Buổi đầu, Bần đạo không để ý, đi tới nữa, thấy cả thảy đều có ngôi vị của họ
sẵn. Bần đạo vô cửa thấy họ ngồi có chỗ hết, còn mình thì bơ thờ, cầm cây Giáng
Ma Xử đi vô, không biết đi đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi, còn mình không
có? Vừa nói rồi thì thấy có người đứng gần bên mình mà không hay, họ trả lời:
Cái ngai của Ngài kia. Bần đạo dòm lên thấy cái ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong
bụng hồ nghi nói không biết họ có gạt mình không.
Bần đạo sợ, vừa sợ thì có người
nói: Chính cái ngai đó là của Ngài.
Từ thử đến giờ, dầu vạn kiếp
sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian nầy cũng không bằng ngồi được trên đó.
Nơi đó sung sướng lắm, sung sướng làm sao đâu! ..."
7 . Nhược thiệt nhược hư, - 若 實 若 虛
8 . Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. - 不 言 而 默 宣 大 化
GIẢI NGHĨA
Câu 7: Nhược thiệt nhược hư.
Nhược: Nếu như, ví bằng.
Thiệt: Thực, có hình ảnh cụ thể thấy được. Hư: Trống không, không thấy gì cả.
C.7: Như là có thật, nhìn
thấy được; như là trống không, không thấy gì cả.
Ðó là Ðạo Trời huyền diệu
không lường, hư hư thực thực, biến hóa mầu nhiệm vô cùng, lúc có lúc không,
không thể nào lấy trí phàm mà biết hết được.
Câu 8: Bất ngôn nhi mặc
tuyên đại hóa.
Bất: Không. Ngôn: Lời nói.
Bất ngôn: Không lời nói. Nhi: Mà. Mặc: Yên lặng. Tuyên: Bày tỏ cho người khác
biết. Ðại: Lớn. Hóa: Biến đổi. Ðại hóa: Cuộc biến hóa lớn.
C.8: Không nói ra mà cứ
yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn trong khắp CKVT.
Sách Luận Ngữ: Thiên hà
ngôn tai! Tứ thời hành yên? Vạn vật sanh yên? Nghĩa là: Trời có nói gì đâu! Bốn
mùa há không vận chuyển sao? Muôn vật há không sanh hóa sao?
9 . Thị không, thị sắc. - 是 空 是 色
10 . Vô vi nhi dịch sử quần linh. - 無 為 而 役 使 群 靈
GIẢI NGHĨA
Câu 9: Thị không, thị sắc.
Thị: Là, ấy là. Không: Trống
rổng, mắt phàm không thấy chi cả. Sắc: Những thứ có hình tướng, mắt phàm thấy
rõ.
C.9: Là trống không, là có hình tướng.
SẮC thì có hình tướng nên
thuộc vật chất hữu hình.
KHÔNG thuộc vô vi, không
hình tướng, mắt phàm không thể thấy được. Nói như thế là đối với người phàm, với
mắt phàm; nhưng đối với con mắt thiêng liêng thì không có gì là KHÔNG, không có
gì là SẮC, tức là không còn phân biệt SẮC và KHÔNG.
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật
giáo có câu:
"SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC,
SẮC bất dị KHÔNG, KHÔNG bất dị SẮC."
Nghĩa là:
SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là SẮC,
SẮC không khác với KHÔNG, KHÔNG không khác với
SẮC.
Trong Ðạo Ðức Kinh, Ðức Lão Tử cũng có nói:
"Hữu xuất ư Vô". Nghĩa là: Cái CÓ từ cái KHÔNG mà ra.
Thuở tạo dựng Trời Ðất, Ðức
Chí Tôn dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang, là 2 chất khí không hình ảnh (tức
là KHÔNG) để phối hợp sanh ra CKVT và vạn vật có hình thể (tức là SẮC). Như vậy,
Ðức Chí Tôn đã lấy KHÔNG mà tạo thành SẮC. Khi đã có sắc tướng rồi thì phải chịu
luật Thành Trụ Hoại Diệt, sắc tướng chỉ tồn tại một thơì gian rồi phải bị tiêu
diệt để trở về KHÔNG, tức là trở về nguồn cội Vô Vi.
Câu 10 : Vô vi nhi dịch sử
quần linh.
Vô: Không. Vi: Làm. Nhi:
Mà. Dịch: Sai khiến làm việc. Sử: Sai khiến. Quần linh: Quần là nhiều, Linh là
chơn linh, Linh hồn. Quần linh đồng nghĩa Vạn linh, chỉ tất cả chơn linh trong
CKVT gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn,
Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Vô Vi: Nghĩa đen là không
làm, nghĩa thường dùng là không hình ảnh, thuộc vô hình. Trái với Vô Vi là Hữu
Vi, là có hình ảnh thấy được, thuộc hữu hình sắc tướng.
Ðạo Ðức Kinh viết rằng: "Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi".
Nghĩa là: Cái Ðạo thường thì không làm gì nhưng không việc gì không làm được.
Ðạo là Hư Vô chi Khí, mà
Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn, nên Ðức Chí Tôn cũng chính là Ðạo. Ngài
không làm gì nhưng sai khiến được Vạn linh trong CKVT vì Ngài là Ðạo.
C. 10 : Ðức Chí Tôn ở trạng
thái vô vi mà sai khiến toàn cả vạn linh trong CKVT.
11 . Thời thừa lục long, - 時 乘 六 龍
du hành bất tức. - 遊 行 不 息
GIẢI NGHĨA
Thời: Thường thường. Thừa:
Cỡi. Lục long: Sáu con rồng. Du hành: Ði khắp nơi. Bất tức: Không ngừng nghỉ.
Lục long là 6 con rồng, tượng
trưng 6 vạch liền của quẻ CÀN trong Kinh
Dịch.
Vương Bật, thuộc phái Huyền
học thời Nam Bắc Triều bên Tàu, chú giải tượng của quẻ Càn trong Kinh Dịch như sau:
"Thời thừa lục long dĩ ngự Thiên, Càn đạo biến
hóa, các chánh tánh mạng." Nghĩa là: Luôn luôn cỡi 6
rồng để ngự trị Trời, đạo Càn biến hóa, mỗi vật giữ ngay ngắn vận mạng của bản
tánh.
Càn tượng trưng Trời. Thời
thừa lục long là chỉ cái sức mạnh mẽ của Ðấng Thượng Ðế bao trùm CKVT như 6 con
rồng vùng vẫy trong không trung.
Du hành bất tức là chỉ sự
vận chuyển và sự biến hóa luôn luôn, và vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.
Nơi nóc Plafond dù ở 9 cấp
Cửu Trùng Ðài của Tòa Thánh Tây Ninh, có tạc hình 6 con rồng đoanh nhau theo 3
màu đạo: 2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ, để tượng trưng cho Câu kinh 11 ở
trên.
C.11: Nghĩa đen là: Thường
cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ. Nghĩa bóng là: Cái sức mạnh to lớn và
sự chuyển vận biến hóa vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.
12 . Khí phân Tứ Tượng. - 氣 分 四 象
13 . Oát triền vô biên.- 斡 旋 無 邊
GIẢI NGHĨA
Câu 12: Khí phân Tứ Tượng.
Khí: Chất khí, ở đây chỉ
khí Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Phân: Chia ra. Tứ Tượng: Bốn Tượng gồm:
Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.
Theo phần Giải nghĩa nơi
Câu 1 và Câu 2 thì: Khí Hư Vô biến sanh Thái Cực, ngôi của Ðức Chí Tôn và đó
cũng là một Khối Ðại Linh Quang của Ðức Chí Tôn. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra
Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Hai khí nầy xây chuyển và phối hợp với
nhau để sanh ra Tứ Tượng. Rồi Tứ Tượng biến hóa tiếp tục để tạo ra Bát Quái.
Bát Quái biến hóa vô cùng để tạo thành CKVT và vạn vật.
Như vậy, nguồn gốc phát khởi
là Khí Hư Vô.
Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ
Tượng đều là thể khí với nguồn năng lực là ánh sáng linh thiêng vô cùng tận. Tới
khi Bát Quái biến hóa thì bắt đầu có Trời Ðất và vạn vật hữu hình.
C.12: Khí phân Tứ tượng là
2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp để hóa sanh ra Tứ Tượng.
Câu 13: Oát triền vô biên.
Oát: Chuyển xoay đi. Triền:
Xoay trở lại. Oát triền là xoay chuyển qua lại. Vô biên: Không biên giới, không
giới hạn.
CHÚ Ý: Chữ Hán 斡 旋 phải phiên âm ra tiếng Việt là OÁT TRIỀN thì mới
đúng chánh tả, theo Từ Ðiển Hán Việt của Ðào Duy Anh quyển II, trang 87 và 490.
C.13 : Xoay chuyển qua lại,
rộng ra không giới hạn.
14 . Càn kiện cao minh. - 乾 健 高 明
15 . Vạn loại thiện ác tất kiến. - 萬 類 善 惡 悉 見
GIẢI NGHĨA
Câu 14: Càn kiện cao minh.
Càn: Quẻ đầu tiên trong
Bát Quái, tượng trưng Trời. Kiện: Mạnh mẽ. Cao: Ở trên cao. Minh: Sáng tỏ.
C.14: Ngôi Càn mạnh mẽ,
cao vọi, sáng tỏ.
Trong quyển "Châu Dịch Huyền Giải" của
Minh Lý Ðạo ấn tống, nói về sự mạnh mẽ của ngôi Càn như sau:
"Kiền (Càn) là cương kiện. Nói rõ hơn, Kiền là
cương kiện bất khuất chi nghĩa. Thế của nó có 6 hào đều dương, tượng của nó là
thuần dương (nên nói 6 rồng, rồng thuộc về Dương). Mạnh không chi bằng Trời, Trời
là Ðạo, một khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối, trải bao nhiêu thời gian,
không gian, không ngằn mé (vô biên). Vạn vật không có một vật nào mà không đặng
nó che chở, mà cũng không vật nào làm hại nó được."
Câu 15: Vạn loại thiện ác tất kiến.
Vạn loại: Muôn loài sanh vật
trong CKVT. Thiện ác: Lành và dữ. Tất: Ðều, biết rõ. Kiến: Thấy, biết.
C.15 : Việc lành, việc dữ
của muôn loài vật đều biết và thấy rõ.
Do đó, trong Ðạo Cao Ðài,
Ðức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn là thờ THẦY. Thầy là Trời, là Thượng Ðế, mà theo
lời nói thông thường là Trời cao có Mắt, cái gì cũng thấy rõ hết, dầu giấu giếm
kín đáo đến đâu cũng không thể che được con Mắt thiêng liêng của Trời được.
16 . Huyền phạm quảng đại. - 玄 範 廣 大
17 . Nhứt toán họa phước lập phân. - 一 算 禍 福 立 分
GIẢI NGHĨA
Câu 16: Huyền phạm quảng đại.
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền
diệu. Phạm: Khuôn mẫu để người ta bắt chước làm theo, phép tắc. Quảng: Rộng lớn.
Ðại: Lớn. Quảng đại là rộng lớn.
C.16: Cái khuôn phép huyền
diệu và rộng lớn.
Phạm vi khuôn phép của Trời
Ðất rộng lớn mênh mông vô cùng, nhưng cũng rất huyền diệu, dầu một mũi kim nhỏ
cũng không qua lọt, một mảy cũng không bỏ sót. Cho nên có câu: Thiên võng khôi
khôi, sơ nhi bất lậu. Nghĩa là: Lưới Trời lộng lộng, thưa mà không lọt.
Câu 17: Nhứt toán họa phước lập phân.
Nhứt: Một. Toán: Ðếm số mà
tính ra nhiều ít, làm toán, tính toán. Họa: Tai vạ lớn. Phước: Ðiều may mắn tốt
lành. Lập: Tạo nên, lập thành. Phân: Chia ra.
C.17: Chỉ một cái tính
toán mà Ðức Chí Tôn tạo lập và chia ra một cách rành rẽ cái nào là họa, cái nào
là phước.
Cái tính toán của Ðức Chí
Tôn thể hiện bằng Cây Cân Công Bình thiêng liêng, để cân họa phước, trong nháy
mắt thì biết rõ kết quả: Phước nhiều thì thăng, tội nhiều thì đọa.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
về Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có mô tả Ðức Chí Tôn cầm Cây Cân Công Bình
thiêng liêng như sau:
"Vừa nói rồi thì thấy Ổng (Ðức Chí Tôn) bước
ra đứng ngay chính giữa, ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu con coi đây, ngó
ngay lên Ổng, thấy đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm.
Cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc
Hoàng Thượng Ðế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu
ra thành cái giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại
thành Cây Cân Công Bình thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Ðiện."
18 . Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, 上 掌 三 十 六 天
Tam thiên Thế giới. 三 千 世 界
GIẢI NGHĨA
Thượng: Ở trên, phần trên.
Chưởng: Nắm giữ, cai quản . Tam thập lục: 36. Thiên: Ở đây có nghĩa là từng Trời.
Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.
Tam thiên: 3000. Thiên là
một ngàn. Thế giới: Ðịa cầu. Khi nhìn lên bầu trời vào đêm, chúng ta thấy những
vì sao lấp lánh sáng, đó là những Thế giới. Những Thế giới thanh nhẹ thì ở trên
cao, những Thế giới ít thanh nhẹ hơn thì ở dưới thấp. Tam thiên Thế giới là
3000 Thế giới, tức 3000 Ðịa cầu.
C.18: Ở phần trên của Vũ
trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 36 từng Trời và 3000 Thế giới.
Ðức Cao Thượng Phẩm giáng
cơ dạy Luật Tam Thể, có đoạn nói về Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa như
sau:
"Mấy em thử phân lại Tam thiên Thế giới và Thất
thập nhị Ðịa coi thử? Bạch: Tam thiên Thế giới là ở từng trên bao phủ mà Thất thập
nhị Ðịa ví như bàn cờ ở dưới. Ðức Cao Thượng Phẩm nói: Phải đó vậy. Tam thiên
Thế giới là ngôi vị, còn Thất thập nhị Ðịa là Trường thi Công quả, hiểu
chưa?"
Theo lời dạy của Ðức Cao
Thượng Phẩm thì bên trên của vũ trụ hữu hình là 3000 Thế giới, chỉ gồm có những
ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật, còn bên dưới của vũ trụ là 72 Ðịa cầu có
nhơn loại ở, nơi đó dùng làm Trường Thi Công Quả, tức là để cho nhơn loại tu
hành, lập công bồi đức mà đắc đạo, đoạt được quả vị và được thăng lên ở trên
3000 Thế giới.
19 . Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, -下 握 七 十 二 地
Tứ Ðại Bộ Châu. - 四 大 部 洲
GIẢI NGHĨA
Hạ : Ở dưới, ở phần dưới. Ốc:
còn đọc là Ác, nghĩa là: Nắm lấy, cầm giữ. Thất thập nhị: 72. Ðịa: Ðịa cầu. Thất
thập nhị Ðịa: 72 quả Ðịa cầu. Các Ðịa cầu nầy được đánh số từ cao dần xuống thấp,
tức là từ thanh khiết xuống trọng trược, và Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang
ở là Ðịa cầu số 68.
Tứ : 4. Ðại: Lớn. Bộ: Ngành, môn. Châu: Vùng đất lớn có biển bao bọc chung
quanh.
Tứ Ðại Bộ Châu là 4 Bộ
Châu lớn được phân chia theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc, có tên là:
Ðông Thắng Thần Châu,
Tây Ngưu Hóa Châu,
Nam Thiệm Bộ Châu,
Bắc Câu Lư Châu.
Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa
cầu) được chia ra ở trong Tứ Ðại Bộ Châu nầy. Ðịa cầu 68 của nhơn loại chúng ta
thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.
C.19: Ở phần dưới của vũ
trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 72 Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
Tóm tắt 2 Câu 18 & 19:
Phần trên của vũ trụ là
Tam thập lục Thiên và Tam thiên Thế giới; phần dưới của vũ trụ là Tứ Ðại Bộ
Châu và Thất thập nhị Ðịa. Tất cả trên dưới đều do Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế tạo
dựng và chưởng quản. Như vậy CKVT của Ðức Chí Tôn gồm có 2 phần: Hữu hình và Vô
hình.
Phần Vô hình gồm: Tam thập
lục Thiên và Tứ Ðại Bộ Châu (36 từng Trời và 4 Bộ Châu lớn).
Phần Hữu hình gồm: Tam
thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa (3000 Thế giới và 72 Ðịa cầu).
Ðức Chí Tôn dạy Ông Phối
Sư Thái Bính Thanh làm một Trái Càn Khôn tượng trưng CKVT thờ nơi BQÐ TTTN:
TNHT. I . 45 : "Bính!
Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười ... Một
trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc, nghe con! Lớn
quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh
da trời, Cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Trái Càn Khôn ấy.
Thầy kể, Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu, ở
không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa
và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu
vẽ lên đó cho đủ.
Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại
ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ 2 cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng.
Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy."
20. Tiên Thiên, Hậu Thiên, - 先 天 後 天
Tịnh dục Ðại Từ Phụ. - 並 育 大 慈 父
GIẢI NGHĨA
Tiên: Trước. Hậu: Sau.
Thiên: Trời.
Tiên Thiên là trước khi tạo
dựng Trời Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên nằm trong khoảng thời gian từ khi xuất hiện
ngôi Thái Cực cho đến khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi Âm Dương. Dương nhẹ nổi
lên thành Trời, Âm nặng chìm xuống thành Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên còn ở trạng
thái Vô vi, vô hình.
Hậu Thiên là sau khi tạo dựng
Trời Ðất. Thời Hậu Thiên nằm trong khoảng thời gian sau khi xuất hiện Lưỡng
Nghi, tức là sau khi có được Trời Ðất, tức CKVT và vạn vật. Thời kỳ nầy thuộc về
Hữu hình sắc tướng.
Thái Cực Lưỡng Nghi Trục thời gian
----------------O------------------------------------------------X--------------
Hồng mông (Hỗn Ðộn) Tiên Thiên Hậu Thiên
Tịnh: Cùng, đều. Dục: Nuôi
dưỡng. Tịnh dục là nuôi dưỡng đồng đều như nhau. Ðại: Lớn. Từ: Lòng thương yêu
chúng sanh. Phụ: Cha. Ðại Từ Phụ là người Cha lớn hơn hết các người cha, có
lòng lành thương yêu chúng sanh, vì chúng sanh đều là con cái của Ngài. Ðấng ấy
là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.
C.20 : Trước khi tạo dựng
Trời Ðất, sau khi tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ của toàn cả
chúng sanh, nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
Ðấng Thượng Ðế nuôi sống
chúng sanh bằng không khí để thở, bằng ánh sáng mặt trời để sưởi ấm, nước để uống
và các loại thực phẩm. Không vì người đạo đức mà Thượng Ðế ban cho nhiều hơn,
hay không vì kẻ hung bạo gian tà mà ban cho nó ít hơn, không ban cho nó sống.
Còn các vật, không vì loài hữu ích mà ban cho nó nhiều, không vì loài độc hại
mà lấy bớt. Thượng Ðế nuôi dưỡng chúng sanh mọi loài đều như nhau. Tình thương
của Thượng Ðế chan hòa đồng đều khắp cả.
Mặt khác, Ðức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Ðế là Thầy mà cũng là Cha (Ðại Từ Phụ). Ðức Phạm Hộ Pháp thắc mắc
điểm nầy nên có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, hỏi:
- Phàm là Cha thì làm Cha,
còn Thầy thì làm Thầy, chớ sao Ðại Từ Phụ lại xưng là Thầy, rất nên khó hiểu?
Ðức Nguyệt Tâm trả lời bằng
bài thơ Pháp văn, dịch ra thơ song thất lục bát như sau: (Ðức Phạm Hộ Pháp dịch)
Người cũng vẫn Cha Thầy luôn một,
Cả chơn linh, hài cốt, tay Người.
Nuôi mình dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật Thương yêu, quyền là ngay chánh,
Gần thiện căn, xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên.
21 . Kim ngưỡng, cổ ngưỡng. -
今 仰 古 仰
22 . Phổ tế Tổng Pháp tông. - 普 濟 總 法 宗
GIẢI NGHĨA
Câu 21 : Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
Kim: Thời nay. Cổ: Thời
xưa.
Ngưỡng: Ngửa mặt nhìn lên
với lòng kính mến.
C.21 : Thời nay cũng như
thời xưa, đều được kính mến.
Câu 22 : Phổ tế Tổng Pháp
tông,
Phổ: Khắp nơi, rộng lớn. Tế:
Giúp đỡ.
Tổng: Gom lại. Pháp: Pháp
có nghĩa rất rộng, ở đây, Pháp có nghĩa là Giáo lý của một nền tôn giáo. Tông:
còn đọc là Tôn: Tôn giáo. Pháp tông là giáo lý của một tôn giáo.
Tổng Pháp tông là gom tất
cả Giáo lý của các nền tôn giáo lại thành một mối.
C.22 : Giúp đỡ chúng sanh,
gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo có từ trước tới nay thống nhứt thành một
mối dưới sự chưởng quản của Ðức Chí Tôn.
Xưa kia, Ðức Chí Tôn cho
khai mở riêng rẽ nhiều nền tôn giáo khác nhau nơi các vùng dân cư khác nhau
trên mặt Ðịa cầu nầy, để giáo hóa và cứu giúp dân chúng vùng đó, vì thuở ấy,
con người còn kém văn minh, việc đi lại và thông tin từ nơi nầy đến nơi khác rất
khó khăn. Các tôn giáo chỉ hành đạo nơi địa phương riêng của mình mà thôi. Bởi
thế, nhơn loại bị phân chia đối nghịch nhau, cho đạo mình là chánh, đạo khác là
tà.
Ngày nay, nhơn loại tiến đến
một nền văn minh rất cao, nhơn loại đã hiệp đồng, và cũng đúng vào thời kỳ Hạ
nguơn Mạt kiếp, một cuộc Tận thế sắp xảy ra, để chuyển sang Thượng nguơn Thánh
đức, nên Ðức Chí Tôn mở lòng Ðại từ Ðại bi, khai sáng ÐÐTKPÐ để gom tất cả Giáo
lý của các nền tôn giáo đã có từ trước tới nay, qui về một mối duy nhứt là Ðạo
Cao Ðài, không còn chia rẽ phân biệt nhau, cùng nhau có chung một tín ngưỡng,
cùng thờ một Ðấng Duy Nhứt Tối Cao, Chúa Tể CKVT, và cũng là Ðại Từ Phụ của
nhơn loại. Ðó chính là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt
Ngũ Chi.
Ðây là thời kỳ mà Ðức Chí
Tôn làm một cuộc Tổng Pháp tông, thống hợp các tôn giáo, cứu độ toàn chúng sanh
trong buổi đời Mạt kiếp của Hạ Nguơn Tam Chuyển nầy.
23. Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân, - 乃 日 月 星 辰 之 君
24. Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ. - 為 聖 神 仙 佛 之 主
GIẢI NGHĨA
Câu 23: Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân.
Nãi: Bèn, hóa ra là, ấy
là. Nhựt: Mặt trời. Nguyệt: Mặt trăng. Tinh: Ngôi sao, tinh tú. Thần: Ngày giờ, chỉ về thời gian. Chi: Tiếng đệm. Quân:
Vua.
Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam bửu trên bầu trời, chỉ về Không gian. Thần là
ngày giờ, chỉ về Thời gian.
Câu 23: Ấy là vua của Mặt trời, Mặt trăng, Ngôi sao, và ngày giờ, tức là vua của
Không gian và Thời gian.
Ðức Chí Tôn có giáng cơ dạy rằng: "Thập nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập
nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy," (TNHT. I.12)
Theo Bài Thánh ngôn nầy, Ðức
Chí Tôn là Chúa của Càn Khôn Thế Giới, tức là Chúa của Nhựt Nguyệt Tinh; và Ðức
Chí Tôn cũng là Chúa của Thập nhị Thời Thần, tức là Chúa của Thời gian.
Câu 24: Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ.
Vi: Là. Thánh, Thần, Tiên,
Phật: Bốn cấp phẩm vị thiêng liêng dành cho những người đạo đức tu hành đắc quả,
tùy theo công đức nhiều ít mà được phẩm vị cao thấp tương xứng. Phẩm thấp nhứt
là Thần, cao hơn chút là phẩm Thánh, cao hơn nữa là phẩm Tiên, và cao nhứt là
phẩm Phật.
Chi: Tiếng đệm. Chủ: Người
làm chủ, làm Chúa, tức là người làm ra sự vật và có toàn quyền quyết định số phận
của sự vật ấy.
C.24: Là người chủ của chư
Thần, Thánh,Tiên, Phật.
Người chủ đó là Ðức Chí
Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Ðức Chí Tôn, chẳng những là chủ của các Ðấng ấy, mà
còn là Cha sanh ra các Ðấng ấy nữa.
TNHT. I. 52: "Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật
cũng Thầy. Thầy nói một Chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại.
"Thầy là chư Phật, chư Phật
là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con."
"Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới,
nên mới gọi là Pháp. Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật, rồi mới có người,
nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo
mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy,"
Nhiều người mê chấp cho rằng,
chỉ có Phật là lớn, còn Thượng Ðế là Ông Trời thì nhỏ hơn Phật. Họ dẫn chứng bằng
Truyện Tây Du, khi Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung, Thượng Ðế cũng phải thua
chạy, phải cầu cứu Phật Tổ. Phật Tổ qua mới bắt được Tề Thiên, đem đè dưới Ngũ
Hành Sơn.
Ðầu truyện thì nói Tề
Thiên tài giỏi như thế, song về sau thì Tề Thiên rất dở, đánh không lại nhiều
con yêu, phải đi cầu cứu thầy của chúng xuống bắt về. Xét như thế để thấy rằng
Truyện Tây Du trước sau không thống nhứt, không đáng tin.
Mặt khác, chúng ta thử hỏi:
Phật Tổ do đâu mà có? Trả lời: Do Thái tử Sĩ Ðạt Ta đi tu thành Phật. Thái tử
Sĩ Ðạt Ta chỉ là một người nơi thế gian. Thể xác của Thái Tử do vua cha và
hoàng hậu, mẹ của Thái tử sanh ra, nhưng Linh hồn và Chơn Thần của Thái tử do
đâu mà có?
Chúng ta biết rằng, tất cả
đều do Thượng Ðế sanh ra. Ðó là Ðấng Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh. Dù con
người có tu thành Phật thì Phật đó cũng vẫn là con của Thượng Ðế, mà con thì
không thể lớn hơn cha.
Ðây là một Chơn lý không
thể chối cãi được. Nó có tính cách khoa học hợp lý, chớ không phải do mê tín đặt
ra.
25 . Trạm tịch chơn đạo. - 湛 寂 眞 道
26 . Khôi mịch tôn nghiêm.- 恢 漠 尊 嚴
GIẢI NGHĨA
Câu 25: Trạm tịch chơn đạo.
Trạm: Nước sâu, sâu dày. Tịch:
Yên lặng. Trạm tịch: Sâu dày và yên lặng. Chơn: Thật, thường nói Chơn thật.
Ðạo: Nguyên lý đầu tiên tạo
thành CKVT và vạn vật.
(Xem giải nghĩa chi tiết
chữ Ðạo trong Kinh Tiên giáo). Ở đây, chữ Ðạo có nghĩa là nền Ðại Ðạo của Ðức
Chí Tôn.
C.25: Nền Ðại Ðạo của Ðức
Chí Tôn chơn thật, sâu dày và yên lặng.
Câu 26: Khôi mịch tôn
nghiêm.
Khôi: To lớn. Mịch: còn đọc
là Mạc, nghĩa là yên lặng. Tôn: Ðáng kính. Nghiêm: Vẻ oai nghi đáng nể sợ.
C.26: Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn to lớn, lặng lẽ,
đáng kính, oai nghiêm.
Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí
Tôn mở ra bao gồm các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ Chi, nên nó là một nền Ðại Ðạo
chơn chánh, vĩ đại, sâu xa, cao quí, tôn nghiêm, và huyền diệu vô cùng. Có được
như vậy mới độ được 92 ức nguyên nhân còn đang bị đọa lạc nơi cõi trần, đồng thời
tận độ toàn cả chúng sanh, trong thời kỳ Mạt Kiếp Hạ Nguơn, để chuyển qua thời
kỳ Thượng Nguơn Thánh đức.
27 . Biến hóa vô cùng. - 變 化 無 窮
28 . Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế. - 屢 傳 寶 經 以 覺 世
GIẢI NGHĨA
Câu 27: Biến hóa vô cùng.
Biến hóa: Thay đổi thành
cái khác, hay đổi sang trạng thái khác, hình thức khác. Vô cùng: Không có chỗ
cuối cùng, không giới hạn.
C.27: Biến hóa không cùng
tận.
Câu 28: Lũ truyền bửu kinh
dĩ giác thế.
Lũ: Nhiều lần. Lũ truyền:
Nhiều lần truyền ra khắp nơi. Bửu: còn đọc là Bảo, nghĩa là quí báu. Kinh: Kinh
sách. Bửu kinh: Kinh sách quí báu. Dĩ: Ðể mà, dùng để.
Giác: Tỉnh ra mà biết rõ,
trái với Mê. Giác và Mê, tỷ như người thức với kẻ ngủ, thức là Giác, ngủ là Mê.
Giác là Phật, Mê là chúng sanh. Thế: Ðời, người đời. Giác thế: Giác ngộ người đời,
làm cho người đời tỉnh ra mà biết rõ, đâu là tạm bợ, đâu là vĩnh cửu, đâu là thật,
đâu là giả, vv...
C.28: Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác
ngộ người đời.
Từ xưa đến nay, Ðức Chí
Tôn đã nhiều lần cho các Ðấng Phật Tiên giáng trần mở Ðạo cứu đời: Ðức Phật
Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Ðộ, Ðức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái; Ðức
Lão Tử, Ðức Khổng Tử mở Tiên giáo và Nho giáo tại Trung Hoa, vv... Các Ðấng
Giáo chủ ấy đã thuyết giảng biết bao giáo lý cao siêu, ghi lại thành kinh sách
quí báu, truyền bá trong dân chúng, hầu thức tỉnh người đời bỏ mê tìm giác, lo
việc tu hành mà trở về ngôi xưa vị cũ.
29 . Linh oai mạc trắc. - 靈 威 莫 測
30 . Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh. - 常 施 神 敎 以 利 生
GIẢI NGHĨA
Câu 29: Linh oai mạc trắc.
Linh: Thiêng liêng. Oai:
Cái vẻ trang nghiêm khiến người khác phải nể sợ. Mạc: Không. Trắc: Ðo lường. Mạc
trắc là không thể đo lường để biết được.
C.29: Cái oai quyền thiêng
liêng của Ðức Chí Tôn không thể đo lường để biết hết được.
Người thời nay, nơi các nước
văn minh tối tân Âu Mỹ, Nhựt, đã chế tạo được máy bay, tàu lặn, hỏa tiển, phi
thuyền, năng lượng nguyên tử, người máy, vv... tưởng như vậy là giỏi lắm, có thể
cướp được quyền Tạo Hóa.
Chúng ta phải nói rằng, họ
hoàn toàn sai lầm trong tư tưởng, vì họ chưa biết rõ cái oai quyền thiêng liêng
của Thượng Ðế. Họ không thể tạo ra được sự sống, họ chỉ tạo ra được sự chết mà
thôi. Chừng nào mà các nhà khoa học chế tạo được một người máy Nam và một người
máy Nữ, cho phối hợp với nhau như vợ chồng, đẻ ra được một người máy con, thì họ
mới gọi là cướp được quyền của Tạo Hóa.
Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Ðế là Ðấng duy nhứt tạo ra được sự sống và làm chủ sự sống đó.
Ngài là chủ tể của 2
nguyên lý Âm Dương và Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ). Ðức Chí Tôn chỉ dùng
cái oai linh của Ngài để xoay chuyển Ngũ Hành cho đảo lộn một chút thôi, thì
chúng ta tưởng tượng sẽ xảy ra như thế nào?
- Súng đạn không có lửa nẹt
ra đúng lúc để nổ.
- Tàu bè, xe cộ, không có
xăng lửa (Thủy Hỏa) điều hòa thì máy móc làm sao chuyển động được.
- Ðiện tử, điện trường, từ
trường bị xáo trộn, làm sao tạo ra được các phản ứng vật chất.
- Ngũ tạng, Lục phủ trong
thân thể con người sẽ rối loạn, làm cho con người mê loạn và chết thảm.
Vậy thì, con người dù khôn
ngoan đến đâu cũng không thể bằng Trời, mà cũng không thể chống lại Trời.
Người khôn ngoan là người
biết nương theo các định luật của Tạo Hóa để mau tiến hóa.
Câu 30: Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Thường: Luôn luôn, hằng
có. Thi: Sắp đặt mà làm ra, thi hành. Giáo: Dạy. Dĩ: Ðể mà, dùng để. Lợi: Có
ích. Sanh: Sống, ý nói nhơn sanh, chúng sanh.
Thần: Có 2 nghĩa tùy theo
trường hợp: Thần là thiêng liêng; Thần là một trong Tam Bửu Tinh, Khí, Thần,
nên Thần là Chơn linh, Linh hồn.
Do đó, Câu kinh trên có thể
được giải thích bằng 2 cách tùy theo nghĩa của chữ Thần:
1 . Thần là thiêng liêng: Thần giáo là lời giáo huấn thiêng liêng của chư
Tiên, Phật. Thần giáo đồng nghĩa với Thánh giáo.
C . 30: Thường đặt ra các
lời giáo huấn thiêng liêng để làm ích lợi cho nhơn sanh.
2 . Thần là Chơn linh. Thi Thần là sắp đặt cho các Chơn linh.
C.30: Thường sắp đặt cho
các Chơn linh giáng trần mở đạo giáo hóa nhơn sanh để làm lợi ích cho nhơn
sanh.
Cách giải thích nầy phù hợp
với Câu kinh 28: Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế: Nhiều lần truyền bá kinh sách
quí báu để giác ngộ người đời.
Ðức Chí Tôn đã nhiều phen
sắp đặt cho các Chơn linh cao trọng giáng trần lập Ðạo, giáo hóa nhơn sanh tu
hành, tức là làm lợi ích cho nhơn sanh. Nhưng, nhơn sanh u mê tăm tối, lại bị
Quỉ Vương xúi giục, cám dỗ, nên lần lần các mối Ðạo quí báu bị sửa cải Chơn
truyền, qui phàm, mất hết giá trị.
31 . Hồng oai, hồng từ. - 洪 威 洪 慈
32 . Vô cực, vô thượng.- 無 極 無 上
GIẢI NGHĨA
Câu 31: Hồng oai, hồng từ.
Hồng: To lớn, rộng lớn.
Oai: Vẻ trang nghiêm đáng nể sợ. Thường nói: Oai quyền. Từ: Lòng thương yêu của
người trên đối với kẻ dưới, lòng thương yêu chúng sanh.
1) Hồng oai: Cái oai quyền
to lớn do lòng thương yêu mà có, chớ không phải do sức mạnh vũ lực đè nén người,
nhờ đó mà làm cho người ta phải tâm phục.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
có kể lại một câu chuyện để chúng ta hiểu cái Hồng Oai của Ðức Chí Tôn:
"Bần đạo đã đọc sự
tích đó hồi còn đi học. Có 2 anh em bạn học ở chung một trường với nhau. Tới kỳ
thi Tú Tài thì người bạn thi rớt, về thất chí đến nước muốn hủy mình, mà may có
một điều, người bạn tâm tình kia đem cả sự đau khổ tâm hồn mình tỏ cho bạn
mình. Người bạn an ủi khuyên lơn chi cũng không được hết.
Hôm nọ, người thất chí đó
nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe lửa chết, mà không dè là người bạn
của mình đi theo bén gót, đi theo xa xa, giữ gìn mà không hay. Ông ta mới vừa
đi lại gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó. Người kia vùng vẫy,
đổ quạu lên nói: "Mầy tưởng đâu mầy
thương tao mà mầy kéo dài sự đau khổ của tao, chớ không phải mầy thương
tao."
Bây giờ chẳng thế gì can
gián được, nên phải dùng chiến lược khác, phát gây lộn, nói: "Cái thân thể mầy đã dở, mầy ngu, mầy
thi rớt, rồi mầy muốn hủy mình. Mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mầy xuống Ðịa
ngục là thằng tù ngu, dầu có được Ðức Chí Tôn tức nhiên Ðức Chúa Trời ban cho mầy
thành Ông Thánh đi nữa, mầy cũng là Ông Thánh ngu."
Mắng, 2 đàng đánh lộn, ôm vật với nhau, đánh thẳng
tay, mà cái Ông kia, mình làm mưu không nỡ đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn Ông bạn
kia đổ quạu thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà
thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói: Mầy ơi! Tao cốt yếu cố tâm đặng cứu mầy,
mầy làm tao thân thể như thế nầy, thôi hết sức nói.
Tới chừng người kia nằm kế bên mới động lòng khóc
mướt, rồi ôm người bạn khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh ta theo mãi, tới
thi đậu ra trường thôi.
Ðó, Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng Oai
mà làm được như vậy cũng nên làm chớ."
Cái oai quyền của một người
Cha đối với đàn con có được là do đâu? Có phải là do lòng thương yêu của Cha đối
với Con, và của Con đối với Cha. Chính 2 sự thương yêu tương liên đó tạo ra oai
quyền của Cha đối với Con.
Còn Hồng Oai của Ðức Chí
Tôn là đối với toàn thể vạn linh trong CKVT, là con cái thương yêu của Ngài. Ðức
thương yêu của Ðức Chí Tôn vô cùng tận thì Hồng Oai của Ðức Chí Tôn cũng vô
cùng tận.
2) Hồng từ: Lòng thương
yêu to lớn, không vì lợi ích riêng cho mình mà vì lợi ích cho xã hội nhơn quần.
Ðó là lòng thương yêu cao cả, vượt trên ích kỷ nhỏ nhen để đem lại lợi ích
chung.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
giảng về Hồng từ của Ðức Chí Tôn như sau:
"Hồng từ, ta thử kiếm
hiểu, phải có cái tinh thần Ðại từ bi, Ðại bác ái, nghĩa là mọi điều nó phải do
nơi Luật Tương đối hiện tượng, bây giờ là cái tình đời thì ta phải khoan hồng
dung thứ. Muốn làm cho không lầm, phải có tinh thần lịch lãm và khoan dung.
Nắm được tánh đức Hồng từ
của Ðức Chí Tôn, lịch lãm, ta phải biết mình biết người.
Một cái gương lịch lãm từ
cổ chí kim, chưa hề có một lần thứ nhì nữa là Vua Nghiêu, có 9 người con: 7
trai, 2 gái, mà đi tìm Ông Thuấn đặng truyền ngôi vua lại. Còn mấy người con
trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã? Khi tìm đặng Ông Thuấn, đem 2 người con gái gả
hết, Nga Hoàng và Nữ Anh (gả hết cho Ông Thuấn), mà ta thử nghĩ Ông Thuấn là
gì? Một tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt là
bà kế mẫu. Ngài (Ông Thuấn) bị hiếp bức. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghiêu chọn
Ông Thuấn làm vua kế nghiệp cho Ngài (vua Nghiêu), chỉ vì Ông Thuấn là người hiếu
mà thôi.
Với cái tánh lịch lãm, vua
Nghiêu cho tánh đức hiếu nghĩa là đủ hết rồi. Hễ hiếu cùng cha mẹ, nghĩa cùng
anh em, 2 tánh đức đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ. Ngài đoán rồi chọn Ông
Thuấn. Ngài không lầm, quả nhiên Ông Thuấn đã thành một vị Hoàng Ðế, từ cổ chí
kim, chưa hề có một người thứ nhì nữa.
Ấy là lịch lãm, nhờ cái
tinh thần lịch lãm của vua Nghiêu, mà cả sự hèn hạ của Ông Thuấn kia nó mất hết.
Ông chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Ấy là cái gương lịch lãm khoan dung, mà
cái cử chỉ của vua Nghiêu truyền ngôi cho Ông Thuấn là một cái Hồng Từ mà tự thử
tới giờ, chưa có ai làm một lần thứ nhì nữa."
Qua lời thuyết đạo của Ðức
Phạm Hộ Pháp, chúng ta thấy vua Nghiêu cũng thương con lắm, nhưng Ngài lại yêu
dân hơn yêu con, vì Ngài thấy rõ, con của Ngài không thể làm cho dân hạnh phúc
bằng Ông Thuấn, nên Ngài dẹp bỏ lòng thương yêu ích kỷ, truyền ngôi cho Ông Thuấn.
Do đó, Ðức Hộ Pháp mới cho vua Nghiêu có Hồng Từ vậy.
Chúng ta xét trong CKVT nầy,
có ai oai quyền hơn Ðức Chí Tôn không? Ðó là cái oai quyền của một ông chủ sáng
lập ra cái gia tài đồ sộ là CKVT và vạn vật. Ðó là cái oai quyền của một ông
vua đối với các bề tôi là chư Thần Thánh, Tiên, Phật.
Ðức Chí Tôn có sử dụng cái
oai quyền to lớn ấy để trấn áp ai không? Ðức Chí Tôn chỉ dùng tình thương yêu
bao la mà ban phát cho tất cả con cái của Ngài, để mong cải hóa họ trở về nẻo
chánh đường ngay; cả những đứa con hung bạo, ngỗ nghịch, phản Ngài mà Ngài cũng
vẫn thương yêu, cố đem tình thương đến những đứa con nầy để mong chúng hồi tâm.
Ðấng nào muốn trừng phạt những đứa con phản nghịch ấy cũng đều bị Ðức Chí Tôn
ngăn cản đến phút chót, làm cho các Ðấng ấy phải lên tiếng kêu nài.
Câu 32: Vô cực, vô thượng.
Vô: Không. Cực: Cái đầu
cùng. Thượng: Trên.
Vô cực là không có gì ở
ngoài cái đầu cùng, ý nói tột bực rồi. Vô thượng là không có gì ở trên hơn nữa,
ý nói cao hơn hết, cao hơn tất cả.
C.32: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng
Ðế là Ðấng vô cực vô thượng. Nghĩa là: Trong CKVT nầy, không ai lớn hơn hay cao
hơn Ðức Chí Tôn.
33 . Ðại Thánh, Ðại Nguyện, - 大 聖 大 願
Ðại Tạo, Ðại Bi. - 大 造 大 悲
GIẢI NGHĨA
Câu 33: Ðại Thánh, Ðại Nguyện, Ðại Tạo, Ðại Bi.
Ðại: Lớn. Ðại Thánh: Ðức
Thánh lớn. Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện. Nguyện cũng là lời thề hứa
chắc đối với bản thân mình để mình cố gắng thực hiện cho kỳ được mới nghe, nên
thường nói là Thệ nguyện.
Ðại nguyện: Lời nguyện lớn
của các Ðấng từ Bồ Tát đổ lên, muốn cứu độ tất cả chúng sanh. Lời nguyện đó phổ
cập đến toàn cả chúng sanh, nên gọi là Ðại nguyện.
Tạo: Dựng nên, làm ra. Ðại
tạo: là Ðấng Tạo Hóa lớn mà công trình của Ngài là toàn cả CKVT và vạn vật.
Bi: Lòng trắc ẩn thương cảm
các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt chúng sanh khỏi phiền
não và tai họa. Ðại bi: Ðức bi lớn.
Lời nói của Ðức Chí Tôn được
gọi là Thánh ngôn, lời dạy của Ðức Chí Tôn gọi là Thánh giáo, ý kiến của Ðức
Chí Tôn được gọi là Thánh ý. Ðức Chí Tôn thường dùng chữ Thánh để chỉ về mình,
biểu thị một tánh đức khiêm tốn tối đa, để làm gương cho nhơn sanh noi theo.
Cho nên, từ ngữ Ðại Thánh là chỉ Ðức Chí Tôn.
Ðức Chí Tôn là Ðấng Ðại Từ
Bi, thấy trong buổi Hạ Nguơn Mạt kiếp, chúng sanh mê muội đi vào con đường hắc
ám, tội lỗi chồng chất, nên Ðức Chí Tôn mở ÐÐTKPÐ, ban cho nhơn loại một cuộc Ðại
Ân Xá cuối cùng, cứu vớt chúng sanh lần chót để chuyển qua Thượng Nguơn Thánh đức.
"Mỗi phen Thầy đến lập
Ðạo là phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con
làm tội lỗi bao nhiêu Thầy đều lãnh hết." (TNHT. I. 108)
Lời nói đó được xem là Ðại
nguyện của Ðức Chí Tôn khi lập ÐÐTKPÐ (tức Ðạo Cao Ðài).
34 . Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng - 玄 穹 高 上 帝 玉 皇
35 . Tích phước hựu tội, - 錫 福 宥 罪
36 . Ðại Thiên Tôn. - 大 天 尊
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật,
mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát - 南 無 高 臺 仙 翁 大 菩 薩 摩 訶 薩
GIẢI NGHĨA
Câu 34: Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền
diệu. Khung: To lớn cao rộng như vòm trời. Cao: Ở trên
cao. Thượng Ðế Ngọc Hoàng: tức là Ðấng
Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
C. 34: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột.
Ðấng ấy là Chúa tể CKVT, là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh và Thời gian, là chủ
của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh, và hiện nay, trong
thời ÐÐTKPÐ, Ngài được gọi là Ðức Chí Tôn, Ðấng Cao Ðài.
Sách "Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh" của nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, giải câu kinh nầy:
"Huyền Khung Cao Thượng Ðế: chữ Huyền là sắc
đen, màu huyền. Sách Thiên Tự Văn: Thiên huyền Ðịa huỳnh là Trời đen Ðất vàng.
Còn chữ Khung là cao. Có câu: Thiên hình khung long kỳ sắc thương thương, nên
chữ Huyền Khung là xưng gọi vị Thượng Thiên cao vọi sắc xanh đen."
Câu 35: Tích phước hựu tội.
Tích: Cho, ban cho. Với
nghĩa nầy còn đọc là Tứ. Phước: Ðiều tốt lành. Tích phước là ban cho điều tốt
lành.
Hựu: Rộng lòng tha thứ. Tội: Tội lỗi, việc làm trái với pháp luật
và đạo đức. Hựu tội: Tha tội.
C.35: Ðức Chí Tôn ban phước và tha tội cho chúng
sanh (miễn là biết ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh).
Câu 36: Ðại Thiên Tôn.
Ðại: Lớn. Thiên: Trời, cõi Trời. Tôn: Kính trọng.
C.36: Ðấng lớn nhứt, đáng tôn kính nhứt nơi cõi Trời gọi là Ðại Thiên Tôn.
Chỉ có Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế mới được gọi là Ðại Thiên Tôn; còn các Ðấng khác đều
nhỏ hơn Ðức Chí Tôn nên chỉ được gọi là Thiên Tôn (không có chữ Ðại phía trước). Thí dụ như:
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực
Thiên Tôn.
Nhiên Ðăng Cổ Phật Vô Vi
Xiển Giáo Thiên Tôn.
Thái Thượng ÐạoTổ Tam
Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Câu Chú của Thầy: đã được
giải chi tiết nơi phần cuối của bài Kinh Niệm Hương.
TÓM TẮT GIẢI NGHĨA KINH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
KINH: GIẢI
NGHĨA:
1 . Ðại La Thiên Ðế. -
Ðấng Ðại La Thiên Ðế.
2 . Thái Cực Thánh Hoàng. - Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
3 . Hóa dục quần sanh. - Sanh ra và nuôi dưỡng các loài sanh vật.
4 . Thống ngự vạn vật. - Ðấng Thượng Ðế cai trị vạn vật.
5 . Diệu diệu Huỳnh Kim
Khuyết. - Cửa Huỳnh Kim Khuyết ở mù mù rất xa.
6 . Nguy nguy cao Bạch Ngọc
Kinh. -
Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ vòi vọi.
7 . Nhược thiệt nhược hư. - Như là thật nhìn thấy được, như trống không, không thấy gì cả.
8 . Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. -
Không nói mà cứ yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng
lớn.
9 . Thị không thị sắc. -
Là trống không, là có hình tướng.
10 . Vô vi nhi dịch sử quần linh. - Ở trạng thái vô vi mà sai khiến vạn linh trong khắp CKVT.
11 . Thời thừa lục long du
hành bất tức. - Thường cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ.
12 . Khí phân Tứ Tượng. - Hai khí Dương quang và Âm quang phối hợp sanh ra Tứ Tượng.
13 . Oát triền vô biên. -
Xoay chuyển qua lại, rộng ra không giới hạn.
14 . Càn kiện cao minh. -
Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi,sáng tỏ.
15 . Vạn loại thiện ác tất
kiến. - Việc lành việc dữ của muôn loài đều biết và thấy rõ.
16 . Huyền phạm quảng đại. - Cái khuôn phép huyền diệu và rộng lớn.
17 . Nhứt toán họa phước lập
phân. - Một cái tính toán, Ðức Chí Tôn tạo lập, phân chia rành rẽ điều họa và điều
phước.
18 . Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới.
-
Ở phần trên của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 36
từng Trời và 3000 Thế giới.
19 . Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, Tứ Ðại Bộ Châu.
-
Ở phần dưới của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 72
Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
20 . Tiên Thiên, -
Trước khi tạo dựng Trời Ðất,
Hậu Thiên, -
Sau khi tạo dựng Trời Ðất,
Tịnh dục Ðại Từ Phụ. - Ðấng Ðại Từ Phụ nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
21 . Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
- Thời nay cũng như thời xưa đều được kính mến.
22 . Phổ tế Tổng Pháp Tông. -
Giúp đỡ chúng sanh, gom tất cả Giáo lý các tôn giáo
qui về một mối.
23 . Nãi Nhựt, Nguyệt. -
Là vua của Mặt trời, Mặt trăng,
Tinh, Thần chi quân. - Tinh tú và Thời gian.
24 . Vi Thánh, Thần, Tiên,
Phật chi chủ. - Là người chủ của chư Thần, Thánh Tiên Phật.
25 . Trạm tịch chơn đạo. -
Ðạo chơn thật, sâu dày, yên lặng.
26 . Khôi mịch tôn nghiêm. -
To lớn, lặng lẽ, tôn kính, oai nghiêm.
27 . Biến hóa vô cùng. - Biến hóa không cùng tận.
28 . Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế. -
Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ
người đời.
29 . Linh oai mạc trắc. -
Cái oai quyền thiêng liêng của Ðức Chí Tôn không thể
đo lường để biết rõ được.
30 . Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh. - Thường sắp đặt cho các Chơn linh giáng trần mở Ðạo giáo hóa làm lợi ích cho
nhơn sanh.
31 . Hồng oai, Hồng từ. -
Oai quyền lớn do lòng thương yêu và đức thương yêu
lớn.
32 . Vô cực vô thượng. - Cao hơn tất cả, trên tất cả.
33. Ðại Thánh, Ðại nguyện,
Ðại Tạo, Ðại Bi. - Ðức Thánh lớn, Lời nguyện lớn, Ðức tạo hóa lớn, Ðức bi lớn.
34 . Huyền Khung Cao Thượng
Ðế Ngọc Hoàng. - Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột,
35 . Tích phước hựu tội. - Ban phước và tha tội.
36 . Ðại Thiên Tôn. - Ðấng lớn nhứt, được tôn kính nhứt trong CKVT.
(Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật,
mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)
PHẬT GIÁO
佛 敎
Nhiên Ðăng Cổ Phật chí tâm qui mạng lễ.
燃 燈 古 佛 志 心 皈 命 禮
Phần I: Nguồn gốc 3 bài Kinh Tam giáo:
Ba bài kinh Tam giáo: Kinh
Phật giáo, Kinh Tiên giáo, Kinh Nho giáo, do các Ðấng Thiêng liêng giáng cơ ban
cho ở chùa Hàn Sơn Tự, nơi Cô Tô Thành, bên Trung Hoa, rồi sau đó mới truyền
qua Việt Nam.
Thời gian các Ðấng TL ban
cho Kinh Tam giáo, theo các bậc tiền bối kể lại, là trong thời Nhà Thanh, đời
vua Thanh Nhơn Tông, niên hiệu Gia Khánh (1796 - 1820) và đời vua Thanh Tuyên
Tông, niên hiệu Ðạo Quang (1821 - 1851).
Như bài Kinh Tiên giáo, có
in trong quyển sách: Huỳnh Ðình Nội Cảnh Tường Chú, do Hàm Hư Tử bình chú năm
1847.
Phần II: Ghi chú về việc Giải nghĩa:
Trong phần Giải nghĩa 3
bài Kinh Tam giáo, có viết chữ Hán kèm theo, soạn giả căn cứ phần chánh vào Bản
Kinh Hán văn in trong quyển "Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh" xuất bản năm
1928, của Nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, có sự phối hợp đối
chiếu với Bản Kinh Hán văn in trong quyển "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
Kinh" của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh, xuất bản năm 1929.
Phần III: Giải nghĩa Kinh Phật giáo:
Phật giáo: đồng nghĩa Phật
đạo, chỉ những tôn giáo mà giáo lý dạy tín đồ tu thành Phật.
Thích giáo: Thích là chỉ Ðức
Phật Thích Ca. Thích giáo là tôn giáo do Ðức Phật Thích Ca lập ra tại Ấn Ðộ và
Ðức Thích Ca làm Giáo chủ.
Từ ngữ Thích giáo tương ứng
với các từ ngữ như: Lão giáo, Khổng giáo.
- Lão giáo là tôn giáo do
Ðức Lão Tử lập ra và Ðức Lão Tử làm Giáo chủ.
- Khổng giáo là tôn giáo
do Ðức Khổng Tử lập ra và Ðức Khổng Tử làm Giáo chủ.
Thích giáo dạy tín đồ tu
thành Phật, nên Thích giáo cũng là Phật giáo, nhưng từ ngữ Phật giáo có nghĩa rộng
hơn, vì Thích giáo là chỉ riêng về tôn giáo của Phật Thích Ca, còn Phật giáo là
nói chung các tôn giáo mà giáo lý dạy tín đồ tu thành Phật.
Do đó, Bà La Môn giáo,
Pythagore giáo, là thuộc về Phật giáo (hay Phật đạo), chớ không thuộc về Thích
giáo.
Cho nên, bài Xưng Tụng Ðức
Nhiên Ðăng Cổ Phật được gọi là bài Kinh Phật giáo thì sát nghĩa hơn.
Nhiên Ðăng Cổ Phật: Nhiên
là đốt cháy, Ðăng là cây đèn, Cổ là xưa, Cổ Phật là vị Phật xưa.
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, gọi
theo tiếng Phạn là Dipankara, dịch ra Hán văn là: Nhiên Ðăng Phật hay Ðính
Quang Phật. (Ðính là cái chân đèn).
Kinh Trí Ðộ Luận viết: Như
Nhiên Ðăng Phật, khi sanh ra, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên gọi là
Nhiên Ðăng Thái Tử. Khi tu thành Phật thì gọi là Nhiên Ðăng Phật, xưa gọi là
Ðính Quang Phật.
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật
giáng sanh nơi nước Ấn Ðộ và mở Phật giáo tại đây vào thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ.
TNHT. I. 31 : "Như kẻ bên Phật giáo tặng Nhiên Ðăng
là Chưởng giáo, Nhiên Ðăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Ðế.
Người ta gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn
sanh đời nhà Châu."
Theo Từ Ðiển Phật Học Việt
Nam, Ðức Phật Thích Ca có một tiền kiếp là Tỳ Kheo Nho Ðồng. Nho Ðồng từng gặp
và cúng hoa cho Ðức Phật Nhiên Ðăng. Nho Ðồng mua hoa ấy từ một cô gái với giá
rất đắt. Cô gái hỏi vì sao Nho Ðồng lại chịu mua hoa với giá đắt như thế. Nho Ðồng
trả lời là mua hoa để cúng Ðức Phật Nhiên Ðăng. Cô gái liền tặng không bó hoa với
lời nguyện là Cô với Nho Ðồng sẽ kết duyên vợ chồng trong các kiếp sau.
Sa môn Nho Ðồng là tiền
thân của Phật Thích Ca, cô gái bán hoa là tiền thân của Công Chúa Gia Du Ðà La
(Yasodhara).
Theo Phật Học Từ Ðiển của
Ðoàn Trung Còn thì: Ðức Phật Nhiên Ðăng có thọ ký cho Thiện Huệ Bồ Tát, phán rằng,
về sau, Ngài Thiện Huệ Bồ Tát sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Trong Vô Lượng Thọ Kinh,
Phật phán với A Nan rằng: Về đời quá khứ, thuở xưa cách nay lâu xa vô lượng, chẳng
có thể suy nghĩ bàn bạc được là bao nhiêu kiếp, Ðức Ðính Quang Như Lai (Nhiên
Ðăng) xuất hiện ở thế, giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh, đều đắc đạo, rồi
Ngài mới diệt độ (nhập Niết Bàn).
Theo giáo lý của Ðạo Cao
Ðài thì:
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là
vị Phật xưa nhứt, đầu tiên hơn hết trong hằng hà sa số Phật trong CKVT nầy.
Ngài được sanh ra từ thời Hỗn Ðộn, sau khi ngôi Thái Cực xuất hiện và trước khi
tạo dựng Trời Ðất. Ngài giáng trần ở nước Ấn Ðộ, ứng vào thời vua Huỳnh Ðế bên
Tàu, mở ra PG thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ. Ngài là Chưởng giáo Sơ Hội Long Hoa Thanh
Vương Ðại Hội, điểm đạo các vị đắc quả trong Nhứt Kỳ Phổ Ðộ.
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật hiện
nay chưởng quản từng Trời Hư Vô Thiên, là từng Trời thứ 10, ở bên trên Cửu
Trùng Thiên, nơi đó có Ngọc Hư Cung để họp Triều đình của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế,
thiết lập Thiên Ðiều cai trị CKTG.
Nối tiếp Ðức Nhiên Ðăng Cổ
Phật thì có Ðức Phật Thích Ca giáng sanh nơi Ấn Ðộ, ứng vào thời nhà Châu bên
Tàu, mở Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Chí tâm qui mạng lễ: Chí
là ý chí, lòng mong muốn mạnh mẽ làm một việc gì, tâm là lòng, chí tâm là lòng
phấn khởi đem hết tâm chí ra thực hiện. Qui là đem mình về, nương theo, mạng là
mệnh lệnh, lễ là cúng lạy.
Chí tâm qui mạng lễ là
cúng lạy với tất cả ý chí và tâm hồn, đem mình về vâng chịu nghe theo.
1 . Hỗn Ðộn Tôn Sư, - 混 沌 尊 師
2 . Càn Khôn Chủ Tể. - 乾 坤 主 宰
GIẢI NGHĨA
Câu 1: Hỗn Ðộn Tôn Sư.
Hỗn Ðộn: Hỗn là lộn xộn
không rõ ràng, Ðộn là lộn lạo với nhau. Hỗn Ðộn là thời kỳ mà các chất khí còn ở
trạng thái lộn lạo với nhau, chưa phân thanh trược.
Tôn Sư: Vị thầy đáng kính.
Tôn là kính trọng, Sư là thầy.
C.1: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật
là vị thầy đáng kính, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn.
Thời Hỗn Ðộn ở đây là thời
kỳ sau khi đã xuất hiện ngôi Thái Cực rồi, đến khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi
Âm Dương. Ðó cũng là thời Tiên Thiên, tức là thời kỳ trước khi tạo dựng Trời Ðất.
(Xem lại Câu 20 KNHTÐ)
Như vậy, Ðức Ngọc Hoàng
Thượng Ðế (Ngôi Thái Cực) được Khí Hư Vô hóa sanh ra trước, sau đó mới hoá sanh
ra Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
Câu 2: Càn Khôn Chủ Tể.
Càn Khôn: Hai quẻ trong
Bát Quái, Càn chỉ Trời, Khôn chỉ Ðất. Càn Khôn là Trời Ðất, chỉ toàn thể vũ trụ
bao la, nên thường nói là Càn Khôn Vũ Trụ.
Chủ Tể: Chủ là người đứng
đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn; Tể là đứng đầu. Chủ
tể, còn đọc Chúa Tể là vị đứng đầu có quyền thống trị hết thảy.
C.2: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật
là Ðấng Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ.
Quyền hành nầy có được là
do Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế giao phó cho Ngài. Ngài thay mặt Ðấng Thượng Ðế
chưởng quản cả CKVT.
3 . Qui Thế giới ư nhứt khí chi trung. - 歸 世 界 於 一 氣 之 中
GIẢI NGHĨA
Qui : Gom vào một chỗ. Thế giới:
Càn Khôn Vũ Trụ của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế gồm có Tam thiên Thế giới
(3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu). Chữ Thế giới trong câu kinh
trên là chỉ 3000 Thế giới.
Ư: Ở tại. Nhứt Khí: Một chất
khí nguyên thủy, đó là Hư Vô chi Khí. Chi: Tiếng đệm. Trung: Ở trong.
C. 3 : Gom 3000 Thế giới
vào trong một Khí Hư Vô.
4 . Ốc trần huờn ư song thủ chi nội. - 握 塵 寰 於 雙 手 之 內
GIẢI NGHĨA
Ốc: còn một âm nữa là Ác,
nghĩa là nắm giữ, cầm giữ. Trần: Bụi bặm. Huờn: hay Hoàn là vùng đất lớn. Trần
huờn hay Trần hoàn là chỉ các cõi trần, đó là các quả Ðịa cầu có nhơn loại ở.
Có tất cả 72 Ðịa cầu (Thất thập nhị Ðịa) mà Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang
ở là Ðịa cầu số 68. (Xem trở lại Câu 18 và 19 KNHTÐ)
Ư : Ở tại. Song: Hai. Thủ: Tay. Song thủ là hai tay, hai tay: mặt và trái,
nên Song thủ có hàm ý nói về Âm Dương: Khí Âm và Khí Dương.
Chi : Tiếng đệm. Nội: Trong, ở trong.
C . 4 : Nắm giữ 72 Ðịa cầu
vào trong hai bàn tay.
Tóm tắt 4 Câu kinh
1-2-3-4:
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là
vị thầy đáng kính, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn, làm Chúa tể CKVT, tóm thâu
3000 Thế giới vào trong một Khí Hư Vô, nắm giữ 72 Ðịa cầu vào trong 2 bàn tay.
Chúng ta nhận thấy, Ðức
Nhiên Ðăng Cổ Phật được Ðức Chí Tôn ban cho quyền hành thay mặt Ðức Chí Tôn cai
quản CKVT hữu hình gồm: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa
(72 Ðịa cầu).
5 . Huệ đăng bất diệt, - 慧 燈 不 滅
chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh. - 照 三 十 六 天 之 光 明
GIẢI NGHĨA
Huệ: Trí não sáng suốt,
thường nói là Trí huệ. Ðăng: Cây đèn. Huệ đăng là cây đèn Trí Huệ, đốt lên để
soi sáng, đẩy lui sự u mê vô minh. Huệ đăng là cây đèn Phật, đèn vô vi, đốt lên
để soi sáng cái Tâm. Bất: Không. Diệt: Mất đi.
Bất diệt: Không mất, trường
tồn mãi mãi.
Chiếu: Soi sáng. Tam thập
lục Thiên: 36 từng Trời.
Chi: Tiếng đệm. Quang:
Sáng. Minh: Sáng.
Quang minh: Sáng tỏ.
C.5 : Cây đèn trí huệ cháy hoài không tắt, rọi sáng 36 từng Trời.
Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật có cây đèn trí huệ cháy hoài không tắt, luôn luôn chiếu
sáng 36 từng Trời. Cũng vì lẽ đó mà Ðức Phật ấy có hiệu là Nhiên Ðăng.
6 . Ðạo pháp trường lưu. - 道 法 長 流.
7 . Khai cửu thập nhị tào chi mê muội. - 開 九 十 二 曹 之 迷 昧
GIẢI NGHĨA
Câu 6: Ðạo pháp trường lưu.
Trường: Lâu dài. Lưu: Chảy,
nước chảy. Trường lưu: Nước chảy hoài không dứt.
Ðạo pháp: Chánh pháp của Ðạo.
Về chữ ÐẠO, Ðức Chí Tôn có
giảng giải như sau: "Ðạo, tức là con
đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là đường của
các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các
bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải
hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng."
(TNHT. II. 3)
(Xem thêm: Giải nghĩa chữ
ÐẠO trong Kinh Tiên giáo).
Về chữ PHÁP, ý nghĩa rất rộng.
Bất kỳ việc chi, dù nhỏ dù lớn, hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, chơn thật
hay hư ảo, đều có thể gọi là Pháp. Những nguyên tắc, những luật lệ, những qui
luật trong CKVT, cũng được gọi là Pháp.
Thông thường, Giáo lý của
Phật được gọi là Phật Pháp; thuyết giảng giáo lý được gọi là Thuyết pháp.
Tóm lại, Ðạo Pháp là Chánh
Pháp của Ðạo. Ai tu đúng theo đó thì nhứt định đắc quả, giải thoát khỏi luân hồi.
C. 6 : Ðạo pháp trường lưu
là Chánh pháp của Ðạo như dòng nước chảy hoài không dứt.
Bất cứ vào thời kỳ nào,
xưa cũng như nay, Chánh pháp của các nền tôn giáo mở ra như dòng nước chảy,
liên tục mãi mãi, để giúp chúng sanh gội sạch bợn trần, cuốn trôi phiền não, tẩy
sạch nghiệp chướng, rửa trí não vô minh ra sáng suốt, mà lần vào nơi Cực Lạc an
nhàn, để mình vào chốn thanh cao, thoát khỏi cửa Luân hồi ràng buộc.
Câu 7: Khai cửu thập nhị tào chi mê muội.
Khai: Mở ra. Cửu thập nhị:
92. Tào: Bọn, đám, nhóm người. Cửu thập nhị tào: Ý nói đám 92 ức Nguyên nhân
đang còn trầm luân nơi cõi trần. Chi: Tiếng đệm. Mê muội: Mê là mơ hồ không rõ,
muội là tối tăm. Mê muội là đầu óc tối tăm, không phân biệt chánh tà, thiệt giả,
...
Nguyên nhân: Những chơn
linh được sanh ra từ lúc khai Thiên, được Ðức Phật Mẫu cho đi đầu thai làm người
nơi cõi trần để khai hóa cho nhơn loại được tiến bộ văn minh.
Theo Triết lý Nhơn sinh của
Ðạo Cao Ðài, với Luật Tiến Hóa của Bát Hồn, loài người đầu tiên xuất hiện trên
mặt Ðịa cầu nầy là do loài động vật cao cấp khỉ vượn tiến hóa mà thành. Ðó là
những Hoá nhơn, người khỉ, thủy tổ của loài người.
Do đó, người nguyên thủy
có trí não còn rất ngu khờ, tánh tình còn hung ác, nếp sống còn dã man, ăn lông
ở lỗ.
Lúc đó, Ðức Phật Mẫu vâng
lịnh Ðức Chí Tôn cho 100 ức Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần, để khai hóa
đám Hóa nhân đó, đồng thời cũng để kinh nghiệm và tiến hóa.
Nhưng các Nguyên nhơn, khi
đã mang xác phàm rồi, thì lại nhiễm trần, quên nguồn gốc và nhiệm vụ đã nhận
lãnh lúc đi đầu thai, lại còn gây ra lắm tội lỗi nơi cõi trần, nên phải bị đọa
luân hồi.
Ðức Chí Tôn thấy vậy mới động
mối từ tâm, mở ra Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, để cứu giúp và dẫn dắt các Nguyên nhân trở về
cựu vị. Nhưng Nhứt Kỳ Phổ Ðộ chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân. (Ức là 100 000 ; 6 Ức
là 600 000 người).
Ðức Chí Tôn lại mở Nhị Kỳ
Phổ Ðộ, gồm Tam giáo (Nho, Thích, Ðạo) và Ngũ Chi Ðại Ðạo để giáo hóa nhơn sanh
tu hành, nhưng cuối cùng cũng chỉ độ được 2 ức Nguyên nhân trở về cựu vị.
Như vậy, cả 2 thời kỳ Phổ
Ðộ, Ðức Chí Tôn chỉ độ được 8 ức Nguyên nhân, còn lại 92 ức nguyên nhân vẫn
đang chìm đắm nơi cõi trần.
Ðức Chí Tôn lại mở lòng Ðại
từ Ðại bi lần thứ ba và cũng là lần chót, trước khi xảy ra Ðại cuộc Tận Thế và
Hội Long Hoa, để chấm dứt Hạ Nguơn Tam Chuyển, bước vào Thượng Nguơn Tứ Chuyển,
và lần nầy, chính mình Ðức Chí Tôn đứng ra mở ÐÐTKPÐ và đồng thời cũng mở ra Ðại
Ân Xá Kỳ Ba, quyết độ cho hết 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị.
Do đó, Ðức Nhiên Ðăng Cổ
Phật được Ðức Chí Tôn giao nhiệm vụ mở cuộc giáo hóa các nguyên nhân còn đang
mê muội nơi cõi trần.
C.7: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật
khai hóa đám 92 ức Nguyên nhân đang còn mê muội nơi cõi trần.
8 . Ðạo cao vô cực. - 道 高 無 極
9 . Giáo xiển hư linh. - 敎 闡 虛 靈
GIẢI NGHĨA
Câu 8: Ðạo cao vô cực.
Ðạo: Ðạo pháp. (Xem Câu 6:
Ðạo pháp trường lưu).
Cao: Ở trên cao. Vô:
Không. Cực: Chỗ đầu cùng.
Vô cực: Không có cuối cùng,
tức là không cùng tận.
C.8 : Ðạo pháp cao siêu
không cùng tận.
Câu 9 : Giáo xiển hư linh.
Giáo: Dạy. Xiển: Mở rộng
ra, làm sáng tỏ thêm. Hư: Trống không. Linh: Thiêng liêng mầu nhiệm.
Giáo xiển là dạy rộng ra
cho biết rõ thêm.
Hư linh: Cõi không không trên
thượng từng không khí, thấy trống không mà rất thiêng liêng mầu nhiệm.
C.9: Dạy rộng ra cho biết
rõ thêm về cõi Hư linh.
Khi mắt phàm ta không thấy
gì cả, ta bảo đó là trống không. Nói như thế là tương đối, vì mắt phàm chỉ nhìn
thấy một số ánh sáng hạn hẹp mà thôi, từ ánh sáng Tím đến ánh sáng Ðỏ. Còn tia
Tử ngoại (Cực tím) hay tia Hồng ngoại thì mắt ta không nhìn thấy được. Ngoài
ra, mắt ta cũng không thể thấy được các vật quá bé nhỏ như con vi trùng, huống
chi là thấy được các nguyên tử hay điện tử.
Khoa học ngày nay chứng
minh cho biết nhiều cái hiện hữu có thật, hữu hình hữu thể mà mắt ta không thể
thấy được.
Nói một cách tuyệt đối thì
không có cái gì là trống không cả, chỉ có điều là mắt ta thấy hay không thấy mà
thôi. Tuy nhiên, với cặp mắt thiêng liêng (Huệ nhãn hay Thiên nhãn) thì mọi vật
đều rất rõ ràng.
10 . Thổ khí thành hồng - 吐 氣 成 虹
nhi nhứt trụ xang Thiên. - 而 一 柱 撐 天
GIẢI NGHĨA
Thổ: Phun ra, thổi ra. Khí: Chất khí. Thành:
Làm nên. Hồng: Cái cầu vòng, cái móng trời. Nhi: Mà, tiếng dùng để chuyển ý. Nhứt
trụ: Một cây cột.
Xang: còn một âm nữa là XANH, nghĩa là chống đỡ,
chống vững. Thiên: Trời.
C.10: Thổi ra một chất khí biến thành cái móng,
làm như một cây cột chống vững bầu trời.
Câu kinh nầy ngụ ý nói về
quyền pháp mầu nhiệm và cao siêu của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
11 . Hóa kiếm thành xích - 化 劍 成 尺
nhi tam phân thác Ðịa. - 而 三 分 托 地
GIẢI NGHĨA
Hóa: Biến thành. Kiếm: Cây
gươm, cây kiếm. Thành: Làm nên. Xích: Cây thước. Nhi: Mà, tiếng dùng để chuyển
ý. Tam phân: 3 phân của cây thước.
Thác: Nâng, dùng 2 tay
nâng một vật. Ðịa: Ðất.
Thác Ðịa: là nâng đỡ giềng
Ðất.
C.11: Biến cây kiếm thành
cây thước, mà 3 phân đủ đỡ vững giềng Ðất.
Câu kinh nầy cũng nói lên
cái quyền pháp vô biên của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
Nói về Phép Luyện Ðạo, hai
câu Kinh 10 và 11 có ý nghĩa luyện cho Hậu Thiên biến thành Tiên Thiên, tức là
luyện cho hữu hình trở về vô hình, tức là Huờn Hư, đắc đạo.
* Thổ khí thành hồng nhi
nhứt trụ xang Thiên, câu nầy có hàm ý nói quẻ LY của Hậu Thiên Bát Quái biến
thành quẻ CÀN của Tiên Thiên Bát Quái, gọi là ÐIỀN LY:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét