Điều thứ mười sáu: Thượng Hội.
Bữa lễ khai Hội thường lệ thì ba nam Chánh Phối Sư đến rước Giáo Tông và Hộ
Pháp, Nữ Chánh Phối sư thì đi rước Nữ Đầu Sư.
Cả chức sắc HTĐ và CTĐ nam nữ hiện diện tại Tòa Thánh mà không có phận sự cần
yếu, mặc thiên phục đến trước điện hầu chực tiếp rước.
Khi Giáo Tông và Hộ Pháp đến thì Lễ Viện cho lịnh đánh 6 hồi trống và
chuông (đánh bát nhã, mỗi hồi 12 tiếng), dứt hồi chuông trống thì chư Nghị viên
vào Đại Điện làm lễ bái Đức Chí Tôn, nhạc đánh bản Nhạc Tấu Quân Thiên. Chừng
nhạc dứt, cả Nghị viên tọa vị mới khai Hội.
Bốn Chánh Phối Sư tạm xuất ngoại, chờ có lịnh mời mới đến. Cả chức sắc khác
vào Thiên Phong Đường chờ, chừng bãi Hội đến hầu lễ đưa.
Hội nhóm tại Bửu Điện, nơi Đại Điện nổi hương đăng, cửa màn mở ra, 6 Lễ
Sanh ba phái đứng hầu trong Bát Quái Đài, 2 Nữ Lễ Sanh hầu bàn Phật Quan Âm, 2
Lễ Sanh phái Ngọc hầu bàn Quan Thánh. Mỗi giờ đồng hồ phải thay đổi.
Ty tuần phòng cảnh Sát và Bảo Thể Quân có một Giáo Sư phái Ngọc cai quản đứng
trước cửa hầu giữ chỉnh tề cho đến bãi Hội. Mỗi 2 giờ thì đổi phiên. Chức sắc ấy
mặc thiên phục và buộc dây sắc lịnh tam sắc đạo của Hiệp Thiên Đài ban cho
trong lúc hội nhóm, khi Hội giải tán, đem nạp lại cho HTĐ.
Lúc bãi Hội, chư Nghị viên ra về, Lễ Viện cũng cho lịnh đánh 6 hồi chuông
trống, là lễ đưa. Bốn Chánh Phối Sư đưa chư Nghị viên đến dinh mỗi vị.
Điều thứ mười bảy:
Thượng Hội thường xuyên thì nhóm tại Giáo Tông Đường, không có mấy lễ rước
đưa như hội thường lệ.
Ty Cảnh Sát Tuần Phòng cũng canh giữ nhưng mặc y phục thường và không buộc
dây sắc lịnh. Lễ Viện không đổ chuông trống và đánh nhạc.
Điều thứ mười tám: Nếu ngày sau có điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích thì truất bỏ hoặc
thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 16–11 Giáp Tuất (dl
22–12–1934)
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)
* * *
HỘI NHƠN SANH
NỘI LUẬT
Chương thứ I: Về Đại Hội tại Tòa Thánh
Điều thứ nhứt: Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ tư, đỉều thứ bảy của Đức Lý Giáo Tông
và Phạm Hộ Pháp thì Thượng Chánh Phối Sư là Nghị Trưởng
của Hội Nhơn Sanh.
Hội Nhơn Sanh sắp đặt như vầy:
1 . Thượng Chánh Phối
Sư:. . . . . . . . . . . . . . . . Nghị Trưởng
2 . Nữ Chánh Phối Sư:.
. . . . . . . . . . . . . . . . Phó Nghị Trưởng
3 . Lễ Sanh, Chánh, Phó
Trị Sự, Thông Sự, Phái viên: . . Nghị viên
4 . Một Nghị viên nam
và 1 Nghị viên nữ:. . . . . . .Từ Hàn
5 . Hai Nghị viên nam
và 2 Nghị viên nữ:. . . . . . Phó Từ Hàn
Điều thứ hai: Thái và Ngọc Chánh
Phối Sư và các Quản Lý Tòa Nội Chánh (ngày nay gọi là Thượng Thống các Viện) đều
đến dự Hội hoặc trả lời những điều nào Nghị viên không rõ mà xin bày tỏ, hoặc
minh triết những vấn đề Nghị viên hạch hỏi. Nếu một vấn đề nào bị công kích thì
Chánh Phối Sư hay là Quản Lý thuộc về vấn đề ấy phải trả lời hay bày tỏ cho khỏi
sanh điều khó khăn cho việc bàn cãi.
Điều thứ ba: Một Chức sắc HTĐ đến
chứng kiến và bảo thủ luật lệ không cho Hội phạm đến.
Điều thứ tư: Hội Nhơn Sanh để
bàn tính những việc:
1 . Giáo hóa nhơn sanh.
2 . Lo liệu phương hay
cho Đạo với Đời khỏi điều phản khắc, và nâng cao tinh thần trí thức của nhơn
sanh.
3 . Phổ độ nhơn sanh
vào cửa Đạo, dìu dắt tín đồ cho khỏi trái bước và trọn vâng các luật lệ của Đạo.
4 . Xin sửa cải thêm bớt
hay hủy bỏ những luật lệ của Đạo không phủ hạp với trình độ trí thức, tình thần
của nhơn sanh.
5 . Lo cho nền Đạo được
trong ấm ngoài êm và đủ phương liệu đặng phổ thông nền chơn giáo.
6 . Xem xét và công nhận
phương diện chánh trị của Đạo, quan sát sổ thâu xuất tài sản và nghị số phỏng định
năm tới.
Điều thứ năm: Mỗi năm, Hội Nhơn
Sanh nhóm nhằm ngày rằm tháng giêng, những Hội viên và Phái viên phải có mặt tại
Tòa Thánh ngày 13 tháng đó và phải ở lại cho đến ngày bãi hội. Khi đến Tòa
Thánh thì lại Nội Chánh (Lại Viện) ghi giấy thông hành, chừng về cũng trở lại Nội
Chánh ghi giấy thông hành. Nếu vô cớ đến trễ thì không đặng dự nhóm.
Điều thứ sáu: Mỗi năm, mùng 1
tháng chạp thì Nghị Trưởng gởi chương trình những vấn đề sẽ đem ra bàn giải cho
các Đầu tỉnh đạo lúc Hội Nhơn Sanh nơi tỉnh đạo nhóm ngày rằm tháng nầy, đem ra
bàn cãi xem xét trước cho kỹ lưỡng.
Điều thứ bảy: Hội viên và Phái
viên nhớ mỗi năm đến lệ về nhóm chớ không có thơ mời, cũng nhớ đem giấy chứng rằng
mình là Nghị viên hay Phái viên đặng nhập Hội.
Điều thứ tám: Nghị viên muốn xin
canh cải, thêm bớt, hủy bỏ điều chi trong Luật Đạo hay là điều chi khác nữa thì
phải gởi tờ xin 20 ngày trước bữa hội nhóm, cũng phải chỉ rõ mình xin sửa cải,
thêm bớt hay là hủy bỏ việc gì.
Điều thứ chín: Khi nhóm hội, cả Nghị viên phải tuân y thể lệ của bổn “Luật Lệ chung các
Hội”. Nếu vô cớ mà không đến nhóm hội, thì phải bị mất quyền Hội viên hay là
Phái viên. Nếu là Hội viên thì mất quyền ấy 3 năm, còn Phái viên thì trong 3
năm không quyền ra ứng cử. Cả Nghị viên phải mặc thiên phục hay là đạo phục tùy
theo phẩm mình.
Điều thứ mười: Nội trong 20 ngày sau khi hội nhóm thì Từ
Hàn phải lập vi bằng cho rồi, trong đó có Nghị Trưởng,
Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam nữ và một Chức sắc HTĐ ký tên vào.
Vi bằng nầy phải lập 5 bổn: 1 bổn gởi cho Thượng Hội, 2 bổn gởi cho Hội Thánh, 1 bổn cho HTĐ, và giữ lưu chiếu 1 bổn.
Khi Hội Thánh và Thượng Hội gởi lại Thượng Chánh Phối Sư 3 bổn đã công nhận hay
là bác bỏ khoản nào thì Thượng Chánh Phối Sư giữ lưu chiếu 1 bổn và gởi ngay
cho Nữ Chánh Phối Sư và Ngọc Chánh Phối Sư mỗi vị 1 bổn đặng lo liệu cách thi
hành.
Điều thứ mười một: Trước bữa Đại Hội mà nam nữ phải nhóm chung nhau, Thượng Chánh Phối sư hoặc
Nữ Chánh Phối Sư đặng có điều chi phải hỏi ý kiến riêng Hội viên phái của mình
thì được quyền mời nhóm nam theo nam, nữ theo nữ.
Kỳ nhóm nầy, Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập vi bằng 2 bổn, Nghị Trưởng
và Từ Hàn ký tên, để lưu chiếu một bổn, còn một bổn, như Chánh Phối Sư Nam thì
gởi cho Chánh Phối Sư Nữ, còn Chánh Phối Sư Nữ thì gởi cho Chánh Phối Sư Nam, hầu
hiểu rõ những điều của mỗi phái đã bàn tính.
Điều thứ mười hai: Nhóm ngoại lệ.
Khi có việc chi thật trọng hệ cần yếu thì được phép nhóm ngoại lệ Đại Hội tại
Tòa Thánh, một năm một kỳ mà thôi. Thiệp mời nhóm gởi trước 15 ngày, hoặc gởi điện
tín thì 3 ngày trước.
Chương thứ II: Về sự chọn cử Phái Viên
Điều thứ mười ba: Lễ Sanh, Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự đều có quyền đến dự nhóm Hội Nhơn
Sanh, nhưng bữa ấy mà cả thảy đều đến Tòa Thánh thì nơi làng nơi quận không còn
Chức sắc, chức việc, phận sự phải bỏ bê, e xảy ra điều khó khăn. Vậy định như
sau đây rất tiện:
Sau khi nhóm tại tỉnh, đặng bàn cãi quyết định và lập vi bằng các vấn đề
trong chương trình của Thượng Chánh Phối Sư gởi đến thì mỗi phẩm chọn cử một Hội
viên đặng thay mặt cho tỉnh mình hầu đến Tòa Thánh mà dự Đại Hội.
Còn Phái viên thì cũng một vị như mấy phẩm đã kể trên đây. Việc chọn cử nầy
phải tuân y Đạo Nghị Định thứ 20 của Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp. Tại
tỉnh thành Tây Ninh là tỉnh thánh địa, cũng tùy một luật ấy.
Nghị viên Hội Nhơn Sanh lãnh trách nhậm một hạn kỳ là 3 năm. Phái viên đắc
cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh chụp 3 tấm hình giao Đầu Tỉnh Đạo, gởi cho Nội Chánh
(Lại Viện) đặng gắn vào giấy chứng và sổ bộ, cùng vô khuôn treo tại nhà Hội.
Cả Lễ Sanh, chức việc và Phái viên không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được
thong thả đến Tòa Thánh nhập Hội, nhưng được dự thính mà thôi. Nơi Hội có sắp đặt
chỗ ngồi cho chư vị được dự thính.
Muốn tỏ ý chi cho Hội thì do nơi chư Nghị viên tỉnh đạo của mình mà thôi.
Chương thứ III: Hội Ngánh thường xuyên
Điều thứ mười bốn: Lập một Hội Ngánh thường xuyên đặng bàn tính các điều thường, ngoại
chương trình, không việc trọng hệ cần yếu xảy ra thình lình, nhứt là việc Thượng
Chánh Phối Sư hoặc chức sắc nào mà Hội Thánh cho quyền thông công cùng chánh phủ.
Thượng và Nữ Chánh Phối Sư cũng làm Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn Chánh Phó
nam nữ cũng lãnh y phận sự, Nghị viên thì sắp đặt y như sau đây:
Cũng có mặt một vài chức sắc Nội Chánh tùy theo việc bàn tính và một chức sắc
Hiệp Thiên Đài.
Một năm nhóm 3 kỳ (4 tháng 1 kỳ):
- Nhóm kỳ nhứt: mồng 6 tháng 4
- Nhóm kỳ nhì: ngày 13 tháng 8
- Nhóm kỳ ba: ngày 13 tháng 11
Phải đến trước bữa Hội 1 ngày.
Khi có việc trọng hệ gấp rút thì Nghị Trưởng được quyền gởi điện tín mời
nhóm, nhưng mà một năm không quá 2 lần. Điện tín mời nhóm gởi 3 ngày trước bữa
nhóm.
Nội trong 10 ngày sau khi nhóm hội thì lập vi bằng và làm y như nhóm Đại Hội.
Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam nữ với một chức sắc HTĐ ký tên tờ vi bằng.
Lúc Đại Hội Nhơn Sanh thường lệ, trước khi giải tán, thì chư Nghị Viên các tỉnh
Nam Kỳ (nam, nữ riêng nhau) phải phái mỗi tỉnh một vị đặng thay mặt nơi Hội
Ngánh thường xuyên cho tỉnh của mình.
Toàn các nước lân bang cũng đồng quyền y như phép công cử nơi Việt quốc mà
sắp đặt những Phái viên nhập về Đại Hội Nhơn Sanh theo luật lệ sở định nầy. Nghị
viên Nam và Nữ phải đồng một số. Tòa Thánh sẽ lập nhà khách để cho chư Phái
viên ngoại bang đến cư ngụ, nhứt là sẽ cấp đất Nội Ô Tòa Thánh đặng chia cho mỗi
tỉnh đạo cất nhà cửa cùng cơ sở vĩnh cửu đặng người thay mặt mình ở thường
xuyên gần Tòa Thánh.
Điều thứ mười lăm: Ban ủy viên xem xét tài chánh.
Hội Ngánh thường xuyên chọn 3 Nghị viên nam và 3 Nghị viên Nữ, đặng mỗi kỳ
nhóm lệ thường xuyên, 3 ngày trước bữa nhóm, xem xét sổ sách của Hộ Viện, rồi lập
tờ phúc đem ra trình cho Hội.
Mỗi kỳ nhóm lệ thì Nghị Viên lãnh làm kiểm soát phải đến Tòa Thánh trước 3
ngày đặng có thì giờ xem xét sổ sách.
Điều thứ mười sáu: Nếu ngày sau có điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích thì truất bỏ
hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa
Thánh, ngày 16 tháng 11 năm Giáp Tuất
(Le 22 Decembre 1934)
Hộ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)
* * *
HỘI THÁNH
NỘI LUẬT
Chương thứ nhứt: Đại Hội Hội Thánh
Điều thứ nhứt: Chiếu theo Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định thứ tư, điều thứ 5 và thứ 6
của Đức Lý Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp thì các phẩm vị chức sắc kể sau đây đặng
vào Hội Thánh:
1 . Thái Chánh Phối
Sư:. . . . . . . . . . . . . . . . . Nghị Trưởng
2 . Nữ Chánh Phối Sư:.
. . . . . . . . . . . . . . .Phó Nghị Trưởng
3 . Phối Sư, Giáo Sư,
Giáo Hữu nam nữ:. . . . . . .Nghị viên
4 . Một Nghị viên nam
và một Nghị viên nữ:. . . .Từ Hàn
5 . Hai Nghị viên nam
và hai Nghị viên nữ:. . . . Phó Từ Hàn
6 . Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư với Chánh, Phó Quản Lý Cửu Viện thay mặt Nội
chánh đứng minh triết các vấn đề chư Nghị viên không rõ đem ra hạch hỏi, được
quyền bàn cãi và bỏ thăm.
7 . Thập nhị Thời Quân HTĐ phải có mặt tại ba Hội Nhóm đặng lo bảo thủ đạo luật không cho Hội phạm đến.
Nếu một vấn đề
nào, sau khi bàn cãi rồi mà Cửu Trùng Đài bỏ thăm thuận, còn Hiệp Thiên Đài thì
bỏ thăm nghịch hoặc là Cửu Trùng Đài bỏ thăm nghịch mà Hiệp Thiên Đài bỏ thăm
thuận thì vân đề ây phải bàn tính lại mà bỏ thăm lại. Nếu hai phen bàn cãi mà
vẫn cũng còn phản khắc nhau thì Chánh Chủ Hội tuyên bố liền rằng vấn đề ấy sẽ
dâng lên Thượng Hội định đoạt.
Điều thứ hai: Chức sắc hàm phong được
dự thính mà thôi. Có chỗ sắp đặt riêng cho những vị nầy ngồi.
Điều thứ ba: Hội Thánh bàn định mấy
việc sau đây:
1 . Các vấn đề
của Hội Nhơn Sanh đã bàn định hoặc của Thượng Hội gởi xuống đặng lập phương ban
hành
2 . Lo về sự
phổ độ, việc hành đạo tha phương, tài liệu, tài chánh của Đạo và của nền chánh
trị của đạo
3 . Bàn cãi và
công nhận số phỏng định thâu xuất năm tới.
4 . Xin sửa
cải thêm bớt hay là hủy bỏ những luật lệ không phù hạp với sự tấn hóa về tâm
ttí nhơn sanh.
5 . Các việc
có ảnh hưởng về nền Đạo.
Điều thứ tư: Mỗi năm hội nhóm thường lệ
một kỳ, ngày Rằm tháng 7. Nội trong ngày 12 tháng 7, Nghị viên phải có mặt tại
Tòa Thánh và phải ở lại cho đến ngày mãn hội. Khi đến Tòa Thánh thì lại Nội
Chánh (Lại Viện) ghi giấy thông hành, chừng về cũng trở lại Nội Chánh ghi giấy
thông hành. Nếu vô cớ mà đến trễ thì không đặng dự nhóm.
Điều thứ năm: Nghị Trưởng lập chương
trình các việc sẽ đem bàn tính, rồi nội ngày rằm tháng 6, gởi cho cả Ttiên
phong mỗi vị một bản.
Điều thứ sáu: Nghị viên mỗi năm đến lệ
về nhóm, chớ không có thơ mời riêng.
Điều thứ bảy: Nghị viên muốn xin canh
cải thêm bớt, hủy bỏ điều chi trong luật đạo hay là điều chi khác nữa, thì phải
gởi tờ xin trước ngày mồng 1 tháng 6 đặng Hội Thánh xem xét và Nghị Trưởng ghi
vào chương trình.
Như có điều
chi muốn hạch hỏi hay là công kích tại giữa Hội, thì trong tờ xin chỉ rõ ràng
về khoản chi, trước ngày Rằm tháng 6 đặng Hội Thánh đủ thời giờ mà minh xác.
Trong mấy ngày
hội nhóm, Nghị viên được quyền xin hạch hỏi hoặc công kích Nội Chánh. Nội Chánh
có quyền trả lời liền lúc đó, hầu làm cho vui lòng Nghị viên. Thảng như nhằm
việc trọng hệ phải quan sát lại, thì Nghị Trưởng được quyền đình lại đến kỳ hội
nhóm thường xuyên đem vấn đề ấy ra mà minh triết, hoặc gởi thơ cùng châu tri
trả lời các điều hỏi.
Điều thứ tám: Khi nhóm hội, chư Nghị
viên tuân y luật lệ chung các Hội. Buổi nhóm, nếu vô cớ mà không đến nhóm hội
thì phải bị đệ ra Tam Giáo Tòa.
Tư cách Nghị
viên: Cả Nghị viên phải mặc thiên phục cho trang hoàng giữ vẻ nghiêm trang.
Điều thứ chín: Nội trong 20 ngày sau
khi nhóm, thì Từ Hàn lập vi bằng (5 bổn) (Nghị Trưởng Chánh Phó và Từ Hàn nam
nữ với một Chức sắc Hiệp Thiên Đài ký tên) giữ lưu chiếu 1 bổn, đệ lên Thượng
Hội 3 bổn, và Hiệp Thiên Đài 1 bổn. Chừng Thượng Hội gởi trả 3 bổn lại, Nghị
Trưởng giữ lưu chiếu 1 bổn, và giao cho Ngọc Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư
mỗi vị 1 bổn đặng ban hành.
Điều thứ mười: Nhóm ngoại lệ.
Khi có việc
chi thật trọng hệ cần yếu thì được phép nhóm ngoại lệ, một năm một kỳ mà thôi.
Thiệp mời nhóm gởi trước 15 ngày hoặc gởi điện tín thì 3 ngày trước.
Điều thứ mười một: Trước bữa Đại Hội mà
nam nữ phải nhóm chung nhau, Thái Chánh Phối Sư hoặc Nữ Chánh Phối Sư có điều
chi phải hỏi ý kiến riêng chức sắc phái của mình thì được quyền mời nhóm riêng.
(Nam theo nam, nữ theo nữ).
Kỳ nhóm nầy,
Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập vi bằng 2 bổn, Nghị Trưởng và Từ Hàn ký tên
để lưu chiếu 1 bổn, còn 1 bổn thì như Chánh Phối Sư nam gởi cho Chánh Phối Sư
nữ, còn Chánh Phối Sư nữ thì gởi cho Chánh Phối sư nam, hầu hiểu rõ những điều
mà mỗi phái đã bàn tính.
Chương thứ hai: Hội Ngánh thường xuyên
Điều thứ mười hai: Lập một Hội Ngánh
thường xuyên đặng bàn tính các việc thường, ngoại chương trình hoặc điều trọng
hệ cần yếu xảy ra thình lình, nhứt là việc Thượng Chánh Phối Sư hay là chức sắc
nào của Hội Thánh được quyền giao thông với chánh phủ. Mỗi năm nhóm 3 kỳ. (4
tháng 1 kỳ)
Kỳ nhứt: ngày
13 tháng 2
Kỳ nhì: ngày
13 tháng 6
Kỳ ba: ngày 13
tháng 10
Nội ngày 12
phải có mặt tại Tòa Thánh. Nội trong 10 ngày sau khi nhóm thì lập vi bằng và
làm y như nhóm Đại Hội. (Vi bằng cũng có 5 vị kể phẩm tước trong điều thứ 9 ký
tên vào).
Khi có việc
trọng hệ cần kíp thì Nghị Trưởng được quyền gởi điện tín mời nhóm, nhưng mà một
năm không quá hai kỳ. Điện tín mời gởi 3 ngày trước bữa nhóm. Nghị viên, nếu vô
cớ không đi nhóm thì bị đệ ra Tam Giáo Tòa.
Hội viên của
Ban thường xuyên phải lập như sau nầy:
Thái Chánh
Phối Sư cũng làm Nghị Trưởng
Nữ Chánh Phối
Sư làm Phó Nghị Trưởng
Từ Hàn nam nữ
lãnh y phận sự
Số Nghị viên
định như sau đây:
a . Thượng và
Ngọc CPS và chư Quản Lý Nội Chánh, như Quản Lý Viện nào vắng mặt thì Phó Quản
Lý thay thế.
b . Chín Nghị
viên chọn trong thiên phong các tỉnh chia ra 9 quận như sau đây:
1 . Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An
2 . Gia Định, Tây Ninh
3 . Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một
4. Mỹ Tho, Gò Công
5. Bến Tre, Trà Vinh
6 . Sa Đéc, Vĩnh Long
7 . Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên
8 . Cần Thơ, Rạch Giá
9 . Bạc Liêu, Sóc Trăng
(Mỗi Quận cũng cử thêm 1 Nghị viên)
Mỗi nước lân bang như Cao Miên, Ai
Lao, được cử từ 1 đến 3 Nghị viên tùy ý (cũng cử 1 hoặc 3 chánh và 1 hoặc 3
phụ).
Nghị viên quận ở Nam Kỳ lãnh trách
nhiệm 1 năm mà thôi. Còn Nghị viên các nước lân bang được lãnh 1 năm hoặc 3 năm
tùy ý. Nghị viên nam và nữ phải đồng một số. Tòa Thánh sẽ lập khách đình để cho
chư vị ấy đến cư ngụ.
Điều thứ mười ba: Ban ủy viên xem xét tài chánh. Hội ngánh thường xuyên chọn 2 Nghị viên
nam và 2 Nghị viên nữ ở các tỉnh Nam Kỳ hoặc các nước lân bang đặng mỗi kỳ 4
tháng, 3 ngày trước khi nhóm hội thường xuyên, xem xét sổ sách bút toán của Hộ
Viện một lần rồi lập tờ phúc đem ra trình khi nhóm hội.
Mỗi kỳ nhóm Hội ngánh thì Nghị viên
lãnh làm kiểm soát, phải đến Tòa Thánh trước 3 ngày đặng có thì giờ xem xét sổ
sách.
Điều thứ mười bốn: Nếu ngày sau còn điều chi sửa cải, hủy bỏ hoặc cần ích cho Hội Thánh
thì truất bỏ hoặc thêm vô luật lệ nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 16 tháng 11
năm Giáp Tuất
(Le 22 Decembre 1934)
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
PHẠM CÔNG TẮC (ấn ký)
Đức Hộ Pháp thiền định, làm việc và
sinh hoạt hằng ngày.
1 . Ông Nguyễn Ngọc Tương lên chức
Giáo Tông của Ban Chỉnh Đạo (ngày 8-1 Ất Hợi 1935)
Chi phái Bến Tre lập đại hội Vạn
Linh kéo dài 4 ngày, từ ngày 8-1 Ất Hợi đến ngày 11-1 Ất Hợi (dl từ 11 đến
14-2-1935) dưới quyền chủ tọa của ông Lê
Bá Trang (Thượng Chưởng Pháp Bến Tre để
biểu quyết các vấn đề sau đây:
1 . Chọn cử người cầm giềng mối đạo,
thay thế Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung đã quy vị.
2 . Định thái độ đối với bức thư của
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đòi các giấy tờ đất đai nơi thánh địa do ông Nguyễn
Ngọc Tương đứng tên trong bộ trước đây.
3 . Việc trở về làm việc nơi Tòa
Thánh Tây Ninh.
Về việc chọn cử người cầm giềng mối
đạo thay thế Đức Quyền Giáo Tông. Sau 3 ngày bỏ phiếu bầu cử chức Giáo Tông,
khui thùng phiếu, kết quả đếm được:
- Ông Lê Bá Trang được 27 phiếu
- Ông Nguyễn Ngọc Tương được 5326
phiếu
- Về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo
được 5225 phiếu.
(Theo tài liệu của Ban Chỉnh Đạo Bến
Tre)
Như vậy ông Nguyễn Ngọc Tương đắc cử
Giáo Tông Bến Tre và ông nhận sự đắc cử nầy trong ngày 11-2 Ất Hợi.
Đại hội Vạn linh tại thánh thất An
Hội Bến Tre đều bỏ phiếu tán thành việc trở về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo, nên
cử ra một phái đoàn đại diện rất đông đảo do ông Lê Bá Trang dẫn đầu đi lên Tây
Ninh vào ngày 20-1 Ất Hợi để điều đình với Đức Hộ Pháp cho họ được làm lễ tấn
phong ông Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông tại TTTN, sau đó tổ chức cửu
viện và làm việc luôn tại Tòa Thánh.
Tin này được lan truyền nhanh chóng
đến TTTN. Hội Thánh Tây Ninh liền triệu tập cuộc họp khẩn cấp để đưa ra các
biện pháp đối phó cần thiết trong trường hợp chi phái Bến Tre gây bạo động
chiếm đoạt Tòa Thánh giống như ngày 20 tháng giêng năm trước. Ba vị Chánh Phối
Sư nam và vị nữ CPS liền khẩn cấp ra châu tri cho toàn đạo biết, kêu gọi các
đạo hữu gấp rút về Tòa Thánh cho kịp xem tận mắt cuộc khuấy động nầy.
Phái đoàn do ông Lê Bá Trang hướng
dẫn lên TTTN rất đông đảo, gồm khoảng 800 người vào ngày 16-1 Ất Hợi (dl
19-1-1935) trước ngày ấn định khi hội ở Bến Tre 4 ngày, để gây bất ngờ cho TTTN
không chuẩn bị đề phòng kịp.
Nếu có lòng chơn thật hòa hợp hòa
bình thì ông Trang chỉ cần lập phái đoàn gồm năm bảy người là đủ, cần gì phải
800 người để gây áp lực. Đến nơi, ông Trang nhìn thấy Tòa Thánh được giữ gìn
nghiêm nhặt với một lực lượng bảo vệ trật tự hùng mạnh nơi các cửa ra vào nội
ô. Phái đoàn của ông Trang mất hết khí thế tỏ ra e dè, ông Trang viết 2 cái
thơ: 1 gởi Đức Hộ Pháp và 1 gởi ban phụ chánh, cho biết ông và nhơn sanh muốn
vào Tòa Thánh để điều đình việc hòa hiệp chung cùng lo việc đạo như xưa (không
dám nói việc làm lễ đăng điện tại TTTN cho ông Tương lên ngôi Giáo Tông).
2 . Thầy phong Dương Văn Giáo chức
Bảo Cô Quân (ngày 10-1 Ất Hợi 1935)
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI giáo đạo nam phương
Thầy chào các con,
Thầy đã hết lòng cầu khẩn Lý Thái
Bạch cho các con, song chánh trị đạo là quyền đặc biệt của Thầy đã ban cho nó,
lại gặp buổi khó khăn, chinh nghiêng rối rắm nên nó phải giữ nghiêm luật pháp
khó nỗi tuân vì.
Thầy đã sai Trung đến yết kiến nó
đặng cầu rỗi cho toàn Hội Thánh, nhưng đặng hứa có một điều là thâu nạp cả sớ
cầu phong, nhưng dặn buộc những kẻ ấy phải trọn hiến thân cho đạo. Hộ Pháp dẫn
đến trước mặt nó từ người đặng cho nó định phân phẩm tước.
Tắc ! con nghe Thầy dặn: Con ngày
nay đã cầm sanh mạng của đạo nơi tay, con lại đủ quyền năng đạo đức với nghị
lực tinh thần, con phải có dạ yêu thương những người vô duyên bạc phước. Con
cầm một cây phướn chiêu hồn đi đầu thánh thể của Thầy thì con phải nhớ đường
trường sơn hải, nguy hiểm khó khăn của bước thiêng liêng là dường nào, rồi chậm
chậm dừng chơn đợi đoàn con dại của Thầy với nghe. Con ráng lấy chút dạ từ bi
chở che đứa bịnh, ấy là con làm ơn riêng cho Thầy đó.
Giáo ! Con đặng phong vào chánh vị
Bảo Cô Quân. Thầy cậy con một điều là để hết dạ yêu thương, binh kẻ hèn, giúp
người khổ. Con nắm lưỡi gươm huệ kiếm đặng dẹp lối chông gai cho đạo êm đềm
bước tục. Ấy là trách nhậm khó khăn nhưng cũng là phương làm con nên vinh diệu.
Tắc ! Con phải tuyên bố lịnh Thầy
cho nhơn sanh đều biết nghe. Con đã cầu xin, lần lượt Thầy sẽ ban chức phẩm…..
Sau khi cầu phong cho các vị công
quả Phạm Môn vào hàng Lễ Sanh Giáo Thiện (chỉ có ông Trịnh Phong Cương được
phẩm Giáo Hữu), Đức Hộ Pháp định bổ mỗi vị lãnh trách nhậm làm Đầu Họ Phước
Thiện một tỉnh.
Như vậy, Đức Hộ Pháp chính thức khai
mở Cơ Quan Phước Thiện kể từ ngày 15-2 Ất Hợi. Phạm Môn đã bị chánh quyền Pháp
đóng cửa nên biến thành Cơ Quan Phước Thiện khắp cả các địa phương.
Đức Hộ Pháp chọn 20 vị Lễ Sanh Giáo
Thiện để bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện 20 tỉnh trong Nam Kỳ, rồi dạy bắt thăm hễ
ai trúng đâu thì đi đó.
Đức Hộ Pháp lại ban cho những vị
được cầu phong kỳ nầy (15-2 Ất Hợi, dl 19-3-1935) mỗi vị một đạo hiệu.
Đức Hộ Pháp có thuyết đạo về Phạm
Môn ngày 30-8 Quý Tỵ (dl 7-10-1953) như sau:
Phạm Môn là gì ? Do nơi đâu mà nảy
sanh ra Phạm Môn ?
Phạm Môn là nhà phật, Phạm là phật,
Môn là cửa, tức cửa phật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển I
trang 119 về khoảng thi văn có một bài thi tứ tuyệt, chính mình Đức Chí Tôn
giáng cho thi như vầy:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn
Vô lao bất phục hồi chơn mạng
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, nghĩa là gì ?
Nghĩa là Chí Tôn kêu cả con cái Đức
Chí Tôn thức giấc cho mau hiến thân vào cửa Phạm.
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn nghĩa là khuyên chúng sanh ráng tu hành, tùng
khuôn viên kỷ luật nhà phật thì ngày sau linh hồn đặng siêu thăng thoát hóa vào
cõi thiêng liêng hằng sống.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng nghĩa là Đức Chí Tôn dạy con cái của Ngài,
không có công lao khổ hạnh trong cửa đạo thì không thể nào trở về ngôi xưa vị
cũ cho đặng.
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn nghĩa là nhằm lúc thế kỷ 20 nầy, thời kỳ Đức
Chí Tôn rộng mở cửa phật độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu
tỉnh ngộ, hủy cả hành vi thế sự đem thân vào cửa đạo chịu nâu sòng khổ hạnh cho
đặng thì tự nhiên đắc đạo tại thế đó vậy.
Thưa chư chức sắc thiên phong nam
nữ,
Bài thi nầy do chính Đức Chí Tôn
giáng dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển hai mươi mấy năm trường, song ít ai để ý
tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền vi mầu nhiệm của đạo. Do bởi tấm màn
bí mật nên khó nổi truy tầm, song cũng có lắm người vén được màn bí mật ấy, nên
ngày nay nhơn sanh mới hưởng được giọt nước cam lồ của Đức Từ Bi chan rưới cho
toàn nhơn loại.
Đời quá bạo tàn cho nên Đức Chí Tôn
giáng trần mở đạo cho con cái của Ngài biết các ngôi thần thánh tiên phật đều
tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu.
Trong thời ấy, Bần Đạo vâng lịnh Đức
Chí Tôn xuống thế mở đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục linh xuống thế mở đạo,
con mở bí pháp trước hay thể pháp trước ?
Bần đạo mới trả lời: - Xin mở bí
pháp trước.
Chí Tôn nói: - Nếu con mở bí pháp
trước thì phải khổ đa, đang lúc đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở bí pháp trước cả
sự bí mật huyền vi của đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối
đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở thế pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh
giành phá hoại cả cơ thể hữu vi hư hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn là mặt
bí pháp còn thì đạo còn.
Bí pháp là Hiệp Thiên Đài giữ.
Thể pháp là Cửu Trùng Đài cầm quyền
đặng giáo hóa.
Đang khi cơ quan Cửu Trùng Đài mở
mang bành trướng về mặt phổ thông chơn
giáo thì bên Hiệp Thiên Đài, Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn mở Phạm Môn. Dùng
tấm màn bí mật bao phủ khuất lấp cả hành vi, không kẻ phàm nào hiểu đặng.
Mười mấy năm khổ hạnh nâu sòng trong
cửa Phạm ẩn dật, tạo nên cả cơ thể hữu tướng dường ấy. Hại thay ! Chúa quỉ biết
rõ cơ mầu nhiệm nên mới tương liên cùng chánh phủ Pháp tìm hiểu yếu lý huyền vi
của Phạm Môn, liền ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sanh ra trăm ngàn sở phước
thiện.
Từ ngày Phước Thiện ra đời cho đến
nay thì toàn cả nhơn sanh nam nữ vào cửa Phước Thiện nầy mà đoạt vị rất nhiều,
đã hiển nhiên đi theo bài thi của Đại Từ Phụ mà Bần đạo vừa đọc trên đây.
Thưa chư chức sắc thiên phong nam
nữ.
Cơ đạo của Chí Tôn giáng lập kỳ ba
là cốt yếu vớt cửu nhị ức nguyên nhân phần nhiều còn hỗn loạn trong hàng tín
đồ, đặng vạch lối tìm đàng mở ngõ hầu trở về ngôi Phạm.
Trường xuất thánh của đạo, Đại Từ
Phụ đã mở rộng mà hại thay những người giữ cửa rất hẹp hòi lại quá ư nghiêm
khắc, Phước Thiện Phạm Môn ra đời kêu réo mỏi hơi, song hàng nguyên nhân phần
nhiều bị đóng cửa chẳng vào thì ngày nào độ tận chúng sanh mới trọn chữ phổ độ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn
nói rằng: “Nếu con người ở dưới thế này muốn làm giàu thì phải làm ra nhiều
của, còn thần thánh tiên phật muốn đắc đạo thì phải có công quả. Thầy đến thế
nầy, Thầy lập một trường công đức. Vậy các con muốn đoạt thủ địa vị mình thì
phải đến trường Thầy mà thi thố, chớ không đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.
4 . Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn lập các
phẩm chức sắc cấp dưới Hiệp Thiên Đài (ngày 16-2 Ất Hợi 1935)
CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN hay VICTOR HUGO
Cười…Khi nãy có Thượng Phẩm và Quyền
Giáo Tông nơi đây, song hai vị mới hộ tiếng nữ phái.
Cười…Quí hóa dữ ha !
Thưa Hộ Pháp, Bần đạo để lời chia
vui cùng Ngài. Khi hôm qua, nhờ có thánh chỉ Chí Tôn nên mới đặng rộng đường
xuất thánh.
Bần đạo có để lời trân trọng cầu
thưởng cho học tu nên mới đặng cao phong phẩm giá. Cười…
Phẩm trật rắc rối khó nói rõ, nhưng
chia ba:
Pháp, Đạo, Thế thì theo sự hiểu biết
của Bần đạo như vầy:
Sĩ
Tải là Secrétaire Archiviste
Lên phẩm Truyền
Trạng là Greffier
Rồi lên phẩm Thừa
Sử là Commissaire de la justice
Phẩm Giám
Đạo là Inspecteur
Lên phẩm Cải Trạng
là Avocat
Lên phẩm Chưởng
Ấn là Chancelier
Lên phẩm ấy
rồi tùy phái lên đại vị Hiệp Thiên Đài
nhưng phải biết rằng: Chưởng Ấn phải lên địa vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mà đắc
công phổ thông đặng một nước nào rồi mới vào chánh vị.
Lợi và mấy vị
kia là Sĩ Tải của HTĐ mà thôi.
* Thăng.
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ
thập niên)
Tòa
Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Phạm Hộ Pháp
Số: 3 SẮC LỊNH
Cho Hội Thánh
Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.
Bần đạo xin
cho chư chức sắc thiên phong và đạo hữu lưỡng phái rõ, vì quan toàn quyền có
lòng nhơn cho ĐĐTKPĐ được sự tự do tín ngưỡng và cúng kiếng thong thả như các
đạo đã có nơi miền Đông Pháp nên Hội Thánh cần phải tái mở rộng cửa các thánh
thất, hằng ngày cho nhơn sanh đến sùng bái Đức Chí Tôn, kể từ ngày 22-5-1935
(20-4 Ất Hợi) là ngày vía kỷ niệm Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn hay là
Victor Hugo.
Chư Đầu tỉnh
đạo phải chăm nom việc cúng kiếng tứ thời và ngày vía, cúng sóc vọng theo kiểu
mẫu đã thi hành nơi Tòa Thánh từ thử.
Hội Thánh phải
ban tờ kiết chứng và giấy căn cước của đạo cho chư Đầu tỉnh đạo đặng mỗi khi
hành đạo nơi nào đều trình cho viên quan quý chức ngoài đời, hầu ngăn ngừa
những điều giả dối đã xảy ra lâu nay.
Xin Ngọc Chánh
Phối Sư phải tức cấp ấn tống sắc lịnh nầy đặng truyền bá cùng các nơi.
Tòa
Thánh, ngày 12-4 Ất Hợi (14-5-1935)
HỘ
PHÁP
Chưởng
quản nhị hữu hình đài
Hiệp
Thiên và Cửu Trùng
Ký
tên: Phạm Công Tắc
2 .
Thành lập họ đạo và thánh thất Hà Nội (ngày 20-5 Ất Hợi 1935)
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ
thập niên)
Tòa
Thánh Tây Ninh
Địa
phận Bắc Kỳ
Thánh
thất Hà Nội
Văn
phòng Tiếp Thế
CHÂU TRI
Cho chức sắc thiên phong nam nữ.
Cho chức việc và đạo hữu lưỡng phái.
Châu tri số 1:
Kính cùng chư hiền huynh và chư hiền
tỷ,
Mối đạo nơi Bắc thành đã trải qua
một cơn khảo đảo rất dữ dội nhưng cũng vì đó mới thấy được tâm thành trí vẹn
của chư hiền huynh chư hiền tỷ và cuộc hiệp nhứt ngày 14 tháng 5 rồi đây đặng
hành đại lễ tại thánh thất Hà Nội là một bước rất vẻ vang cho đạo lắm vậy.
Bần tăng xin để lời khen ngợi tất cả
chư chức sắc, chức việc và chư đạo hữu lưỡng phái: cái công trình vĩ đại của
nhiều vị, Hội Thánh vẫn chẳng quên, mà sự lạc lầm của một vài người Hội Thánh
cũng vui lòng hỷ xả.
Hiện nay đạo đã đến thời kỳ phải ra
thiệt tướng thì tất nhiên toàn đạo phải chung chịu dưới một mặt luật mà thôi,
thế nên Bần tăng xin khuyên toàn đạo từ đây phải tuân y theo luật lịnh dưới đây
mà hành chánh tùy theo phẩm trật và chức trách của mỗi vị. Bần tăng buộc lòng
cho hay trước rằng, thoảng còn ai vi lịnh tự quyền lập điều phạm pháp thì Hội
Thánh sẽ tức cấp chiếu y luật đạo mà trục ra khỏi thánh thể Chí Tôn cho khỏi
rối loạn chơn truyền chớ không dung dưỡng nữa.
LUẬT LỊNH
Về việc lập họ đạo Hà Nội.
Điều thứ nhứt:
Xứ Bắc Kỳ (Hà Nội và Hải Phòng) đối với đạo là một địa phận đạo dưới quyền
chưởng quản của một vị Đầu địa phận đạo.
Điều thứ nhì:
Kể từ ngày 14-5 Ất Hợi (14-6-1935), châu thành Hà Nội đối với Hội Thánh là một
họ đạo ở dưới quyền chưởng quản của một vị đầu họ đạo và một vị phó đầu họ đạo.
Điều thứ ba:
Họ đạo Hà Nội chia ra 3 quận đạo ở dưới quyền chưởng quản của 3 vị đầu quận
đạo. Chư vị đầu quận đạo phải do theo họa đồ của Bần tăng đã vẽ và có treo tại
thánh thất Hà Nội mà trông nom quận mình.
Điều thứ tư:
Quận đạo chia ra Hộ đạo, Hộ đạo chia ra Ấp đạo. Chánh trị sự làm đầu một Hộ
đạo, Phó trị sự và Thông sự làm đầu một Ấp đạo.
Điều thứ năm:
Mỗi vị Đầu quận đạo sẽ tùy theo số đạo hữu trong quận mình mà chia ra Hộ đạo và
Ấp đạo, công cử Chánh, Phó trị sự và Thông sự.
Điều thứ sáu:
Mỗi khi công cử chức việc Đầu hộ đạo phải nhóm đạo hữu tại thánh thất phải lập
vi bằng rồi lập tờ phúc nạp cả vi bằng cho Đầu quận đạo phê chuẩn.
Chức việc được đắc cử phải có Đầu họ
đạo công nhận và ngày nào được chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo ban đạo cấp rồi
mới vào chánh ngạch
Điều thứ bảy:
Mỗi tháng Đầu quận đạo phải lập Nguyệt để (y theo kiểu mẫu HT ban hành) đệ lên
cho Đầu họ đạo biết rõ tình hình và cả cơ hành động của đạo trong quận mình.
Đầu họ đạo cũng phải lập Nguyệt để gởi cho đầu địa phận. Đầu địa phận gởi
Nguyệt để đến chủ trưởng HTNG.
Điều thứ tám:
Đầu địa phận phải tùng vị chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo (HTNG)
Đầu họ đạo phải tùng lịnh Đầu địa
phận.
Đầu quận đạo (ĐQĐ) phải tùng lịnh
Đầu Họ Đạo
Chánh, Phó trị sự và Thông sự phải
tùng lịnh ĐQĐ
Không ai được vượt bực giao thiệp
ngay với chức sắc trên mình, hay là điều chi mà không cho người mình tùng quyền
hay trước.
THÁNH THẤT HÀ NỘI
Điều thứ chín:
Từ đây, họ đạo Hà Nội duy có một tòa nhà chung để sùng bái Đức Chí Tôn là thánh
thất Hà Nội, hiện nay đặt tạm nơi đường Lê Lợi số 61. Thánh thất là nơi trụ cà
khối đức tin của nhơn sanh, là nhơn chống vững ngọn cờ đại đạo. Vậy chúng ta
phải để hết lòng nhiệt thành về việc tô điểm và tu bổ làm sao cho thánh thất càng
ngày càng được hưng sùng cường thịnh. Thế tình thường hay trông nơi ngọn cờ ấy
mà định phân thế lực và mối tương thân tương ái của đạo, xin chư hiền huynh và
chư hiền tỷ khá nhớ.
Điều thứ mười:
Ngoài ra ngày sóc vọng mỗi tuần đều có đại đàn tại thánh thất bữa thứ bảy, đúng
8 giờ rưỡi tối.
Điều thứ mười một: Duy có tại thánh thất mới được cho phép nhập môn, được làm phép giải
oan, phép tắm thánh vv…Đầu quận đạochỉ được nhóm đạo hữu cùng là chức việc tại
thánh thất mà thôi, trừ ra khi nào có làm lễ thượng tượng cho đạo hữu hay có
quan hôn tang tế thì mới được tựu nhóm tại nhà riêng.
Điều thứ mười hai: Đầu họ đạo phài do theo nội luật thánh thất mà sắp đặt việc hành chánh
tại thánh thất và do theo quyển Nghi tiết Đại đàn và Tiểu đàn mà hành lễ.
Điều thứ mười ba: Mỗi khi hành lễ, phải có trật tự, phải êm thấm, không được vô lễ trước
bửu điện.
VỀ VIỆC BAN HÀNH LUẬT ĐẠO
Điều thứ mười bốn: Bần tăng hạn kỳ cho 1 tháng. Chức sắc và chức việc phải có đủ đạo
phục, phải biết trách nhậm mình tức là phải thông thuộc luật đạo.
Chư đạo hữu phải thuộc tất cả kinh
điển của đạo.
VỀ TÌNH ĐỒNG ĐẠO
Điều thứ mười lăm: Toàn đạo phải biết thương yêu và kính trọng nhau như con một cha, anh
em một nhà, cần lấy lòng thành thật đối đãi nhau, gặp lúc tai nạn hết lòng giúp
đỡ, nhứt là khi tang chế, phải sốt sắng, phải chịu khó đến viếng thăm an ủi, lo
việc người đồng đạo như việc nhà mình.
*
* *
Bước đường đạo nơi đây còn dài, chư
hiền huynh và chư hiền tỷ còn phải gặp nhiều khó khăn, vậy Bần tăng xin ráng
cầm vững đạo tâm, chung chịu khổ hạnh với Đức Chí Tôn được đủ tinh thần xem
những ma lực của tà quyền như luồng gió thoảng qua, rồi cứ bắt tay nhau anh
trước em sau mà đến nơi bồng đảo. Chúng ta phải ráng làm thế nào cho tâm thánh
chủ trương phần vật dục mãi mãi thì mới mong chuyển được cảnh đời loạn ly tà mị
ra thế giới chơn chánh hòa bình.
Làm tại thánh thất Hà Nội, ngày 20-5
Ất Hợi (20-6-1935)
Tiếp Thế, Quyền Đầu Sư
Lê Thế Vĩnh
Vâng lịnh thi
hành:
Giáo Hữu Thái
Abadie Thanh
Giáo Hữu
Thượng Ngoạn Thanh
Giáo Hữu Ngọc
Biên Thanh
Lễ Sanh Thượng
Nghĩa Thanh
Lễ Sanh Thượng
Điểm Thanh
Lễ Sanh Ngọc
Hòa Thanh
3 . Chia Nam Kỳ thành 5 tỉnh đạo
(ngày 15-7 Ất Hợi 1935)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ thập niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Vp Nội Chánh
Số: 46
NGHỊ ĐỊNH
Chiếu y PCT ban quyền hành cho Chánh
Phối Sư
Chiếu y Đạo nghị định thứ 4 phân
định quyền hành Thái, Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư
Chiếu y Đạo nghị định thứ 9, 12, 18,
21 và 24 giao quyền hành chánh Chánh Phối Sư CTĐ cho 3 vị: Khai Đạo, Khai Thế
và Khai Pháp HTĐ
Chiếu y Đạo nghị định thứ 3 phân định
quyền hành và địa phận đặc biệt cho chức sắc thiên phong từ phẩm Phối Sư trở
xuống.
Chiếu y Đạo nghị định thứ 5 buộc cả
chức sắc thiên phong phế đ7ì hành đạo
Nghĩ vì hiện thời nền đạo có đủ chức
sắc thiên phong từ Giáo Sư trở xuống tới Lễ Sanh đặng cai quản các Tỉnh đạo, Họ
đạo và Quận đạo nên Hội Thánh định sáp nhập các địa phận đạo lại và lựa chọn
trong hàng chức sắc ấy các vị xứng đáng đặng bổ dụng
Nghĩ gì việc cai quản trong địa phận
các tỉnh đạo, các họ đạo và các quận đạo phải sắp đặt lại cho chức sắc có đủ
quyền thay mặt Hội Thánh nên:
NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt:
Sáp nhập lại các địa phận đạo tại Nam Kỳ và phân định làm 5 Tỉnh đạo kể ra sau
nầy và giao cho 5 vị Giáo Sư lãnh cai quản về trách nhậm Đầu tỉnh đạo
1. Tỉnh đạo Biên Hòa: những hạt: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, Cấp Saint Jacques
đều thuộc về tỉnh đạo Biên Hòa.
Ông Giáo Sư Thượng Thình Thanh
(Nguyễn Văn Thình) lãnh làm Đầu tỉnh đạo Biên Hòa.
2. Tỉnh đạo Gia Định: những hạt: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An đều thuộc về tỉnh đạo Gia Định.
Ông Giáo Sư Thượng Sáng Thanh (Trần
Ngọc Sáng) lãnh làm Đầu tỉnh đạo Gia Định.
3. Tỉnh đạo Định Tường: những hạt: Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre đều thuộc tỉnh đạo Định Tường.
Ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh
(Nguyễn Văn Minh) lãnh làm đầu tỉnh đạo Định Tường.
4. Tỉnh đạo Long Hồ: những hạt: Vĩnh Long, Sa đéc, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng đều thuộc
tỉnh đạo Long Hồ.
Ông Giáo Sư Thượng Trí Thanh (Nguyễn
Văn Trí) lãnh làm đầu tỉnh đạo Long Hồ.
5. Tỉnh đạo An Giang: những hạt: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu đều thuộc
tỉnh đạo An Giang.
Ông Giáo Sư Thượng Đức Thanh (Nguyễn
Hữu Đức) lãnh làm đầu tỉnh đạo An Giang.
Điều thứ hai:
Kỳ cho hạn lệ 2 tháng kể từ ngày ban hành nghị định nầy, nghĩa là tới ngày 15-9
Ất Hợi, mấy vị Giáo Sư kể danh trên đây phải đến ngụ và lập văn phòng tại thánh
thất sở tại địa phận mình được bổ dụng mà hành chánh.
Về các việc giao lãnh các công văn
và các việc sắp đặt nơi mỗi hạt đều phải có vi bằng giao lãnh phân minh đặng đệ
về Tòa Thánh.
Điều thứ ba:
Chiếu theo đạo nghị định thứ 5 của Đức Lý Giáo Tông, vị Giáo Sư nào không tuân
y điều thứ 2 trên đây thì không kể vào Hội Thánh và mất quyền tham dự việc
chánh trị của đạo.
Điều thứ tư:
Nghị định nầy hủy bỏ các nghị định trước về việc thuyên bổ chức sắc thiên phong
Đầu tỉnh đạo Nam phái.
Điều thứ năm:
Quản lý Lại Viện lãnh ban hành nghị định nầy kể từ ngày 15-7 Ất Hợi.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 15-7 Ất Hợi
(dl 13-8-1935)
Đồng ý kiến
Thái CPS Thượng CPS Ngọc
CPS
Khai Đạo HTĐ Khai Thế HTĐ Khai
Pháp HTĐ
Phạm Tấn Đãi Thái Văn Thâu Trần
Duy Nghĩa
Phê chuẩn:
Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh
4 . Các Đấng cho kinh Tận độ (ngày
1-8 Ất Hợi 1935)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy em,
Mấy em sao không ở Tòa Thánh cầu
Kinh, lại về ngoài này ?
Hộ Pháp bạch: -…………………………………………
- Chưa. Còn Kinh Phổ Hiền, Kinh Từ
Hàng và Kinh Nhiên Đăng.
Hộ Pháp bạch: -…………………………………………
- Mấy vị Phật không giáng nơi nào
khác hơn Tòa Thánh. Trễ rồi, thôi thì nghĩ đặng hai em dưỡng thần, song đừng
chơi quá đa nghe. Còn nhiều, song bây giờ có ba vị ấy là cần kíp vì là phép
siêu hồn.
Tám ! Mấy bà Diêu Trì biểu em nán
đợi đặng cho kinh, rồi họ sẽ tái giáng. Cười…
Giỏi chọc hoài, có Thánh Màng theo
Qua muốn giáng cơ nói chuyện. Qua ngày mai sẽ có mặt trong lúc cho Kinh. Kiếu
mấy em. THĂNG.
5 . Giáo Sư Thượng Bảy Thanh truyền đạo khắp Đông Pháp (ngày 4-8 Ất Hợi
1935)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(3
è me Amnistie de Dieu en Orient)
Tòa
Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Hộ Pháp
ĐẠO NGHỊ ĐỊNH THỨ 54
Chiếu y PCT
ban quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp.
Nghĩ vì nền
đạo cần phải có người chấp chưởng điều đình nên:
NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt: Ông Giáo Sư Thượng Bảy
Thanh lãnh trách nhậm đi truyền bá Đại Đạo toàn khắp cả Đông Pháp.
Chư Đầu địa
phận mỗi xứ phải giúp ích chức sắc nầy về phần phổ thông mỗi khi có người cần
dùng việc chi.
Điều thứ nhì: Quyền Thái Đầu Sư Thái
Thơ Thanh, Nữ Chánh Phối Sư, Thái, Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư, mỗi vị tùy
phận sự lãnh thi hành Đạo nghị định nầy.
Lập
tại Tòa Thánh, ngày 4-8 Ất Hợi (1-9-1935)
HỘ
PHÁP
Chưởng
quản nhị hữu hình đài
Hiệp
Thiên và Cửu Trùng
Ký
tên: Phạm Công Tắc
Vâng
lịnh ban hành.
Ngày
29-9 Ất Hợi (dl 28-10-1935)
Quyền
Thái CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
Thái
Tu Thanh Thượng Thành Thanh Ngọc Trọng Thanh
6 . Bà
Đoàn Thị Điểm ra thai đố cho Văn Minh Điện (ngày 14-8 Ất Hợi 1935)
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Em chào chư
đại huynh,
Em để lời cám
ơn Lê Chơn Quân vì em lo đất Bắc. Cười…Em nói thố lộ, xin Lê Chơn Quân miễn
phiền.
Thiếp hèn lâu
quên thi phú văn từ rất nhiều nhưng nay vì có lịnh tôn sư của thiếp là Thất
Nương giao Văn Minh Điện, nên gắng tận tâm lo cho ra vẻ đẹp, xin chư đại huynh
giúp sức. Cười…
Thiếp có điều
ngại ngùng muốn xin chư đại huynh nhưng chẳng biết có vui lòng nạp lời chăng ?
Hộ Pháp: -
……………………………………….
Tiếp Đạo giỏi
về phương ấy lắm nên thiếp cậy làm Giám thai, Khai Pháp làm Giám trường, Tiếp
Thế làm giám khảo. Cười……
* Ra đối để Tiếp Đạo đứng tên
Sơn hà hữu ảnh tri sanh giác
Xã tắc vô ngôn thức tuyệt hưng
* Thai cho Khai Pháp đứng
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gặp ghình khó đi
Xuất vật dụng: Cái khổ vải.
* Thai cho Tiếp Thế đứng
Tỏ soi kia cũng là đèn
Dầu chẳng vẹn tuyền cũng tiếng là trăng
Xuất vật dụng: Đôi đồng xứng
* Thai cho bà Nữ Chánh Phối Sư đứng
Ai kêu ai hú bên sông
Em đương vá áo cho chồng em đây
Xuất vật dụng: Cặp mắt kiếng
* Thai cho ông Quyền Thái Đầu Sư
Đèn ai leo lét bên sông
Hay đèn mẹ chồng đi rước nàng dâu
Xuất vật dụng: Cái cầu khỉ
* Thôi. Thăng.
Đêm sau, bà
Đoàn giáng cơ tiếp tục ra thai đố để giúp vui trong cuộc thi Văn Minh Điện đêm
rằm.
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Chào lịnh Hộ
Pháp và Lê Chơn Quân,
Em lấy làm
tiếc cho cuộc vui nầy, vì sanh hoạt chi lịnh mà bất minh quang nguyệt điện. Em
cũng y phận sự cho thai, tùy ý chư huynh định người thu văn.
* Công chàng đạp tuyết vày sương
Ngày nay thiếp hưởng một đường vinh huê
Xuất quả: Trái mầng quân
* Ba phen lên ngựa mà về
Cầm cương kéo lại xin đề câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi câu chờ câu nhớ câu thương
Xuất quả: Trái mãng cầu
* Dưới đời ai tốt bằng sen
Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.
Xuất nhứt tự: chữ CÙN
* Đã hay lộng lộng phép trời
Mà chưa ghê sợ, buông lời lộng ngôn.
Xuất vật dụng: Cái khung cửi
* Linh đinh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước gởi mình vào đâu.
Xuất vật dụng: Cái vựa lúa
* Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Xuất nhứt tự: chữ DỊU
* Khát nước cầm gáo mà trông
Chàng như chim nọ xổ lòng bay xa
Xuất quả: Trái đào
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ
thập niên)
Tòa
Thánh Tây Ninh,
ngày
15-8 Ất Hợi (12-9-1935)
Văn phòng
Cửu viện nữ
phái
Số: VI
CHÂU TRI
Gởi cho chư
chức sắc thiên phong, chánh phó đầu tỉnh đạo, chánh phó đầu họ đạo, chánh phó
đầu quận đạo, chánh phó trị sự và thông sự và chư đạo hữu nữ phái và chủ thánh
thất các nơi…
Kính cùng đồng
đạo, chư hiền tỷ, chư hiền muội.
Chiếu theo lời
đề nghị của Hội Thánh hôm mùng 9-4 Ất Hợi, bàn tính vấn đề rất thiết yếu là tu
bổ HTĐ, CTĐ và BQĐ (Tòa Thánh) bố cáo trước 1 năm rồi lai niên sẽ khởi công tạo
tác. Tôi vì phận sự trên ra tờ châu tri nầy.
Điều đại khái
trong đạo cần yếu phải chỉnh đốn bửu điện Thầy, đền thờ cho sum nghiêm, mới có
thể cảm xúc lương tâm người, thấy cảnh tịnh trường mà khởi lòng mộ đạo. Đạo
Thầy phát khởi tại Tây Ninh, trổ ngõ khai đường đào tạo nền chánh giáo, rồi lần
lần hột giống thiêng liêng rải rác mới có thánh thất tỉnh quận các nơi, Tòa
Thánh chánh là cây có cội, nước có nguồn, còn các thánh thất cũng như ngọn
ngành sông rạch. Nay chúng ta muốn cho vững bền mối đạo thì phải bồi đắp chỗ
ngọn nguồn. Ấy là vấn đề đáng thi hàtnh cần gấp.
Tu bổ Tòa
Thánh bởi cho 2 chủ nghĩa:
Thứ nhứt: Đại Đạo hiện nay phổ thông
phát đạt, ngoại giao lân bang, dây liên lạc đã hòa thân thì nghĩa đồng thanh
phải nhiều bề giao thiệp. Nếu đền thờ Thầy không lo chấn chỉnh, rồi một ngày
kia có ngoại quốc nghe tiếng tới triêm yết thì chỉ thấy một cái chùa thon von
nhen nhúm nơi góc rừng sâu, có ai công nhận rằng nền Đại Đạo. Còn so sánh với
các nhà thờ tôn giáo khác, cùng các nơi vân am tự vũ thua kém biết chừng nào.
Nghĩ con Thầy hiện nay nhập môn kể ra có số ngàn số triệu mà sao chỗ thờ Thầy
lại nỡ để chật hẹp như lúc đạo mới sơ khai thì đối với phận sự thì chúng ta e
chưa tròn trách nhậm.
Thứ nhì: Lại càng thiết yếu hơn nữa,
lúc ban sơ tạo lập vì người đương ít, tiền không có, chung đậu nhau kẻ của
người công, dùng cây tạp gỗ rừng tạm thời sơ lược, tới nay đã kinh niên hủ
hoại, nếu không lo sửa sang lại, e cho gặp cơn mưa to gió lớn, một tòa lương
đống phải phú thep trận cuồng phong. Cung điện Thầy chinh nghiêng thì đại đạo
tất nhiên điên đảo, chừng đó cảnh trạng đạo nghĩ ra thế nào, nên tốt hơn là
phải dự phòng toan trước.
Sự tu bổ đáng
lẽ đã làm trước kia ba bốn năm rồi nhưng vì vận hội trong đạo chưa tới thời kỳ
làm nên năm nào cũng bàn tính mà không năm nào chiếm đặng mục đích thi hành. Ấy
cũng do làn sóng thị phi nghịch lẫn, nghiêng ngã nhơn tâm, khiến ra công việc
đạo phải ngưng trở.
Nghị định mấy
năm trước cũng thiệt rất cám ơn đồng đạo quí vị sẵn dạ giúp dùm, nhưng sở dĩ
không đủ sức làm là vì Hội Thánh nghèo mà miêng ăn thì đông, nên tọa thực sơn
băng, tiền hỷ cúng bao nhiêu cũng phải hết.
Tình cảnh hiện
nay muốn tu bổ thì không biết nương cậy thế lực nơi đâu, nên xin cặn kẽ trần
tình trong đồng đạo lấy thiện tâm vun bồi nền tôn giáo, dùng đơn tâm un đúc
cảnh đạo trường, làm con thầy phải tríu mến theo Thầy, hầu báo đáp hồng ân
trong muôn một.
Bởi nghĩ rằng,
lòng Thầy vì thương xót dân tộc bơ vơ đường tối hang sâu nên phải giáng hạ phàm
trần, dìu dắt dân đen con đỏ, đất Nam Việt dựng nền phổ độ, dẫn con cháu Tiên
Long Hồng Lạc lên cảnh thanh hư, ấy lòng bác ái từ bi vô cùng vô tận.
Nay chúng ta
biết đặng đạo chơn mà chỗ đền thờ Thầy lại sơ sài chật hẹp thì trong lương tâm
nghĩ lại sao đành.
Bấy lâu vì
hoàn cảnh khuynh nguy, bất đắc dĩ phải dằn lòng cam chịu, chớ hiện nay nhờ ơn
trên chánh phủ chiếu gương huệ nhãn soi thấu lòng chơn thật của chúng ta, cử
động hành vi không bề cấm kỵ.
Vậy chúng ta
rất nên đội ơn người trên rộng lượng mà cũng nhơn cơ hội may mắn nầy gắng lòng
báo bổ cho khỏi phụ trách nhậm làm con, nóng nhiệt thành đâu cật chung lưng đem
hết cả nghị lực tinh thần tô điểm vẽ vời cho rỡ ràng cung đình tam giáo, một
mai đặng nở mặt với lân bang chư đồng đạo, thì nền đại đạo chắc có thể thạnh
phát trường khai mà chị em ta cũng bòn mót đặng một phần lập công bồi đức.
Xin khuyên
đồng đạo gắng lòng.
Nay
kính.
Chủ
trưởng chức sắc nữ phái
Nữ
Chánh Phối Sư Hương Thanh
8 .
Bát Nương giáng cơ tại thánh địa Bạch Vân Nam Vang (ngày 24-8 Ất Hợi 1935)
BÁT NƯƠNG
Em chào mấy
anh. Có Lục Nương và anh què
Cười…Á ! Khí ạ
! Chị thấy người ta ăn gian em nên đến hỏi em muốn làm Giáo Sư không ? Chị lo
cho. Cười…Thằng ham chức quá phải chơi ! Cười…
Đây em mới hỏi
Đức Hộ Pháp, vậy chớ anh cầu phong cho ai lên chức Giáo Sư nam ?
Đức Hộ
Pháp:…………………………….
- Phải. Còn
nữa ?........................................
- Phải. Nghĩa
là anh đã xin cho 3 người, duy có Từ Huệ bị bác, còn 2 người kia đặng chớ ? Vậy
thì mấy anh cả tiếng kêu em Khí và chị Huê là Giáo Sư giùm coi. Phong Chí
bạch:………….
- Cười…Nè anh
Gió, tôi không cầu anh nghe không.
- Em Hiển, Qua mừng cho em đó. Em
muốn kẹo phải không ? Ở quì đó em. Thi nè:
Quen chiều non nước lúc xuân xanh
Tên tuổi đài mây đã sẵn dành
Lộc thế rẻ mùi chê mặn lạt
Ơn trời nên phận gắng đua tranh
Lẫy lừng cánh hộc xông trường võ
Đầm ấm duyên loan để chí thành
Vùng vẫy võ môn qua mấy cấp
Soi tâm đêm quạnh phó Trường Canh.
Em nhớ lời chị dặn, gắng trọn trung trọn hiếu
nghe !
9 .
Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cơ tại thánh địa Bạch Vân Nam Vang (ngày 25-8 Ất Hợi
1935)
TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ
Bần tăng chào
chư quí vị,
Bần tăng lấy
làm thậm cảm nhưng cơ quan phổ tế Tần nhơn hỡi còn trở ngại trong năm ba tháng
nữa mới yên.
Thi
Lượng trên đã mở nỗi oan xưa
Tần quốc từ đây hưởng phước thừa
Dặm khổ dân chưa an bước thảm
Đường hay nước đã vẹn danh xưa
Nóc chiền thiên cổ di hồn tục
Cửa thánh kỳ ba độ nghiệp vua
Ngán lỡ công bình mưới tuế lụn
Khuôn hồng soi rạng đất mây mưa
Cười…Các tôi con của rồng nay độ
rắn, hỏi dưới mắt Tạo Công còn chi hay hơn nữa chăng ?
Rồng rắn, rắn rồng, có rắn mới hóa
rồng, có rồng mới nên phận rắn. Xin lấy ý nghĩa sâu xa mà hiểu thì cái vui mới
ra thú vị.
Cười…Mừng, mừng, mừng ! Thăng.
(Tiêu Diêu Đạo
Sĩ là Bradaya La Hán)
10 . Cơ quan Phước Thiện là của Hội Thánh
(ngày 19-12 Ất Hợi 1936)
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ
thập nhứt niên)
Tòa
Thánh Tây Ninh
VP Nội Chánh
Số: 15
Tòa Thánh ngày
19-12 Ất Hợi (dl 13-2-1936)
CHÂU TRI
Quyền Thái,
Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư
Hội Thánh xin
nhắc lại cho toàn đạo nam nữ lưỡng phái đều biết rằng: Hội Thánh lập cơ quan
Phước Thiện cốt để giúp cho những bậc tu hành tìm phương nuôi sống lấy nhau,
khỏi phải xin ăn thập phương bá tánh.
Nhóm đủ 3 hội
nghĩa là quyền Vạn Linh cũng công nhận điều ấy nên Hội Thánh mới thi hành,
trích ra một hạng chức sắc thiên phong Lễ Sanh Giáo Thiện. Vậy thì CQPT là do
Hội Thánh làm chủ.
Nay nghe ra
như có lời ác cảm gieo truyền rằng: Đức Hộ Pháp tái lập Phạm Môn lại trong mấy
tỉnh. Điều ấy là điều huyễn hoặc vì chính ngày nay Đức Hộ Pháp đã nắm chủ quyền
của đạo thì người chẳng còn lập chi riêng ngoài quyền Hội Thánh của người nữa.
Xin toàn đạo
đừng tin theo những lời huyễn hoặc.
Quyền Thái CPS Quyền Thượng CPS Quyền Ngọc CPS
Thái Tu Thanh Thượng Thành Thanh Ngọc Trọng Thanh
Ngày 27-12 Ất
Hợi (1935) Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa chưởng quản CQPT đánh điện tín cho các
vị Đầu họ Phước Thiện cho phép các vị về nhà ăn tết Bính Tý, rồi phải có mặt
tại TTTN vào ngày mùng 8-1 Bính Tý để cúng đại lễ Đức Chí Tôn và đãi lịnh Hội
Thánh.
Qua ngày 9-1
Bính Tý, Đức Hộ Pháp kêu hết những vị Đầu họ Phước Thiện họp đủ mặt tại Hộ Pháp
Đường để Đức Ngài ban cho mỗi vị 4 phép bí tích, kể ra:
- Phép giải
oan
- Phép tắm
thánh
- Phép đoạn
căn (hành phép xác)
- Phép hôn
phối
Đức Hộ Pháp
gọi từ vị Giáo Thiện đến để trục thần khai khiếu, truyền dạy cách thức hành
pháp. Đức Hộ Pháp lại ban cho mỗi vị một cây bạch đăng (đèn cầy trắng) dặn khi
nào gặp việc khó khăn không giải quyết được, đợi đến lúc 12 giờ khuya đốt cây
bạch đăng này lên và thành tâm cầu nguyện thì Đức Hộ Pháp biết và sẽ đến giúp
cho.
Khi các việc
xong, Đức Ngài dặn cúng lễ rằm tháng giêng tại Tòa Thánh xong thì trở xuống địa
phương lo phận sự của mình. Bản chỉ dẫn hành các phép bí tích của Đức Ngài sẽ
gởi xuống sau. Việc hành phái này phải ráng tập luyện, khi nhận thấy làm được
rồi mới thực hành và khi hành pháp sự kết quả thế nào, nhớ phúc trình về cho
Đức Ngài biết.
Nhờ Đức Hộ
Pháp truyền thần khai khiếu và truyền pháp nên việc hành pháp rất kết quả nhứt
là phép giải oan và giải bịnh, sự hiệu lực thấy hiển hiện trước mắt nên mỗi kỳ
đàn, bổn đạo tựu đến cúng rất đông để được giải oan luôn thể.
2 .
Đoàn Thị Điểm giáng cơ cho Tân Kinh (ngày 16-1 Bính Tý 1936)
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Thiếp cúi mình
chào chư vị và chư hiền tỷ, hiền muội.
Thưa, thiếp đã
đặng lịnh cho thiếp giáng cơ lập kinh thế đạo nhưng rủi không cơ thành ra trễ
nãi. Xin thứ lỗi cho thiếp hầu cơ từ ngày mai đặng làm trọn phận.
Thưa thiếp
chào cố nhân. Miền Nam định nhiều vị hữu căn kiếp, xin cố nhân để tâm nơi ấy mà
độ giùm thiếp, rất cám ơn. Thăng.
3 .
Đức Hộ Pháp mở khoa thi Luật Sự Hiệp Thiên Đài đầu tiên (ngày 23-5 Bính Tý
1936)
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập
nhứt niên)
Tòa
Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Phạm Hộ Pháp
Số: 34
SẮC LỊNH
Cho ba Chánh
Phối Sư, nữ Chánh Phối Sư
Lê Tiếp Thế, Cao
Tiếp Đạo và chủ trưởng HTNG
Nghĩ vì trên
phẩm Thông Sự và Chánh Trị Sự là hạng chức việc có cầm mảy mún quyền hành pháp
luật của Hiệp Thiên Đài chưa định, nên:
Bần Đạo sẽ mở
khoa mục, chương trình và ngày tháng sẽ định bởi một sắc lịnh sau nữa, tuyển chọn
hạng Luật Sự (Agent judiciaire) trong chức việc nam nữ lưỡng phái kể ra sau
nầy:
1 . Chánh Trị
Sự nam nữ đặng trọn quyền dự thi khi đã hành đạo trên 3 năm với trách nhậm của
mình.
2 . Thông Sự
nam nữ đặng trọn quyền dự thi khi đã hành đạo trên 5 năm với trách nhậm của
mình.
3 . Tín đồ nam
nữ đã giữ pháp luật và trọn trung trọn nghĩa cùng đạo từ buổi ban sơ.
Bổn hồ sơ
(Giấy tánh hạnh, tờ kiết chứng công nghiệp và đơn xin dự thi) nạp về Hiệp Thiên
Đài, phải có giấy chứng nhận của làng đạo, quận đạo, họ đạo và tỉnh đạo sở tại
và có Tòa Nội Chánh tiến dẫn cho vào khoa mục mới đặng.
Chức Luật Sự
của Hiệp Thiên Đài để trấn nhậm một họ đạo làm đầu Chánh Trị Sự và Thông Sự về
mặt luật pháp nhưng tùng quyền của Sĩ Tải.
Luật Sự đặng
quyền xem xét luật pháp của toàn tín đồ và chức việc trong bổn họ, đặng quyền
xem xét về công cử, đặng dự thính ban nội trị và lấy khẩu chiêu, đặng kiểm soát
và thi hành trạng án của Sĩ Tải truyền xuống.
Luật Sự không
có quyền xử đoán. Mọi điều chi về mặt Tòa Đạo thì Luật Sự không đặng quyền hành
định đoạt, duy đặng phép tư lên Sĩ Tải HTĐ mà thôi.
Cấm nhặt Luật
Sự không đặng phép tham dự vào việc chánh trị của đạo, nếu trái mang lịnh nầy
phải bị đệ ra tòa tam giáo trừng trị nghiêm nhặt tùy theo nặng nhẹ, trọng khinh
của tội phạm pháp chánh.
Xin chư hiền
huynh và hiền tỷ tuyên bố sắc lịnh nầy cho toàn đạo nam nữ đều biết.
Lập
tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 23-5 Bính Tý (11-7-1936)
HỘ
PHÁP
Chưởng
quản Nhị hữu hình đài
Hiệp
Thiên và Cửu Trùng
Ký
tên: Phạm Công Tắc
4 .
Ông Lê Bá Trang quy liễu tại Bến Tre (ngày 29-5 Bính Tý 1936)
Ông Lê Bá
Trang (sanh năm 1879 tại Sa Đéc), sau thời gian 2 tuần lễ bị bịnh kiết lỵ thì
mất tại Bến Tre ngày 29-5 Bính Tý (dl 17-7-1936) hưởng được 58 tuổi.
Lúc mất, ông
Trang giữ chức Thượng Chưởng Pháp của chi phái Bến Tre nên xác được liệm vào
liên đài. Hội Thánh Bến Tre định an táng ông tại phía sau thánh thất An Hội Bến
Tre, nhưng sau đó ông Nguyễn Ngọc Tương cử người về Tây Ninh xin Hội Thánh Tây
Ninh cho đem xác ông Trang lên táng nơi thánh địa, được Đức Hộ Pháp bằng lòng.
Hội Thánh Bến
Tre liền cử ông Cao Quỳnh Diêu và ông Phạm Văn Ngọ lên Tây Ninh trước để lo
việc xây nền tháp, sắp đặt việc tang và việc ăn ở cho phái đoàn đưa tang.
Liên đài quàng
tại thánh thất An Hội 3 ngày, các chức sắc, chức việc và đạo hữu của Bến Tre tế
lễ đầy đủ.
Sáng sớm ngày
21-7-1935 liên đài được đưa về Tòa Thánh Tây Ninh. Khi đến Bến Kéo cách Tòa
Thánh chừng 8 cây số, phái đoàn đưa tang tạm dừng lại, ông Nguyễn Ngọc Tương
thay đạo phục, mặc vào đại phục Giáo Tông rồi tiếp tục đưa liên đài của ông Lê
Bá Trang đến Tòa Thánh, đến nơi vào khoảng 3 giờ chiều, phái đoàn dừng lại
trước của số 1 nội ô để báo cho Hội Thánh Tây Ninh biết.
Nhân dịp đưa
liên đài của ông Lê Bá Trang về Tòa Thánh Tây Ninh, ông Nguyễn Ngọc Tương ngầm
mưu đồ chiếm đoạt Tòa Thánh và lên ngôi Giáo Tông.
Ông sắp đặt kế
hoạch rất kỹ, lại được thống đốc Nam Kỳ là Pagès đỡ đầu và tham biện tỉnh Tây
Ninh ủng hộ, cho nên ông tổ chức phái đoàn đưa tang rất hùng hậu khoảng 2000
người. Khi liên đài của ông Trang và phái đoàn đưa tang đến cửa số 1 nội ô Tòa
Thánh thì phải dừng lại vì các Bảo Thể gác cửa không cho vào, đợi lịnh của Hội
Thánh. Khi đó ông tỉnh trưởng Tây Ninh Vilmont cho một đám lính da đen vào để
giữ gìn an ninh trật tự nhưng sự thật là để ủng hộ ông Tương. Đám lính da đen
nầy không phân biệt ai là đạo hữu của Tòa Thánh Tây Ninh, ai là tín đồ của ông
Tương vì đều mặt đồ trắng giống nhau nên họ ra lịnh giải tán tất cả, không cho
tựu tập đông đảo và họ đứng gác dài theo đường. Ông Tương có đến can thiệp
nhưng họ nói không biết. Thế là ông Tương bị mất đi lực lượng tay sai hùng hậu.
Đức Hộ Pháp
cho người ra yêu cầu ông Tương cổi đạo phục Giáo Tông thì mới cho vào Tòa Thánh
vì đây là cuộc rước liên đài của ông Quyền Đầu Sư Lê Bá Trang chớ không phải
rước Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (Đức Hộ Pháp không nhìn nhận phẩm vị Giáo Tông
của ông Tương) hơn nữa Đức Hộ Pháp biết rõ âm mưu bất chánh của ông Tương là
nhân dịp đưa liên đài của ông Trang vào Tòa Thánh thì ông Tương với phẩm phục
Giáo Tông, ông sẽ lên ngự trên ngai Giáo Tông và cho đông đảo đệ tử của ông
chiếm đoạt luôn Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông Tương
không chịu cổi đạo phục Giáo Tông ra hai bên dằn co mãi như vậy cho đến gần 5
giờ chiều. Bà vợ của ông Trang chờ lâu quá nên đến phàn nàn với ông Tương và
cũng yêu cầu ông Tương nên thay đạo phục Giáo Tông bởi vì đây là lễ tang của
chồng bà, chớ không phải lễ gì khác của đạo, để sớm đưa liên đài vào Tòa Thánh
kẻo tối nhưng ông Tương vẫn chưa chịu cổi đạo phục Giáo Tông.
Bỗng trời
chuyển mưa, một cơn mưa rất lớn và kéo dài, những người theo đưa tang bị ướt
hết quần áo và cảm thấy rất lạnh. Ông Tương cũng chịu lạnh không nổi, đành phải
cổi đạo phục Giáo Tông ra và mặc quần áo khô vào cho ấm. Lúc đó mưa tạnh, cửa
nội ô mở ra, Hội Thánh mời phái đoàn đưa liên đài vào Tòa Thánh, lúc ấy phái
đoàn đưa tang chỉ còn lưa thưa ít người, mọi mưu toan của ông Tương đều thất
bại.
Ngày hôm sau,
cử hành lễ tang của ông Lê Bá Trang xong thì đưa liên đài nhập tháp, xây bên
cạnh đông lang.
Mọi người nhìn
ông Tương với đôi mắt rất lãnh đạm. Ông Tương nhận thấy không còn có cách nào
để thực hiện mưu tính của mình nên đành trở về Bến Tre trong nỗi hậm hực và
chán nãn ê chề !
Đây là mưu
toan chiếm đoạt Tòa Thánh lần cuối cùng để lên ngôi Giáo Tông của ông Nguyễn
Ngọc Tương cũng không thành công (vì Đức Quyền Giáo Tông đã giáng cơ mách trước
với Đức Hộ Pháp những âm mưu của ông Tương trong dịp đưa tang nầy và chỉ rõ cho
Đức Hộ Pháp phương cách đối phó với ông Tương và nhóm người của ông).
Kể từ khi ông
Trang chết ông Tương như mất cánh tay mặt, lại thất bại ê chề trong mưu toan
chiếm đoạt TTTN lần cuối, khiến ông đành an phận tại Bến Tre trong sự đau buồn,
không còn muốn tranh đấu với TTTN nữa. Từ đây cơ đạo tại Tây Ninh được yên và
bắt đầu phát triển.
5 .
Ông Lê Bá Trang bị đọa ở cõi Âm Quang (ngày 11-6 Bính Tý 1936)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy em,
Thượng Phẩm nói với Qua rằng: Mấy em
đợi.
Ôi ! Qua nghĩ lại quá sức tức mình,
mấy em nghĩ coi một kiếp sanh đâu có mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem
như nháy mắt mà ảnh hưởng sâu sắc biết là bao.
Nào là danh, nào là vị, nào là tước,
nào là quyền, nào là vinh, nào là trọng, rốt lại thì cũng không còn mảy mún giá
trị chút ít gì nơi cõi hư linh hằng sống, bất quá như cơn vui dự đặng một tiệc
ngon ngọt của khách phong trần say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.
Qua đến viếng Trang nơi Lạc Hồn Trì
thấy nó nằm mê man sảng sốt, đau lòng hết sức như lời Thất Nương và Bát Nương
làm chứng thì dầu Qua có đến gần nó lúc nầy cũng không bổ ích chút nào cả.
Phải đợi cho nó từ từ định tỉnh, may
ra có tay Thất Nương giải mộng thì thỉnh thoảng định tỉnh tâm thần. Nếu Qua
cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với một người điên, chọc thêm loạn trí.
Tám ! Em nên thường phò loan đặng
Qua truyền tin Trang cho em hiểu. Ấy là một điều mấy em nên học hiểu. Khi nãy
Qua thấy em có khách nhiều thì phải. Thôi Qua đi.
Vĩnh ! Em ráng lo chỉnh đốn lần lần
việc làm kẻo để đạo bành trướng đổ xòa ra làm không kịp, em nghe. Thăng.
6 . Toàn quyền Pasquier nhận tội đàn
áp Đạo Cao Đài (ngày 3-8 Bính Tý 1936)
PIERRE PASQUIER
Salut Hautes
Âmes. Tôi nói tiếng An Nam.
Tôi đã cầm đặng một cuốn sách Nho,
học thông đạo lý. Cái tư tưởng của tôi buổi nọ nó thiên thật về bên Khổng giáo,
chớ không phải hướng qua bên Phật đạo. Tôi càng suy xét thì lấy làm lạ vì cớ
nào tôi lại dựng nhà thiền toan phá Đạo Cao Đài buổi nọ.
Quái dị thay ! Tôi đã dám xưng mình
là văn sĩ nho phong, kinh truyện văn chương trước mắt mà lại chịu thiệt thòi
sai sót chẳng hiểu đặng rằng Nho giáo chuyển luân tạo dựng toàn cầu tân thế.
Sự lạc lầm ấy do đâu mà có ?
Ôi quan trường ! ôi nha lại ! Vì mi
mà làm cho ta phải đui mắt, linh hồn phạm tội nghịch ý Chí Tôn, thiên điều tàn
sát. Hận thay ngôi vị đế vương là đao kiếm trù mạng linh hồn mà chớ. Gớm thay !
Ghê thay !
Thi
Vương bá bửu ngôi thị ngục hình
Thiên lao như thử tấc công khanh
Đồ thân phát phối cầm dân mạng
Y phục đai cân thị tử thành.
*
Thăng
7 . Đức Hộ Pháp cấm chức sắc, tín đồ
làm chánh trị (ngày 17-8 Bính Tý 1936)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhứt niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn phòng
Phạm Hộ Pháp
SẮC LỊNH thứ 45
Nghĩ vì ĐĐTKPĐ lập thành cốt để làm
cho cả thiên hạ đặng thái bình đại đồng thế giới.
Chiếu theo thánh giáo của Đức Chí
Tôn đã dạy rằng: Thầy lấy gương giải hòa đặng hai nước Pháp – Nam đề huề mà làm
đề mục cho toàn cầu thấu đáo chơn truyền của đạo và để gương mẫu cho các dân
tộc khác noi theo hiệp chủng hầu tránh cho khỏi các nạn phấn đấu tiêu diệt lẫn
nhau.
Nghĩ vì đạo chúng ta ngày nay mà
đặng Đại Pháp công nhận cho đặng tự do cũng nhờ các bậc ân nhân của chúng ta
tại Thượng và Hạ Nghị Viện Pháp triều mà quan Tổng Trưởng thuộc địa đương kim
là ông Marius Moutet đứng đầu trong ấy thi ân nghĩa đối với Ngài đạo khá ghi
lòng tạc dạ.
Nghĩ vì ông Marius Moutet đã để tâm
binh vực thương tưởng quê hương nhà Nam từ thử đến chừ đủ bằng cớ, mà nay Ngài
đã lựa một vị cựu thần là quan Tổng Thống toàn quyền đại thần Brévié trấn nhậm
nơi cõi Đông Dương nầy thì chỉ rõ rằng Ngài tín nhiệm đặng sai đến làm nên cho
xã hội quốc dân nhà Nam mà chớ. Trái lại, nếu có điều chi biến động thì là hại
danh thể của ông Marius Moutet, Pháp triều sẽ cho rằng vì Ngài quá thương nhà
Nam nên mới có gây nên loạn lạc.
Nghĩ vì Bần Đạo sợ cho tín đồ của
Đạo Cao Đài nhẹ tánh nhẹ lòng nghe lời cám dỗ mà lầm lạc, phạm quốc pháp và đạo
pháp, nên:
SẮC LỊNH
Cho toàn đạo gắng để hết lòng tin
cậy nơi quan tân toàn quyền Brévié và cấm nhặt cả chức sắc, chức việc và tín đồ
nam nữ lưỡng phái chẳng đặng xu hướng theo quốc sự, nhứt là những đảng phái
đương đồ mưu tính kế làm cho rối loạn quốc gia.
Truyền lịnh cho đạo phải hiệp đồng
cùng chánh phủ đặng lo phương thế cho dân hưởng điều hạnh phúc, mà điều hạnh
phúc do nơi tay chánh phủ Pháp triều mà có.
Chức sắc thiên phong nam nữ của Hội
Thánh phải tuyên truyền sắc lịnh nầy cho toàn đạo đều biết.
Lập tại TTTN, ngày 17-8 Bính Tý (dl
2-10-1936)
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị hữu hình đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Ký tên: Phạm Công Tắc
Vâng lịnh ban hành
Tòa Thánh, ngày 17-8 Bính Tý (dl
2-10-1936)
Thái
CPS Thượng CPS Ngọc CPS
Thái
Tu Thanh Thượng Thành Thanh Ngọc Trọng Thanh
8 . Lễ đại tường Đức Quyền Giáo Tông
(ngày 13-10 Bính Tý 1936)
Tưởng từ khi khai đạo đến giờ chưa
có cuộc lễ nào long trọng cho bằng và đối với các lễ lớn ngoài đời cũng chưa có
lễ nào hơn được.
Trên một tháng trước ngày lễ, chức
việc và đạo hữu các nơi đã lần lượt về Tòa Thánh đặng công quả về các việc sắp
đặt tại Đại Đồng Xã.
Ngày mùng 8, số về trước kể về nam
nữ và đông nhi có trên 1500 làm cho quang cảnh tại Tòa Thánh rất nên náo nhiệt
và vui vẻ vô cùng.
Ban ngày thì lớp lo xây dựng cho
hoàn thành Báo Ân Từ, lớp phá hai bên rừng thiên nhiên, lớp khai đường đấp lộ,
lớp cưa cây cất giàn, đóng cầu, lớp vẽ sơn thủy, lớp may cờ vv… Chiều thì mấy
vị giáo viên, thơ ký và giáo nhi dắt đồng nhi nam nữ ra tập dượt lễ mừng đạo,
tối thì nào là tập lễ sĩ, nào là tập học sinh trường Đạo Đức diễn tuồng Thánh
Tâm Ái, nào là thuyết đạo vv…Trọn ngày từ sớm mơi tới khuya đi đâu cũng thấy
đạo hữu lo làm việc rất hăng hái.
Càng gần đến ngày lễ thì đạo hữu lại
về càng đông, quang cảnh càng rộn rịp nhưng vẫn được ở luôn luôn trong một bầu
không khí nồng nàn mùi hòa ái. Quả thật một cảnh bồng lai ở một góc trời Nam ta
vậy.
Đạo han hữu các nơi về đều hân hoan
là vì thấy trong một thời gian rất ngắn và giữa lúc nền kinh tế trong xứ bị khó
khăn mà Hội Thánh ráng tạo lập được nhiều nơi đẹp đẽ.
Tới Tòa Thánh đã thấy được một cái
cửa vô cùng đồ sộ kế ở bên trong, hai nhà kỷ niệm nam nữ rất ngộ nghĩnh. Từ của
vô tới Đại Đồng Xã tới Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Báo Ân Từ vv…thì cờ đạo
phất phơ, xem rất vui mắt.
Công cuộc sắp đặt tại Đại Đồng Xã có
trật tự và oai nghiêm lắm.
Ngang qua cái hầm bát quái trước Tòa
Thánh có bắc một cái cầu rộng lớn mà đạo hữu đều gọi là Ngân Hà Kiều, qua cái
cầu rồi tới cửa tam quan bề cao trên 7 thước, bề dài 12 thước, trên hết có vẽ
thật lớn mấy chữ “Đại Đồng Xã” và “Place de la Fraternité Universelle” trên đầu
cửa giữa có để năm “1925 – 1936” hai bên là hai câu liễn Giáo Tông
như vầy:
GIÁO hóa nhơn sanh nhựt nhựt trung tâm qui thiện quả
TÔNG khai tăng chúng thì thì trọng đạo hiệp chơn truyền
Hai cửa vô hai bên là cửa nữ phái và
nam phái trên có vẽ cành nho, có lá nho và trái nho để thể tinh, khí, thần hiệp
nhứt.
Hai bên cửa giữa có treo những hình
của Đức Quyền Giáo Tông, một bên về phần đời, một bên về phần đạo của Ngài. Hai
bên cửa nam nữ thì treo hình lễ táng của Ngài. Cả lịch sử vẻ vang của Ngài đều
bày giải rõ tại đó cho mỗi người đều biết.
Vào khỏi cửa Đại Đồng Xã thì thấy
chính giữa sân một cây cờ đạo rất lớn, cờ màu trắng có 3 vòng xanh, vàng, đỏ
kết tréo ngang thể tam giáo quy nhứt.
Ở mút đầu sân Đại Đồng Xã là đài Cửu
Trùng Thiên bề cao 9 thước, bề dài 20 thước, chính giữa có một chữ Vạn màu vàng
thật lớn, trên hết là chơn dung của Đức Quyền Giáo Tông vuông vức mỗi bề 8
thước.
Hai bên Cửu Trùng Thiên từ hai góc
bức chơn dung hơn 16 thước bề cao, có giăng qua hai bên rừng thiên nhiên hai
hàng cờ Pháp và vạn quốc.
Dài theo hai bên rừng thiên nhiên là
giàn để cho chức sắc, chức việc và đạo hữu ngồi xem lễ, chung quanh sân Đại
Đồng Xã có cắm cờ đạo và thắt tuội treo bông, đốt đèn điện xem rất ngoạn mục.
9 . Đức Hộ Pháp làm lễ khởi công xây
dựng Tòa Thánh (ngày 1-11 Bính Tý 1936)
Đức Hộ Pháp nhận thấy đã đến lúc
tình hình đạo sự thuận lợi cho việc xây cất Tòa Thánh nên ngày 1-11 Bính Tý (dl
14-12-1936) Đức Ngài làm lễ khởi công xây cất Tòa Thánh.
Đức Hộ Pháp xây cất Tòa Thánh bằng
vật liệu kiên cố ngay trên nền Tòa Thánh tạm đã cất bằng cây gỗ trước đây, vì
Đức Hộ Pháp dự tính cất Tòa Thánh theo kích thước nhỏ hơn bản cẽ của Đức Lý
Giáo Tông, vì đạo mới trải qua nhiều cơn sóng gió, số tín đồ nghèo quá và chưa
được nhiều, lại bị các chi phái phân chia giành giựt.
Trước năm 1934, lúc Đức Quyền Giáo
Tông còn khỏe mạnh, Đức Ngài cùng vơi Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh đã khởi sự cất
Tòa Thánh theo họa đồ của Đức Lý Giáo Tông vẽ theo kiểu vở thiên đình (bề dài
135m, bề ngang 27m, không kể hành lang 2 bên và phía sau, phía trước có bao lơn
đài, bề cao lầu chuông và lầu trống 36m, nền Bát Quái Đài cao 9m), vị trí xây
cất là Đại Đồng Xã mà cái hầm bát quái ngay tại cột phướn trước Tòa Thánh hiện
nay.
Vì có lời dạy của Đức Chí Tôn khi đó
đạo còn rất nghèo, Đức Chí Tôn dạy Đức Hộ Pháp cất Tòa Thánh theo họa đồ của
Đức Lý Giáo Tông nhưng dùng thước mộc để kích thước nhỏ hơn cho bớt tốn kém,
nên Đức Hộ Pháp cất Tòa Thánh lúc đó với kích thước như sau: bề dài từ bậc 5
cấp đến cuối BQĐ là 98,5m, bề ngang kể cả hành lang 2 bên là 22m, bề cao lầu
chuông và lầu trống là 27m, nền BQĐ cao 2,4m.
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa chưởng
quản PT dạy các vị đầu họ PT trong 20 tỉnh Nam Kỳ tổ chức các sở lương điền,
công nghệ, thương mãi, phải dành hoa lợi gởi về Tòa Thánh để giúp lương thực
cho các công thợ xây cất, đồng thời chiêu mộ các công quả có tay nghề xây dựng:
thợ hồ, thợ mộc, thợ cưa, thợ sắt, thợ đấp vẽ vv… đưa về Tòa Thánh nhập với số
công quả nơi Tòa Thánh tổng cộng được 500 công quả nam và nữ làm việc thường
xuyên.
Đức Hộ Pháp dạy: “Nếu ai bằng lòng
hy sinh làm công quả tạo tác tổ đình thì phải lập thệ thủ trinh trong suốt thời
gian tạo tác để được tinh khiết, dầu nam hay nữ cũng vậy, không được có vợ hay
có chồng, sau khi Tòa Thánh được tạo xong thì nếu công thợ nào muốn lập gia
đình thì Đức Ngài sẽ giải thệ cho”.
Đức Hộ Pháp định xây cất Tòa Thánh
mới tại vị trí Tòa Thánh tạm nên khi khởi công thì trước hết phải dở Tòa Thánh
tam cho trống chỗ, dời quả càn khôn và tượng của các Đấng giáo chủ về thờ tạm
nơi Báo Ân Từ chừng nào cất xong Tòa Thánh mới thì sẽ làm lễ an vị trở lại.
Khi dời quả càn khôn về Báo Ân Từ
qua cửa chánh không lọt vì cửa Báo Ân Từ hơi hẹp một chút, buộc phải ép quả càn
khôn móp vô một chút thì mới lọt qua cửa.
Đức Hộ Pháp khóc và nói rằng: “Rồi
đây Phước Thiện sẽ khổ lắm”.
Năm Bính Tý (1936), Đức Hộ Pháp lãnh
tạo tác Tòa Thánh do Hội Thánh Cửu Trùng Đài không làm được nên giao trọn cho
Đức Ngài. Do đó, Đức Ngài triệu tập tất cả các vị công quả hiến than trong Minh
Thiện Đàn, trong Phạm Môn và Phước Thiện với 21 vị đầu họ đạo PT về hội tại Tòa
Thánh để chung lo việc tạo tác cho được thành công. Đức Ngài nói:
- Đã bao phen Cửu Trùng Đài khởi làm
Tòa Thánh đều bỏ dở là tại hai ông Tương và Trang phản loạn chống lại Đức Quyền
Giáo Tông. Thời gian qua mấy em cố gắng bảo vệ nghiệp đạo là làm hậu thuẫn cho
Giáo Tông và Hộ Pháp, nay mấy em chung sức giúp Qua một thời gian nữa để lo tạo
tác Tòa Thánh cho xong vì Qua đã lãnh với Hội Thánh rồi. Các họ đạo PT lo khai
mở các sở lương điền, công nghệ, thương mãi để có lợi tức đem về lo lương thực
và vật liệu, đồng thời thâu người hiến thân làm công thợ xây dựng Tòa Thánh.
Đức Hộ Pháp giao cho ông Giáo Thiện
Nguyễn Văn Thế với Giáo Sư Thượng Minh Thanh đến tỉnh Châu Đốc, sẵn có Giáo Sư
Thượng Quyện Thanh (Nguyễn Văn Quyện) và Giáo Thiện Trần Văn Mến lo mộ công quả
và người hiến thân vào Phước Thiện để đưa về Tòa Thánh.
Các nơi đều hưởng ứng, số người hiến
thân được 670 vị, gởi trước về Hội Thánh 36 vị để bổ vào các sở, trong đó đặc
biệt có ông Phạm Ngọc Trấn được bổ làm giáo viên Đạo Đức Học Đường, ông Đinh
Công Biện được bổ về ban nhạc, thợ hồ Cương được bổ làm đốc công. Sau khi ông
Cương bỏ dở, Giáo Sư Thượng Minh Thanh đưa ông Lê Văn Bàng (người Cái Bè, Mỹ
Tho) vào làm đốc công tạo tác Tòa Thánh, sau nầy ông Bàng lên làm Tổng Giám.
Ông Thới là chủ sở Cái Bè lo vận
chuyển bằng ghe, ông Giáo Thiện Lê Trung Cang ở Phú Mỹ vận động lương thực cùng
chở về Tòa Thánh, rồi lần lượt các họ đạo đưa công quả hiến thân về tổng cộng
được 4120 người. Tùy theo tài sức của mỗi người, Đức Hộ Pháp bổ dụng vào các
công việc thích hợp trong công cuộc xây dựng Tòa Thánh.
Việc tạo tác Tòa Thánh khởi đầu rất
thuận lợi do Đức Hộ Pháp tổ chức đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Những kẻ
đối nghịch cùng Đức Hộ Pháp ghen tức, một mặt rơi thơ xuyên tạc, một mặt vu cáo
với chánh quyền Pháp để ngăn chận không cho lương thực vận chuyển về Tòa Thánh.
Đức Hộ Pháp nói:
- Họ quyết tâm bỏ cho thầy trò mình
chết đói, họ lại loan tin thất thiệt để ly gián thầy trò mình không thể xây cất
được Tòa Thánh.
Không thể tả hết những nỗi khó khăn
khổ sở trong giai đoạn nầy mà ông Tương Bến Tre là nhân vật chính gây ra dựa
vào thế lực của nhà cầm quyền Pháp xúi giục.
Rồi mọi việc vu cáo và phá hoại của
kẻ nghịch cũng lần lần được sáng tỏ, nhơn sanh thấy rõ ai là kẻ gian người
nịnh, ai là người hết lòng lo cho Thầy cho đạo.
Công việc tạo tác Tòa Thánh được
tiếp tục trở lại tiến hành khả quan như trước.
Mãi đến đầu năm 1937, HTNG ở Kim
Biên (Nam Vang) bổ Giáo Sư Thượng Bảy Thanh đi hành đạo Hà Nội thì GS Bảy mới
chịu lãnh lịnh ra đi. HTNG đánh điện cho Ban Cai Quản thánh thất Lê Lợi tại Hà
Nội biết để chuẩn bị đón tiếp.
Ông GS Bảy cùng với thư ký Nguyễn
Kim Sa khởi hành từ Sài Gòn đi ra Hà Nội bằng xe lửa.
Khi xe lửa tới ga Nam Định thì có Lễ
Sanh Thượng Nghĩa Thanh đón tiếp rồi cùng đi Hà Nội.
Đến ga Thường Tín thì có Lễ Sanh
Thượng De Lagarde Thanh đón tiếp, rồi hiệp vào phái đoàn đi tiếp đến ga Hàng Cỏ
tức là ga Hà Nội. Tại đây có Giáo Hữu Thái Abadle Thanh cùng các chức sắc, chức
việc và đạo hữu Hà Nội đón rước. Cuộc đón tiếp rất long trọng và nhứt là GS Bảy
mặc áo tiểu phục xanh, đội khăn đóng xanh, trông rất đẹp và lạ mắt.
Phái đoàn đạo đón tiếp và rước GS
Bảy về thánh thất Lê Lợi, địa phận Hà Nội. Nghỉ ngơi một ngày, Giáo Sư Thượng
Bảy Thanh họp các chức sắc, chức việc và đạo hữu tại đây để chào mừng và hỏi
han tình hình đạo sự nơi đây.
Hôm sau, ông bắt đầu đi viếng thăm
các đạo hữu cao niên. Sau đó ông đi thăm xã giao các cấp chánh quyền Pháp Việt
cao cấp để tạo cảm tình của các vị nầy đối với Đạo Cao Đài: viếng Tổng Đốc
Hoàng Trọng Phu và Tổng Đốc Nguyễn Năng Quốc, hai vị nầy là Chánh và Phó Hội
Trưởng Hội Phật giáo tại đây do Toàn Quyền Pasquier dựng ra để đối phó với sự
truyền bá mạnh mẽ mau chóng của Đạo Cao Đài.
Tiếp theo, Giáo Sư Bảy đến hội kiến
với ông Đổng Lý Văn phòng Rikenbach của quan Toàn Quyền và Thống Sứ Bắc Kỳ Yves
Chatel, v.v... GS Bảy nói tiếng Pháp rõ ràng và đúng giọng Paris, cử chỉ lịch
sự, khiêm tốn, trình bày công việc ngắn gọn mà đầy đủ nên được các quan chức
Pháp có cảm tình đặc biệt.
2 . Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh qui
vị tại Vũng Liêm (ngày 8-4 Đinh Sửu 1937)
Giữa tháng 5 năm 1937 (Đinh Sửu),
Đức Hộ Pháp cùng Hội Thánh đi Nam Vang chuẩn bị và dự lễ Khánh Thành Thánh Thất
Kim Biên, giao cho Bà Chánh Phối Sư Hương Thanh ở nhà lo ngoại giao với nhà cầm
quyền Pháp ở những nơi nào đạo bị làm khó dễ. Bà đi hầu tòa, rồi trở về, kế đó
lâm bịnh.
Bà qui vị vào ngày mùng 8 tháng 4
năm Đinh Sửu (dl 17–5–1937) đúng vào ngày lễ thánh đản của Đức Phật Thích Ca,
tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 64 tuổi.
Đức Hộ Pháp được tin điện, liền thu
xếp công việc rồi trở về để cùng Hội Thánh lo tang lễ cho Bà.
Một điều huyền diệu là khi Bà Hương
Thanh còn sống, bà lãnh nhiệm vụ ngoại giao với chánh quyền Pháp lo việc đạo,
thì khi thoát xác đăng tiên, bà cũng lo y như vậy. Số là đạo xin phép khai đàn,
nhà cầm quyền Pháp lúc đầu thì cho, sau lại cấm. Hội Thánh chưa biết tính sao
thì bà giáng cơ nói: Để bà lo việc đó cho, yêu cầu Hội Thánh cử người đến xin,
kỳ sau thì được dễ dàng. Quả đúng như vậy.
Sau khi Bà qui vị được 17 ngày, đến
ngày 25–4 Đinh Sửu (dl 3–6–1937), bà được Đức Chí Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu sư,
vì bà là người có đại công với đạo trong buổi sơ khai và là chị cả của nữ phái,
dìu dẫn đàn em nữ phái.
Về sau, Hội Thánh đem hài cốt của bà ở Vũng
Liêm về Tòa Thánh, đặt vào bửu tháp Nữ Đầu Sư, xây ở phía Tây Lang, tượng của
bà được tạc ở mặt tiền Tòa Thánh, phía Nữ phái, trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn
sanh chiêm ngưỡng một bậc chức sắc nữ phái có đại công với đạo.
Bài thài hiến lễ bà Nữ Đầu Sư Hương
Thanh:
Đầy giỏ hoa lam chất ái tình,
Y theo mặt luật của khuôn linh.
Thử căn linh thể nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng ân chốn ngọc đình.
Nam hải là bờ ao thất bửu,
Tây Ninh nền tổ quán tam thanh.
Thuyền từ trở lái lìa sông lệ,
Nhớ bạn chơn mây gởi tấc thành.
3 . Lễ khánh thành thánh thất Kim
Biên (ngày 13-4 Đinh Sửu 1937)
Trong quyển “HISTOIRE du CAODAISME”
của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron, có thuật rõ diễn tiến cuộc lễ nầy, Hiền
Tài Nguyễn Văn Hồng dịch ra Việt văn, xin trích ra nguyên đoạn nầy như sau:
LỄ KHÁNH THÀNH THÁNH THẤT NAM VANG
Lễ Khánh Thành long trọng thánh thất
Nam Vang được tổ chức vào thứ bảy, ngày 22 tháng 5 năm 1937, trong đó bài diễn
văn của Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo
Cao Đài (Phật giáo Canh tân) là phần chánh. (Người ta tin rằng ông Vinh là FranVois Hugo tái kiếp).
Sau đây là vài đoạn trích lục dài
của bài diễn văn trên:
“Khi Hội Thánh chỉ định tôi mở lời
hôm nay nhơn dịp chúng tôi sắp khánh thành thánh thất đầu tiên được xây dựng
trong thủ đô Vương quốc Cao Miên, đã từ lâu tôi ngần ngại nhận lãnh cái danh dự
đặc biệt nầy, sợ rằng không đủ sức cho một sứ mạng nhiều khó khăn và tế nhị.
“Phải cần có sự khẩn khoản của tất
cả các hiền huynh trong Hội Thánh, đặc biệt của vị niên trưởng, Giáo Sư Thượng
Bảy Thanh là người đáng kính của chúng tôi, có công đầu trong Hội Thánh Ngoại
Giáo của Đạo Cao Đài hay Phật giáo Canh Tân, đã chỉ định tôi xuất hiện hôm nay
trước đông đảo quan khách dễ cảm kích và được chọn lựa.
“Nói tiếng Pháp còn chưa chắc chắn
và nhất là không quen lên diễn đàn, tôi yêu cầu quí vị khoan hồng đối với tôi.
“... Xin quí bà và quí ông tin rằng
trong ngôi nhà nầy, quí vị sẽ tìm được sự hoà bình và hòa hiệp, sự khoan dung
rộng rãi nhứt, ở đây không có một tiếng nói nào có tính cách bất hòa được thốt
ra, tất cả mọi người nơi đây đều có bổn phận thương mến nhau như anh chị em ruột,
vâng theo một luật pháp duy nhứt của Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Đại Từ Phụ của
tất cả, không phân biệt chủng tộc và quốc gia.
“Chúng tôi chợn ngày khánh thành
thánh thất đầu tiên nơi dây là ngày kỷ niệm thoát xác của một người Pháp vĩ
đại, một nhân vật vĩ đại: đó là Victor Hugo mà từ năm 1927, Ngài là Chưởng Đạo
thiêng liêng đáng kính mến của chúng tôi.
Chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn
nước Pháp, nước đã sanh ra một nhà thơ vĩ đại mà chúng ta đã học và yêu mến khi
còn trên ghế nhà trường Pháp, một nước Pháp anh hùng, hào phóng và nhân đạo.
“Chính năm 1927, vị lãnh đạo cao cấp
của Đạo Cao Đài hiện nay, Ngài Phạm Công Tắc đã đến xứ Cao Miên và chơn linh
Victor Hugo giáng đàn trước tiên nhờ việc xây bàn, kế đó là nhờ một miếng ván
nhỏ làm cơ và sau cùng là cây ngọc cơ. Nhờ đó thiết lập được Hội Thánh Ngoại
Giáo của Đạo Cao Đài mà chơn linh Victor Hugo trở thành Chưởng Đạo thiêng liêng
của chúng tôi. Nhờ những lời giáo huấn của Ngài, chúng tôi truyền bá giáo lý
mới, trước tiên là trên lãnh thổ Cao Miên, kế đó sang Pháp, rồi Lào, sau đó
Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
“Tiếp theo xin bày tỏ lòng kính
trọng đến những vị thường xuyên vận động nơi nước Pháp hay nơi Đông Dương để
binh vực Đạo Cao Đài như: Luật sư Roger Laseaux, Luật sư Lortat Jacob, Thủ
Tướng Albert Sarraut, các Thống sứ Richome, Silvestre, Thibaudeau, các Dân biểu
H. Guernut, Marius Moutet, E. Outrey, Paul Ramadler, Marc Rucart, Jean Piot,
J.M. Renaitour, M. Voirin, A. Philip, Cô Marthe Williams, Trung tá Alexis
Métois, Félicien Challaye, ông E. Tozza, Gabriel Abadle de Lestrac, Jean
Laffray (Chủ nhiệm báo La Griffe (móng vuốt), Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp
tại Cao Miên, v.v... Chúng tôi xin cáo lỗi sự thiếu sót ngoài ý muốn trong bài
tường trình mau lẹ nầy.
“Như vậy, chúng ta họp nhau đây
trong sự long trọng là để khánh thành “Ngôi nhà của Thượng Đế” tại Nam Vang.
“Thời gian đã qua khá xa, nơi đảo
Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Jersey, đối diện cái vô tận của biển cả, đối diện
cái vô cùng của bí ẩn tâm linh và số phận con người, qua các cuộc xây bàn của
bà De Giradin và Victor Hugo.
“Thời gian cũng đã khá xa, Đấng
thiêng liêng giáng điển xuống những nhóm nhỏ gia đình ở Sài Gòn, dẫn đến sự
nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung và Ngài trở thành nhà lãnh đạo cao cấp đáng kính
của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân (Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông
phương).
“Từ năm 1919, nhưng nhứt là từ năm
1925, phong trào của chúng tôi không ngừng trở nên vững vàng và chiếm được lòng
tín ngưỡng và những tâm hồn mới trên khắp thế giới.
“Quả thật, giống như tất cả những
cái mới nổi bật của thế giới, Đạo Cao Đài đã gặp phải chủ nghĩa hoài nghi, sự
nhạo báng, sự ngờ vực về những biểu tượng của đạo có ý nghĩa nhứt: Thiên Nhãn
mà người ta thấy trong nhóm Thông Thiên học và Triết lý học, chữ Vạn có nguồn
gốc từ tất cả chủ nghĩa biểu tượng và từ tất cả khoa học bí truyền của nền văn
minh thế giới. Những biểu tượng ấy đáng kính nhứt của chúng tôi đã bị chế nhạo
hay bị buộc tội vô căn cứ, vi lý do dốt nát và không hiểu biết của những kẻ
phàm tục, chỉ thấy chúng tôi ở mặt ngoài.
*
* *
Trong dịp lễ khánh thành thánh thất Kim Biên Nam Vang Đức Hộ Pháp thuyết
đạo về linh tâm
Thưa cùng chư viên quan quí chức,
quí ông quí bà, chư chức sắc thiên phong nam nữ, chư đạo hữu lưỡng phái.
Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một
định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí Linh cùng càn khôn vũ
trụ.
Loài người bao giờ cũng chủ tâm tìm
tòi. Kiếm cái nguyên do lai lịch của mình, hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn
vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu
sanh tại thế, gọi là chúng sanh, đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật
mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng
sanh mới tìm đặng cái tâm linh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết
Thiên lương do Chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là mầu nhiệm huyền bí, tả
không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh
là ĐẠO.
Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM làm mục
đích. Các thánh nhơn xưa thường đem cái triết lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên
dầu cho các vị giáo chủ, tuy mỗi Đấng đều có cái tư tưởng đặc sắc nên triết lý
cao thấp không chừng, nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội. Ôi ! Nếu
luận đến hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ ràng: một vấn đề thuyết không
cùng, biện không tận, vi nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do nơi
Đức Chí Linh là Trời mà sản xuất.
Hễ càn khôn vũ trụ nầy vĩ đại bao
nhiêu và cơ bí mật tạo đoan bao nhiêu thì nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu
cho kiến thức đặng hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương tâm của con người đã
hưởng ứng, đều cho mọi trí não mọi tinh thần tự hiểu rằng: sự thấu đáo chữ ĐẠO
vô cùng vô tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết
học đạo đức tinh thần cho nhơn tâm tức thiện tâm cũng đáng.
TÂM ấy là gì ?
Ấy cũng là một định từ để chỉ cái
hình bóng của trí thức tinh thần. Đạo gọi là nhứt điểm linh quang chiếu giám.
1 . Đức Chúa Jésus khi thọ pháp giải
oan nơi sông Jourdain thì điểm Linh quang ấy đến với một cái hình ảnh phi cầm
là con bồ câu hào quang sáng lạng.
2 . Đức Phật Thích Ca khi trì định
tại vườn Bồ Đề thì điểm Linh quang ấy giáng như hình khối lửa.
3 . Đức Lão Tử khi thiền định tại
thư viện nhà Châu thì điểm Linh quang ấy giáng như hình sấm sét.
4 . Đức Khổng Phu Tử khi vấn đáp với
thần đồng Hạng Thác, thì điểm Linh quang ấy giáng như hình sợ sệt.
Chẳng cần luận cao xa hơn nữa, như
Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào quang sáng suốt; như Đức Lão
Tử, Ngươn Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng Quân Lão Tổ trong năm
sắc tường vân, như Phục Hy thấy Long mã phụ Hà đồ. v.v…
Nhứt điểm linh quang ấy vẫn nhiều
hình dáng, vẽ không nên hình, tả không nên tướng. Ấy là một huyền bí vô chừng
mà các nhà đạo đức từ thượng cổ đến chừ đã để tâm nghiên cứu tìm tàng, đôi phen
phải lặn suối trèo non, chun trong hang sâu vào nơi vực thẳm.
Bởi cái chí hướng của loài người bị
quyền năng của nhứt điểm linh quang thôi thúc, nên trí não tinh thần cũng xu
hướng theo sự bí mật ẩn vi của quyền năng tạo đoan còn chất chứa.
Hễ có tìm thì có biết, hễ biết lại còn
phải biết nữa, càng biết lại càng giấu, bởi sự hay biết của tánh đức loài người
chưa hề thấu dáo đặng sự bí mật tạo đoan cho cùng tận, tức gọi là “Tầm Đạo”. Hễ
càng tìm càng dốt, hễ gọi biết lại là ngu, vì chưa có một mắt phàm nhơn nào tại
thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao trọn huyền vi bí mật. (De paùvres esprits
prétentent qu’ ils sont dans le secret de Dỉeu. Or, je ne donne à nul humain
ici-bas d’ en faire la révélation).
Ấy vậy, chữ
ĐẠO vẫn để nói mà hình vật của đạo vốn khó tìm. Đạo do trí thức tinh thần mà
xuất hiện, chưa có một vật chi hữu linh tại thế nầy mà không có đạo. Cái vĩ đại
của đạo thật là khó rõ, mà đạo lại dễ lợi dụng.
Dưới mặt luật
tương đối của đời đã biến hình, biết bao tư tưởng phô bày, biết bao tướng diện
ảnh hình.
Tranh nhau từ
cái khôn cái khéo, hơn nhau từ cái xảo cái ngoan, sánh nhau từ cái cao cái sâu,
giành nhau từ cái sang cái trọng, để một trường luận biện chánh chánh tà tà,
cho biết cái quyền năng của đạo nó tạo cái hay sự dở.
Chưa ai lấy
một triết lý dầu cao siêu thế nào đặng làm môi giới chuẩn thằng hầu định đức
tánh của loài người cho cùng tận thì không có một giáo lý nào dưới mặt địa cầu
nầy đã đáng danh là đạo.
Chúng ta không
dám chối, các tôn giáo không phải là đạo, mà chúng ta quyết hẳn rằng, các nền
tôn giáo chưa đáng danh gọi đạo. Nếu biết cái triết lý do tinh thần sản xuất
thì là đạo dã đành, nhưng nó chỉ là một tư tưởng trong vô cùng vô tận của trí
thức tinh thẩn mà thôi, song chúng ta phải biết bao nhiêu tư tưởng khác nữa.
Cái nguồn ấy chưa khô chưa cạn và chúng ta lại quả quyết rằng, hễ còn loài
người thì còn có tư tưởng, cả tư tưởng ấy cho đến tận thế cũng vẫn còn.
Ấy vậy, loài
người đương bôn xu trên con đường đạo chớ chưa hề tới tận nguồn cội của đạo bao
giờ. Các tôn giáo tuy đáng danh đạo chớ chưa phải đạo. Tỉ như cát kia ở nơi một
gò, một bãi biển, một sa mạc thì nhỏ lớn đều đặc biệt cùng nhau. Thay vì chỉ
tên một gò, một bãi hay một sa mạc, lại gọi tiếng cát trơn, thì chúng ta chẳng
hề chối đặng, bởi dầu một bãi, một sa mạc hay một gò, nó đều có danh là cát.
Vậy thì dầu
cho tả đạo bàng môn hay là chơn tông chánh giáo, cũng đặng phép tạm xưng là
đạo, những điều khinh trọng, duy để nơi cân công bình của toàn thiên lương trí
thức tinh thần định đoạt.
Ta không dám
xử, nhưng tự nhiên mỗi cá nhân để trí thức mà định phận.
Ta không đủ
thông suốt dặng dung nạp các giáo lý của các nền Đạo đương thời mà linh tâm cho
ta hiểu rằng, nó chưa vui hưởng đặng cái hay của mùi đạo.
Từ cổ chí kim,
con người đã mua cái danh đạo rất nên mắc mỏ. Cái linh tâm của chúng ta vốn là
tự do mà các tôn giáo đã buộc ràng nó trong một hành vi chật hẹp đặng bảo thủ
cái thiên lương thì tức nhiên nó đem một cái báu vô giá đặng đổi chuộc một vật
thường tình, e cho thế gian thất đạo cũng do theo lẽ ấy.
Cái khí hứng
của linh tâm bao giờ cũng chú trọng theo cái hoạt động tự do, lấy thiên mạng
làm căn bản thì thiên lương là tớ, linh tâm là thầy. Các tôn giáo buộc thầy
tùng tớ, thì rõ tả đạo bàng môn, làm cho các mối chơn truyền thành ra bất năng
vô ích.
Hỏi linh tâm
do đâu mà sản xuất ?
Có phải do nơi
tạo hóa Chí Linh ? đã ban cho loài người đặng cổ đủ quyền năng làm chúa cả toàn
vạn vật hay chăng ? Nó là Nhứt điểm linh do nơi Đức Chí Linh mà có, thì nó là
con của Trời, tức nó là Trời.
Còn Thiên lương do nơi dâu mà có ?
Thiên lương do nơi sự đối phó cùng
vạn vật hữu hình lập phương chước bảo tồn sanh hoạt. Không có thiên lương thì
chưa biết nhìn nhau là bạn trong trường khổ não đau thương hầu bảo thủ mạng
sống lẫn nhau đặng dìu dắt nhau đi tận con đường giải thoát.
Có linh tâm mới biết mình là một vật
trong vạn vật của Chí Tôn đào tạo, rồi nhìn Chí Tôn trong hình vạn vật mà tự
hiểu rằng, Chí Tôn phải có tự nhiên tánh đức bác ái từ bi, mới nuôi nấng trọn
chúng sanh vạn vật.
Tâm lành của trời tức là tâm lành
của người. Hình ảnh vĩ đại trước kia nó biến ra hình ảnh tối tiểu sau nầy nên
gọi nó là thiên lương.
Vì vậy, các giáo lý của mấy vị
chưởng giáo từ trước đều là cơ quan un đúc bảo trọng thiên lương mà thôi. Hễ có
linh tâm tức nhiên có thiên lương, dầu không cần kiếm, tự nhiên nó cũng có.
Chúng ta chưa hề dám nói các tôn giáo là vô ích mà ta chỉ than rằng: Chưa đủ.
Dạy đời cho lành mà không dạy đời
cho ngoan thì chẳng khác nào dạy cho biết cái sống mà quên cho hiểu cái chết,
hay là dạy cho đọc sách mà không cho học chữ. Chớ chi, các tôn giáo biết chú trọng
linh tâm hơn là cần lo gầy dựng un đúc thiên lương thì con đường chí thiện của
chúng sanh sẽ đặng quang minh quảng đại hơn nhiều, mà cái đạo của đời sẽ tùy
theo linh tâm trở nên hiền lương nhơn hậu hơn. May ra khối khổ não của đời chưa
đến nỗi to lớn nguy hiểm như thế nầy.
Chúng ta thoạt nhỉên quan sát tận
tường, bởi các bằng cớ tạo đời do nơi tư tưởng của các tôn giáo hiển nhiên tại
thế nên đoán chắc rằng, nếu giáo lý nào mà rộng mở cho sự tự do hoạt động của
điểm linh tâm thì điểm linh tâm tùy theo sự nhỏ lớn của sự ân hậu khoan hồng ấy
mà hưởng ứng, do đó, các tôn giáo mạnh yếu khác nhau cũng vì lẽ ấy.
Hiện thời, đạo Thiên Chúa đã đặng
thế lực mạnh mẽ, đáng danh là một tôn giáo toàn cầu, kể tổng số hơn các tôn
giáo khác. Ngoài ra phương chước làm cho thành tướng các triết lý chơn ngôn,
những tay cầm giềng mối đạo đã rộng mở cho đời đôi chút tự do tư tưởng, đạo
Thiên Chúa nhờ nương cái đức tín của một Đấng Chí Tôn nên thế lực vững vàng
kiên cố. Các quốc dân Châu Âu đã đặng khôn ngoan hơn, đặng tài tình hơn, đặng
cao trọng hơn, tưởng cũng do may hưởng các đặc ân của Đấng Chí Tôn cho rộng thế
hoạt động thành hình của tự do tư tưởng.
Trái lại, chúng ta lại buồn thay cả
khu địa giới cõi Á Châu nầy chịu dưới quyền cảm hóa của Phật giáo từ cổ đến
kim, nên dân sanh phải chịu lỡ bước văn minh tấn bộ.
Kiếm duyên cớ, chúng ta đã thấy hẳn
rằng: Triết lý mà Phật đã bó buộc tư tưởng của con người vào một khuôn khổ hành
vi chật hẹp nên mới ra đến đỗi. Một tôn giáo đã khuyên nhủ đã dụ dỗ, đã yêu cầu
cho điểm linh tâm tự diệt, rồi lại để cho thiên lương vi chủ, thì là một nền
tôn giáo biểu chủ phải tự tử để cho tớ cầm quyền thì bảo sao không chịu cái nạn
tán gia bại sản. Thảm thay ! Nếu phải vong phế vì quốc sự bạc nhược ấy, các sắc
dân nơi cõi Á châu nầy phải tìm tòi đặng học vấn với một thầy nào, tức nhiên
phải đến gõ cửa Khổng gia hay tìm nhà Lão giáo.
Ông Khổng thì biểu ôm một kho sách
cho dẫy đầy đủ phương chước mưu mô đặng trị an thiên hạ, đặt đủ truyện đủ
tuồng, đủ vai đủ vở nhưng rủi thay đời chưa kiếm đặng một mặt kép hay đặng làm
tuồng theo đúng vở, thành thử không khác nào một ông thầy tuồng đặt bài vở
thiệt hay nhưng không cổ kép tài đặng hát.
Ấy là một tôn giáo rộng lý thuyết mà
hẹp thật hành, bởi thúc phược tự do tư tưởng.
Nho giáo như cái chậu, cái khôn
ngoan của đời tức là Linh tâm như cây kiểng, cấy kiểng ở trong chậu chẳng hề
đặng to lớn bao giờ, duy để cho đời đặng ngoạn mục xem ngắm cái hay của sự u
nần cùi cụt.
Ông Lão thì chỉ khuyên nhủ dân sanh
nuôi nấng cái điểm linh tâm cho cường cho thạnh, nhưng không cho nó hoạt động
biến hình, thành thử dạy đời về khôn khéo mà ghét đời về ăn ở thì chẳng khác
nào như một ông thầy thuốc đã trị bịnh cho người, biểu đừng ăn cứ ngủ. Tưởng ra
thì một giáo lý dạy chúng sanh nằm ngủ đặng đợi hết đói thì dầu cho các môn đệ
của người bảo thủ vẹn vẻ lấy điểm linh tâm, thì điểm linh tâm ấy cũng hóa bất
năng vô ích. Cái triết lý của đạo Lão là một triết lý rộng mở cho điểm linh
tâm, mà trở lại một tôn giáo thúc phược linh tâm hơn hết.
Đường đạo vốn mênh mông, tâm đức đi ngõ
nào cho đúng nẻo ? Tâm đức vốn vô ngằn, đạo lý nào cho phù hạp ? Hai câu vấn
đáp mật thiết tương thân nầy, nếu mấy vị giáo chủ còn đương thời hỏi đến cũng
phải nhăn mày nhíu mặt. Chúng ta cũng nên riêng tưởng rằng: chưa có một cái
quyền năng nào mà thúc phược đặng điểm Linh tâm, hầu bỏ nó vào một khuôn khổ
hữu hình hữu dạng, thì tức nhiên chưa có một nền tôn giáo nào đủ tài đức quyền
hành đặng làm chủ đức tin thiên hạ.
Đời phải học với cha mẹ, cha mẹ chưa
đủ đức mà dạy cho nên danh, đời phải học với thầy, thầy chưa đủ dức mà dạy cho
nên phận, đời phải học với vua, vua chưa dủ đức mà dạy cho nên đạo, duy phải
tìm Trời là Đấng đủ quyền năng tạo thế, lại là Cha của đức tánh loài người, thì
mới đủ phương pháp dạy người cho nên người vẹn vẻ. Đạo Cao Đài vốn là cơ quan
để nắm tay của đời đặng dắt vào trường học của Trời mà chớ.”
4 . Cứu tế nạn nhân lũ lụt (ngày 1-9 Đinh Sửu 1937)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Hiệp Thiên Đài
Văn phòng
Sở Phước Thiện
Số: 3
THÔNG CÁO
Cho chư chức sắc thiên phong, chức
việc và toàn đạo nam nữ.
Chư hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ,
hiền muội,
Đã trót hơn tháng nay, vì nạn nước
lụt càng ngày thêm nghiêm trọng làm cho trong Nam ngoài Bắc, ngườii người đều
xôn xao lo phương cứu cấp anh em đồng bào phải chịu nạn đói khó. Các báo Tây,
Nam đồng hô hào cổ động kêu gào gợi mối thương tâm các nhà từ thiện mở lòng lân
ái, kẻ ít người nhiều, đặng làm điều thiện hầu đỡ ngặt trong lúc nguy khốn nầy.
Hội Thánh truyền tin buồn nầy cho
toàn đạo rõ đặng để tâm lo tán trợ với quan viên chức sắc của chánh phủ, hay là
ủy Ban cứu tế nạn dân, đặng giúp ích cho công cuộc nầy mau được hiệu quả.
Bần tăng trân trọng để lời xin chư
hiền huynh, hiền hữu, hiền tỷ, hiền đệ, hiền muội ráng lo phương pháp truyền bá
tin nầy cho toàn đạo hữu, vì tấm lòng từ thiện đáng quí của những bậc hảo tâm
trong đạo chẳng thiếu.
Hội Thánh xin để lời cảm tạ trước,
vì phần nhiều trong đạo đều là hạng nghèo khó mà biết lo nghĩa hiệp, quyên trợ
cho những gia đình đương cơn bị nạn thủy tai đói ỉạnh, biết lo chia sớt mảnh áo
chén cơm thì có chi quí bằng, xin chư hiền huynh, hiền tỷ, hiền muội khá để
lòng sốt sắng về yiệc nầy.
Tòa Thánh, ngày 1–9 Đinh Sửu (dl
4–10–1937).
KHAI PHÁP HTĐ
Chưởng Quản Sở Phước Thiện
TRẦN DUY NGHĨA
Phê chuẩn
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị hữu hình Đài
5 . Đức Hộ Pháp thuyết đạo về luật thương yêu (ngày 14-10 Đinh Sửu 1937)
Thưa cùng chư viên quan quí chức,
quí ông, quí bà, chư chức sắc thiên phong lưỡng phái, chư đạo hữu nam nữ.
Thưa, chúng ta đã rủi sanh nơi cõi
trần nầy, tỉ chẳng khác chi người khách du lịch. Trước khi để bước ra đi, hằng
mong tưởng rằng: cái tánh háo kỳ của ta sẽ đặng thỏa mãn, ngoạn mục đặng một
phong cảnh tốt tươi đẹp đẽ, hứng chí thích tình.
Ôi ! Biết đâu chúng ta lại chẳng
mong tìm mảy may sự hứng chí thích tình ấy mà phải chịu đòi phen khổ nhọc, lặn
suối trèo non, thắng nguy mạo hiểm. Chí hướng tâm thần của loài người bao giờ
cũng đeo đuổi mãi theo con đường hạnh phúc, chẳng phải hạnh phúc nơi xác thịt
hình hài, mà ta lại mong tìm cái hạnh phúc tinh thần hơn hết nên đòi phen ta
đày đọa hình hài xông lướt đến nơi luồng đầm hổ huyệt.
Tâm chí của khách du lịch vẫn nhiều
hạng tùy theo khí phách của mỗi người.
Có kẻ đã đổ đường lên đèo xuống ải
tìm cho ra cảnh an nhàn, khi đến tận nơi gặp phải chốn đìu hiu quạnh quẽ, non nguy
nước hiểm, phong cảnh âu sầu thì nhắm mắt dậm chơn, nghiến răng chắc lưỡi mà
than thở rằng: Uổng công trình ngàn trùng diệu viễn mà lạc bước đến chốn vô
tình.
Cái thất vọng ẩy cũng nên cho là quá
đáng, nhưng cũng có người đặng thiên tánh tự nhiên thích hợp với nước biếc non
xanh, rộng bước tang bồng hồ thỉ, ham hứng trăng thanh, vui mùi gió tối, quen
cùng điểu thú, bạn với cỏ cây, có sẵn chất phong lưu tài tử thì đâu đâu cũng là
cảnh hữu tình: dầu đẹp dầu thô, dầu hèn dầu trọng, dầu lịch xinh tươi nhuận,
dầu cùi cụt đìu hiu thì cái cảnh thích của người cũng gần một giá, bởi khí hứng
của khách hữu tình vốn để vào nơi mật thiết nhiệm mầu của máy hóa công tạo vật.
Những mặt du lịch nhà nghề nầy, dầu
rủi để chơn nơi trái cảnh thì lại đem cả cái ái tình mà châm chế vào chốn bất
phước vô duyên đặng thay thế cho cái phước thích tình, ngoạn mục. Thật ra thì
nơi nào có vẻ u nhàn ảm đạm lại là nơi giục bước khách hữu tình.
Những cuộc đau thảm ngờ ngờ trước
mắt con người, đối với khí phách của bậc siêu hoát tâm hồn vốn y một lẽ.
Ta chẳng hiểu rõ đặng đích xác, bởi
nguyên do nào mà ta đã sanh nơi thế gian nầy rồi ta lại chết trong vòng tục
nầy, nhưng thiên lương ta chiêm nghiệm tự biết lấy rằng: vốn chẳng phải là việc
ngẫu nhiên hay vô duyên cớ.
Những khách đồng thuyền của ta phân
ra nhiều hạng, con đường tấn bộ trí thức của mỗi kẻ vẫn không đồng, dầu cho
ngậm miệng cúi đầu ruổi dong trên ngả tự tri tự giác, hiu quạnh một mình đi
nữa, thì mọi điều hành động của ta cũng đã tả thành một bài học hay in vào cuốn
sách đời của toàn thiên hạ.
Ôi ! Ai đã mang thi phàm xác tục nầy
rồi cũng phải chịu dưới quyền thương yêu của tạo vật, ta dầu không biết thương
ai tất cả thì ta cũng buộc biết thương ta mà đã còn biết thương thân ta thì ta
chưa hề đặng phép quên thương thân của kẻ khác.
Nơi trường tranh sống của con người,
vốn chẳng khác chi chiến trường náo nhiệt. Nếu chẳng có cái năng lực thương yêu
của Đấng Hóa Công dính vào óc não của chiến sĩ võ quân thì đời chắc phải tàn
diệt lẫn nhau lâu rồi mà chớ.
Ta lại còn dám mạo hiểm xưng hô lên
rằng: Con người dầu cho có nạn oán nghịch tàn hại lấy nhau đi nữa, cũng do luật
thương yêu của trời mà có vậy. Nếu như ai vấn nạn thì ta lại trả lời rằng:
Khuôn luật thương yêu chia ra hai mặt:
1 . Thương mình
2 . Thương người
Hai hình trạng của luật thương yêu
ấy phải nương theo cây cân công bình tạo đoan mới hòa bình tâm lý. Nếu quá
thương mình mà bỏ người thì bị cái điên vị ngã, còn quá thương người mà quên
mình thì bị cái ngây vị chủng.
Ấy vậy, rõ thật ra thì ta đã quả
quyết rằng: cũng vì cơ quan vị ngã vị chủng phản khắc tương tranh mà gây thành
loạn lạc vậy. Trời phải định cho có nơi lòng của mỗi người một cây cân công
bình thiêng liêng mới đặng. Cây cân công bình ấy là chi ? Ấy là thiên lương,
tục gọi là lương tâm của ta đó vậy.
Hại thay ! Thiên lương hằng buộc ta
phải ngó chăm chỉ sự thật của đời vì chính nó là bạn thương yêu mật thiết của
đời, rồi buộc ta phải thú thật rằng: dầu cho ta muốn làm màu chê ghét đời, gớm
ghê đời, kinh khủng đời, chán ngán đời mà ta chưa hề buổi nào từ bỏ đặng đời
bao giờ.
Trái lại, những khách hờn đời lại là
người thương đời hơn hết. Cái quyền năng cảm hóa phi thường của tuồng đời, sớm
thay hình, chiều đổi dạng, diễn trên sân khấu thế tình nhiều màn mới mẻ, lắm
lớp hay ho mãi mãi hoài hoài, làm cho thính giả khán quan ngồi không biết mỏi
nghe chẳng nhàm tai đặng gầy sự nghiệp của đời thêm vĩ đại.
Nơi cảnh tục ta đây, Đạo gọi là sông
mê bể khổ, vốn còn náo nhiệt hình bóng của loài người, là nhờ sự khéo khôn của
quyền đời đào tạo.
Số khách hữu tình của đời ngày nay
đã tăng thêm chín trăm hai triệu mặt.
Đời càng phụ ta lại càng thương, đời
càng nguy ta càng thêm mến. Vì cớ nên ta hằng thấy, hễ buổi nào đời bị khổ não
hiểm nguy thì có thánh nhơn trổ mặt.
Thật sự thì đời có quyền phụ ta còn
ta không phép phụ đời. Nhờ đây mà bậc thượng đẳng nhơn sanh thường nương theo
bí pháp của đời mới đào luyện tinh thần siêu thoát. Sự thế còn dài, còn người
còn khổ. Có khổ mới có hay, có dài mới có thú. Cơ nghiệp của đời thâu thập các
món thuế của khách trần, phải nạp giọt đau thương, phải đóng sưu sầu thảm.
Nầy đảnh thương sơn, nọ nguồn lệ
thủy hãy càng ngắm càng cao, càng nhìn càng rộng, dầu ta xuống hang sâu hay
chen vào vực thẳm, trên chẳng đụng trời dưới không thấu đất, hầu mong xa lánh
nợ đời quyết tránh hồng trần tính lìa thế tục, không muốn gặp mặt của bạn khách
trần, kỵ lóng đặng lời ăn tiếng nói hầu mong diệt tận thất tình cho đặng đi nữa
thì thoạt nhiên ta sẽ thấy cả sắt đá cỏ cây phát động âm thanh xúm nhắc luật
thương yêu tạo vật.
Ta dầu cứng lòng chắc dạ, chưa để
cho ai cảm hóa với ngôn ngữ thường tình, khi nghe đặng ngôn ngữ của vạn linh
thì ắt cái quyền lực ái tình nó tăng thêm vô độ.
Những bậc lánh trần, ta xem kỹ lại
là ai ?
Có phải mấy vị thầy tu là trước hết
chăng ?
Vậy thì có tu mới biết thương đời,
chẳng phải thương đời với khuôn viên hình bóng mà vì nồng nàn của khí phách
tinh ba, thì sự thương ấy mới ra cao thượng.
Ôi ! Biết bao nhiêu khách đã chịu
riêng đau, ấp thảm, ngậm khổ nuốt sầu, chịu lắm cuộc bể dâu, xem những nỗi nên
hư thế sự.
Khi đêm tàn canh lụn, ẩn thân nơi
nước trí non nhân, đặng lén dòm quanh cuộc thế, gởi tình chung cho gió mát
trăng thanh, nạp đức tánh cho trời cao đất rộng, một bóng một hình, không ai là
bạn. Cái may của một kiếp sanh bậc siêu hoát tâm hồn đã thường phải vậy. Ấy là
một kiếp sanh để cho đời phụ bạc, chớ chẳng phải cốt để phụ bạc lại đời, đến
đỗi dầu ép thân theo thú hạc cầm, cũng chưa gặp mặt tri âm tri kỷ, sống cũng
không ai hay, thác cũng không ai biết. Ôi ! Tưởng cái lịch sử của thế tình, nếu
có thiếu sót thì do nơi đấy mà ra khuyết điểm.
Hỏi, nếu đời biết cảm tình, gìn ân
giữ nghĩa, thì những bạn đồng thuyền ấy, ta phải khép vào nơi hạng phẩm và giá
cả bậc nào?
Đức Thích Ca bị bỏ đói, Đức Lão Tử
bị cút côi, Đức Khổng Phu Tử bị xô đuổi, Đức Chúa Jésus bị tàn sát, nhưng may
thay, dầu cho mảnh thân bị nơi tay ác độc của nhơn sanh tàn hại thế nào, khi
qui thần đời biết hiểu biết nghe, biết nhìn tiếng than thở đau thương, ái nhân
ái vật và đặng công nhận là người ân của nhơn loại thì cũng nên gọi rằng chết
gặp kiếp duyên mà trừ cái khổ sống mang kiếp trái. Ta cũng nên chắc hẳn quả
quyết rằng, từ thượng cổ đến chừ, cũng còn lắm bậc siêu hoát tâm hồn, thùy từ
mẫn khổ, cũng gần như các vị giáo chủ trên đây nhưng thiếu cái bằng chứng ngôn
ngữ thế tình mà cộng nghiệp của kiếp sanh phải ra mai một.
Ôi ! Anh cả ôi ! Anh cũng là một
người đã chịu mang một kiếp sanh để cho đời phụ bạc, chớ chưa hề biết phụ bạc
lại đời. Em nhớ khi dêm hôm tăm tối, anh hay thuật tâm tình. Ngoài em thì chưa
ai hiểu dặng chỗ để tâm trí của anh là nơi nào ?
6 . Tờ thỉnh nguyện của giáo dân Hà
Nội
Nội dung của Tờ Thỉnh nguyện gồm 3
điểm chánh kể ra như sau: (Trích Hồi Ký của Lễ Sanh Phạm Tài Đoan)
1 . Xin xét lại và đặt địa phận đạo
Bắc Việt trực thuộc HTNG như cũ.
2 . Xin Hội Thánh Tây Ninh cử phái
đoàn ra Bắc điều tra vụ ông GS Bảy bị kết tội chia phe phân phái mà khỗng được
xét xử.
3 . Đề nghị Hội Thánh Tây Ninh cầu
xin các Đấng thiêng liêng giáng cơ cho bài Kinh Sám Hối khác thay thế bài kinh
hiện thời mượn của Minh Lý.
Điều thỉnh cầu thứ nhứt nhắc lại thư
thỉnh nguyện tháng 6 vừa rồi, xin đặt địa phận đạo Bắc Việt trực thuộc HTNG như
cũ để dễ bề làm việc. Tuy ông GS Bảy hiện giờ ở Vân Nam hành đạo, anh chị em
vẫn coi ông như người lãnh đạo tinh thần.
Điều thỉnh cầu thứ hai nhằm giúp ĐHP
cũng như Hội Thánh Tây Ninh khỏi mang tiếng nặng tay với một chức sắc hữu công
như GS Bảy. Một cuộc điều tra và xét xử minh bạch sẽ đánh tan tất cả mối nghi
ngờ và không còn ai trách cứ Hội Thánh Tây Ninh nữa nếu quả thực ông GS Bảy có
tội.
Điều thỉnh cầu thứ ba: Chúng tôi
nhằm cải tiến đạo khi nêu lên vấn đề thứ ba. Đạo hữu miền Bắc phần lớn gồm trí
thức tân học và cựu học, rất thán phục giáo lý và hình thức Đạo Cao Đài rất tân
tiến như kinh kệ, cách thờ phượng, đạo phục, việc bỏ vàng mã, bỏ đồng bóng, ma
chay giản đị nghiêm trang nghĩa là Đạo Cao Đài tổng hợp cái chí thiện của Phật
giáo với cái chí mỹ của Gia Tô giáo.
Nhưng anh chị em lấy làm lạ tại sao
chúng ta vẫn cứ sử dụng bài Kinh Sám Hối (KSH) lỗi thời vì trong KSH chứa đựng
nhiều đoạn tả cảnh tra tấn tội nhơn dưới địa ngục. Chúng tôi nghĩ rằng những
cảnh tra tấn dưới địa ngục là do trí tưởng tượng của người phàm phác họa ra để
răn đe kẻ ác. Ngày nay con người đã tiến hơn xưa về mặt trí tuệ, chúng ta không
thể gạt họ hay mê hoặc họ bằng những hình thức mê tín nữa.
Chúng tôi thiết nghĩ Đạo Cao Đài
xuất phát từ cơ bút nên đề nghị Hội Thánh TTTN cầu cơ xin Đức Chí Tôn bài KSH
khác, nếu không đổi thì xin bớt những đoạn tả cảnh tra tấn dưới địa ngục. Việc
thay đổi KSH không thể coi là sai chơn truyền vì bài KSH hiện thời mượn của bên
Minh Lý, sự thay đổi sẽ lôi cuốn thêm nhiều trí thức vào đạo.
ĐẠO NHỰT THƯỜNG HÀNH LÀ SÁM HỐI TÂN KINH
Buổi đầu khai đạo, đạo Cao Đài chưa
có đủ kinh nên các Đấng mới dạy ông Vương Quang Kỳ và các vị thiên sứ qua bên
chi Minh Lý thỉnh kinh. Lần thỉnh kinh đó không thấy có ai nói rõ có bài kinh
sám hối hay không ?
Sự thật đến năm 1928, nhị vị Đầu Sư
Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt cho in quyển “Tứ thời nhựt tụng kinh” (có
Hội Thánh kiểm duyệt) không có bài kinh sám hối (tiểu đệ còn giữ nguyên bản)
Năm 1930 trong tập “Đại đàn nghi
tiết” Ngài Thượng Đầu Sư mạnh dạn bỏ các bài: Cầu cơ, Mừng thay, Tịnh khẩu chú,
3 bài dâng tam bửu của chi phái.
Năm 1937 họ đạo Hà Nội dâng thỉnh
nguyện thư xin thay bài sám hối bằng bài khác.
Năm 1970 họ đạo Định Tường, HTLVT
yêu cầu tạm ngưng cúng bài kinh sám hối vì không còn phù hợp với sự tiến hóa
của nhơn sanh.
Vào đầu xuân năm Mậu Dần (1938) Đức
Lý Giáo Tông giáng cơ cho bản kinh “Đạo nhựt thường hành” có 28 bài lục bát dễ
đọc (chỉ có bài 22 và 27 viết theo thể song thất lục bát). Đạo nhựt thường hành
dạy thực hành đạo (cúng, tịnh) hằng ngày. Cuối mỗi bài có niệm danh Thầy (1 lạy
rồi đọc tiếp bài kế).
ĐNTH nêu lên phương pháp tu thân có
6 mặt tu thân:
1 . Tam cang
2 . Ngũ thường
3 . Tình thầy trò, thân bằng quyến
thuộc
4 . Sinh hoạt tâm linh
5 . Luyện kỷ
6 . Cuộc sống đời thường
Còn về giáo lý, bản kinh có những
quan niệm về vũ trụ quan, nhân sinh quan, luân hồi, luật cảm ứng, luật vô ngã,
ngũ giới cấm, tứ đại điều quy và công bình bác ái. ĐNTH hơn hẳn kinh sám hối về
mọi mặt, quả xứng đáng và đến lúc thay kinh sám hối bằng kinh ĐNTH.
Đức Lý kết luận: “Những kẻ biết tuân
theo ĐNTH thì được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng
phát huệ và rõ cơ mầu nhiệm”
* Chú thích:
Đạo Phật, Đức Thích Ca không thuyết
pháp ban kinh. Mỗi bộ kinh ra đời đều do một vị thinh pháp truyền lại. ĐNTH
trong văn tịch pháp do Thái Bạch truyền ở Ngũ Phụng Kỳ Sơn “Kỳ sơn động, Ngũ
phụng cung” là cái động nhỏ nằm trên đỉnh núi Heo, phía sau núi Bà trông qua núi
Phụng (nhà Đại Đồng nuôi các hướng đạo sinh). Trên động có viết 6 chữ lớn: “Kỳ
sơn động, Ngũ phụng cung”, nằm trên đất của ông Lê Văn Sở tín đồ Cao Đài Tây
Ninh.
7 . Công việc truyền đạo tại Hà Nội
Trước khi Hà Nội được Hội Thánh TTTN
bổ chức sắc ra truyền đạo thì tại đây đã có ông Bùi Văn Hòa, sanh quán tại Bắc
Việt, làm công chức trong Sở Bưu Chính, đổi vào làm việc ở Nam Kỳ, gặp thời kỳ
khai Đạo Cao Đài, ông liền nhập môn theo Đạo và đắc phong Lễ Sanh phái Ngọc,
thánh danh là Ngọc Hòa Thanh. Năm 1930, ông Hòa hưu trí trở về Bắc, sống tại Hà
Nội. Ông Lễ Sanh Hòa không có liên lạc với Hội Thánh nên TTTN không biết ông đã
về Hà Nội.
1 . Năm 1934, Hội Thánh TTTN bổ Giáo
Hữu Thượng Tuất Thanh (Nguyễn Văn Tuất) quê quán ở Nam Định đi truyền đạo ở Bắc
Việt và Hà Nội. Ông Tuất ra đến Bắc, chưa đầy 1 tháng thì ông lâm bịnh nặng và
qui liễu. Ông được Hội Thánh TTTN truy phong: Đầu địa phận Đạo Vô Vi Bắc Việt.
Ông GH Tuất thường giáng cơ dạy đạo trong địa phận Bắc Việt và mách bảo cho
chức sắc mỗi khi sắp có biến.
2 . Hội Thánh bổ ông Giáo Hữu Thượng
Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) ra thay thế ông Giáo Hữu Tuất. Ông Chữ đến Hà Nội, ở
tạm nơi nhà người quen ở ngỏ Tức Mặc, phố Ga Hàng Cỏ. Mật thám Pháp tại Hà Nội
canh chừng ông quá gắt, ông không hoạt động được gì, nên ông xin Hội Thánh cho
ông trở về Tòa Thánh.
3 . Năm 1934, lần nầy Hội Thánh TTTN
cử ra Bắc một phái đoàn truyền giáo do Giáo Hữu Thượng Ngoạn Thanh (Nguyễn Văn
Ngoạn) cầm đầu gồm các vị: Lễ Sanh Thượng Điểm Thanh, CTS Thạch, PTS Phòng.
Phái đoàn truyền giáo khi tới Hà Nội
liền bắt liên lạc với “Hội Nam Kỳ Tương Tế” để nhờ giúp đỡ. Quí ông trong Hội
Tương Tế là Mai Văn Biên, Mai Văn Nghĩa, Hồ Trọng Tuân, liền xin nhập môn vào
Đạo Cao Đài và tích cực lo lắng, tìm mướn nhà để lập Thánh Thất truyền Đạo.
Quí vị ấy mướn được một căn nhà ở
phố Harmand để lập thánh thất và làm văn phòng. Thánh Thất nầy được tạm gọi là
thánh thất Harmand là thánh thất đầu tiên thiết lập tại Hà Nội, là cơ sở đầu
tiên để truyền bá Đạo Cao Đài.
4 . Đạo mới lập còn rất nghèo, không
đủ tiền để mướn nhà lâu dài, đành phải dời đi. Có một đạo hữu tâm đạo là Phan
Đăng Chức hiến cho đạo một phần căn nhà đang ở của ông để làm thánh thất, ở số
20 ngõ Quỳnh Lôi, đường Bạch Mai, thuộc ngoại thành Hà Nội. Tại đây số người
nhập môn theo đạo mỗi lúc một đông. Thánh thất Quỳnh Lôi trở nên chật chội nên
Ban Cai Quản thánh thất định mướn một căn nhà rộng hơn để làm thánh thất.
5 . Ban Cai Quản thuê được một cái
nhà rộng gồm 2 căn tại phố Lê Lợi số nhà 49 - 51. Thánh thất được dọn về đây
chiếm 1 căn, còn 1 căn để làm văn phòng. Nơi đây tạm gọi là thánh thất Lê Lợi.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét