Sài Gòn đi ra Hà Nội bằng xe lửa.
Khi xe lửa tới ga Nam Định thì có Lễ Sanh Thượng Nghĩa Thanh đón tiếp rồi cùng đi Hà Nội.
Đến ga Thường Tín thì có Lễ Sanh Thượng De Lagarde Thanh đón tiếp, rồi hiệp vào phái đoàn đi tiếp đến ga Hàng Cỏ tức là ga Hà Nội. Tại đây có Giáo Hữu Thái Abadle Thanh cùng các chức sắc, chức việc và đạo hữu Hà Nội đón rước. Cuộc đón tiếp rất long trọng và nhứt là GS Bảy mặc áo tiểu phục xanh, đội khăn đóng xanh, trông rất đẹp và lạ mắt.
Phái đoàn đạo đón tiếp và rước GS Bảy về thánh thất Lê Lợi, địa phận Hà Nội. Nghỉ ngơi một ngày, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh họp các chức sắc, chức việc và đạo hữu tại đây để chào mừng và hỏi han tình hình đạo sự nơi đây.

Hôm sau, ông bắt đầu đi viếng thăm các đạo hữu cao niên. Sau đó ông đi thăm xã giao các cấp chánh quyền Pháp Việt cao cấp để tạo cảm tình của các vị nầy đối với Đạo Cao Đài: viếng Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu và Tổng Đốc Nguyễn Năng Quốc, hai vị nầy là Chánh và Phó Hội Trưởng Hội Phật giáo tại đây do Toàn Quyền Pasquier dựng ra để đối phó với sự truyền bá mạnh mẽ mau chóng của Đạo Cao Đài.

Tiếp theo, Giáo Sư Bảy đến hội kiến với ông Đổng Lý Văn phòng Rikenbach của quan Toàn Quyền và Thống Sứ Bắc Kỳ Yves Chatel, v.v... GS Bảy nói tiếng Pháp rõ ràng và đúng giọng Paris, cử chỉ lịch sự, khiêm tốn, trình bày công việc ngắn gọn mà đầy đủ nên được các quan chức Pháp có cảm tình đặc biệt.

2 . Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh qui vị tại Vũng Liêm (ngày 8-4 Đinh Sửu 1937)

Giữa tháng 5 năm 1937 (Đinh Sửu), Đức Hộ Pháp cùng Hội Thánh đi Nam Vang chuẩn bị và dự lễ Khánh Thành Thánh Thất Kim Biên, giao cho Bà Chánh Phối Sư Hương Thanh ở nhà lo ngoại giao với nhà cầm quyền Pháp ở những nơi nào đạo bị làm khó dễ. Bà đi hầu tòa, rồi trở về, kế đó lâm bịnh.
Bà qui vị vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (dl 17–5–1937) đúng vào ngày lễ thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 64 tuổi.
Đức Hộ Pháp được tin điện, liền thu xếp công việc rồi trở về để cùng Hội Thánh lo tang lễ cho Bà.
Một điều huyền diệu là khi Bà Hương Thanh còn sống, bà lãnh nhiệm vụ ngoại giao với chánh quyền Pháp lo việc đạo, thì khi thoát xác đăng tiên, bà cũng lo y như vậy. Số là đạo xin phép khai đàn, nhà cầm quyền Pháp lúc đầu thì cho, sau lại cấm. Hội Thánh chưa biết tính sao thì bà giáng cơ nói: Để bà lo việc đó cho, yêu cầu Hội Thánh cử người đến xin, kỳ sau thì được dễ dàng. Quả đúng như vậy.

Sau khi Bà qui vị được 17 ngày, đến ngày 25–4 Đinh Sửu (dl 3–6–1937), bà được Đức Chí Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu sư, vì bà là người có đại công với đạo trong buổi sơ khai và là chị cả của nữ phái, dìu dẫn đàn em nữ phái.
 Về sau, Hội Thánh đem hài cốt của bà ở Vũng Liêm về Tòa Thánh, đặt vào bửu tháp Nữ Đầu Sư, xây ở phía Tây Lang, tượng của bà được tạc ở mặt tiền Tòa Thánh, phía Nữ phái, trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn sanh chiêm ngưỡng một bậc chức sắc nữ phái có đại công với đạo.
Bài thài hiến lễ bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh:
Đầy giỏ hoa lam chất ái tình,
Y theo mặt luật của khuôn linh.
Thử căn linh thể nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng ân chốn ngọc đình.
Nam hải là bờ ao thất bửu,
Tây Ninh nền tổ quán tam thanh.
Thuyền từ trở lái lìa sông lệ,
Nhớ bạn chơn mây gởi tấc thành.

3 . Lễ khánh thành thánh thất Kim Biên (ngày 13-4 Đinh Sửu 1937)
Trong quyển “HISTOIRE du CAODAISME” của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron, có thuật rõ diễn tiến cuộc lễ nầy, Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng dịch ra Việt văn, xin trích ra nguyên đoạn nầy như sau:
LỄ KHÁNH THÀNH THÁNH THẤT NAM VANG

Lễ Khánh Thành long trọng thánh thất Nam Vang được tổ chức vào thứ bảy, ngày 22 tháng 5 năm 1937, trong đó bài diễn văn của Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài (Phật giáo Canh tân) là phần chánh. (Người ta tin rằng ông Vinh là FranVois Hugo tái kiếp).

Sau đây là vài đoạn trích lục dài của bài diễn văn trên:
“Khi Hội Thánh chỉ định tôi mở lời hôm nay nhơn dịp chúng tôi sắp khánh thành thánh thất đầu tiên được xây dựng trong thủ đô Vương quốc Cao Miên, đã từ lâu tôi ngần ngại nhận lãnh cái danh dự đặc biệt nầy, sợ rằng không đủ sức cho một sứ mạng nhiều khó khăn và tế nhị.
“Phải cần có sự khẩn khoản của tất cả các hiền huynh trong Hội Thánh, đặc biệt của vị niên trưởng, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh là người đáng kính của chúng tôi, có công đầu trong Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài hay Phật giáo Canh Tân, đã chỉ định tôi xuất hiện hôm nay trước đông đảo quan khách dễ cảm kích và được chọn lựa.
“Nói tiếng Pháp còn chưa chắc chắn và nhất là không quen lên diễn đàn, tôi yêu cầu quí vị khoan hồng đối với tôi.
“... Xin quí bà và quí ông tin rằng trong ngôi nhà nầy, quí vị sẽ tìm được sự hoà bình và hòa hiệp, sự khoan dung rộng rãi nhứt, ở đây không có một tiếng nói nào có tính cách bất hòa được thốt ra, tất cả mọi người nơi đây đều có bổn phận thương mến nhau như anh chị em ruột, vâng theo một luật pháp duy nhứt của Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Đại Từ Phụ của tất cả, không phân biệt chủng tộc và quốc gia.
“Chúng tôi chợn ngày khánh thành thánh thất đầu tiên nơi dây là ngày kỷ niệm thoát xác của một người Pháp vĩ đại, một nhân vật vĩ đại: đó là Victor Hugo mà từ năm 1927, Ngài là Chưởng Đạo thiêng liêng đáng kính mến của chúng tôi.
Chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn nước Pháp, nước đã sanh ra một nhà thơ vĩ đại mà chúng ta đã học và yêu mến khi còn trên ghế nhà trường Pháp, một nước Pháp anh hùng, hào phóng và nhân đạo.
“Chính năm 1927, vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài hiện nay, Ngài Phạm Công Tắc đã đến xứ Cao Miên và chơn linh Victor Hugo giáng đàn trước tiên nhờ việc xây bàn, kế đó là nhờ một miếng ván nhỏ làm cơ và sau cùng là cây ngọc cơ. Nhờ đó thiết lập được Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài mà chơn linh Victor Hugo trở thành Chưởng Đạo thiêng liêng của chúng tôi. Nhờ những lời giáo huấn của Ngài, chúng tôi truyền bá giáo lý mới, trước tiên là trên lãnh thổ Cao Miên, kế đó sang Pháp, rồi Lào, sau đó Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
“Tiếp theo xin bày tỏ lòng kính trọng đến những vị thường xuyên vận động nơi nước Pháp hay nơi Đông Dương để binh vực Đạo Cao Đài như: Luật sư Roger Laseaux, Luật sư Lortat Jacob, Thủ Tướng Albert Sarraut, các Thống sứ Richome, Silvestre, Thibaudeau, các Dân biểu H. Guernut, Marius Moutet, E. Outrey, Paul Ramadler, Marc Rucart, Jean Piot, J.M. Renaitour, M. Voirin, A. Philip, Cô Marthe Williams, Trung tá Alexis Métois, Félicien Challaye, ông E. Tozza, Gabriel Abadle de Lestrac, Jean Laffray (Chủ nhiệm báo La Griffe (móng vuốt), Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên, v.v... Chúng tôi xin cáo lỗi sự thiếu sót ngoài ý muốn trong bài tường trình mau lẹ nầy.
“Như vậy, chúng ta họp nhau đây trong sự long trọng là để khánh thành “Ngôi nhà của Thượng Đế” tại Nam Vang.
“Thời gian đã qua khá xa, nơi đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Jersey, đối diện cái vô tận của biển cả, đối diện cái vô cùng của bí ẩn tâm linh và số phận con người, qua các cuộc xây bàn của bà De Giradin và Victor Hugo.
“Thời gian cũng đã khá xa, Đấng thiêng liêng giáng điển xuống những nhóm nhỏ gia đình ở Sài Gòn, dẫn đến sự nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung và Ngài trở thành nhà lãnh đạo cao cấp đáng kính của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân (Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương).
“Từ năm 1919, nhưng nhứt là từ năm 1925, phong trào của chúng tôi không ngừng trở nên vững vàng và chiếm được lòng tín ngưỡng và những tâm hồn mới trên khắp thế giới.
“Quả thật, giống như tất cả những cái mới nổi bật của thế giới, Đạo Cao Đài đã gặp phải chủ nghĩa hoài nghi, sự nhạo báng, sự ngờ vực về những biểu tượng của đạo có ý nghĩa nhứt: Thiên Nhãn mà người ta thấy trong nhóm Thông Thiên học và Triết lý học, chữ Vạn có nguồn gốc từ tất cả chủ nghĩa biểu tượng và từ tất cả khoa học bí truyền của nền văn minh thế giới. Những biểu tượng ấy đáng kính nhứt của chúng tôi đã bị chế nhạo hay bị buộc tội vô căn cứ, vi lý do dốt nát và không hiểu biết của những kẻ phàm tục, chỉ thấy chúng tôi ở mặt ngoài.
*   *   *
Trong dịp lễ khánh thành thánh thất Kim Biên Nam Vang Đức Hộ Pháp thuyết đạo về linh tâm

Thưa cùng chư viên quan quí chức, quí ông quí bà, chư chức sắc thiên phong nam nữ, chư đạo hữu lưỡng phái.
Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí Linh cùng càn khôn vũ trụ.
Loài người bao giờ cũng chủ tâm tìm tòi. Kiếm cái nguyên do lai lịch của mình, hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế, gọi là chúng sanh, đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh mới tìm đặng cái tâm linh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết Thiên lương do Chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là mầu nhiệm huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO.

Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM làm mục đích. Các thánh nhơn xưa thường đem cái triết lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị giáo chủ, tuy mỗi Đấng đều có cái tư tưởng đặc sắc nên triết lý cao thấp không chừng, nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội. Ôi ! Nếu luận đến hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ ràng: một vấn đề thuyết không cùng, biện không tận, vi nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do nơi Đức Chí Linh là Trời mà sản xuất.
Hễ càn khôn vũ trụ nầy vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mật tạo đoan bao nhiêu thì nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi trí não mọi tinh thần tự hiểu rằng: sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng vô tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết học đạo đức tinh thần cho nhơn tâm tức thiện tâm cũng đáng.

TÂM ấy là gì ?
Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng của trí thức tinh thần. Đạo gọi là nhứt điểm linh quang chiếu giám.
1 . Đức Chúa Jésus khi thọ pháp giải oan nơi sông Jourdain thì điểm Linh quang ấy đến với một cái hình ảnh phi cầm là con bồ câu hào quang sáng lạng.
2 . Đức Phật Thích Ca khi trì định tại vườn Bồ Đề thì điểm Linh quang ấy giáng như hình khối lửa.
3 . Đức Lão Tử khi thiền định tại thư viện nhà Châu thì điểm Linh quang ấy giáng như hình sấm sét.
4 . Đức Khổng Phu Tử khi vấn đáp với thần đồng Hạng Thác, thì điểm Linh quang ấy giáng như hình sợ sệt.

Chẳng cần luận cao xa hơn nữa, như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào quang sáng suốt; như Đức Lão Tử, Ngươn Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng Quân Lão Tổ trong năm sắc tường vân, như Phục Hy thấy Long mã phụ Hà đồ. v.v…

Nhứt điểm linh quang ấy vẫn nhiều hình dáng, vẽ không nên hình, tả không nên tướng. Ấy là một huyền bí vô chừng mà các nhà đạo đức từ thượng cổ đến chừ đã để tâm nghiên cứu tìm tàng, đôi phen phải lặn suối trèo non, chun trong hang sâu vào nơi vực thẳm.
Bởi cái chí hướng của loài người bị quyền năng của nhứt điểm linh quang thôi thúc, nên trí não tinh thần cũng xu hướng theo sự bí mật ẩn vi của quyền năng tạo đoan còn chất chứa.

Hễ có tìm thì có biết, hễ biết lại còn phải biết nữa, càng biết lại càng giấu, bởi sự hay biết của tánh đức loài người chưa hề thấu dáo đặng sự bí mật tạo đoan cho cùng tận, tức gọi là “Tầm Đạo”. Hễ càng tìm càng dốt, hễ gọi biết lại là ngu, vì chưa có một mắt phàm nhơn nào tại thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao trọn huyền vi bí mật. (De paùvres esprits prétentent qu’ ils sont dans le secret de Dỉeu. Or, je ne donne à nul humain ici-bas d’ en faire la révélation).

Ấy vậy, chữ ĐẠO vẫn để nói mà hình vật của đạo vốn khó tìm. Đạo do trí thức tinh thần mà xuất hiện, chưa có một vật chi hữu linh tại thế nầy mà không có đạo. Cái vĩ đại của đạo thật là khó rõ, mà đạo lại dễ lợi dụng.
Dưới mặt luật tương đối của đời đã biến hình, biết bao tư tưởng phô bày, biết bao tướng diện ảnh hình.
Tranh nhau từ cái khôn cái khéo, hơn nhau từ cái xảo cái ngoan, sánh nhau từ cái cao cái sâu, giành nhau từ cái sang cái trọng, để một trường luận biện chánh chánh tà tà, cho biết cái quyền năng của đạo nó tạo cái hay sự dở.

Chưa ai lấy một triết lý dầu cao siêu thế nào đặng làm môi giới chuẩn thằng hầu định đức tánh của loài người cho cùng tận thì không có một giáo lý nào dưới mặt địa cầu nầy đã đáng danh là đạo.
Chúng ta không dám chối, các tôn giáo không phải là đạo, mà chúng ta quyết hẳn rằng, các nền tôn giáo chưa đáng danh gọi đạo. Nếu biết cái triết lý do tinh thần sản xuất thì là đạo dã đành, nhưng nó chỉ là một tư tưởng trong vô cùng vô tận của trí thức tinh thẩn mà thôi, song chúng ta phải biết bao nhiêu tư tưởng khác nữa. Cái nguồn ấy chưa khô chưa cạn và chúng ta lại quả quyết rằng, hễ còn loài người thì còn có tư tưởng, cả tư tưởng ấy cho đến tận thế cũng vẫn còn.

Ấy vậy, loài người đương bôn xu trên con đường đạo chớ chưa hề tới tận nguồn cội của đạo bao giờ. Các tôn giáo tuy đáng danh đạo chớ chưa phải đạo. Tỉ như cát kia ở nơi một gò, một bãi biển, một sa mạc thì nhỏ lớn đều đặc biệt cùng nhau. Thay vì chỉ tên một gò, một bãi hay một sa mạc, lại gọi tiếng cát trơn, thì chúng ta chẳng hề chối đặng, bởi dầu một bãi, một sa mạc hay một gò, nó đều có danh là cát.

Vậy thì dầu cho tả đạo bàng môn hay là chơn tông chánh giáo, cũng đặng phép tạm xưng là đạo, những điều khinh trọng, duy để nơi cân công bình của toàn thiên lương trí thức tinh thần định đoạt.
Ta không dám xử, nhưng tự nhiên mỗi cá nhân để trí thức mà định phận.
Ta không đủ thông suốt dặng dung nạp các giáo lý của các nền Đạo đương thời mà linh tâm cho ta hiểu rằng, nó chưa vui hưởng đặng cái hay của mùi đạo.

Từ cổ chí kim, con người đã mua cái danh đạo rất nên mắc mỏ. Cái linh tâm của chúng ta vốn là tự do mà các tôn giáo đã buộc ràng nó trong một hành vi chật hẹp đặng bảo thủ cái thiên lương thì tức nhiên nó đem một cái báu vô giá đặng đổi chuộc một vật thường tình, e cho thế gian thất đạo cũng do theo lẽ ấy.

Cái khí hứng của linh tâm bao giờ cũng chú trọng theo cái hoạt động tự do, lấy thiên mạng làm căn bản thì thiên lương là tớ, linh tâm là thầy. Các tôn giáo buộc thầy tùng tớ, thì rõ tả đạo bàng môn, làm cho các mối chơn truyền thành ra bất năng vô ích.

Hỏi linh tâm do đâu mà sản xuất ?
Có phải do nơi tạo hóa Chí Linh ? đã ban cho loài người đặng cổ đủ quyền năng làm chúa cả toàn vạn vật hay chăng ? Nó là Nhứt điểm linh do nơi Đức Chí Linh mà có, thì nó là con của Trời, tức nó là Trời.

Còn Thiên lương do nơi dâu mà có ?
Thiên lương do nơi sự đối phó cùng vạn vật hữu hình lập phương chước bảo tồn sanh hoạt. Không có thiên lương thì chưa biết nhìn nhau là bạn trong trường khổ não đau thương hầu bảo thủ mạng sống lẫn nhau đặng dìu dắt nhau đi tận con đường giải thoát.
Có linh tâm mới biết mình là một vật trong vạn vật của Chí Tôn đào tạo, rồi nhìn Chí Tôn trong hình vạn vật mà tự hiểu rằng, Chí Tôn phải có tự nhiên tánh đức bác ái từ bi, mới nuôi nấng trọn chúng sanh vạn vật.
Tâm lành của trời tức là tâm lành của người. Hình ảnh vĩ đại trước kia nó biến ra hình ảnh tối tiểu sau nầy nên gọi nó là thiên lương.

Vì vậy, các giáo lý của mấy vị chưởng giáo từ trước đều là cơ quan un đúc bảo trọng thiên lương mà thôi. Hễ có linh tâm tức nhiên có thiên lương, dầu không cần kiếm, tự nhiên nó cũng có. Chúng ta chưa hề dám nói các tôn giáo là vô ích mà ta chỉ than rằng: Chưa đủ.

Dạy đời cho lành mà không dạy đời cho ngoan thì chẳng khác nào dạy cho biết cái sống mà quên cho hiểu cái chết, hay là dạy cho đọc sách mà không cho học chữ. Chớ chi, các tôn giáo biết chú trọng linh tâm hơn là cần lo gầy dựng un đúc thiên lương thì con đường chí thiện của chúng sanh sẽ đặng quang minh quảng đại hơn nhiều, mà cái đạo của đời sẽ tùy theo linh tâm trở nên hiền lương nhơn hậu hơn. May ra khối khổ não của đời chưa đến nỗi to lớn nguy hiểm như thế nầy.

Chúng ta thoạt nhỉên quan sát tận tường, bởi các bằng cớ tạo đời do nơi tư tưởng của các tôn giáo hiển nhiên tại thế nên đoán chắc rằng, nếu giáo lý nào mà rộng mở cho sự tự do hoạt động của điểm linh tâm thì điểm linh tâm tùy theo sự nhỏ lớn của sự ân hậu khoan hồng ấy mà hưởng ứng, do đó, các tôn giáo mạnh yếu khác nhau cũng vì lẽ ấy.

Hiện thời, đạo Thiên Chúa đã đặng thế lực mạnh mẽ, đáng danh là một tôn giáo toàn cầu, kể tổng số hơn các tôn giáo khác. Ngoài ra phương chước làm cho thành tướng các triết lý chơn ngôn, những tay cầm giềng mối đạo đã rộng mở cho đời đôi chút tự do tư tưởng, đạo Thiên Chúa nhờ nương cái đức tín của một Đấng Chí Tôn nên thế lực vững vàng kiên cố. Các quốc dân Châu Âu đã đặng khôn ngoan hơn, đặng tài tình hơn, đặng cao trọng hơn, tưởng cũng do may hưởng các đặc ân của Đấng Chí Tôn cho rộng thế hoạt động thành hình của tự do tư tưởng.

Trái lại, chúng ta lại buồn thay cả khu địa giới cõi Á Châu nầy chịu dưới quyền cảm hóa của Phật giáo từ cổ đến kim, nên dân sanh phải chịu lỡ bước văn minh tấn bộ.
Kiếm duyên cớ, chúng ta đã thấy hẳn rằng: Triết lý mà Phật đã bó buộc tư tưởng của con người vào một khuôn khổ hành vi chật hẹp nên mới ra đến đỗi. Một tôn giáo đã khuyên nhủ đã dụ dỗ, đã yêu cầu cho điểm linh tâm tự diệt, rồi lại để cho thiên lương vi chủ, thì là một nền tôn giáo biểu chủ phải tự tử để cho tớ cầm quyền thì bảo sao không chịu cái nạn tán gia bại sản. Thảm thay ! Nếu phải vong phế vì quốc sự bạc nhược ấy, các sắc dân nơi cõi Á châu nầy phải tìm tòi đặng học vấn với một thầy nào, tức nhiên phải đến gõ cửa Khổng gia hay tìm nhà Lão giáo.

Ông Khổng thì biểu ôm một kho sách cho dẫy đầy đủ phương chước mưu mô đặng trị an thiên hạ, đặt đủ truyện đủ tuồng, đủ vai đủ vở nhưng rủi thay đời chưa kiếm đặng một mặt kép hay đặng làm tuồng theo đúng vở, thành thử không khác nào một ông thầy tuồng đặt bài vở thiệt hay nhưng không cổ kép tài đặng hát.

Ấy là một tôn giáo rộng lý thuyết mà hẹp thật hành, bởi thúc phược tự do tư tưởng.
Nho giáo như cái chậu, cái khôn ngoan của đời tức là Linh tâm như cây kiểng, cấy kiểng ở trong chậu chẳng hề đặng to lớn bao giờ, duy để cho đời đặng ngoạn mục xem ngắm cái hay của sự u nần cùi cụt.

Ông Lão thì chỉ khuyên nhủ dân sanh nuôi nấng cái điểm linh tâm cho cường cho thạnh, nhưng không cho nó hoạt động biến hình, thành thử dạy đời về khôn khéo mà ghét đời về ăn ở thì chẳng khác nào như một ông thầy thuốc đã trị bịnh cho người, biểu đừng ăn cứ ngủ. Tưởng ra thì một giáo lý dạy chúng sanh nằm ngủ đặng đợi hết đói thì dầu cho các môn đệ của người bảo thủ vẹn vẻ lấy điểm linh tâm, thì điểm linh tâm ấy cũng hóa bất năng vô ích. Cái triết lý của đạo Lão là một triết lý rộng mở cho điểm linh tâm, mà trở lại một tôn giáo thúc phược linh tâm hơn hết.
Đường đạo vốn mênh mông, tâm đức đi ngõ nào cho đúng nẻo ? Tâm đức vốn vô ngằn, đạo lý nào cho phù hạp ? Hai câu vấn đáp mật thiết tương thân nầy, nếu mấy vị giáo chủ còn đương thời hỏi đến cũng phải nhăn mày nhíu mặt. Chúng ta cũng nên riêng tưởng rằng: chưa có một cái quyền năng nào mà thúc phược đặng điểm Linh tâm, hầu bỏ nó vào một khuôn khổ hữu hình hữu dạng, thì tức nhiên chưa có một nền tôn giáo nào đủ tài đức quyền hành đặng làm chủ đức tin thiên hạ.

Đời phải học với cha mẹ, cha mẹ chưa đủ đức mà dạy cho nên danh, đời phải học với thầy, thầy chưa đủ dức mà dạy cho nên phận, đời phải học với vua, vua chưa dủ đức mà dạy cho nên đạo, duy phải tìm Trời là Đấng đủ quyền năng tạo thế, lại là Cha của đức tánh loài người, thì mới đủ phương pháp dạy người cho nên người vẹn vẻ. Đạo Cao Đài vốn là cơ quan để nắm tay của đời đặng dắt vào trường học của Trời mà chớ.”

4 . Cứu tế nạn nhân lũ lụt (ngày 1-9 Đinh Sửu 1937)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Hiệp Thiên Đài
Văn phòng
Sở Phước Thiện
Số: 3
THÔNG CÁO

Cho chư chức sắc thiên phong, chức việc và toàn đạo nam nữ.
Chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền muội,
Đã trót hơn tháng nay, vì nạn nước lụt càng ngày thêm nghiêm trọng làm cho trong Nam ngoài Bắc, ngườii người đều xôn xao lo phương cứu cấp anh em đồng bào phải chịu nạn đói khó. Các báo Tây, Nam đồng hô hào cổ động kêu gào gợi mối thương tâm các nhà từ thiện mở lòng lân ái, kẻ ít người nhiều, đặng làm điều thiện hầu đỡ ngặt trong lúc nguy khốn nầy.
Hội Thánh truyền tin buồn nầy cho toàn đạo rõ đặng để tâm lo tán trợ với quan viên chức sắc của chánh phủ, hay là ủy Ban cứu tế nạn dân, đặng giúp ích cho công cuộc nầy mau được hiệu quả.
Bần tăng trân trọng để lời xin chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền đệ, hiền muội ráng lo phương pháp truyền bá tin nầy cho toàn đạo hữu, vì tấm lòng từ thiện đáng quí của những bậc hảo tâm trong đạo chẳng thiếu.

Hội Thánh xin để lời cảm tạ trước, vì phần nhiều trong đạo đều là hạng nghèo khó mà biết lo nghĩa hiệp, quyên trợ cho những gia đình đương cơn bị nạn thủy tai đói ỉạnh, biết lo chia sớt mảnh áo chén cơm thì có chi quí bằng, xin chư hiền huynh, hiền tỷ, hiền muội khá để lòng sốt sắng về yiệc nầy.
Tòa Thánh, ngày 1–9 Đinh Sửu (dl 4–10–1937).
KHAI PHÁP HTĐ
Chưởng Quản Sở Phước Thiện
TRẦN DUY NGHĨA
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị hữu hình Đài

5 . Đức Hộ Pháp thuyết đạo về luật thương yêu (ngày 14-10 Đinh Sửu 1937)
Thưa cùng chư viên quan quí chức, quí ông, quí bà, chư chức sắc thiên phong lưỡng phái, chư đạo hữu nam nữ.

Thưa, chúng ta đã rủi sanh nơi cõi trần nầy, tỉ chẳng khác chi người khách du lịch. Trước khi để bước ra đi, hằng mong tưởng rằng: cái tánh háo kỳ của ta sẽ đặng thỏa mãn, ngoạn mục đặng một phong cảnh tốt tươi đẹp đẽ, hứng chí thích tình.

Ôi ! Biết đâu chúng ta lại chẳng mong tìm mảy may sự hứng chí thích tình ấy mà phải chịu đòi phen khổ nhọc, lặn suối trèo non, thắng nguy mạo hiểm. Chí hướng tâm thần của loài người bao giờ cũng đeo đuổi mãi theo con đường hạnh phúc, chẳng phải hạnh phúc nơi xác thịt hình hài, mà ta lại mong tìm cái hạnh phúc tinh thần hơn hết nên đòi phen ta đày đọa hình hài xông lướt đến nơi luồng đầm hổ huyệt.

Tâm chí của khách du lịch vẫn nhiều hạng tùy theo khí phách của mỗi người.
Có kẻ đã đổ đường lên đèo xuống ải tìm cho ra cảnh an nhàn, khi đến tận nơi gặp phải chốn đìu hiu quạnh quẽ, non nguy nước hiểm, phong cảnh âu sầu thì nhắm mắt dậm chơn, nghiến răng chắc lưỡi mà than thở rằng: Uổng công trình ngàn trùng diệu viễn mà lạc bước đến chốn vô tình.

Cái thất vọng ẩy cũng nên cho là quá đáng, nhưng cũng có người đặng thiên tánh tự nhiên thích hợp với nước biếc non xanh, rộng bước tang bồng hồ thỉ, ham hứng trăng thanh, vui mùi gió tối, quen cùng điểu thú, bạn với cỏ cây, có sẵn chất phong lưu tài tử thì đâu đâu cũng là cảnh hữu tình: dầu đẹp dầu thô, dầu hèn dầu trọng, dầu lịch xinh tươi nhuận, dầu cùi cụt đìu hiu thì cái cảnh thích của người cũng gần một giá, bởi khí hứng của khách hữu tình vốn để vào nơi mật thiết nhiệm mầu của máy hóa công tạo vật.

Những mặt du lịch nhà nghề nầy, dầu rủi để chơn nơi trái cảnh thì lại đem cả cái ái tình mà châm chế vào chốn bất phước vô duyên đặng thay thế cho cái phước thích tình, ngoạn mục. Thật ra thì nơi nào có vẻ u nhàn ảm đạm lại là nơi giục bước khách hữu tình.
Những cuộc đau thảm ngờ ngờ trước mắt con người, đối với khí phách của bậc siêu hoát tâm hồn vốn y một lẽ.

Ta chẳng hiểu rõ đặng đích xác, bởi nguyên do nào mà ta đã sanh nơi thế gian nầy rồi ta lại chết trong vòng tục nầy, nhưng thiên lương ta chiêm nghiệm tự biết lấy rằng: vốn chẳng phải là việc ngẫu nhiên hay vô duyên cớ.
Những khách đồng thuyền của ta phân ra nhiều hạng, con đường tấn bộ trí thức của mỗi kẻ vẫn không đồng, dầu cho ngậm miệng cúi đầu ruổi dong trên ngả tự tri tự giác, hiu quạnh một mình đi nữa, thì mọi điều hành động của ta cũng đã tả thành một bài học hay in vào cuốn sách đời của toàn thiên hạ.

Ôi ! Ai đã mang thi phàm xác tục nầy rồi cũng phải chịu dưới quyền thương yêu của tạo vật, ta dầu không biết thương ai tất cả thì ta cũng buộc biết thương ta mà đã còn biết thương thân ta thì ta chưa hề đặng phép quên thương thân của kẻ khác.

Nơi trường tranh sống của con người, vốn chẳng khác chi chiến trường náo nhiệt. Nếu chẳng có cái năng lực thương yêu của Đấng Hóa Công dính vào óc não của chiến sĩ võ quân thì đời chắc phải tàn diệt lẫn nhau lâu rồi mà chớ.

Ta lại còn dám mạo hiểm xưng hô lên rằng: Con người dầu cho có nạn oán nghịch tàn hại lấy nhau đi nữa, cũng do luật thương yêu của trời mà có vậy. Nếu như ai vấn nạn thì ta lại trả lời rằng: Khuôn luật thương yêu chia ra hai mặt:
1 . Thương mình
2 . Thương người

Hai hình trạng của luật thương yêu ấy phải nương theo cây cân công bình tạo đoan mới hòa bình tâm lý. Nếu quá thương mình mà bỏ người thì bị cái điên vị ngã, còn quá thương người mà quên mình thì bị cái ngây vị chủng.

Ấy vậy, rõ thật ra thì ta đã quả quyết rằng: cũng vì cơ quan vị ngã vị chủng phản khắc tương tranh mà gây thành loạn lạc vậy. Trời phải định cho có nơi lòng của mỗi người một cây cân công bình thiêng liêng mới đặng. Cây cân công bình ấy là chi ? Ấy là thiên lương, tục gọi là lương tâm của ta đó vậy.

Hại thay ! Thiên lương hằng buộc ta phải ngó chăm chỉ sự thật của đời vì chính nó là bạn thương yêu mật thiết của đời, rồi buộc ta phải thú thật rằng: dầu cho ta muốn làm màu chê ghét đời, gớm ghê đời, kinh khủng đời, chán ngán đời mà ta chưa hề buổi nào từ bỏ đặng đời bao giờ.
Trái lại, những khách hờn đời lại là người thương đời hơn hết. Cái quyền năng cảm hóa phi thường của tuồng đời, sớm thay hình, chiều đổi dạng, diễn trên sân khấu thế tình nhiều màn mới mẻ, lắm lớp hay ho mãi mãi hoài hoài, làm cho thính giả khán quan ngồi không biết mỏi nghe chẳng nhàm tai đặng gầy sự nghiệp của đời thêm vĩ đại.

Nơi cảnh tục ta đây, Đạo gọi là sông mê bể khổ, vốn còn náo nhiệt hình bóng của loài người, là nhờ sự khéo khôn của quyền đời đào tạo.
Số khách hữu tình của đời ngày nay đã tăng thêm chín trăm hai triệu mặt.
Đời càng phụ ta lại càng thương, đời càng nguy ta càng thêm mến. Vì cớ nên ta hằng thấy, hễ buổi nào đời bị khổ não hiểm nguy thì có thánh nhơn trổ mặt.
Thật sự thì đời có quyền phụ ta còn ta không phép phụ đời. Nhờ đây mà bậc thượng đẳng nhơn sanh thường nương theo bí pháp của đời mới đào luyện tinh thần siêu thoát. Sự thế còn dài, còn người còn khổ. Có khổ mới có hay, có dài mới có thú. Cơ nghiệp của đời thâu thập các món thuế của khách trần, phải nạp giọt đau thương, phải đóng sưu sầu thảm.

Nầy đảnh thương sơn, nọ nguồn lệ thủy hãy càng ngắm càng cao, càng nhìn càng rộng, dầu ta xuống hang sâu hay chen vào vực thẳm, trên chẳng đụng trời dưới không thấu đất, hầu mong xa lánh nợ đời quyết tránh hồng trần tính lìa thế tục, không muốn gặp mặt của bạn khách trần, kỵ lóng đặng lời ăn tiếng nói hầu mong diệt tận thất tình cho đặng đi nữa thì thoạt nhiên ta sẽ thấy cả sắt đá cỏ cây phát động âm thanh xúm nhắc luật thương yêu tạo vật.
Ta dầu cứng lòng chắc dạ, chưa để cho ai cảm hóa với ngôn ngữ thường tình, khi nghe đặng ngôn ngữ của vạn linh thì ắt cái quyền lực ái tình nó tăng thêm vô độ.

Những bậc lánh trần, ta xem kỹ lại là ai ?
Có phải mấy vị thầy tu là trước hết chăng ?
Vậy thì có tu mới biết thương đời, chẳng phải thương đời với khuôn viên hình bóng mà vì nồng nàn của khí phách tinh ba, thì sự thương ấy mới ra cao thượng.
Ôi ! Biết bao nhiêu khách đã chịu riêng đau, ấp thảm, ngậm khổ nuốt sầu, chịu lắm cuộc bể dâu, xem những nỗi nên hư thế sự.

Khi đêm tàn canh lụn, ẩn thân nơi nước trí non nhân, đặng lén dòm quanh cuộc thế, gởi tình chung cho gió mát trăng thanh, nạp đức tánh cho trời cao đất rộng, một bóng một hình, không ai là bạn. Cái may của một kiếp sanh bậc siêu hoát tâm hồn đã thường phải vậy. Ấy là một kiếp sanh để cho đời phụ bạc, chớ chẳng phải cốt để phụ bạc lại đời, đến đỗi dầu ép thân theo thú hạc cầm, cũng chưa gặp mặt tri âm tri kỷ, sống cũng không ai hay, thác cũng không ai biết. Ôi ! Tưởng cái lịch sử của thế tình, nếu có thiếu sót thì do nơi đấy mà ra khuyết điểm.

Hỏi, nếu đời biết cảm tình, gìn ân giữ nghĩa, thì những bạn đồng thuyền ấy, ta phải khép vào nơi hạng phẩm và giá cả bậc nào?
Đức Thích Ca bị bỏ đói, Đức Lão Tử bị cút côi, Đức Khổng Phu Tử bị xô đuổi, Đức Chúa Jésus bị tàn sát, nhưng may thay, dầu cho mảnh thân bị nơi tay ác độc của nhơn sanh tàn hại thế nào, khi qui thần đời biết hiểu biết nghe, biết nhìn tiếng than thở đau thương, ái nhân ái vật và đặng công nhận là người ân của nhơn loại thì cũng nên gọi rằng chết gặp kiếp duyên mà trừ cái khổ sống mang kiếp trái. Ta cũng nên chắc hẳn quả quyết rằng, từ thượng cổ đến chừ, cũng còn lắm bậc siêu hoát tâm hồn, thùy từ mẫn khổ, cũng gần như các vị giáo chủ trên đây nhưng thiếu cái bằng chứng ngôn ngữ thế tình mà cộng nghiệp của kiếp sanh phải ra mai một.
Ôi ! Anh cả ôi ! Anh cũng là một người đã chịu mang một kiếp sanh để cho đời phụ bạc, chớ chưa hề biết phụ bạc lại đời. Em nhớ khi dêm hôm tăm tối, anh hay thuật tâm tình. Ngoài em thì chưa ai hiểu dặng chỗ để tâm trí của anh là nơi nào ?

6 . Tờ thỉnh nguyện của giáo dân Hà Nội
Nội dung của Tờ Thỉnh nguyện gồm 3 điểm chánh kể ra như sau: (Trích Hồi Ký của Lễ Sanh Phạm Tài Đoan)
1 . Xin xét lại và đặt địa phận đạo Bắc Việt trực thuộc HTNG như cũ.
2 . Xin Hội Thánh Tây Ninh cử phái đoàn ra Bắc điều tra vụ ông GS Bảy bị kết tội chia phe phân phái mà khỗng được xét xử.
3 . Đề nghị Hội Thánh Tây Ninh cầu xin các Đấng thiêng liêng giáng cơ cho bài Kinh Sám Hối khác thay thế bài kinh hiện thời mượn của Minh Lý.

Điều thỉnh cầu thứ nhứt nhắc lại thư thỉnh nguyện tháng 6 vừa rồi, xin đặt địa phận đạo Bắc Việt trực thuộc HTNG như cũ để dễ bề làm việc. Tuy ông GS Bảy hiện giờ ở Vân Nam hành đạo, anh chị em vẫn coi ông như người lãnh đạo tinh thần.

Điều thỉnh cầu thứ hai nhằm giúp ĐHP cũng như Hội Thánh Tây Ninh khỏi mang tiếng nặng tay với một chức sắc hữu công như GS Bảy. Một cuộc điều tra và xét xử minh bạch sẽ đánh tan tất cả mối nghi ngờ và không còn ai trách cứ Hội Thánh Tây Ninh nữa nếu quả thực ông GS Bảy có tội.
Điều thỉnh cầu thứ ba: Chúng tôi nhằm cải tiến đạo khi nêu lên vấn đề thứ ba. Đạo hữu miền Bắc phần lớn gồm trí thức tân học và cựu học, rất thán phục giáo lý và hình thức Đạo Cao Đài rất tân tiến như kinh kệ, cách thờ phượng, đạo phục, việc bỏ vàng mã, bỏ đồng bóng, ma chay giản đị nghiêm trang nghĩa là Đạo Cao Đài tổng hợp cái chí thiện của Phật giáo với cái chí mỹ của Gia Tô giáo.

Nhưng anh chị em lấy làm lạ tại sao chúng ta vẫn cứ sử dụng bài Kinh Sám Hối (KSH) lỗi thời vì trong KSH chứa đựng nhiều đoạn tả cảnh tra tấn tội nhơn dưới địa ngục. Chúng tôi nghĩ rằng những cảnh tra tấn dưới địa ngục là do trí tưởng tượng của người phàm phác họa ra để răn đe kẻ ác. Ngày nay con người đã tiến hơn xưa về mặt trí tuệ, chúng ta không thể gạt họ hay mê hoặc họ bằng những hình thức mê tín nữa.
Chúng tôi thiết nghĩ Đạo Cao Đài xuất phát từ cơ bút nên đề nghị Hội Thánh TTTN cầu cơ xin Đức Chí Tôn bài KSH khác, nếu không đổi thì xin bớt những đoạn tả cảnh tra tấn dưới địa ngục. Việc thay đổi KSH không thể coi là sai chơn truyền vì bài KSH hiện thời mượn của bên Minh Lý, sự thay đổi sẽ lôi cuốn thêm nhiều trí thức vào đạo.

ĐẠO NHỰT THƯỜNG HÀNH LÀ SÁM HỐI TÂN KINH

Buổi đầu khai đạo, đạo Cao Đài chưa có đủ kinh nên các Đấng mới dạy ông Vương Quang Kỳ và các vị thiên sứ qua bên chi Minh Lý thỉnh kinh. Lần thỉnh kinh đó không thấy có ai nói rõ có bài kinh sám hối hay không ?

Sự thật đến năm 1928, nhị vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt cho in quyển “Tứ thời nhựt tụng kinh” (có Hội Thánh kiểm duyệt) không có bài kinh sám hối (tiểu đệ còn giữ nguyên bản)

Năm 1930 trong tập “Đại đàn nghi tiết” Ngài Thượng Đầu Sư mạnh dạn bỏ các bài: Cầu cơ, Mừng thay, Tịnh khẩu chú, 3 bài dâng tam bửu của chi phái.
Năm 1937 họ đạo Hà Nội dâng thỉnh nguyện thư xin thay bài sám hối bằng bài khác.
Năm 1970 họ đạo Định Tường, HTLVT yêu cầu tạm ngưng cúng bài kinh sám hối vì không còn phù hợp với sự tiến hóa của nhơn sanh.
Vào đầu xuân năm Mậu Dần (1938) Đức Lý Giáo Tông giáng cơ cho bản kinh “Đạo nhựt thường hành” có 28 bài lục bát dễ đọc (chỉ có bài 22 và 27 viết theo thể song thất lục bát). Đạo nhựt thường hành dạy thực hành đạo (cúng, tịnh) hằng ngày. Cuối mỗi bài có niệm danh Thầy (1 lạy rồi đọc tiếp bài kế).

ĐNTH nêu lên phương pháp tu thân có 6 mặt tu thân:
1 . Tam cang
2 . Ngũ thường
3 . Tình thầy trò, thân bằng quyến thuộc
4 . Sinh hoạt tâm linh
5 . Luyện kỷ
6 . Cuộc sống đời thường

Còn về giáo lý, bản kinh có những quan niệm về vũ trụ quan, nhân sinh quan, luân hồi, luật cảm ứng, luật vô ngã, ngũ giới cấm, tứ đại điều quy và công bình bác ái. ĐNTH hơn hẳn kinh sám hối về mọi mặt, quả xứng đáng và đến lúc thay kinh sám hối bằng kinh ĐNTH.
Đức Lý kết luận: “Những kẻ biết tuân theo ĐNTH thì được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng phát huệ và rõ cơ mầu nhiệm”

* Chú thích:
Đạo Phật, Đức Thích Ca không thuyết pháp ban kinh. Mỗi bộ kinh ra đời đều do một vị thinh pháp truyền lại. ĐNTH trong văn tịch pháp do Thái Bạch truyền ở Ngũ Phụng Kỳ Sơn “Kỳ sơn động, Ngũ phụng cung” là cái động nhỏ nằm trên đỉnh núi Heo, phía sau núi Bà trông qua núi Phụng (nhà Đại Đồng nuôi các hướng đạo sinh). Trên động có viết 6 chữ lớn: “Kỳ sơn động, Ngũ phụng cung”, nằm trên đất của ông Lê Văn Sở tín đồ Cao Đài Tây Ninh.

7 . Công việc truyền đạo tại Hà Nội
Trước khi Hà Nội được Hội Thánh TTTN bổ chức sắc ra truyền đạo thì tại đây đã có ông Bùi Văn Hòa, sanh quán tại Bắc Việt, làm công chức trong Sở Bưu Chính, đổi vào làm việc ở Nam Kỳ, gặp thời kỳ khai Đạo Cao Đài, ông liền nhập môn theo Đạo và đắc phong Lễ Sanh phái Ngọc, thánh danh là Ngọc Hòa Thanh. Năm 1930, ông Hòa hưu trí trở về Bắc, sống tại Hà Nội. Ông Lễ Sanh Hòa không có liên lạc với Hội Thánh nên TTTN không biết ông đã về Hà Nội.
1 . Năm 1934, Hội Thánh TTTN bổ Giáo Hữu Thượng Tuất Thanh (Nguyễn Văn Tuất) quê quán ở Nam Định đi truyền đạo ở Bắc Việt và Hà Nội. Ông Tuất ra đến Bắc, chưa đầy 1 tháng thì ông lâm bịnh nặng và qui liễu. Ông được Hội Thánh TTTN truy phong: Đầu địa phận Đạo Vô Vi Bắc Việt. Ông GH Tuất thường giáng cơ dạy đạo trong địa phận Bắc Việt và mách bảo cho chức sắc mỗi khi sắp có biến.
2 . Hội Thánh bổ ông Giáo Hữu Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) ra thay thế ông Giáo Hữu Tuất. Ông Chữ đến Hà Nội, ở tạm nơi nhà người quen ở ngỏ Tức Mặc, phố Ga Hàng Cỏ. Mật thám Pháp tại Hà Nội canh chừng ông quá gắt, ông không hoạt động được gì, nên ông xin Hội Thánh cho ông trở về Tòa Thánh.
3 . Năm 1934, lần nầy Hội Thánh TTTN cử ra Bắc một phái đoàn truyền giáo do Giáo Hữu Thượng Ngoạn Thanh (Nguyễn Văn Ngoạn) cầm đầu gồm các vị: Lễ Sanh Thượng Điểm Thanh, CTS Thạch, PTS Phòng.
Phái đoàn truyền giáo khi tới Hà Nội liền bắt liên lạc với “Hội Nam Kỳ Tương Tế” để nhờ giúp đỡ. Quí ông trong Hội Tương Tế là Mai Văn Biên, Mai Văn Nghĩa, Hồ Trọng Tuân, liền xin nhập môn vào Đạo Cao Đài và tích cực lo lắng, tìm mướn nhà để lập Thánh Thất truyền Đạo.
Quí vị ấy mướn được một căn nhà ở phố Harmand để lập thánh thất và làm văn phòng. Thánh Thất nầy được tạm gọi là thánh thất Harmand là thánh thất đầu tiên thiết lập tại Hà Nội, là cơ sở đầu tiên để truyền bá Đạo Cao Đài.
4 . Đạo mới lập còn rất nghèo, không đủ tiền để mướn nhà lâu dài, đành phải dời đi. Có một đạo hữu tâm đạo là Phan Đăng Chức hiến cho đạo một phần căn nhà đang ở của ông để làm thánh thất, ở số 20 ngõ Quỳnh Lôi, đường Bạch Mai, thuộc ngoại thành Hà Nội. Tại đây số người nhập môn theo đạo mỗi lúc một đông. Thánh thất Quỳnh Lôi trở nên chật chội nên Ban Cai Quản thánh thất định mướn một căn nhà rộng hơn để làm thánh thất.
5 . Ban Cai Quản thuê được một cái nhà rộng gồm 2 căn tại phố Lê Lợi số nhà 49 - 51. Thánh thất được dọn về đây chiếm 1 căn, còn 1 căn để làm văn phòng. Nơi đây tạm gọi là thánh thất Lê Lợi. 
Home               1 ]   [ 2 ]   [ 3 ]   [ 4 ]   [ 5 ]   [  6  ]  [ 7 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét