Giải Nghĩa Kinh Thiên Và Thế Ðạo - 6 / 8 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Ý nói: Chúng ta phải cúng lạy Ðức Phật Mẫu cho thường, cúng sáng, cúng trưa, cúng tối, điều đó giống y như là chúng ta đến săn sóc và viếng an Ðức Mẹ vậy.
53 . Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu -
Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái. -
54 . Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả -
Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái. -


Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm:
Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn. -

GIẢI NGHĨA
Câu 53: Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái.

Nam mô: Quyết chí vâng theo một cách cung kính. Ðây là 2 tiếng mở đầu cho một câu cầu nguyện. (Xem chi tiết nơi Câu 1 Ngũ Nguyện). Huyền Thiên: Huyền là huyền diệu, Thiên là từng Trời. Huyền Thiên là từng Trời huyền diệu.

Tạo Hóa Huyền Thiên: Từng Trời Tạo Hóa huyền diệu. Ðây là Từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên do Ðức Phật Mẫu chưởng quản. Cảm: Mối rung động trong lòng. Bái: Lạy. Cảm bái: Kính lạy với sự xúc cảm trong lòng.
C.53: Chúng con cầu nguyện và kính lạy Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu với tất cả sự cảm xúc trong lòng.

Câu 54: Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái.

Ðại: Lớn. Từ Bi: Lòng thương yêu bao la thương khắp chúng sanh, luôn luôn muốn giúp chúng sanh thoát khổ.
Năng: Khả năng, sự tài giỏi làm nên việc. Hỷ: Mừng rỡ, vui vẻ. Xả: Tha thứ, bỏ qua. Hỷ xả: Vui vẻ tha thứ cho người xúc phạm đến mình hay có lỗi với mình.
Thiên Hậu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Chí Tôn: Rất được kính trọng, tôn kính tột bực.
Ðại ái: Lòng thương yêu to lớn. Ðó là lòng thương yêu bao la của Ðức Phật Mẫu đối với chúng sanh vì chúng sanh nơi cõi trần đều là con cái của Phật Mẫu.
C.54: Chúng con cầu nguyện với Ðức Phật Mẫu có đức từ bi lớn, đức hỷ xả lớn, đức bác ái lớn, với tấm lòng tôn kính tột bực của chúng con.

TÓM TẮT GIẢI NGHĨA PHẬT MẪU CHƠN KINH

            KINH:                         GIẢI NGHĨA:
1 . Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu,                       - Ở từng Trời Tạo Hóa Thiên có Ðấng Phật Mẫu huyền vi mầu nhiệm,
2 . Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.         - Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.
3 . Sanh quang dưỡng dục quần nhi.                 - Dùng Khí Sanh quang để nuôi nấng cho khôn lớn toàn thể con cái của Ngài.
4 . Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.                   - Chơn linh phối hiệp làm một với Chơn thần để tạo thành một người nơi cõi thiêng liêng.
5 . Thiên cung xuất vạn linh vạn linh tùng pháp. - Ðức Chí Tôn sản xuất ra vạn linh nên vạn linh phải tùng theo Pháp của Ðức Chí Tôn.
6 . Hiệp Âm dương hữu hạp biến sanh.                        - Hòa hợp 2 khí Âm và Dương quang để biến hóa sanh ra.
7 . Càn Khôn sản xuất hữu hình.                                  - Sản xuất ra CKVT và vạn vật có hình thể.
8 . Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.  - Vận chuyển Bát hồn đầu kiếp xuống trần hóa thành chúng sanh.
9 . Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp.             - Hiệp tất cả chơn linh của chúng sanh để mưu tính làm sự nghiệp cho mình.
10 . Lập Tam tài định kiếp hòa căn.                             - Lập ra Tam tài (Thiên, Ðịa,Nhơn) sắp đặt cái kiếp sống và cái căn quả của mỗi người.
11 . Chuyển luân định phẩm cao thăng,                        - Nhờ luân hồi chuyển kiếp mà các Chơn linh tiến hóa, được định cho phẩm vị cao trọng hơn.
12 . Hư Vô Bát Quái trị thần qui nguyên.                     - Ðức Phật Mẫu sắp đặt đem các chơn linh trở về gốc là Hư Vô Bát Quái, tức là trở về cùng Ðức Chí Tôn.
13 . Diệt tục kiếp trần duyên oan trái.              - Tiêu diệt hết các mối dây ràng buộc con người vào cõi trần và những oan trái đã gây ra.
14 . Chưởng Ðào Tiên thủ giải trường tồn.       - Ðức Phật Mẫu chưởng quản các trái Ðào Tiên để làm phần thưởng cho các chơn linh đắc đạo trở về ăn vào được hằng sống.
15 . Nghiệp hồng vận tử hồi môn,                                - Công nghiệp to lớn của Phật Mẫu là đem con cái trở về ngôi nhà cũ nơi cõi thiêng liêng.
16 . Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên cung.       - Ðức Chí Tôn sắp đặt phẩm vị cho các Chơn linh để được hằng sống nơi cõi thiêng liêng.
17 . Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng.   - Ðức Phật Mẫu làm chủ Khí Âm quang, luôn luôn tùng mạng lịnh của Ðức Chí Tôn.
18 . Ðộ Chơn thần nhứt vãng nhứt lai.              - Cứu giúp các Chơn thần mỗi khi đi xuống trần đầu thai hay mỗi khi mãn kiếp trở về.
19 . Siêu thăng phụng liễn qui khai.                              - Khi linh hồn được siêu thăng thì có chiếc xe Tiên mở cửa rước về.
20 . Tiên cung, Phật xứ, Cao Ðài xướng danh. -  Ðức Chí Tôn gọi tên lên để ban thưởng cho về Cung Tiên Xứ Phật.
21 . Hội nguơn hữu Chí Linh huấn chúng.                     - Cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, có Ðức Chí Tôn đến dạy dỗ nhơn sanh.
22 . Ðại Long Hoa nhơn chủng hòa ki.             - Ðại Hội Long Hoa là cơ quan đem các chủng tộc loài người hòa hợp cùng nhau.
23 . Tam Kỳ khai hiệp Thiên Thi.                                - ÐÐTKPÐ mở ra phù hợp với Thiên thơ tiền định.
24 . Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.                  - Trường thi lên phẩm vị Tiên dành cho người may mắn gặp Ðạo và có duyên với Phật.
25 . Trung khổ hải độ thuyền Bát Nhã.            - Ðức Phật Mẫu đem thuyền Bát vào trong biển khổ để cứu vớt nhơn sanh.
26 . Phước từ bi giải quả trừ căn.                                 - Ðức Phật Mẫu ban phước và do lòng từ bi giải trừ căn quả cho nhơn sanh.
27 . Huờn hồn chuyển đọa vi thăng.                             - Người bị Ngũ Lôi tru diệt cho huờn linh hồn và chơn thần sống lại và ân xá các hồn bị đọa nay được siêu thăng.
28 . Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm. - Cửu vị Tiên Nương quay trở lại Kim Bàn DTC để giúp Ðức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang.
29 . Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,                     - Mười Thiên can bao gồm muôn hình vạn trạng,
30 . Tùng Ðịa chi hóa trưởng Càn Khôn.                     - Thập Thiên can tùng theo Thập nhị Ðịa chi làm biến đổi và lớn rộng thêm CKVT.
31 . Trùng huờn phục vị Thiên môn.                             - Nhiều lần cho trở lại ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
32 . Nguơn linh hóa chủng Quỉ hồn nhứt thăng.            - Các Nguyên hồn nay hóa thành các loại Quỉ hồn đều được độ rỗi siêu thăng.
33 . Vô siêu đọa quả căn hữu pháp.                            - Không siêu thăng, không đọa đày, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định rõ.
34 . Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.                            - Không có những hình phạt khổ sở do các oan nghiệt của kiếp trước lưu lại (vì Phật Mẫu tiêu diệt hết)
35 . Vô Ðịa ngục, Vô Quỉ quan.                                  - Không còn Ðịa ngục, không còn cửa quỉ.
36 . Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.                 - Ðức Chí Tôn đại khai ân xá để đem tất cả con cái trở về hội hiệp vào một chỗ cùng Ngài.
37 . Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,              - Chiếu theo lịnh của Ðức Phật Mẫu, mà Phật Mẫu nhận lãnh sắc lịnh của Ðức Chí Tôn,
38 . Ðộ anh nhi Nam Bắc Ðông Tây.                           - Cứu giúp toàn thể con cái của Phật Mẫu khắp nơi trên cõi trần.
39 . Kỳ khai tạo nhứt Linh đài,                        - Mở ra ÐÐTKPÐ là để tạo một khối đức tin lớn,
40 . Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng.                 - Tiêu diệt tất cả hình thức của tà quái để mở ra một cách mạnh mẽ xã hội đại đồng cho nhơn loại.
41 . Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch.                   - Hiệp các chủng tộc nhơn loại thành một nhà có cùng chung một tín ngưỡng.
42 . Qui Thiên lương quyết sách vận trù.                      - Phật Mẫu liệu định kế hoạch, vận động toan tính đem cái Thiên lương trở lại làm chủ con người.
43 . Xuân Thu, Phất chủ, Bát Vu,                                - Ba Cổ pháp tượng trưng Tam giáo là: Kinh Xuân Thu (Nho giáo), Cây Phất chủ (Tiên giáo), Bình Bát vu (Phật giáo).
44 . Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.                    - Ðem Tam giáo trở về hiệp thành một khối mong tạo thành một nền Ðại Ðạo chơn thật.
45 . Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh.                  - Ðem các Nguyên nhơn trở về bằng cách hoàn trả và bảo tồn cái bổn tánh thiện lương chơn chánh mà Trời đã ban cho mỗi người.
46 . Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.                       - Giáo hóa các linh hồn có may mắn (gặp Ðạo) và có duyên (với việc tu hành).
47 . Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền.                                   - Ðức Phật Mẫu giữ yên các Quỉ hồn tại cái gốc của nó là cõi Âm phủ.
48 . Quảng khai Thiên thượng tạo quyền chí công.       - Ðức Phật Mẫu mở rộng cõi Trời để thi hành cái quyền Công bình thiêng liêng tuyệt đối của Trời.
49 . Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo.                       - Ðức Phật Mẫu ra lịnh mở ra một nền tôn giáo và sắp đặt các việc trong nền tôn giáo ấy.
50 . Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.              - sanh   Công ơn của Ðức Phật Mẫu là ra và nuôi dưỡng cho khôn lớn, lại còn gìn giữ linh hồn và chơn thần được toàn vẹn.
51 . Càn Khôn tạo hóa sánh tài.                                  - Ðức Phật Mẫu mặc sức trổ tài tạo hóa ra CKVT và vạn vật.
52 . Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.                 - Mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều, mỗi buổi tối, chúng ta phải sắp đặt để đến viếng an Ðức Mẹ.
53 . Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Thiên cảm bái. - Chúng con cầu nguyện kính lạy Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Huyền Thiên huyền diệu với tất cả lòng cảm xúc.
54 . Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái. - Chúng con cầu nguyện với Ðức Phật Mẫu có đức từ bi lớn, đức hỷ xả lớn, đức bác ái lớn, với lòng tôn kính tột bực.
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm:
Nam mô DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TÁN TỤNG CÔNG ÐỨC
DIÊU TRÌ KIM MẪU
(Giọng Nam ai)
1 . Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
2 . Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.
3 . Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
4 . Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
5 . Âm Dương biến tạo Chơn thần,
6 . Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
7 . Mớm cơm vú sữa cũng tay,
8 . Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.
9 . Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
10 . Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
11 . Chí mong hòa hảo Âm Dương,
12 . Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
13 . Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
14 . Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
15 . Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
16 . Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
17 . Ðòi phen MẸ luống ưu sầu,
18 . Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.
19 . Ðỉnh chung là miếng treo gương,
20 . Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
21 . Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
22 . Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
23 . Ngồi trông con đặng phi thường,
24 . MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.
25 . Xưa con không thấu cội nhành,
26 . Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.
27 . Từ con cách MẸ phương Trời,
28 . Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.
29 . Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
30 . Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
31 . Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
32 . Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ.
33 . Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
34 . Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
35 . Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
36 . Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.
37 . Chín Cô đã sẵn lòng thương,
38 . Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
39 . Lục Nương phất phướn Truy hồn,
40 . Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
41 . Bát Nương thật đấng chí linh,
42 . Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
43 . Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu,
44 . Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.
45 . Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
46 . Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.
47 . Ðê đầu khấu bái Nương Nương,
48 . Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.
 - Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
- Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu vị Nữ Phật.

I . Nguồn gốc Bài Kinh:
Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu" do Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu đặt ra, viết xong tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 18-5-NhâmThân (dl 21-6-1932), theo sự chỉ định của Ðức Phạm Hộ Pháp, có dâng lên Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại.

Nội dung bài Kinh nầy là để xưng tụng Công Ðức của Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.

Ngài Bảo Văn Pháp Quân viết bài Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu lấy ý từ bài Thi văn của Ðức Phật Mẫu giáng cơ dạy đạo tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931), Phò loan: Ðức Phạm Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân.

Bài Thi văn nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân có đăng trong tập sách nhỏ của Ngài nhan đề "MẠCH ÐẠO" nơi trang 17 và 18, xuất bản năm Nhâm Thân (1932), xin chép nguyên văn ra dưới đây:
"Từ Hỗn Ðộn Chí Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô.
Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh hóa.

Nuôi nấng lấy xác thân hòa hỏa,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi.
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn thần tay Thiếp.

Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với CHA,
Kìa mớm cơm vú sữa cũng là,
Sanh một kiếp người ta đáng mấy.

Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,
Khối tình thương chẳng lấy chi nhiều,
Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,
Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.

Chịu mất trẻ cũng vì tà mị,
Cướp con thương, bỏ vị quên ngôi.
Ôi! Thương đòi phen phải chịu ngậm ngùi.
Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.

Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn thiêng liêng vô số tiếc thương,
Hằng trông mong con đặng phi thường,
Ðem vào đặng con đường hằng sống.

Kể từ trước Thiếp là hình bóng,
Biết thương con chẳng mộng con thương,
Ðạo dìu Ðời bởi Thiếp lo lường,
Trên mới thuận khoáng trương phổ tế.

Kể từ trước Ðạo còn bị bế,
Mẹ thương con chẳng thế dắt dìu.
Nay cõi trần nghiệt chướng giảm tiêu,
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.

Thiếp từ đặng Phái Vàng chí bửu,
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,
..............

KIM MẪU NƯƠNG NƯƠNG
Chúng ta nhận thấy bài Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu" có nhiều câu rất giống với bài Thi của Ðức Phật Mẫu giáng cơ ban cho, hay là có ý nghĩa tương tợ. (Những chỗ làm dấu in chữ xiên).

            II . Giải nghĩa chi tiết:
1 . Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
2 . Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.
3 . Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
4 . Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

GIẢI NGHĨA
Tán tụng: Tán là khen ngợi, Tụng là chúc mừng, khen ngợi. Tán tụng là chúc mừng và khen ngợi.

Công đức: Công là ra sức làm điều lành, đức là những việc làm hợp lòng người, thuận đạo Trời. Công đức là công nghiệp và đức độ giúp người giúp đời.

Công đức của Ðức Diêu Trì Kim Mẫu đối với chúng sanh, cao sâu và rộng lớn vô cùng, không thể nào lường hết được. Ðối với thế gian, công sanh thành dưỡng dục, giáo hóa của một bà mẹ đối với một đứa con còn không lấy chi đo lường được, huống chi là công đức của Bà MẸ thiêng liêng đối với toàn cả chúng sanh là con cái thương yêu của Người.

                                   Câu 1 - 2 :
 Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.

Hỗn Ðộn: Lộn lạo không phân biệt được các thành phần. Thời Hỗn Ðộn là thời Tiên Thiên, tức là trước khi tạo dựng Trời Ðất, các chất khí còn lẫn lộn vào nhau, chưa phân thanh lóng trược. Sơ khai: Sơ là lúc đầu, Khai là mở ra. Sơ khai là mới mở ra lúc đầu.

Hạ chỉ: Hạ là truyền xuống, Chỉ là mệnh lệnh của vua. Hạ chỉ là vua truyền lịnh xuống cho bề tôi thi hành. Ở đây là Ðức Chí Tôn truyền lịnh xuống.

Ðài Linh Tiêu: Cái Ðài Cao nơi Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung. Ðây là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn.
"Linh Tiêu nhất tháp thị Cao Ðài,
Ðại hội quần Tiên thử ngọc giai.
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai."
                                   (Trích Bài giáng cơ của Ðức Chí Tôn tại Cần Thơ năm 1927)

Nghĩa là:
Nơi Ðiện Linh Tiêu có một cái tháp gọi là Cao Ðài,
Các vị Tiên họp Ðại hội tại bệ ngọc ấy.
Ánh hào quang từ nơi đó chiếu ra xa đến muôn trượng,
Tên xưa, cảnh quí báu đó là Lạc Thiên Thai.
C.1-2 : Kể từ lúc Hỗn Ðộn sơ khai, Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn, rồi Ðức Chí Tôn ngự trên cái Ðài Cao nơi Ðiện Linh Tiêu truyền lịnh xuống.

                                   Câu 3-4:
Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

Lưỡng Nghi: Hai Nghi: Âm quang và Dương quang, do Thái Cực biến hóa tạo ra. Khí Hư Vô: tức Hư Vô chi Khí, là chất khí nguyên thủy của CKVT. Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ðức Chí Tôn là Thái Cực.

Nung lò: Người thợ đốt nóng cái lò để hầm các vật bằng đất sét cho thành đồ gốm. Nung lò hóa sanh: Ý nói: Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi DTC như là một cái lò sản xuất để tạo ra vạn vật.
C. 3 - 4 : Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ngài là Thái Cực. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi DTC làm như một cái lò sản xuất để cho Lưỡng Nghi phối hợp tạo thành CKVT và vạn vật.

Bốn câu thơ 1,2,3,4: đã thi vị hóa Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài, tóm tắt như sau:

Thuở nguyên thủy chưa có CKVT thì trong khoảng không gian bao la chỉ có một khí Hồng Mông còn hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, gọi là Khí Hư Vô hay Hư Vô chi Khí.

Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết, nổ ra một tiếng lớn, tạo thành một khối Ðại Linh quang, hào quang chiếu diệu rực rỡ, gọi là Thái Cực, hay là Ðại hồn của Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế (mà chúng ta thường gọi là Ðức Chí Tôn).

Ðấng ấy được sanh ra đầu tiên hơn hết, trọn lành trọn tốt, toàn năng toàn tri, biến hoá vô cùng.

Ðấng ấy bắt đầu phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang. Còn khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, nên Ðức Chí Tôn hoá thân ra làm Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Sau đó Ðức Chí Tôn giao quyền cho Ðức Phật Mẫu dùng 2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp, tạo hóa ra CKVT và vạn vật.
            5 . Âm Dương biến tạo Chơn thần,
            6 . Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
            7 . Mớm cơm vú sữa cũng tay,
            8 . Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

GIẢI NGHĨA
                                               Câu 5:
Âm Dương biến tạo Chơn thần.
Âm Dương: Hai khí Âm quang và Dương quang.
Biến tạo: Biến hóa tạo nên. Chơn thần: Xác thân thiêng liêng của con người.
C.5: Ðức Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo nên Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người.

Một người sống nơi cõi TL thì phải có xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu, Bà Mẹ thiêng liêng tạo nên. Khi người đó đầu thai xuống cõi phàm trần và sống nơi cõi phàm trần thì phải có thêm một xác thân phàm trần, do cha mẹ phàm trần tạo ra.

                                               Câu 6:
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

Nhơn vật: Người và vật. Hữu vi: Tất cả những gì có hình thể, sắc tướng, thấy được, rờ được. Ðồng nghĩa với Hữu vi là Hữu hình. Trái với Hữu vi là Vô vi, Vô hình.
C.6 : Ðức Phật Mẫu lo lắng cho người và vật về phần vật chất hữu hình.

                                   Câu 7-8 :
Mớm cơm vú sữa cũng tay,
Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

Mớm cơm vú sữa: Mớm cơm cho ăn và cho bú sữa, chỉ việc mẹ nuôi con lúc sơ sanh. Dưỡng sanh: Nuôi dưỡng cho lớn lên và sống khỏe mạnh. Ðùm bọc: Giúp đỡ, che chở với tất cả tình thương. Chí công: Rất công bình, công bình tuyệt đối. Chỉ có Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu mới có được sự công bình tuyệt đối, bởi vì không có sự chi dối trá qua mặt được hai Ðấng ấy.
C.7-8 : Một tay Ðức Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con cái từ lúc sơ sanh cho đến lúc lớn khôn, đùm bọc với tài năng rất công bình của Ðấng Ðại Từ Mẫu.
            9 . Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
            10 . Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
            11 . Chí mong hòa hảo Âm Dương,
            12 . Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

GIẢI NGHĨA
                                               Câu 9:
Xét vì nhơn vật lẽ đồng.

Nhơn vật: Người và vật. Lẽ đồng: Cùng một lý lẽ như nhau, nghĩa là cùng được Ðức Phật Mẫu tạo ra bằng 2 chất khí Dương quang và Âm quang, chỉ có khác nhau ở trình độ tiến hoá mà thôi.
C.9: Xét kỹ thì người và vật đều có cùng một lẽ như nhau là do Ðức Phật Mẫu tạo ra.

                                   Câu 10:
Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
Chắt chiu: Quí trọng và nâng niu chăm sóc.

Hằng: Luôn luôn, thường thường.
C.10: Ðức Phật Mẫu luôn luôn nâng niu chăm sóc con cái với tất cả lòng thương yêu.

                                   Câu 11-12:
Chí mong hòa hảo Âm Dương,
Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

Chí: Ý chí, cái ý muốn to lớn mạnh mẽ.
Hòa hảo: Hòa là êm thuận với nhau, Hảo là tốt đẹp. Hòa hảo là thuận hòa tốt đẹp với nhau. Âm Dương: Âm quang và Dương quang. Thuận: Xuôi theo, thuận theo.

Căn: Gốc rễ. Cái gốc rễ của con người và muôn vật là hai khí Âm Dương, tức là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu. Vẹn chơn: Hoàn toàn chơn thật.
C.11-12: Cái ý chí mong muốn của Phật Mẫu là 2 khí Âm Dương hoà hợp tốt đẹp với nhau, để chúng sanh thuận theo đó mà bước tới trên con đường tiến hóa hoàn toàn chơn thật.

Trong CKVT, hai khí Âm Dương có điều hòa tốt đẹp thì Càn Khôn mới an tịnh, sự vận chuyển các Ðịa cầu mới nhịp nhàng trật tự. Trong thân thể con người, Âm Dương có điều hòa thì con người mới khỏe mạnh. Trong vạn vật, Âm Dương có điều hòa thì mới sanh hoá và phát triển tốt đẹp.

Vậy sự hòa hảo Âm Dương là điều kiện tối cần thiết để toàn thể CKVT và vạn vật tiến hóa tốt đẹp.
            13 . Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
            14 . Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
            15 . Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
            16 . Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 13-14:
Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

Mẫu Nghi: Mẫu là mẹ, Nghi là khuôn mẫu, hình thức tốt đẹp đúng theo phép tắc. Ở cõi trần, Mẫu Nghi là Bà Hoàng Hậu của một nước, tức là Bà mẹ gương mẫu cho các bà mẹ khác trong dân chúng. Ở cõi thiêng liêng, Mẫu Nghi là Ðức Phật Mẫu, Bà mẹ thiêng liêng của toàn chúng sanh.

Lòng đơn: chữ Hán là Ðơn tâm (Ðan tâm). Ðơn là màu đỏ như son, nên dịch chữ Ðơn tâm là Lòng son, nghĩa là tấm lòng ngay thẳng tốt đẹp không phai như màu đỏ của son.

Mảng: Ðặt hết tâm trí vào làm một công việc. Trẻ: Chỉ toàn cả con cái của Phật Mẫu. Mảnh thân: Tấm thân.
C.13-14: Ðức Phật Mẫu luôn luôn giữ lòng ngay thẳng tốt đẹp, luôn luôn lo lắng cho toàn thể các con có được tấm thân toàn vẹn.

Câu 15-16 :
Riêng thương, Kim Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
Riêng thương: Thương yêu một cách đặc biệt.
Kim Mẫu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Khóc thầm: Khóc mà không để cho người khác biết.
Biển trần: Cõi trần được ví như một biển khổ, con người sống trong cõi trần là đang ngụp lặn trong biển khổ ấy. (Xem: Câu 1 bài Khai Kinh).
Lạc lầm: Lầm lạc, gây ra điều sai trái vì mê muội không nhận ra lẽ phải.
C.15-16: Ðức Phật Mẫu đặc biệt thương yêu con cái của Người, thường khóc thầm vì thấy con cái bị lầm đường lạc lối trong bấy lâu nay nên phải chịu nhiều khổ sở nơi cõi trần.
            17 . Ðòi phen MẸ luống ưu sầu,
            18 . Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.
            19 . Ðỉnh chung là miếng treo gương,
            20 . Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 17-18:
Ðòi phen MẸ luống ưu sầu,
Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.

Ðòi phen: Ðòi là nhiều, phen là lần. Ðòi phen là nhiều lần. MẸ: Ðức Phật Mẫu. Luống: Mức độ nhiều lần.
Ưu sầu: Lo lắng buồn rầu. Tà mị: Tà là cong vạy, mị là phỉnh nịnh để lừa dối. Tà mị là những kẻ có lòng dạ không ngay thẳng, hay nịnh hót để lừa gạt người.
C.17-18: Ðã nhiều lần, Ðức Phật Mẫu lo lắng buồn rầu, vì đám Tà mị dụ dỗ con cái thương yêu của Người để dẫn vào con đường bất chánh.

                                   Câu 19-20:
Ðỉnh chung là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

Ðỉnh chung: Ðỉnh là cái vạc lớn, chung là cái chuông báo hiệu. Ðiển tích: Mạnh Thường Quân làm quan Tướng Quốc nước Tề, nổi tiếng chiêu hiền đãi sĩ. Trong nhà luôn luôn có cả ngàn tân khách, đều là người tài giỏi để lo bàn việc nước. Nhà bếp phải dùng nhiều vạc lớn để nấu cơm, và khi tới giờ ăn cơm, phải đánh chuông báo hiệu, mọi người mới nghe biết được. Do điển tích nầy, từ ngữ Ðỉnh chung hay Chung đỉnh là để chỉ sự giàu có sang trọng.
Miếng: Một cái, một món. Tiếng dùng có ý khinh bỉ.
Treo gương: Treo lên cao để làm gương cho mọi người. Ngôi: Phẩm vị nơi cõi thiêng liêng, thường nói là: Ngôi vị.
C.19-20: Miếng mồi giàu sang danh lợi hấp dẫn những con cái dại dột của Phật Mẫu đi vào con đường lầm lạc, quên mất ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng. Ðó là một tấm gương treo lên cho mọi người biết.
            21 . Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
            22 . Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
            23 . Ngồi trông con đặng phi thường,
            24 . MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.

GIẢI NGHĨA
Câu 21: Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi.

Ngọt ngon: Chỉ chung những thứ hấp dẫn làm thỏa mãn các giác quan của thể xác. Trẻ: Tiếng mà Ðức Phật Mẫu dùng gọi con cái. Nhiễm: Thấm sâu vào. Mến: Ưa chuộng.
C.21: Con cái của Ðức Phật Mẫu tiêm nhiễm, ưa chuộng các mùi vị ngon ngọt của vật chất nơi cõi trần.

                                   Câu 22:
Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
Khúc nôi: Nỗi niềm tâm sự thầm kín khó nói ra.

Ðoạn trường: Ðoạn là cắt đứt ra từng khúc, trường là ruột. Ðoạn trường là đứt ruột, ý nói sự đau đớn dữ dội như ruột bị cắt đứt từng đoạn.
C.22: Con cái đâu có biết nỗi niềm thầm kín đoạn trường của Ðức MẸ.

                                   Câu 23-24:
Ngồi trông con đặng phi thường,
MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.

Ngồi trông: Cử chỉ của Bà MẸ ngồi thắc thỏm trông mong con cái trở về.
Phi thường: Phi là chẳng phải, thường là bình thường. Phi thường là chẳng phải bình thường, tức là vượt lên trên sự bình thường. Bình thường là ham thích lợi danh, say mê tửu sắc, ưa chuộng vật chất; Phi thường là xa lánh lợi danh, khinh thường vật chất, xem trọng đạo đức tinh thần, phát tâm tu hành, mong ngày sau đắc quả, linh hồn được trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng. Hằng sanh: Hằng sống. Con đường hằng sanh là con đường TLHS. Tận: Cuối. Tận đường hằng sanh: Chỗ cuối của con đường TLHS, mà Ðạo Phật gọi là Niết Bàn.
C.23-24: Ðức Phật Mẫu ngồi trông mong con cái trở nên những bực phi thường để Người rước đem về cõi Niết Bàn.
            25 . Xưa con không thấu cội nhành,
            26 . Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.
            27 . Từ con cách MẸ phương Trời,
            28 . Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 25-26:
Xưa con không thấu cội nhành,
Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.

Thấu: Biết rõ. Cội nhành: Cội cây và nhánh cây, ý nói đầu đuôi gốc ngọn.
Ðường Ðạo bế: Con đường Ðạo bị đóng lại, bế tắc.
Ðạo là con đường để cho các bậc Thánh Tiên bị đọa trần do theo mà trở về cựu vị. Ðạo cũng là con đường để cho các phẩm chơn hồn do theo mà tiến hóa để đoạt phẩm vị cao trọng hơn. Như vậy, Ðạo luôn luôn có (hằng hữu), không bao giờ mất đi hay bị tiêu diệt, chỉ có trường hợp Ðạo bị bế hay Ðạo được khai ra mà thôi.

Việc Bế Ðạo hay Khai Ðạo, tỉ như một dòng suối, phát khởi từ hồi Khai Thiên Lập Ðịa, nước cứ chảy mãi, không bao giờ dứt. Trải qua nhiều thời gian, cỏ rác lần lần phủ lấp dòng suối, đến một lúc nào đó thì mặt nước dòng suối bị phủ kín hoàn toàn, không ai còn nhìn thấy dòng suối ấy nữa. Cỏ rác dần dần thu hẹp dòng suối, đó là thời kỳ Chơn truyền của Ðạo bị người phàm sửa cải nên sai lạc một phần. Ðến khi dòng suối bị cỏ rác phủ kín hoàn toàn thì Chơn truyền của Ðạo đã bị sửa đổi hoàn toàn đến sai lạc hẳn. Ðó là thời kỳ Ðạo bị bế. Người tu bị lầm lạc, tu không đúng Chơn truyền nên công đức có nhiều mà đắc quả thì không, tức tu nhiều mà thành thì rất ít.

Sau đó, có một vị thông minh sáng suốt phi thường, biết rõ nơi đây có dòng suối mát đã bị phủ kín, liền đến đó, dùng dao xẻn phát cỏ chặt cây, dọn hết rác rến cho quang đãng sạch sẽ, dòng suối mát liền lộ ra và nhơn loại được hưởng nước suối mát đó. Ðó là thời kỳ Ðạo khai, và vị khai quang đó là một Ðấng Giáo chủ mở ra một Chơn truyền mới cho nhơn sanh tu hành đắc đạo.

Ðạo bế hay Ðạo khai cứ luân chuyển nhau mãi, Ðạo khai ra rồi lại bế, bế một thời gian rồi lại được khai ra.Nhưng Ðạo vẫn là Ðạo, Ðạo vẫn như nhiên, luôn luôn tồn tại và lưu hành mãi mãi trong CKVT.
"Vốn từ Lục Tổ, Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền. .... Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành Ðạo. ... Ôi! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà TA rất đau lòng." (TNHT. I. 22)
C.25-26: Từ xưa, các con không biết rõ ngọn nguồn, và cũng vì Ðạo bị bế lại mà các con như cánh hoa rơi, phải cách biệt MẸ .

                                   Câu 27-28:
Từ con cách MẸ phương trời,
Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

Trầm luân: Trầm là chìm, luân là chìm đắm. Trầm luân là chìm đắm. Khổ hải: Biển khổ, bể thảm. Con người sống trong cõi trần như là đang ngụp lặn trong biển khổ. (Xem Câu 1 Bài Khai Kinh: Biển trần khổ vơi vơi trời nước).

Chơi vơi: Trơ trọi giữa biển khơi mênh mông, không biết bám víu vào đâu. Sóng trần: Những làn sóng trên biển khổ vùi dập con người đang ngụp lặn trong biển khổ ấy.

Thi sĩ Ðoàn như Khuê cảm tác bài thơ Bể thảm, trích 4 câu đầu:
Bể thảm mênh mông sóng lụt trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm thôi.

C.27-28: Từ ngày các con cách biệt MẸ tới cả một phương trời, các con phải chịu chơi vơi nơi cõi trần, chìm đắm và bị vùi dập trong vòng khổ não.
            29 . Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
            30 . Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
            31 . Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
            32 . Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 29-30:
Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

Nhắm mắt đưa chơn: Nhắm mắt bước tới, không cần biết phía trước có gì xảy ra. Ý nói: Buông xuôi theo số mạng, đưa đẩy tới đâu thì tới, không cần nghĩ ngợi hay tranh đấu.
Lối: Con đường đi, ý nói: Con đường Ðạo.
Nghiệt trần: Các nghiệp ác nơi cõi trần. Nghiệt là nghiệp ác; trần là cõi trần. Giảm tiêu: Giảm bớt và tiêu mất.
C.29-30: Dầu thương các con, nhưng MẸ đành để số phận đưa đẩy các con. Ngày nay, các con gặp được con đường Ðạo thì cái nghiệp ác nơi cõi trần của các con sẽ được giảm tiêu (vì nhờ sự Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn).

                                   Câu 31:
Ngọc Hư định phép cũng nhiều.

Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời Hư Vô Thiên. Ðây là cơ quan Pháp luật của Thiên đình, gìn giữ Thiên Ðiều, điều hành toàn bộ sự vận chuyển và sự tiến hóa trong CKVT.
Ðịnh: Sắp đặt. Ðịnh phép: Lập ra pháp luật.
C.31: Các Ðấng nơi Ngọc Hư Cung lập ra nhiều pháp luật.

                                   Câu 32:
Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

Phái Vàng: Do chữ Huỳnh Ðạo dịch ra: Phái Vàng hay Ðạo Vàng, là chỉ Ðạo Cao Ðài của Ðức Chí Tôn, căn cứ vào đôi liễn nơi Hiệp Thiên Ðài:
Hiệp nhập Cao Ðài, bá tánh thập phương qui Chánh quả,
Thiên khai Huỳnh Ðạo, Ngũ chi Tam giáo hội Long Hoa.

Nghĩa là:
- Hiệp vào Ðạo Cao Ðài, trăm họ trong mười phương đều đắc đạo trở về ngôi chánh quả,
- Trời mở Ðạo Vàng, các Ðấng Giáo chủ của Ngũ Chi Ðại Ðạo và Tam giáo tham dự Ðại Hội Long Hoa.
C.32: Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Phật Mẫu lãnh nhiệm vụ dìu dắt con cái tu hành.

            33. Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
            34. Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
            35. Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
            36. Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 33-34:
Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.

Hản: Hẳn, khẳng định như vậy, không có gì phải nghi ngờ. Mẫu Nghi: Ðức Phật Mẫu. (Xem trở lại Câu 13).
C.33-34: Trước kia con cái của Phật Mẫu vẫn còn mờ hồ, chưa biết Ðức Phật Mẫu là Bà MẸ thiêng liêng của mình.
Từ đây mới biết, hẳn là phải nhờ ơn của Ðức Phật Mẫu.

                                   Câu 35-36:
Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.

Ðắc truyền: Ðược lịnh của Ðức Chí Tôn truyền xuống.
Khai: Mở ra. Mối Tam Kỳ: Mối Ðạo Kỳ Ba, đó là ÐÐTKPÐ.
Cậy: Nhờ vào. Diêu Trì: Diêu Trì Cung.
Cửu Nương: 9 vị Nữ Tiên nơi Diêu Trì Cung, thường gọi là Cửu vị Tiên Nương.
"Dưới quyền của Ðức Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ Phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Ðấng cầm đầu. Quan Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Ðộng; còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo Hóa Thiên."
(Trích Luật Tam Thể của Ðức Cao Thượng Phẩm và Bát Nương).
C.35-36: Ðức Phật Mẫu được lịnh truyền của Ðức Chí Tôn, mở ra Ðạo Cao Ðài, và dưới tay nhờ có Cửu vị Tiên Nương DTC trông nom về Cơ Giáo hóa.
            37 . Chín Cô đã sẵn lòng thương,
            38 . Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
            39 . Lục Nương phất phướn Truy hồn,
            40 . Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

GIẢI NGHĨA
Câu 37-38:
Chín Cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.

Chín Cô: Ðây là Cửu vị Tiên Nương nơi DTC.
Mê tân: Mê là không tỉnh, tân là cái bến sông. Mê tân là bến mê. Con người sống trong cõi trần, vì vô minh nên mê lầm và phải chịu nhiều nỗi đau khổ phiền não. Ðức Phật ví cõi trần là Sông mê bể khổ. Sông mê thì có Bến mê. Qua khỏi Bến mê thì tới Bờ giác (Giác ngạn). Bến mê là cõi trần,
Bờ giác là cõi giải thoát của người đắc đạo, tức là cõi TLHS.
Ðộ: Cứu giúp. Chúng: Nhiều người, chúng sanh.
Buồm trương: Căng rộng chiếc buồm trên thuyền lên cho bọc gió, để sức gió đẩy thuyền đi. Thoát: Ra khỏi.
Vòng: Chỉ cái bánh xe, ý nói sự Luân hồi.
C.37-38: Cửu vị Tiên Nương đã sẵn lòng thương yêu chúng sanh, trương cánh buồm của chiếc Thuyền Bát Nhã, chờ nơi Bến mê để cứu vớt chúng sanh đưa sang Bờ giác, thoát vòng Luân hồi.

                                   Câu 39-40:
Lục Nương phất phướn Truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

Lục Nương: Vị Nữ Tiên thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Phất: Ðưa lên cao và cho chuyển động qua lại.
Phướn: Chữ Hán gọi là Phan. Phướn giống như lá cờ nhưng bề ngang hẹp, lại khá dài, đuôi phướn hình bằng ngang, nhọn, hay hình đuôi cá. Có nhiều loại phướn với công dụng khác nhau: Phướn Phật Mẫu, Phướn Thượng Phẩm, Phướn Thượng Sanh, Phướn Truy hồn hay Phướn Tiêu Diêu, Phướn Tiếp Dẫn. Phướn Truy hồn: Cây phướn hướng dẫn các chơn hồn đi đến các nơi trên cõi thiêng liêng. Truy là đuổi theo.
Tang thương: Tang là cây dâu, thương là màu xanh. Tang thương là nói tắt thành ngữ: Tang điền thương hải, nghĩa là ruộng dâu biến thành biển xanh.
Ðiển tích: Theo Thần Tiên Truyện, Tiên Nữ Ma Cô nói vói Vương phương Bình rằng: Từ khi được hầu tiếp ông đến nay đã từng thấy 3 lần ruộng dâu biến thành biển xanh.
Do đó, thành ngữ: Tang điền thương hải, dùng để chỉ cuộc đời luôn luôn biến đổi (vô thường), nay vầy mai khác, không có gì tồn tại mãi mãi.
Bảo tồn: Bảo là gìn giữ, tồn là còn. Bảo tồn là gìn giữ cho còn. Chúng sanh: Nghĩa hẹp là nhơn loại.
C.39-40: Lục Nương cầm phướn Truy hồn phất lên để hướng dẫn các chơn hồn đi lên cõi thiêng liêng. LụcNương còn có nhiệm vụ bảo tồn chúng sanh trong cuộc đời luôn luôn biến đổi.
            41 . Bát Nương thật đấng chí linh,
            42 . Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
            43 . Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu,
            44 . Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.

GIẢI NGHĨA
                                   Câu 41-42:
Bát Nương thật đấng chí linh,
Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.

Bát Nương: Vị Nữ Tiên đứng hàng thứ 8 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Chính Bát Nương giáng cơ cho bài Phật Mẫu Chơn Kinh. Chí linh: Chí là rất, linh là thiêng liêng. Chí linh là rất thiêng liêng. Giáo hóa: Dạy cho biến đổi từ xấu ra tốt, từ dốt ra biết chữ nghĩa. Ân cần: Quan tâm săn sóc chu đáo với lòng thương mến.
C.41-42: Bát Nương là Ðấng Nữ Tiên rất thiêng liêng, có nhiệm vụ giáo hóa và ân cần lo lắng giúp đỡ chúng sanh.

CHÚ Ý: Câu kinh 42 thuở xưa đọc là: "Cùng chung giáo hóa chung cùng lo âu." Câu nầy có điệp ngữ là: Chung và Cùng. Theo bài ghi chép của Ông Truyền Trạng Phạm ngọc Trấn ngày 12-1-Ðinh Hợi (dl 2-2-1947), Ðức Phạm Hộ Pháp dạy các Cô Giáo nhi tụng câu kinh đó sửa lại là: "Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu."

                                   Câu 43:
Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu.

Thất Nương: Vị Nữ Tiên đứng hàng thứ 7 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Khêu đuốc: Khơi lên ngọn lửa của cây đuốc cho cháy bùng lên toả ánh sáng đẩy lùi đêm tối. Ðạo ví như ánh sáng của ngọn đuốc, dẫn đường cho nhơn sanh đi vào chánh đạo thoát khỏi luân hồi. Ðầu: Trước tiên.

C.43: Thất Nương là người đầu tiên khơi lên ánh sáng của một mối Ðạo.

Theo Ðạo Sử, lúc còn xây bàn, Thất Nương là Ðấng Nữ Tiên đầu tiên đến với nhóm 4 vị Phò loan là Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang và Cao quỳnh Diêu, dùng văn chương thi phú dẫn dắt 4 Ông vào đường đạo đức, rồi giao 4 Ông cho Ðức Chí Tôn thâu làm môn đệ, đặng làm tướng soái cho Ðức Chí Tôn mở Ðạo. Thất Nương cũng chỉ dạy cho quí Ông dùng Ngọc cơ thay việc xây bàn để cầu các Ðấng giáng dạy cho được mau lẹ và dễ dàng hơn.

                                   Câu 44:
Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.
Nhờ người: Nhờ Thất Nương.

Gợi: Làm nảy sinh ra, khơi lên, thường nói khêu gợi. Ánh nhiệm mầu: Ánh sáng mầu nhiệm. Mầu nhiệm là rất huyền diệu, như có phép lạ, không thể giải thích được bằng lý lẽ thông thường. Huyền vi: đồng nghĩa Huyền diệu.
C.44: Nhờ Thất Nương gợi lên cho nhơn sanh thấy được ánh sáng huyền vi mầu nhiệm của đạo đức.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ năm 1952:
Trang 28: Nhờ người gọi ánh ...
Trang 105: Nhờ người gởi ánh ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968:
Nhờ người gội ánh ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1974, 1975:

Nhờ người gọi ánh ...
45 . Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
46 . Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.
47 . Ðê đầu khấu bái Nương Nương,
48 . Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.
            - Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
            - Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu vị Nữ Phật.

GIẢI NGHĨA
Câu 45: Môn sanh thiện niệm hằng ngày.

Môn sanh: Môn sinh, môn là cửa, sinh là học trò. Môn sanh hay Môn sinh là học trò trong cửa Ðạo, tức là những Tín đồ trong Ðạo. Thiện niệm: Thiện là lành, niệm là tưởng nghĩ tới. Thiện niệm là tưởng nghĩ tới điều lành.
C.45: Chúng con là Tín đồ của Ðạo Cao Ðài hằng ngày tưởng nghĩ đến điều lành.

Câu 46: Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.
Cứu ương: Cứu thoát khỏi các tai ương.
C.46: Cúi xin Ðức Phật Mẫu cứu giúp muôn loài sanh vật thoát khỏi tai ương.

Câu 47: Ðê đầu khấu bái Nương Nương.
Ðê đầu: Ðê là cúi xuống, Ðê đầu là cúi đầu xuống.
Khấu bái: Khấu là cúi rạp mình xuống, bái là lạy. Khấu bái là cúi rạp mình xuống để lạy.
Nương Nương: Tiếng gọi Bà Hoàng Hậu ở thế gian, ở đây là Ðức Phật Mẫu.
C.47: Cúi đầu rạp mình xuống kính lạy Ðức Phật Mẫu.

Câu 48: Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

Nén hương: Nén hương là một thẻ gồm nhiều cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm. Ðạm bạc: Ðạm là lạt lẽo, bạc là mỏng. Ðạm bạc là đơn sơ nghèo nàn.
C.48: Trong cảnh đơn sơ nghèo nàn, xin đốt nén hương kính dâng lên Ðức Phật Mẫu thương xót chứng cho lòng thành.

Hai Câu cuối: là 2 câu niệm cầu nguyện Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương, tức Cửu vị Nữ Phật, ở từng Trời Tạo Hóa Thiên.
Cửu vị Tiên Nương DTC lập được nhiều công quả trong thời kỳ khai mở Ðạo Cao Ðài, nên đã được đắc phong vào hàng Phật vị, nên gọi là Cửu vị Nữ Phật.
(Ðây là cách hiểu thông thường theo 5 nấc thang tiến hóa của Vạn linh do Ngũ Chi Ðại Ðạo lập thành: Ðạt được Tiên vị rồi mới tu tiến hóa lên hàng Phật vị.)

ÐỨC PHẬT MẪU
&
Cửu vị Tiên Nương

Khi Báo Ân Từ được Ðức Phạm Hộ Pháp tạm dùng làm Ðền thờ Ðức Phật Mẫu, Ðức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương theo sự tích: Hớn rước Diêu Trì. (Xem sự tích nầy nơi Câu 6, Kinh Khi Về).

Hình chụp nơi trang kế sau chỉ là phần bên trên của toàn thể bức tượng thờ nơi Báo Ân Từ. (Xem lại các trang: PMCK 195, 196, 197)

Chúng ta thấy, ngự trên mình chim Thanh loan:
Ở chính giữa, tượng lớn hơn hết là tượng của Ðức Phật Mẫu.
Ở hai bên, phía tay mặt và phía tay trái của Ðức Phật Mẫu là 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương, mỗi vị đều có cầm Bửu pháp, kể ra như sau:
Nhứt Nương, tên là HOA, mặc áo màu xanh, tay ôm Bửu pháp là Ðàn Tỳ Bà, ngồi dưới thấp, bên trái của Ðức Phật Mẫu.
Nhị Nương, tên là CẨM, cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Lư Hương, ngồi kế bên phía trái của Ðức Phật Mẫu.
Tam Nương, tên là TUYẾN, cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Long Tu Phiến (Quạt Long Tu), ngồi dưới thấp, bên phía mặt của Ðức Phật Mẫu.

Tứ Nương, tên là GẤM, mặc áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Kim Bảng, ngồi bên mặt Ðức Phật Mẫu, kế bên Tam Nương.
Ngũ Nương, tên là LIỄU, mặc áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Cây Như Ý, ngồi bên trái của Ðức Phật Mẫu, kế Nhị Nương.

Lục Nương, tên là HUỆ, mặc áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu, cũng gọi là Phướn Truy hồn, ngồi kế bên mặt của Ðức Phật Mẫu.
Thất Nương, tên là VƯƠNG THỊ LỄ, mặc áo màu vàng, tay cầm Bửu pháp là Bông sen, ngồi phía trái của Ðức Phật Mẫu, kế bên Nhứt Nương.

Bát Nương, tên là HỚN LIÊN BẠCH, mặc áo màu vàng, tay cầm Bửu pháp là Giỏ Hoa Lam, ngồi nơi phía mặt của Ðức Phật Mẫu, kế bên Tam Nương.
Cửu Nương, tên là CAO THỊ KHIẾT, mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Ống Tiêu, ngồi nơi phía mặt của Ðức Phật Mẫu, kế Lục Nương.

Phía sau Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương là 4 Tiên đồng Nữ nhạc đứng hầu, kể ra:
Vương Tử Phá, mặc áo màu xanh, đứng hầu bên phía trái của Ðức Phật Mẫu, tay cầm cây Phướn.
Ðổng Song Thành, mặc áo màu xanh, đứng hầu bên phía mặt của Ðức Phật Mẫu, tay cũng cầm cây Phướn giống y như Vương Tử Phá.
An Phát Trinh, mặc áo màu vàng, đứng hầu bên phía trái của Ðức Phật Mẫu, kế bên trái Vương Tử Phá, tay cầm quạt lông cán dài.

Hứa Phi Yến, mặc áo màu vàng, đứng hầu bên phía mặt Ðức Phật Mẫu, kế bên mặt Ðổng Song Thành, tay cũng cầm quạt lông cán dài giống y như An Phát Trinh.

KINH GIẢI OAN
(Giọng Nam xuân)

1 . Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa.
2 . Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.
3 . Bước đường sanh tử đã chồn.
4 . Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.
5 . Luật nhơn quả để răn Thánh đức.
6 . Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.
7 . Dầu chăng phải mực Thiên điều.
8 . Cũng quyền tự chủ dắt dìu Thiên lương.
9 . Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,
10 . Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.
11 . Dây oan xe chặt buộc mình.
12 . Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
13 . Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu.
14 . Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm.
15 . Phong trần quen thú cung âm.
16 . Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.
17 . Khối trái chủ nhẫng lo vay trả.
18 . Mới gây nên nhân quả nợ đời.
19 . Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi.
20 . Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.
21 . May đặng gặp hồng ân chan rưới,
22 . Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
23 . Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên.
24 . Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
25 . Nhập Thánh thể dò đường cựu vị.
26 . Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma.
27 . Huệ quang chiếu thấu chánh tà.
28 . Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.
29 . Cứ nương bóng Chí Linh soi bước.
30 . Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha.
31 . Liên đài may nở thêm hoa.
32 . Lão Ðam cũng biết, Thích Già cũng quen.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Giải Oan do Ðức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại.
Theo lời Sĩ Tải Huỳnh văn Hưởng thì 4 câu kinh cuối của bài Kinh Giải Oan bài do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ viết tiếp cho trọn ý nghĩa của bài.

Kinh Giải Oan để đồng nhi tụng trước khi vị Chức sắc hành Pháp Giải Oan cho một tín đồ. Mục đích của Phép Giải Oan nằm trong ý nghĩa của bài kinh nầy và trong một số câu kinh của các bài kinh khác, xin trích ra sau đây:
Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Chí Tôn xá tội Giải Oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong. (KCHKHH) Kinh Cau Hon Khi Hap Hoi

Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội. (KHH) Kinh Ha Huyet
Chí Tôn xá tội Giải Oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn. (KCBCTBCHÐQL) Kinh Cau Ba Con Than Bang Co Huu Ða Qui Lieu

Giải Oan: Giải là cởi bỏ ra, Oan là thù giận. Giải oan là cởi bỏ tất cả oán thù đã gây ra trong nhiều kiếp trước, tức là cởi bỏ những oan nghiệt tiền khiên. Ðó là những nghiệp chướng nặng nề, nếu không cởi bỏ thì nó sẽ báo ứng gây ra nhiều trở ngại và tai họa đau khổ cho kiếp sống hiện tại.
Câu 1: Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa.

Vòng xây chuyển: Chỉ bánh xe luân hồi, tức là sự luân hồi chuyển kiếp của con người nơi cõi trần. Vong hồn: Vong là chết, hồn là linh hồn. Vong hồn là linh hồn của người chết.

Tấn hóa: Tiến hóa, thay đổi mỗi lúc một tốt đẹp và cao siêu hơn. Luật Tiến hóa chi phối khắp CKVT. Vạn vật luôn luôn tiến hóa, nên Càn Khôn cũng luôn luôn tiến hóa.

Sự tiến hóa của Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm là sự tiến hóa tự nhiên do các Ðấng Thiêng liêng thúc đẩy; còn sự tiến hóa của con người là do học hỏi và tu luyện, bởi vì con người có hiểu biết và suy nghĩ.

Linh hồn con người đầu kiếp xuống trần là để học hỏi và tiến hóa. Ðầu tiên con người học làm ác, để được quả báo mà chiêm nghiệm việc ác; học ác xong đến chán rồi thì bắt qua học thiện, làm việc thiện để nhận được quả báo mà chiêm nghiệm việc thiện, rồi thấy việc thiện rất có lợi cho linh hồn nên tiếp tục làm thiện mãi, nhờ thế mới tiến hóa lên các phẩm Thần Thánh Tiên Phật.

C.1: Nhờ luân hồi chuyển kiếp, linh hồn con người mỗi lúc một tiến hóa tốt đẹp hơn, cao siêu hơn.

Câu 2: Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.

Nương: Dựa vào. Xác thân: Thể xác phàm. Hiệp: Hợp vào. Ngả: Lối đi, đường đi. Càn khôn: Hai quẻ trong Bát Quái tượng trưng Âm Dương, mà nguyên lý Âm Dương là Ðạo. Hiệp ngả Càn khôn: Ý nói hợp vào con đường Ðạo, tức là theo Ðạo lo việc tu hành.
C.2: Linh hồn phải nương dựa vào xác thân phàm để đi vào con đường Ðạo, lo việc tu hành.

Linh hồn nơi cõi thiêng liêng, muốn được cao thăng phẩm vị, thì phải đầu kiếp xuống trần, để có xác thân phàm, mới có được TINH. Nhờ có xác thân phàm mới lập được công quả và phước đức, sau đó được truyền cho phép luyện đạo, để luyện TINH, KHÍ, THẦN hiệp nhứt, đắc đạo tại thế, linh hồn được cao thăng phẩm vị, trở thành Tiên, Phật.

Câu 3: Bước đường sanh tử đã chồn.

Ðường sanh tử: Con đường luân hồi, hết sanh rồi tới tử, tử rồi lại chuyển kiếp để được sanh ra, ... cứ thế tiếp diễn như bánh xe quay tròn. Chồn: Mỏi, chán (mỏi gối chồn chân)
C.3: Bước đi trên con đường luân hồi, qua nhiều lần sanh tử, nên đã mỏi mòn chán nãn.

Câu 4: Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.

Oan: Thù giận. Oan oan: Nhiều thù giận nối tiếp.
Nghiệt: Cái nghiệp ác, cái mầm ác gây ra tai họa. Việc làm ác gây ra nghiệp ác để chờ cơ hội thì báo ứng về sau. Nghiệt nghiệt: Nhiều nghiệp ác cứ nối tiếp nhau.

Dập dồn: Dồn dập, kéo đến liên tiếp. Trái: Món nợ. Căn: Gốc rễ. Trái căn: Những món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, nay kiếp nầy phải đền trả.
C.4: Nhiều thứ oan nghiệt của kiếp trước dồn dập kéo tới là những món nợ đòi hỏi kiếp nầy mình phải đền trả.
Câu 5: Luật nhơn quả để răn Thánh đức.

Luật nhơn quả: Nhơn hay Nhân là cái nguyên nhân, ví như cái hột; quả là cái trái, kết quả. Nhơn quả là hột và trái. Một cái hột, ương lên thành một cái cây, cây lớn lên sanh trái, trong trái có hột mới, đem ương hột mới thì có cây mới, ... Nhân quả, quả nhân, cứ thế nối tiếp nhau mãi.

Như vậy, NHÂN là cái năng lực phát động, QUẢ là sự hình thành của cái năng lực phát động đó. Nhân và Quả là 2 trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau. Nếu không Nhân thì không có Quả, nếu không Quả thì ắt không Nhân.

Ðức Chí Tôn là Ðấng chí công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Ðấng ấy chỉ lập ra Luật Nhân Quả để thực hiện sự Công Bình thiêng liêng mà điều hành sự Tiến hóa trong CKVT.

Hễ Nhân nào thì Quả nấy, trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, gieo gió thì gặt bão, nhứt định không bao giờ sai chạy. Nhân và Quả cứ tiếp tục báo ứng nhau mãi, từ kiếp nọ sang kiếp kia, mãi mãi trói buộc con người vào vòng oan nghiệt nơi cõi trần.
Răn: Ngăn cấm, hăm he để dạy bảo.
Thánh đức: Cái đức tốt của bực Thánh. Người có Thánh đức là người có tâm lành, cam thọ khổ để giúp nhơn sanh hết khổ, suốt đời đi trọn vẹn trên con đường đạo đức.
C.5: Ðức Chí Tôn lập ra Luật Nhân quả để răn dạy nhơn sanh phải biết tuân theo mà đi trọn con đường Thánh đức.
Câu 6: Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

Luân hồi: Luân là cái bánh xe, hồi là quay trở lại. Luân hồi, nghĩa đen là cái bánh xe quay đi rồi trở lại. Ðức Phật ví kiếp sống của con người vơí sự sinh tử như là cái bánh xe quay tròn, tiếp diễn mãi mãi. Như thế, Luân hồi chỉ là sự diễn biến liên tục của Nhân và Quả, nhưng tính theo đơn vị thời gian là một kiếp sống con người. Kiếp trước là Nhân, kiếp sống hiện tại là Quả, và cũng là Nhân cho kiếp sau, cứ thế tiếp diễn mãi. Khi còn ở trong vòng Luân hồi thì phải chịu trong vòng Tứ Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Hễ thoát khỏi Luân hồi thì hết Khổ, được trở về Cực Lạc Niết Bàn. Ðó là mục đích của người tu.
Bực cao siêu: Hạng người tài giỏi.

NHẮC: có 2 nghĩa: - Nghĩa thứ nhứt là: Nhắc nhở cho nhớ. - Nghĩa thứ hai là: Nâng lên (người miền Bắc thường nói là: Nhấc). Do đó Câu kinh 6 được giải thích theo 2 cách:
1) Cửa vào vòng Luân Hồi nhắc nhở các bực tài giỏi ghi nhớ ráng làm sao cho thoát khỏi.
2) Cửa vào vòng Luân hồi là để con người học hỏi tiến hóa, nâng mình lên phẩm vị cao siêu.

Câu 7: Dầu chăng phải mực Thiên điều.

Dầu chăng: Dầu thế nào đi chăng nữa. Mực: Cái lằn mức giới hạn. Thiên điều: Các điều khoản Luật pháp của Trời, được các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật họp Ðại hội tại Ngọc Hư Cung lập ra để điều hành sự vận chuyển và sự Tiến hóa của CKVT. Thiên điều được chép vào một quyển sách gọi là Thiên Thơ (Thiên Thi, hay Thiên Thư).
C.7: Dầu thế nào đi chăng nữa, phải tuân Thiên điều, không được vượt qua mức giới hạn qui định trong Thiên điều.

Câu 8: Cũng quyền tự chủ dắt dìu Thiên lương.

Tự chủ: Tự mình làm chủ lấy mình. Quyền tự chủ: Cái quyền riêng của mình tự định đoạt lấy cuộc đời mình. Thiên lương: Thiên là Trời, lương là tốt đẹp. Thiên lương là cái tốt đẹp mà Trời ban cho mỗi người. Ðó là cái Lương tâm, nó vốn lành, nên nó luôn luôn hướng dẫn con người làm điều lương thiện đạo đức, và răn phạt con người khi làm điều gian ác hung bạo.
C.8: Mỗi người, ai cũng có cái quyền tự chủ, định đoạt cuộc đời mình theo sự dìu dắt của Lương tâm.

Lương tâm, hay nói vắn tắt là Tâm, là cái thể hiện của Chơn linh. Nếu Chơn linh không trau luyện cái Tâm, để cho nó lu lờ yếu đuối, thì Lục dục Thất tình dấy lên làm chủ thể xác, xúi biểu thể xác làm điều sái quấy, thì Chơn linh phải lãnh lấy tội tình và phải chịu đọa đày theo Luật Nhân quả.

Câu 9-10: Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,
Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

Dòng khổ hải: Dòng nước trong biển khổ, chỉ nỗi khổ của con người nơi cõi trần. Chìm đắm: Chìm sâu trong nước. Thấm: Ngấm vào, nhiễm vào. Chơn linh: Linh hồn.
C.9-10: Khi con người bị chìm sâu trong biển khổ thì Chơn linh phải chịu nhiều nỗi đau thương.

Ý nói: Khi con người mãi mãi luân chuyển chìm đắm trong cõi trần thì những nỗi đau thương sẽ thấm sâu vào Chơn linh, làm Chơn linh rất đau khổ.

Câu 11: Dây oan xe chặt buộc mình.

Dây oan: Sợi dây oan nghiệt. Những việc làm không lương thiện của mình tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần của mình vào vòng Luân hồi để chịu Luật Nhơn quả thể hiện. (Xem: Bảy dây oan nghiệt, Câu 3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu). Xe chặt: Làm cho sợi dây xoắn chặt lại.

C.11: Những oan nghiệt gây ra tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần mình vào cõi trần.
Câu 12: Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

Nhớp nhơ: Dơ bẩn. Nhiễm: Thấm vào. Thân: Xác thân. Nhiễm thân: Thấm vào xác thân.
Lục dục: 6 điều ham muốn gồm:
Sắc dục là ham muốn nhìn thấy sắc đẹp.
Thinh dục là ham muốn nghe âm thanh êm tai.
Hương dục là ham muốn ngữi mùi thơm tho.
Vị dục là ham muốn ăn món ngon vật lạ.
Xúc dục là ham muốn da thịt được mát mẻ dễ chịu.
Ý dục là ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ.
Thất tình: 7 thứ tình cảm gồm:
Hỷ là mừng rỡ.
Nộ là giận hờn.
Ái là thương yêu.
Ố là ghen ghét.
Ai là buồn phiền.
Lạc là vui vẻ.
Dục là ham muốn.

C.12: Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân, là Lục dục và Thất tình xúi giục, xô đẩy con người vào vòng vật chất thấp hèn làm cho các thứ nhơ bẩn thấm vào xác thân.

Câu 13: Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu.

Ô trược: Ô là bẩn thỉu, dơ bẩn, Trược hay Trọc là dơ dáy, hôi hám. Ô trược là bẩn thỉu dơ dáy. Trái với Ô trược là Thanh khiết. Chơn thần: Xác thân thiêng liêng. (Xem: C.18 PMCK). Nặng trịu: Nặng như bị đè hẳn xuống.

Nơi cõi phàm trần, tức là nơi quả Ðịa cầu 68 nầy, thanh khí thì ít, mà trược khí thì nhiều, lại nữa con người dùng thịt các loài cầm thú làm thức ăn nuôi xác thân, mà các thứ thịt ấy chứa rất nhiều chất trược, do đó:
C.13: Chơn thần phải chịu ô trược nặng nề, nên khi Chơn thần xuất ra khỏi thể xác thì nó nặng trĩu, không thể bay bổng lên được.

Câu 14: Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm.

Hình hài: Thể xác phàm. Biếng hiểu: Làm biếng hiểu biết, ý nói không chịu nghe lời dạy bảo. Lương tâm: Cái tấm lòng lành, đó là cái thể hiện của Chơn linh.
"Thầy đã nói nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng: Ðấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét. Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, các Chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải giữ gìn các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó." (TNHT. II. 66).
C.14: Thể xác làm lơ trước những điều dạy bảo của lương tâm.

Lương tâm của mỗi người thường dạy bảo xác thân làm điều hay sự phải, nên khi xác thân làm điều sái quấy thì bị Lương tâm cắn rứt. Nhưng xác thân bị Lục dục Thất tình cám dỗ, xúi giục, làm điều hèn hạ, thoả mãn lòng ham muốn vật chất. Ðối với những người mà ý chí không mạnh mẽ thì

Lục dục Thất tình mạnh hơn và lấn lướt Lương tâm, khiến xác thân làm lơ trước những điều dạy bảo của Lương tâm.

Câu 15: Phong trần quen thú cung âm.

Phong trần: Phong là gió, trần là bụi. Phong trần là gió bụi, chỉ sự từng trải ở đời hay sự gian nan vất vả ở đời.
Quen thú: Quen thuộc các thú vui. Cung âm: Cung bậc của âm nhạc, chỉ cảnh đờn ca xướng hát trong các ca lâu kỹ viện, chỗ ăn chơi trác táng.
C.15: Ðã từng trải và quen thuộc các thú vui chơi đàn hát nơi chốn ca lâu kỹ viện.

Câu 16: Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.

Cảnh thăng: Cảnh của những linh hồn siêu thăng tới ở, tức là cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Ngơ ngẩn: Ở trạng thái mà tâm trí như ở đâu đâu. Lạc lầm: Lầm đường lạc lối.

Phong đô: Tên của một vùng đất thời xưa bên Tàu mà người ta tin rằng đó là Âm phủ.
Theo Phật giáo, Phong đô là cõi Ðịa ngục, để giam giữ và trừng trị những linh hồn tội lỗi. Khi bị giam vào đó rồi thì không thể nào trốn thoát được.

Theo Ðạo Cao Ðài với Ðại Ân Xá kỳ ba, Ðức Chí Tôn ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục, nên không còn cõi Ðịa ngục nữa. Các linh hồn tội lỗi được đưa đến cõi Âm quang, là nơi để tịnh tâm định trí, tự xét lại những lỗi lầm đã qua mà ăn năn sám hối, cầu xin Ðức Chí Tôn cứu vớt. Tại cõi Âm quang có Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn.
C.16: Trong kiếp sanh đã làm nhiều điều lầm lạc sai trái, nên khi chết đi, Chơn thần xuất ra, nhìn con đường đi về cõi TLHS mà lòng ngẩn ngơ vì không thể lên đó được, bị đưa về cõi Âm Quang để tự xét mình và ăn năn sám hối tội tình.

Câu 17-18: Khối trái chủ nhẫng lo vay trả.

Mới gây nên nhân quả nợ đời.
Khối: Chỉ một đám người. Trái chủ: Trái là món nợ, chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ, người cho vay. Khối trái chủ: Chỉ chung đám chủ nợ và đám con nợ.

Nhẫng: Những, nghĩa là: chỉ có, chỉ là.
Nhân quả: (đã giải thích nơi câu 5). Nợ đời: Những món nợ ở đời tạo thành cái nghiệp mà mình phải đền trả.
C.17-18: Ðám chủ nợ và đám con nợ, kẻ chỉ lo việc cho vay và đòi nợ, kẻ thì chỉ lo việc trả nợ, mới tạo nên việc nhân quả và cái nghiệp nơi cõi đời.

Vì bị lẩn quẩn trong vòng nhân quả liên tục như thế, nên con người không thể thoát ra khỏi luân hồi. Muốn thoát khỏi luân hồi thì chỉ lo trả cho hết nợ mà không gây ra nợ mới, nghiệp mới hay gây ra nhân mới, đồng thời lo lập công bồi đức, tùng theo Chơn pháp tu hành.

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952:
Mới gầy nên ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
Mới gây nên ...
Hai từ ngữ: Gầy nên và Gây nên, đồng nghĩa.

Câu 19: Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi.
Rảnh: Không vướng bận việc gì hết.
Thảnh thơi: Nhàn hạ, thong thả.
C.19: Thân mình đâu có được rảnh rang (vì còn ở trong vòng vay trả) để đặng thong dong nhàn hạ.

Câu 20: Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.
Thiên cung: Chỉ cõi Trời, tức cõi TLHS.
Lỡ lối: Lỡ đường; đi được một phần đường, chưa tới nơi tới chốn thì phải dừng lại. Chơi vơi: Trơ trọi giữa khoảng rộng, không biết bám víu vào đâu.
C.20: Lỡ đường về cõi TLHS, đành chịu trơ trọi bơ vơ nơi cõi trần.

Câu 21-22: May đặng gặp hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
Hồng ân: Hồng là to lớn. Hồng ân là ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho. Chan rưới: Ban bố đầy dẫy.
Giải: Cởi bỏ ra. Trái: Món nợ. Oan: Thù giận. Giải trái oan: Cởi bỏ hết những món nợ thù giận đã gây ra trong kiếp trước. Sạch tội: Hết tội. Tiền khiên: Tiền là trước, Khiên là tội lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp trước .
C.21-22: May mắn gặp được ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho đầy dẫy, để cởi bỏ hết những mối nợ oan nghiệt và rửa sạch tiền khiên.

Ðó là hiệu quả của Phép Giải Oan mà Ðức Chí Tôn đã ban cho Ðạo Cao Ðài trong kỳ Ðại Ân Xá nầy.

Câu 23: Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên.

Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp kém nhất dùng để giam giữ, đày đọa và trừng phạt các linh hồn mà trong kiếp sanh nơi cõi trần đã làm nhiều điều tội lỗi nặng nề.

Tầng Thiên: Các Từng Trời, chỉ cõi Trời vì cõi Trời có nhiều từng Trời, đó là cõi của những linh hồn đắc đạo siêu thăng, cõi của chư Thần Thánh Tiên Phật.

C.23: Ðức Chí Tôn cho đóng cửa Ðịa ngục để phóng thích các tội hồn, và mở rộng cửa các từng Trời để đón tiếp những linh hồn đắc đạo.
Ðây là thể hiện thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn.

Câu 24: Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.

Khai đường: Mở đường, dẹp các chướng ngại trên đường, làm cho thông thoáng dễ đi.
Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới, ở về phía Tây, nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn toàn an vui sung sướng. Phật gọi đó là cõi Cực Lạc Niết Bàn.

Theo Kinh A-Di-Ðà, cõi CLTG có lầu đài nhà cửa, đường sá đều làm bằng 7 thứ châu báu (Thất bảo), có hoa Tiên rớt xuống như mưa rất đẹp, có chim linh múa hát, có các bực La Hán, Bồ Tát, Phật và những người nhơn đức tu hành, ăn uống khỏi cần nấu nướng, tự nhiên có sẵn, áo quần làm bằng châu báu luôn luôn sạch sẽ và thơm tho, muốn đi đâu tùy ý, không cần xe cộ hay máy bay, chỉ cất bước là bay tới rất nhanh đúng theo ý muốn.

Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, cõi CLTG đặt dưới quyền chưởng quản của Ðức Phật A-Di-Ðà.

Bây giờ bước qua thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, theo lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, Ðức Phật A-Di-Ðà, vâng lịnh Ðức Chí Tôn, giao quyền chưởng quản CLTG cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Ðức Phật A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.

Miền Tây Phương: Ý nói cõi Tây Phương Cực Lạc, hay cõi CLTG, vì cõi nầy ở về hướng Tây.
C.24: Ðức Chí Tôn ra lịnh khai thông con đường dẫn tới cõi CLTG ở về phía Tây, để những linh hồn đắc đạo đến được nơi đó mà an hưởng ngôi vị.

Tại sao phải khai thông con đường đó? Bởi vì trước đây, con đường đó đã bị bế lại.
Nguyên từ buổi Bế Ðạo, con đường đi từ Ngọc Hư Cung qua CLTG bị Quỉ Vương là Kim Quang Sứ bít ngõ, không cho các Chơn linh đắc đạo nhập vào CLTG.

Ðức Chí Tôn ra lịnh cho Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung (Chơn linh là Lý Ngưng Dương hay Lý Thiết Quả, một vị Ðại Tiên đứng đầu Bát Tiên) đánh đuổi Kim Quang Sứ, khai thông con đường đi vào CLTG để các chơn linh đắc đạo đến được Cực Lạc Thế Giới. Rồi Ðức Chí Tôn ra lịnh cho Ðức Hộ Pháp qua mở cửa CLTG cho các Chơn linh nhập vào.

Con đường TLHS, Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo: "Bên đạo của ta là Ðức Lý Ngưng Dương đã diệt được bên Kim Quang Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Ðức Lý Ngưng Dương đánh với Kim Quang Sứ mà thôi. Ðánh nhau một hồi, Ðức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất. Ði qua CLTG phải chăng vì lẽ ấy trong đạo giáo nói Ðạo bị bế.

Khi tới gần cửa CLTG môn ngoại, thấy có 2 cái chong chóng. Hai cái chong chóng ấy quay tròn luôn. Nếu chúng ta lấy trí tưởng tượng chong chóng quay thì từ mặt dưới lên tới mặt trên ít nữa cũng năm mười ngàn thước, đặng ngăn CLTG môn ngoại như Vạn lý Trường thành, không có một người nào qua lọt. Hai cửa ấy, một cửa hóa hào quang trắng, một cửa hóa hào quang đỏ hồng hồng. Mới ngó thấy 2 cửa ấy, Bần đạo không biết gì hết. Tới chừng Bần đạo dùng cây Giáng Ma Xử trong thân, Bần đạo định thần, chỉ ngay bảo ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ vòng tròn trắng ấy là Chữ VẠN. Bần đạo vừa biểu ngừng thì mấy người ở Cực Lạc môn ngoại chạy ùa vào, chừng vô được một mớ, Bần đạo chỉ bên kia biểu ngừng, cũng chạy được vô một mớ nữa. Vô rồi thấy có một vị Phật đứng ở trên, hai tay bắt ấn liệng xuống chữ VẠN thì chữ VẠN quay nữa, thành thử họ vô được một mớ.

Khi Bần đạo bắt đứng 2 chữ VẠN lại, phải chăng vì nơi Cực Lạc môn ngoại có các đẳng chơn hồn đã đoạt vị mà bị Pháp giới đã bế, khiến cho Bần đạo đến đó đặng bắt 2 chữ VẠN ngừng lại cho họ vào, tới chừng vị Phật kia cho 2 chữ VẠN quay lại, Bần đạo dám chắc các đẳng chơn hồn đã vô cửa CLTG đã hết. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn, chớ không phải theo con mắt của chúng ta tưởng đó là sự tình cờ.

Ấy vậy, Ðức Chí Tôn sai qua mở cửa CLTG:
1. Vì đường từ Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung qua CLTG buổi nọ bị Kim Quang Sứ đón đường.
2. Các vị Tăng đồ từ trước có tu mà không thành, vì bị thất pháp bửu nên bị đồ lưu nơi Cực Lạc môn ngoại.
Ðức Chí Tôn biểu qua đó dẫn các chơn hồn dành để cho có ngôi vị nơi CLTG."

Câu 25: Nhập Thánh thể dò đường cựu vị.

Nhập: Ði vào. Thánh thể: Những vị Chức sắc Cửu Trùng Ðài đứng vào hàng Thánh đổ lên. Dò đường: Tìm đường. Cựu vị: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

Ðức Chí Tôn mở Ðạo gồm 3 Ðài:
Bát Quái Ðài là Linh hồn của Ðạo: tức là THẦN, vô hình.
Hiệp Thiên Ðài là Chơn thần của Ðạo: KHÍ, bán hữu hình.
Cửu Trùng Ðài là Thể xác của Ðạo: TINH, hữu hình.

Những vị Chức sắc Cửu Trùng Ðài đứng vào hàng Thánh đổ lên (tức là từ phẩm Giáo Hữu đổ lên) được gọi là Thánh thể của Ðạo hay Thánh thể của Ðức Chí Tôn.

Nhập Thánh thể: Ði vào làm Chức sắc đứng hàng Thánh thể của Ðức Chí Tôn. Muốn vậy, phải nhập môn vào Ðạo, lập công bồi đức, tùng theo Luật pháp Chơn truyền, trọn đời hiến thân hành Ðạo, phụng sự nhơn sanh, đi từ phẩm cấp Chức việc Bàn Trị Sự, rồi cầu phong lên phẩm Lễ Sanh, sau đó đủ công nghiệp thì cầu thăng lên hàng Giáo Hữu. Tới đây thì được gọi là Nhập vào Thánh thể của Ðức Chí Tôn.

C.25: Nhập Thánh thể dò đường cựu vị, nghĩa là: Ði vào làm Thánh thể của Ðức Chí Tôn thì mới dò tìm được con đường trở về ngôi vị cũ.

Câu 26: Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma.

Noi: Học tập và làm theo. Chơn truyền: Chơn là thật, truyền là trao lại. Chơn truyền là giáo lý chơn thật do vị Giáo chủ truyền lại, người tu đúng theo đó thì nhứt định đắc đạo.

Khử quỉ trừ ma: Khử trừ ma quỉ. Khử trừ là loại bỏ.
Quỉ ma là những linh hồn mà trong kiếp sanh đã làm nhiều điều quá ác độc, phạm Thiên điều, bị đọa làm Ma Quỉ. Con người, hễ khi làm mất hết chơn dương thì phải thuần âm, tất phải chết, mà chết như vậy thì trở thành Ma Quỉ, làm tôi tớ cho Quỉ Vương. Lũ Quỉ ma ấy rất ghen ghét người tu, chúng luôn luôn tìm cách phá phách hay thử thách, hoặc dụ dỗ người tu hành đi vào đường xấu xa như bọn chúng. Phải có một cái Tâm chơn chánh, một ý chí mạnh mẽ sáng suốt, mới có thể vượt qua các cạm bẫy thử thách của bọn chúng, mới thắng được chúng, mới có thể đắc đạo.
C.26: Học tập và làm đúng theo giáo lý Chơn truyền thì khử trừ được bọn ma quỉ phá phách.

Câu 27: Huệ quang chiếu thấu chánh tà.
Huệ quang: Ánh sáng của trí huệ. Trí huệ là sự thông suốt hiểu rõ đạo lý. Trí huệ có được là do công phu tu luyện lâu dài. Chiếu: Soi rọi. Thấu: Biết rất rõ.

Chánh Tà: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn, hợp với đạo lý; Tà là cong vẹo, không hợp với đạo lý. Chánh Tà luôn luôn đối chọi nhau, tranh giành nhau, nhưng cuối cùng thì Chánh luôn luôn thắng Tà để bảo tồn Chơn lý.

TNHT. II. 96: "Tà Chánh, cười ... Bần đạo nói thiệt, cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có cái may, trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được. Ðiều cần là nên làm mà thôi. Nếu luận Tà Chánh thì chưa một ai dám, còn mang xác phàm, xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì Thiên thơ xử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Tòa, Tà vì những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của Quỉ Vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng, hoặc có một kết quả."
C.27: Dùng ánh sáng Trí Huệ soi rọi thì mới rõ thấu được lẽ Chánh và lẽ Tà.

Câu 28: Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.
Thuyền Bát Nhã: Chiếc thuyền Trí Huệ đưa người đầy đủ phước đức từ bến mê, vượt qua biển khổ, đến cõi TLHS. Ðộ sanh: Cứu giúp đưa vào cõi Hằng sống. Ngân hà: Sông Ngân. Ngân hà thuộc biển khổ nơi cõi thiêng liêng.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS, có đoạn nói về sông Ngân hà có chiếc thuyền Bát Nhã như sau:
"Khi dòm lại thế gian phía sau lưng hiện ra như một con sông đại hải, thấy bờ bên nây người ta đứng nhiều lắm, người nào cũng có hào quang chiếu diệu đẹp đẽ vô cùng, còn ở mé bờ bên kia sông, cũng đông người lắm, nhưng hình thể họ khô khan, đau thảm, tiều tụy. Họ ước ao làm sao qua được con sông ấy. Sông đó là sông Ngân hà. Trên sông có một chiếc Thuyền Bát Nhã do Ðức Quan Âm Bồ Tát, vâng lịnh Ðức Phật Di-Lạc đi độ sanh, chèo thuyền qua lại để rước những người đầy đủ phước đức."
C.28: Chèo Thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh, nghĩa là: Ðức Quan Âm Bồ Tát chèo chiếc Thuyền Bát Nhã đi qua đi lại trên sông Ngân hà thuộc biển khổ để cứu giúp những người đầy đủ phước đức đưa qua bờ giác đi vào cõi TLHS.

Câu 29: Cứ nương bóng Chí Linh soi bước.
Nương: Dựa vào. Bóng: Ánh sáng. Chí Linh: Ðức Chí Tôn. Soi bước: Rọi sáng để thấy đường bước tới.
C.29: Cứ dựa theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn soi rọi mà bước tới.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952 và Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974:
Cứ nương bóng ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1975:
Cứ noi bóng ...
Câu 30: Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha.

Gội: Xối nước lên đầu để rửa sạch chất bẩn dính trên đầu. Thường nói là: Tắm gội. Mê đồ: Mê là mờ hồ, sai lầm; đồ là con đường đi. Mê đồ là con đường lầm lạc. Con người vô minh, lầm lạc là do Lục dục Thất tình che khuất Lương tâm. Hễ kềm giữ và điều khiển được Lục dục Thất tình thì vén được bức màn vô minh, cái Tâm được tỏ rạng. Gội mê đồ: Gội rửa cho sạch hết các u mê lầm lạc.

Nước Ma-Ha: Ðó là Ma-Ha thủy. Ma Ha, tiếng phạn nghĩa là lớn, nước Ma Ha là nước của con sông lớn bên xứ Ấn Ðộ, mà thuở xưa, Ðức Thích Ca xuống tắm sông ấy để tẩy trần, đắc đạo thành Phật. Ðó là sông Gange, dịch là Hằng hà.

C.30: Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha, là: Gội rửa cho sạch hết những cái u mê lầm lạc và tắm bằng nước sông Hằng để rửa sạch những oan nghiệt tội tình của kiếp sống.
  Home           1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét