Giải Nghĩa Kinh Thiên Và Thế Ðạo - 7 / 8 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Theo lời giảng giải của Ngài Ðầu Sư Thượng Sáng Thanh, trong quyển "Bí Truyền Chơn Pháp":

"Khi Thái Tử Sĩ Ðạt Ta xuống núi đến rừng Bồ Ðề vừa chí thì mệt mỏi quá chừng, thân hình rủ riệt, thần kinh lờ mờ, sa vào một cội Bồ Ðề mà chết giấc. Nhờ chết giấc ấy mới xuất Thần đặng hội diện cùng chư Phật, thấy rõ trước mắt Ðịa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt Pháp. Duy có lạ một điều là cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ,
Người không gần đặng. Thoạt thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và Chơn thần của Người đã chịu gánh nhiều quả kiếp, cho nên ô trược nhuốc nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến sông Ma-Ha tẩy trược.

Trong cơn ấy, có người đàn bà bưng bình bát sữa vừa đến rừng Bồ Ðề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết, chỉ rờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng biểu tỳ nhi và mình ra tay hô hấp. Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người. Phật uống đặng bình bát sữa ấy, rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa. Ấy là cơ hiệp nhứt Tam Bửu (Tinh, Khí,Thần). Tinh là hình hài, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh.

Nhờ Tam Bửu phối tế, Người định giác lần lần, thấy đặng cõi Hư linh và cõi phàm xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.

Khi đã định Tâm đạt pháp rồi, Phật liền nhớ lời dặn của Bồ Tát, nên lần hồi tới bãi sông Gange (Hằng hà), nhưng có điều lạ là Chơn thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên Ngài mới mờ hồ, chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt pháp. Xuống tắm sông Gange rồi lên bờ, cầm bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: "Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt pháp, xin chư Phật cho cái bình Bát vu nầy trôi ngược dòng nước." Nói đoạn, Ngài liệng bình Bát vu giữa dòng thì Bình Bát vu từ từ trôi ngược dòng nước. Ðức Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm bình Bát vu mà nói rằng: "Nước sông Gange nó sẽ rửa sạch oan nghiệt tội chướng chi đọa."

Kể từ ngày tắm nước sông Gange rồi, mỗi phen trì định xuất Thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào Tây phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị."

Khi Chức sắc hành Phép Giải Oan thì phải luyện Ma Ha Thủy trước. Cách luyện Ma Ha Thủy như sau:

Múc một tô nước để tại Thiên Bàn. Người hành pháp đứng trước, định Thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng con mắt chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái vẽ chữ (.), đạp lên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ (.) gọi là đạp Ðinh Giáp. Khi hành pháp như vậy rồi thì tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.), đoạn ngay ngón tay ra truyền thần xuống nước, niệm Câu Chú: "Ma Ha Thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa."
Nhắm mắt định Thần, đợi thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Ma Ha Thủy đã luyện thành.

Hành Pháp Giải Oan:
Cầm tô nước nơi tay mặt, đến trước mặt người được giải oan, biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay Nê Huờn Cung. Hễ vẽ vừa xong liền chụp 5 ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ấn Ngũ Hành Sơn, vừa chụp vừa niệm Câu Chú nầy:
"Úm Ma Ni Bát Rị Hồng."
Ðoạn cầm tô nước đổ ngay xuống mỏ ác 1 giọt niệm: "Nam mô Phật", rồi giọt thứ 2 niệm: "Nam mô Pháp", rồi trút hết tô nước niệm: "Nam mô Tăng, Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát."
Phép Giải Oan đã làm xong.
Người được giải oan lạy Ðức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, rồi đứng dậy lui ra.

Câu 31: Liên đài may nở thêm hoa.

Liên đài: Tòa sen, chỉ ngôi vị Phật hay Bồ Tát. Phật dùng hoa sen làm tòa ngự vì hoa sen có những đặc tánh quí báu là sen mọc trong bùn dơ mà không nhiễm mùi dơ của bùn, lại trổ ra hoa sen thơm ngát; cũng giống như Phật, xuống cõi trần đầy ô trược mà không nhiễm một chút trược trần.
C.31: Tòa sen may mắn nở thêm một cái hoa, ý nói: Rất may mắn có thêm một vị Phật mới đắc đạo, cho nên Tòa sen nở thêm một cái hoa để làm tòa ngự cho Ngài.

Câu 32: Lão Ðam cũng biết, Thích Già cũng quen.

Lão Ðam: Một biệt hiệu của Ðức Lão Tử. Ngài là chơn linh của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ giáng phàm. Ðức Lão Tử là Giáo chủ Tiên giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.

Thích Già [ ] Chữ Hán nầy có 2 cách đọc: Thích Ca hay Thích Già, tùy theo trường hợp trong thơ văn, sao cho có nhạc điệu, vì chữ Ca thuộc Bình thượng, chữ Già thuộc Bình hạ. Thích Già là Ðức Phật Thích Ca, Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
C.32: Khi đắc đạo rồi thì lên bái kiến Ðức Lão Tử, tức là Ðức Thái Thượng Lão Quân, và bái kiến Ðức Phật Thích Ca.

KINH TẮM THÁNH
(Giọng Nam xuân)

1 . Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,
2 . Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
3 . Con người đứng phẩm tối linh.
4 . Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.
5 . Ðại Từ Phụ từ bi tạo hóa,
6 . Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
7 . Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.
8 . Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
9 . Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch.
10 . Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.
11 . Căn xưa ví dữ cũng hiền.
12 . Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu.
13 . Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc.
14 . Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.
15 . Sanh nơi đây, ở nơi đây,
16 . Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.
17 . Chốn hồng trần quen lằn gió bụi.
18 . Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
19 . Ðã gan dốc kiếm diệu huyền.
20 . Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
21 . Ðừng thối chí ngã lòng trở gót,
22 . Ðể cho đời chua xót tình thương.
23 . Trăm năm thọ khảo vĩnh trường.
24 . Thuận căn thuận mạng, đôi đường cao thăng.
 (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Tắm Thánh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho. Ðồng nhi tụng bài kinh nầy trước khi vị Chức sắc hành pháp Tắm Thánh cho các trẻ em trong Ðạo.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một vị Thánh của Bạch Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Ngài có chiết chơn linh giáng trần một kiếp tại Việt Nam là Thi hào Nguyễn Du, sau đó Ngài chiết chơn linh giáng sanh bên Pháp là Văn hào Victor Hugo.

Trong thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ngài thọ lịnh Ðức Chí Tôn cầm quyền Chưởng Ðạo Hội Thánh Ngoại Giáo của Ðạo Cao Ðài. Ngài thường giáng cơ giáo hóa các Chức sắc của Hội Thánh Ngoại Giáo.

Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ ban cho 6 bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, kể ra:
Kinh Tắm Thánh.
Kinh Tẫn Liệm.
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
Kinh Ðưa Linh Cửu.
Kinh Khi Ðã Chết Rồi.
Kinh Hôn Phối.

Tắm Thánh: Xối nước Thánh lên đầu đứa bé. Nước Thánh đó là Ma Ha Thủy. Cách luyện Ma Ha Thủy đã giải rõ nơi phần cuối bài Kinh Giải Oan.

Theo Tân Luật của Ðạo Cao Ðài, phần Thế Luật, điều thứ 22: "Ðứa con nít khi được 1 tháng sắp lên, phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm Lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo."

Mục đích của Phép Tắm Thánh là:
Trình với Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu, cùng các Ðấng Thiêng liêng để công nhận đứa bé nầy là con của nhà Ðạo Cao Ðài, tức là con cái của Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu trong Ðạo Cao Ðài.
Tẩy trược Chơn thần đứa bé để nó được thông minh sáng láng, lớn lên học hành mau hiểu biết.
Câu 1-2: Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,

Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
Vạn vật: Tất cả các loài vật hiện hữu, từ Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm đến Nhơn loại.

Âm Dương: Hai chất khí Dương quang và Âm quang do Thái Cực biến hóa phân ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương quang, Ðức Phật Mẫu làm chủ Âm quang. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm quang phối hợp với Dương quang để tạo thành CKVT và vạn vật.

Tạo hóa: Tạo là làm ra, hoá là biến đổi. Tạo hóa là biến đổi để làm ra cái mới. Biến sanh: Biến hóa sanh ra.

Hoa quả: Hoa là cái bông, Quả là cái trái. Các loài thảo mộc thường có bông, trong bông có nhụy đực và nhụy cái. Nhụy đực rơi vào nhụy cái để kết thành trái. Trong trái có hột, lấy hột gieo xuống đất thì hột nẩy mầm sanh ra một cây mới. Và cứ thế, loài thảo mộc sanh sản càng ngày càng nhiều.
C.1-2: Vạn vật đều do 2 Khí Âm quang và Dương quang phối hợp tạo thành; dầu cho là thảo mộc có bông có trái, cũng do 2 Khí Âm Dương biến hóa sanh ra.

Vật chất thì do các nguyên tử có Dương điện và có Âm điện kết hợp tạo thành; Thảo mộc thì có nhụy đực nhụy cái, Thú cầm thì có con trống con mái, Nhơn loại thì có Nam Nữ, hai nguyên lý Âm Dương ấy kết hợp mới sanh hoá được.

Câu 3: Con người đứng phẩm tối linh.

Phẩm: Thứ bực cao thấp. Tối linh: Tối là rất, Linh là thiêng liêng. Tối linh là rất thiêng liêng.
C.3: Con người đứng vào bực rất thiêng liêng hơn hết trong chúng sanh.
Tại sao con người đứng phẩm tối linh?

Bởi vì theo Luật Tiến hóa, loài Kim thạch tiến hóa lên thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú cầm tiến hóa lên Nhơn loại. Nhơn loại là bực cao hơn hết trong chúng sanh, nên được gọi là Thượng đẳng chúng sanh.

Con người lại có đủ Tam hồn. Từ Kim thạch vô tri giác, tiến hóa lên Thảo mộc có sự sống rõ rệt, nên Thảo mộc có được một phần hồn, gọi là Sanh hồn. Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, nó có thêm một phần hồn nữa gọi là Giác hồn, để có sự cảm giác và hiểu biết. Thú cầm tiến hóa lên Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn.

Vì vậy, con người linh hơn vạn vật nhờ có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Nhờ đó, con người có được sự sống, sự cảm giác hiểu biết, sự suy nghĩ và có tánh linh hơn vạn vật. Nhờ có Linh hồn nên con người có thể tu thành Thần Thánh Tiên Phật được.

Câu 4: Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.

Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới sanh, nhi là trẻ con. Anh nhi là chỉ đứa bé nhỏ tuổi.
Nửa người nửa Phật: Ý nói con người vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh, hay nói một cách mạnh mẽ hơn là: Con người vừa có Thú tánh, vừa có Phật tánh, tức là vừa có tánh ác, vừa có tánh thiện.

"Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần và Thú. Vì cớ cho nên Triết lý Thất tình định duy chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ, trong thân thể của chúng ta, trong nguyên bổn của chúng ta vẫn thường chiến đấu: Phật chiến đấu với Thú, Thú chiến đấu với Phật. Hai hình trạng của Ðời và của Ðạo, Ðạo xu hướng theo Phật, Ðời xu hướng theo Thú, hai tương quan phản khắc nhau. Vì cớ cho nên, Thuyết Duy Tâm và Duy Vật hay tương đối với nhau." (Thuyết đạo về Bí Pháp của Ðức Phạm Hộ Pháp).

Như thế, con người vừa có tánh ác của Thú, vừa có tánh thiện của Phật. Có tánh ác của Thú vì con người là do loài Thú tiến hóa mà thành; có tánh Phật vì con người được Ðức Chí Tôn ban cho một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn. Vì vậy mà con người có thể tiến hóa đi lên, mà cũng có thể thoái hóa đi xuống. Nếu con người chịu khổ hạnh tu hành, chắc chắn sẽ tiến hóa thành Tiên, Phật. Trái lại, nếu không chịu tu hành, con người lại buông xuôi theo Vật dục, làm nhiều điều gian ác thì sẽ bị thoái hóa xuống Cầm Thú. Còn nếu con người cứ sống tự nhiên, không thiện lắm mà cũng không ác lắm, con người vẫn cứ mãi mãi là con người sống trong vòng luân hồi sanh tử, thì rất uổng cho cái điểm Linh quang mà Ðức Chí Tôn đã ban cho, biết chừng nào trở thành Tiên Phật, hưởng an vui đời đời nơi Cực Lạc Niết Bàn.
C.4: Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi, là trong mình đứa trẻ vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh.

Giữa người và Phật chỉ cách nhau có một tấm màn mỏng là Vô minh. Nếu còn Vô minh, tức là còn mê lầm thì con người mãi mãi là con người nơi cõi thế gian, nếu qua khỏi Vô minh tức là Giác ngộ thì con người trở thành Tiên, Phật.

Câu 5-6: Ðại Từ Phụ từ bi tạo hóa,

Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành thiêng liêng của toàn cả chúng sanh, đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Từ bi: Lòng thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh và luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh thoát khổ.
Tượng: Nắn đúc nên hình dáng. Mảnh thân: Tấm thân. Càn Khôn: Trời Ðất, CKVT.
C.5-6: Ðấng Ðại Từ Phụ mở lòng từ bi tạo hóa ra con người, nắn đúc ra thân thể có cấu tạo giống như Trời Ðất.

Hễ Trời Ðất có gì thì con người có nấy, nên con người được gọi là Tiểu Thiên Ðịa, Trời Ðất là Ðại Thiên Ðịa.

Trời có Tam Bửu là Nhựt, Nguyệt, Tinh; Ðất có Tam Bửu là Thủy, Hỏa, Phong; thì con người có Tam Bửu là: Tinh, Khí, Thần.
Trời có Ngũ Khí; Ðất có Ngũ Hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ; người có Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
Trời có Tứ Tượng; Ðất có Tứ phương; người có Tứ Chi: 2 tay, 2 chân.
Trời có Thập Thiên Can; Ðất có Thập nhị Ðịa Chi; người thì nắm đủ trong 2 bàn tay

Câu 7: Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.

Vẹn toàn: Ðầy đủ hoàn toàn. Xác: Thể xác. Hồn: Linh hồn.
C.7: Con người có đầy đủ Linh hồn và Thể xác.

Thể xác ở đây, nếu chúng ta hiểu rộng ra thì có 2 trường hợp: Nơi cõi trần thì thể xác phàm; nơi cõi thiêng liêng thì xác thân thiêng liêng.
Khi con người còn ở trên cõi thiêng liêng thì con người có xác thân thiêng liêng, còn gọi là Chơn thần, Nhị xác thân, bao bọc lấy Chơn linh.

Khi con người đầu thai xuống cõi phàm trần thì con người mang thêm xác thân phàm trần bằng xương bằng thịt, gọi là Ðệ Nhứt xác thân. Còn xác thân thiêng liêng lúc đó ẩn trong xác thân phàm, làm khuôn viên cho xác thân phàm.

Khi xác thân phàm chết, xác thân thiêng liêng xuất ra, lấy y hình ảnh của xác thân phàm như khuôn in rập. Xác thân thiêng liêng bao bọc linh hồn bay trở về cõi thiêng liêng.

Câu 8: Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

Cơ: Cái máy, cơ quan. Xây cơ: Xây dựng cơ quan.
Chuyển thế: Chuyển là dời đổi, Thế là đời. Chuyển thế là làm cho đời thay đổi để tiến hóa cho tốt đẹp hơn. Sự đổi thay nầy không ngoài khuôn luật tuần hoàn.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn như sau:
"Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu Ngài, Ngài hứa với các môn đệ của Ngài buổi đầu tiên về Cơ quan Chuyển thế, làm phân vân biết bao nhà trí thức, tìm hiểu 2 chữ Chuyển thế là gì?

Theo Triết Lý Học, định nghĩa 2 chữ Chuyển thế là thay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác, hoặc không phù hợp, hoặc quá khuôn khổ nề nếp, nên quyết đoán thay đổi lập trường thiêng liêng vì thời đại nầy đã định. Chuyển nghĩa là sửa cũ ra mới.

Lấy nghĩa lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược, vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy bỏ....

Bần đạo tìm hiểu định nghĩa 2 chữ Chuyển thế, là thay đổi thời thế. Ðem kinh luật ra quan sát thấy mỗi thế kỷ, mỗi nguơn, từ trước đến giờ, nhiều giai đoạn giống nhau một cách lạ lùng, những tấn tuồng nầy giống tấn tuồng trước, không ngoài khuôn viên ấy...."

Bảo tồn: Gìn giữ cho còn. Vạn linh: Toàn thể các Chơn linh trong CKVT, gồm đủ Bát hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng ta hiểu Vạn linh là chúng sanh.
C.8: Xây cơ chuyển thế bảo tồn Vạn linh, nghĩa là: Xây dựng cơ quan Chuyển thế để bảo tồn chúng sanh.

Cơ quan Chuyển thế mà Ðức Chí Tôn xây dựng là ÐÐTKPÐ, tức là Ðạo Cao Ðài. Ðức Chí Tôn sẽ dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo làm nồng cốt cho công cuộc Chuyển thế.

Câu 9: Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch.

Thánh hình: Thánh là thiêng liêng, Hình là hình thể. Thánh hình là hình thể thiêng liêng của con người. Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu tạo ra hình thể của con người rất thiêng liêng huyền diệu, bởi vì hình thể nầy "giống cả Càn Khôn", nên con người mới được gọi là Tiểu Thiên Ðịa.
Thanh bạch: Hoàn toàn trong sạch.
C.9: Xin Ðức Chí Tôn gìn giữ mảnh hình hài nầy cho được hoàn toàn trong sạch.

Câu 10: Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

Xá ân: Ân xá, tha cho kẻ có tội để làm ơn.
Tiền khiên: Tiền là trước , Khiên là tội lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp sống trước .
C.10: Xin Ðức Chí Tôn ban ơn tha tội cho nó và rửa sạch những tội lỗi trong các kiếp sống trước của nó.
(Nó: Ý nói đứa bé được đem đi Tắm Thánh).

Câu 11: Căn xưa ví dữ cũng hiền.
Căn xưa: Cái gốc rễ của thuở xưa, tức là nơi kiếp trước . Ví: Nếu như. Dữ: Hung dữ. Hiền: Lành.
Căn xưa ví dữ: Nếu như kiếp trước là người hung dữ.
C.11: Nếu như kiếp trước nó là người hung dữ, xin Ðức Chí Tôn cho nó trong kiếp nầy là người hiền lành.

Câu 12: Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu.

Cửa tội: Nơi tội lỗi, ý nói cửa Ðịa ngục hay cửa Âm phủ. Dầu ra cửa tội: Mặc dầu mới ra khỏi nơi tội lỗi.
Ðủ quyền cao siêu: Có đầy đủ quyền tự chủ để lập ngôi vị của mình cho được cao siêu.
C.12: Mặc dầu Chơn linh đứa bé mới ra khỏi nơi tội lỗi, nay chuyển kiếp làm người (do Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn) thì cũng xin Ðức Chí Tôn ban cho nó đầy đủ quyền tự chủ để lập vị cao siêu.

TNHT. II. 85: Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ: "Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Ðạo. Bần đạo để cho mỗi người tự do định phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả,"

Qua bài Thánh ngôn trên, chúng ta thấy rằng: Dầu cho các Chơn linh Quỉ vị (tức là ở nơi cửa tội), nay được Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn, cho chuyển kiếp đầu thai làm người, gọi là Quỉ nhân, nếu biết tu hành, lập công bồi đức thì cũng đắc đạo như các Nguyên nhân hay Hóa nhân.

Câu 13: Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc.

Công nuôi dưỡng: Công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ đứa bé từ lúc nhỏ cho đến lúc lớn khôn.
Nâng niu: Yêu mến chăm sóc giữ gìn cẩn thận.
Khổ nhọc: Khổ cực và nhọc nhằn.
C.13: Công lao nuôi dưỡng và nâng niu chăm sóc đứa bé thật là khổ cực và nhọc nhằn.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ năm 1952:
....... khó nhọc.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
...... khổ nhọc.
Khó nhọc: Khó khăn vất vả.

Câu 14: Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.

Phép: Pháp luật. Thương yêu: Bản chất của Ðức Chí Tôn. Kỳ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn giao ước với Nhơn loại có 4 chữ: Bác ái - Công bình, tức là: Thương yêu và Công chánh, nên mới nói rằng: Luật Thương yêu và Quyền Công chánh. Phép thương yêu: Luật thương yêu.

Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng: "Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập lục Thiên, CLTG và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa Luân hồi."

"Sự thương yêu là giềng bảo sanh trong CKTG. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch nhau, mới giữ bền cơ Sanh hóa." (TNHT. II. 43-69)
Thầy: Ðức Chí Tôn tự xưng mình là Thầy để dạy Ðạo cho các Tín đồ, và gọi các Tín đồ là môn đệ.
C.14: Phải học nơi Ðức Chí Tôn về Luật thương yêu, bởi vì lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn thì vô cùng vô tận.

Câu 15-16: Sanh nơi đây, ở nơi đây,

Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.
Trăm năm là tuổi: Do câu thành ngữ chữ Hán: Nhân sinh bách tuế vi kỳ, nghĩa là: Người ta sống một trăm năm là kỳ hạn. Người mà sống trên 100 tuổi thì rất hiếm.

Mạng căn: Mạng là cái mạng sống của con người, căn là gốc rễ. Mạng sống có được là do Ðức Chí Tôn ban cho Chơn linh ngự trong xác thân; còn cái gốc rễ của con người là do nơi các việc làm trong tiền kiếp, tạo thành cái nghiệp, quyết định số phận kiếp sống hiện tại. Do đó mạng căn là cái mạng sống và số phận của nó.
C.15-16: Ðây là 2 câu kinh căn dặn và nhắc nhở tâm thức của đứa bé đang thọ phép Tắm Thánh: Ðược sanh ra ở nơi đây, sống ở nơi đây, hạn định của kiếp sống thường là 100 tuổi, với đầy đủ mạng sống và số phận.

Câu 17: Chốn hồng trần quen lằn gió bụi.

Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi trần. Hồng là đỏ, trần là bụi. Gió bụi: Phong trần, chỉ sự gian nan vất vả ở đời.
C.17: Nơi cõi trần, con người phải chịu đựng cho quen nhiều nỗi gian nan vất vả.

Câu 18: Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.

Phù ba: Phù là nổi, ba là làn sóng. Phù ba là làn sóng nổi, tức là làn sóng nổi lên rồi liền hạ xuống. Cảnh phù ba: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng như làn sóng. Duyên: Cái mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.
C.18: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng, hết may tới rủi, hết rủi tới may, cũng do nơi những mối dây ràng buộc từ trước (không ra ngoài khuôn Luật Nhân quả).

Câu 19: Ðã gan dốc kiếm diệu huyền.

Gan: Can đảm, dám đương đầu với khó khăn nguy hiểm. Dốc kiếm: Tuốt kiếm ra khỏi vỏ sẵn sàng chiến đấu.
Kiếm diệu huyền: Cây gươm huyền diệu, ý nói cây gươm trí huệ. Người tu cần phải dùng cái trí huệ của mình để trừ diệt vô minh và phiền não. Nói tỷ dụ, cái trí huệ như cây kiếm huyền diệu, phiền não và vô minh như những tên giặc cướp, phải dùng cây kiếm trí huệ mới diệt trừ được chúng.
C.19: Ðã có can đảm quyết chí tu hành để đạt được trí huệ, thì phải dùng cái trí huệ nầy như một cây kiếm huyền diệu để diệt trừ vô minh và phiền não.
Hai câu 18 và 19 cũng để nói với đứa bé đang chịu Phép Tắm Thánh rằng, khi lớn lên sẽ phải chịu nhiều nỗi vất vả nơi cõi trần, nhưng phải rán lo tu hành cho đạt được trí huệ thì mới dứt được phiền não.

Câu 20: Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.

Sanh sanh: Sống và sinh sản thêm ra. Phận: Bổn phận. Hiền hiền: Lành và tài giỏi. Công: Công lao.
C.20: Sống và sanh sản thêm ra là bổn phận, dùng sự hiền lành và tài giỏi để lập công với đời.

Câu 21-22: Ðừng thối chí ngã lòng trở gót,

Ðể cho đời chua xót tình thương.
Thối chí: Nãn chí, không còn muốn đeo đuổi việc đang làm vì gặp khó khăn trở ngại. Ngã lòng: Không còn giữ được quyết tâm trước thử thách khó khăn. Trở gót: Lui bước.
Chua xót: Ðau đớn xót xa một cách thấm thía.
C.21-22: Hai câu kinh nầy cũng để căn dặn đứa bé Tắm Thánh: Ðừng thấy cõi trần có nhiều khổ đau phiền não mà thối chí ngã lòng lui bước trở lại cõi TL (ý nói chết), để cho cha mẹ và những người thân phải đau đớn xót xa vì thương tiếc.

Câu 23: Trăm năm thọ khảo vĩnh trường.

Thọ khảo: Thọ là sống lâu, khảo là già cả sống lâu.
Vĩnh trường: Vĩnh là lâu dài, mãi mãi; trường là lâu dài. Vĩnh trường là lâu dài mãi mãi.
C.23: Ðây là câu cầu chúc đứa bé sống lâu: Ðời người sống được trăm tuổi là trường thọ.

Câu 24: Thuận căn thuận mạng, đôi đường cao thăng.

Thuận căn: Căn là cái gốc rễ, tức là những việc làm trong kiếp trước tạo thành cái nghiệp quyết định số phận của mình. Thuận căn là thuận theo số phận của mình để trả cho dứt nghiệp. Thuận mạng: Thuận theo cái mạng sống của mình do Ðức Chí Tôn ban cho, tức là thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn. Cao thăng: Phẩm vị được đưa lên cao hơn.
C.24: Phải thuận theo số phận của mình để trả dứt nghiệp (mà không tạo ra nghiệp mới), hoặc phải thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn, cả hai đường đều giúp cho Chơn linh được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

I . Kinh Tận độ:
Kinh Tận độ Vong linh là những bài kinh tụng để cứu độ linh hồn người chết, không phân biệt Nam hay Nữ, già hay trẻ, có phẩm tước lớn nhỏ hay không phẩm tước.

Các bài kinh nầy do các Ðấng Tiên, Phật giáng cơ tại Tòa Thánh Tây Ninh ban cho Ðạo Cao Ðài tức là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, cho nên được gọi là Tân Kinh.
Kinh Tân độ Vong linh gồm các bài kinh sau đây:

Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối (KCHKHH).
Kinh Khi Ðã Chết Rồi (KKÐCR),
Kinh Tẫn Liệm (KTL).
Kinh Cầu Siêu (KCS) (thỉnh bên Minh Lý)
Kinh Ðưa Linh Cữu (KÐLC).
Kinh Hạ Huyệt (KHH).
Vãng Sanh Thần Chú (VSTC) (thỉnh bên PG)
Kinh Khai Cửu, Ðại Tường, Tiểu Tường.

9 bài Kinh Tuần Cửu từ Nhứt Cửu đến 9 Cửu.
Kinh Tiểu Tường (KTTg).
Kinh Ðại Tường (KÐT).
Di-Lạc Chơn Kinh (DLCK).

II . Nguồn gốc các Bài Kinh Tận độ.
Nguồn gốc các Bài Kinh Tận độ được Hội Thánh nói rõ trong Lời Tựa quyển Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, xin chép nguyên văn ra sau đây:
"Từ khi mở Ðạo, Chí Tôn duy giáng cơ truyền cho: Phật giáo, Minh Sư, Minh Ðường, Minh Lý dạy dâng Kinh cho ÐÐTKPÐ, song Kinh Tận độ Vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.

Ðức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Ðức Hộ Pháp, trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Ðạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng liêng đặng xin Kinh Tận độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần Thánh Tiên Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) mới giáng cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam lộ của Ðức Từ Bi rưới chan cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Ðã trải qua 10 năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận Ðộ. Cơ Tận Ðộ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi.

Thương cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là trì tụng Di-Lạc Chơn Kinh, hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng tịnh độ.

Ấy vậy, bổn kinh nầy nguyên của chư Phật, chư Tiên đã giáng cơ truyền thế trong kỳ Trung nguơn Ất Hợi. Khi tụng phải thành tâm và phải để nơi tinh khiết."

KINH CẦU HỒN KHI HẤP HỐI
(Giọng Nam ai)

1. Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
2. Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
3. Dìu đường thoát tục nắm phan.
4. Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
5. Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
6. Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
7. Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn,
8. Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
9. Ớ (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
10. Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
11. Ăn năn sám hối tội tình,
12. Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.
13. Dầu nghiệt chướng số căn quả báo.
14. Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
15. Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn.
16. Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.
17. Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
18. Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
19. Chí Tôn xá tội giải oan.
20. Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.
21. Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu,
22. Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.
23. Cảnh thăng trổi gót cho mau,
24. Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng lúc một vị Tín đồ đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi.
Hấp hối: Sắp chết. Dứt hơi: Hơi thở chấm dứt, chết.

Câu 1: Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
Rấp: Ðịnh, toan, sắp sửa. Nhập: Ði vào.
Cảnh Thiêng liêng Hằng sống: Cõi của những người đắc đạo. Con đường TLHS: là con đường dành cho các chơn hồn, khi thoát xác, từ bỏ cõi trần, trở về với Ðức Chí Tôn nơi cõi Thiêng liêng để được định vị thăng hay đọa.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS:
"Con đường về với Ðức Chí Tôn không phải dễ, mà cũng không phải tới liền. Muốn về với Ðức Chí Tôn, ta phải qua nhiều Cung, nhiều Ðiện (Y theo 9 bài Kinh Tuần Cửu, Tiểu Tường và Ðại Tường). Mỗi Cung, chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Ðiện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau. Phải đi từ Cung nầy đến Ðiện nọ, nên gọi là Dục tấn trên Con đường Thiêng liêng Hắng Sống. Về được với Ðức Chí Tôn không còn hạnh phúc nào bằng."
C.1: Sắp sửa bước vào cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Câu 2: Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
Chốn quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra và sống ở đó nhiều năm.
Theo Giáo lý của Ðạo Cao Ðài, các Nguyên nhân là những người được Ðức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên nơi cõi TLHS. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho các Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần, để khai hóa cho các Hóa nhân và cũng để kinh nghiệm học hỏi tiến hóa. Khi xong nhiệm vụ thì phải trở về cõi TLHS là nơi quê cũ.

Như vậy, cõi trần là cõi tạm, nơi mà Ðức Phật Mẫu sai xuống công tác một thời gian, khi xong việc thì phải trở về. Cái sống nơi cõi trần là sống tạm, cái sống nơi cõi TLHS mới là cái sống vĩnh cửu.

Giải: Cởi bỏ ra. Mộng trần gian: Giấc mộng trần. Cuộc sống của con người nơi cõi trần và các hoạt động ở nơi đó được các Ðấng Thiêng liêng xem như là một giấc mộng, bởi vì nó ngắn ngủi và không bền, tan mất theo thời gian. Do đó, các Ðấng thường dùng các thành ngữ: Giấc Huỳnh lương, Giấc Nam Kha, Giấc mộng xuân, Giấc mộng trần để chỉ về đời sống của con người nơi cõi trần.
(TNHT: Huỳnh lương một giấc cuộc đời in.)
Giải mộng trần gian: Cởi bỏ giấc mộng trần, tức là cởi bỏ cuộc sống nơi cõi trần. Ý nói: Ðã chết.
C.2: Cái chết nơi cõi trần là để linh hồn trở về nơi quê cũ.

Câu 3: Dìu đường thoát tục nắm phan.
Dìu: Dẫn dắt. Thoát tục: Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần. Phan: Cây phướn dùng để dẫn đường.
C.3: Khi linh hồn thoát ra khỏi cõi trần thì phải đi theo cây phướn dẫn đường.

Câu 4: Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
Trông: Nhìn, trông thấy. Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài bằng ngọc trắng là nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. (Xem chi tiết nơi: C.6 KNHTÐ)

Ðịnh thần: Làm cho tinh thần ổn định, bình tỉnh trở lại. Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, tức là cởi bỏ hết tất cả các việc làm dù thiện dù ác trong lúc còn sống nơi cõi trần.
C.4: Nhìn lên Bạch Ngọc Kinh đặng định tỉnh tinh thần và cởi bỏ hết các việc làm trong lúc còn sống nơi cõi trần.

Câu 5-6: Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
Lục Nương: Vị Nữ Tiên đứng hàng thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương ở DTC nơi cõi thiêng liêng. Lục Nương có Bửu pháp là Cây Phướn Truy Hồn hay Phướn Tiêu Diêu để gìn giữ và dẫn dắt các Chơn hồn đi vào Cửu Trùng Thiên.

CHƠN HỒN: Nghĩa thông thường là Chơn linh, Linh hồn. Nhưng trong tất cả các bài kinh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ, Ngài đều dùng từ ngữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần của con người, tức là Xác thân TL, hay Nhị xác thân.
C.5-6: Ðức Phật Mẫu nơi DTC sai Tiên Nữ Lục Nương cầm Phướn Truy hồn đến gìn giữ Chơn thần người mới chết.

Câu 7 -8: Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
Tây phương: Chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Thế Giới, vì cõi nầy ở về hướng Tây, so với Ngọc Hư Cung. Tây Phương Cực Lạc có chùa Lôi Âm (Lôi Âm Tự).

Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo CLTG. Sang thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà trao chức vụ nầy lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Giáo Chủ Hội Long Hoa, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.

Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn: là vị Phật có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn hồn đến CLTG. Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm Cây Phướn Tiếp Dẫn, có giáng cơ cho bài thi:
Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên trẻ lo tu kịp tuổi già.
Danh lợi đường đời như cụm khói,
Công thành cửa Phật tợ Liên hoa.
Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
Bần Tăng vội vã dắt thuyền qua.
(Trích trong Văn Thi Hiệp Tuyển của Phối Sư Thái Ðến Thanh)

C.7-8: Nơi cõi CLTG ở về hướng Tây, Ðức Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm cây Phướn linh là cây Phướn Tiếp Dẫn, đi khai mở con đường đi đến Lôi Âm Tự.

Câu 9-10: Ớ (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
Ớ: Cất tiếng gọi tên họ của người đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi. Thành tâm: Tấm lòng thành thật.

Cầu nguyện: Cầu là xin, nguyện là mong ước. Cầu nguyện là cầu xin Ðức Chí Tôn ban cho mình điều mà mình mong ước. Linh hiển: Linh là thiêng liêng, hiển là hiện ra rõ ràng. Linh hiển là hiện rõ ra một cách TL huyền diệu.

Ðộ sanh: Ðộ là cứu giúp, sanh là sống. Ðộ sanh là cứu giúp thoát qua biển khổ để được sống nơi cõi TLHS.

C.9-10: Kêu gọi Chơn hồn người chết hãy thành tâm cầu nguyện Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn linh hiển cứu giúp thoát qua biển khổ để được đi lên sống nơi cõi TLHS.

Câu 11-12: Ăn năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.
Ăn năn: Cảm thấy ray rứt đau xót trong lòng về lầm lỗi của mình đã gây ra. Sám hối: Ân hận những lỗi lầm của mình và thật lòng muốn sửa đổi, không để cho tái phạm nữa.

Tội tình: Tội lỗi đáng bị trừng phạt. Cõi thăng: Cõi của các linh hồn được siêu thăng, tức là cõi TLHS.

Minh Thệ: Minh là thề ước, Thệ là thề nguyền. Minh Thệ là lời thề hứa chắc phải thực hiện đúng điều đã nguyện.

Khi một người muốn nhập môn vào Ðạo Cao Ðài, người đó phải lập Minh Thệ trước Thiên bàn thờ Ðức Chí Tôn, có vị Chánh Trị Sự hay của Chức sắc sở tại chứng kiến.

Lời Minh Thệ do Ðức Chí Tôn đặt ra, có in trong TNHT. I. 17, gồm 36 chữ, chép ra như sau:

Tôi tên ....................... tuổi ..........

"Thề     rằng:     Từ       đây      biết      một      Ðạo     Cao     Ðài       Ngọc   Ðế,      chẳng
1          2          3          4          5          6          7          8          9          10        11        12
đổi       dạ        đổi       lòng,     hiệp      đồng    chư      môn     đệ,       gìn        luật       lệ
13        14        15        16        17        18        19        20        21        22        23        24
Cao     Ðài,      như      sau               lòng      hai        thì        Thiên    tru        Ðịa       lục."
25        26        27        28        29        30        31        32        33        34        35        36
Xét câu Minh Thệ: Hồi tưởng xem xét lại trong suốt kiếp sanh của mình nơi cõi trần, mình có giữ đúng Lời Minh Thệ của mình không? Tức là:

Có đổi dạ đổi lòng không?
Có hiệp đồng cùng chư môn đệ không?
Có gìn luật lệ Cao Ðài không?
Nếu có điều nào mình làm không đúng Lời Minh Thệ thì phải ăn năn sám hối và cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ.
C.11-12: Hãy nhớ rõ Lời Minh Thệ khi nhập môn vào Ðạo để tự xét mình mà ăn năn sám hối tội tình, cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ và cứu rỗi để được siêu thăng lên cõi TLHS.

Câu 13: Dầu nghiệt chướng số căn quả báo.
Nghiệt chướng: Nghiệt là cái mầm ác tạo nghiệp ác, Chướng là trở ngại. Nghiệt chướng là sự ngăn trở do nghiệp ác gây ra. Kiếp trước mình làm nhiều việc gian ác, nó sẽ trở thành Nghiệp ác, ảnh hưởng lên kiếp sống nầy, làm cho kiếp nầy phải bị nhiều chướng ngại như: Bệnh tật, tai ương. Sự báo ứng đó hoàn toàn theo đúng Luật Nhân quả.

Số căn: Cái số phận của mình được định bởi cái nghiệp do các việc làm thiện ác của mình đã gây ra trong các kiếp sống trước. Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại những việc làm thuở trước. Làm lành thì được báo đáp bằng những điều may mắn tốt đẹp; làm ác thì được báo đáp bằng những tai họa và phiền não.
C.13: Dù cho số phận mình bị nghiệt chướng nên gặp phải hoạn nạn tai ương báo đáp lại.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
Dầu nghiệp chướng ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
Dầu nghiệt chướng ...

Nghiệp chướng: Nghiệp là con đường đi từ Nhân tới Quả. Nghiệp được tạo ra bởi các việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, tuy nó vô hình nhưng nó ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, bằng sự may và sự rủi, để làm cho kiếp sống hiện tại được hạnh phúc hay đau khổ. Việc làm lành sẽ tạo nên Nghiệp lành (Thiện nghiệp), cái Nghiệp lành nầy nó theo ủng hộ mình, nâng đỡ mình (mà mình gọi đó là dịp may). Còn việc làm ác sẽ tạo ra Nghiệp ác (Bất thiện nghiệp), cái Nghiệp ác nầy nó theo báo hại mình (mà mình gọi đó là xui xẻo, rủi ro) khiến mình bị hoạn nạn tai ương và phiền não.
Vậy, Nghiệp chướng là những ngăn trở khó khăn trong kiếp sống hiện tại do Nghiệp ác tạo ra.
Hai từ ngữ: Nghiệt chướng và Nghiệp chướng, xem như đồng nghĩa, nhưng Nghiệt chướng có ý nghĩa rõ rệt hơn.

Câu 14: Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
Hãi kinh: Hãi là sợ, kinh là sợ sệt lắm. Hãi kinh hay Kinh hãi là rất sợ sệt. Cầu đảo: Cầu là xin; đảo là cúng tế cầu xin. Cầu đảo là cúng tế cầu xin.
C.14: Ðừng quá sợ sệt, hãy cúng tế và cầu khẩn Chí Tôn.

Câu 15-16: Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn.
Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.
Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp kém nhất, dùng để giam giữ và trừng trị các linh hồn tội lỗi. Khá: Nên.
Lánh chơn: Bước đi lánh ra chỗ khác.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời thứ 10 Hư Vô Thiên, là cơ quan cầm quyền chánh trị CKTG. Không có một ngôi sao nào, một Mặt Trời nào hay một Ðịa cầu nào đứng trong CKVT mà không chịu dưới quyền của Ngọc Hư Cung.

Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới hay Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn toàn an vui sung sướng.
Ðon đường: Hỏi thăm dò cho biết đường đi.
Ruổi dong: Ði thẳng một mạch cho mau tới nơi.
C.15-16: Hãy bước đi lánh xa cõi Ðịa ngục, hỏi thăm đường để đi thẳng một mạch tới Ngọc Hư Cung và CLTG.

Câu 17-18: Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Sống không nên đạo: Sống mà không làm được việc gì có tánh cách đạo đức, sống mà không làm được việc gì hữu ích cho Ðạo. Ý nói: Người không thực tâm tu hành, theo Ðạo đặng dựa hơi cầu lợi, không thành tâm tín ngưỡng.

Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người có mối thù hận với mình. Tội báo: Báo đáp lại cái tội lỗi đã gây ra lúc trước. Buộc ràng: Ràng buộc, dùng dây buộc lại, không cho sút ra.
C.17-18: Dầu cho trọn kiếp sống mà không làm được việc gì đạo đức, dầu cho kẻ oan gia đến bắt buộc phải đền trả cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.

Câu 19: Chí Tôn xá tội giải oan.
Xá tội: Tha thứ tội lỗi. Giải oan: Cởi bỏ hết các thù giận, tức là cởi bỏ hết các mối dây oan nghiệt.
C.19: Cầu xin Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan.

Trong thời kỳ Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, ban cho Phép Giải Oan để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra trong kiếp sống, đồng thời cũng ban cho: Phép Xác để tẩy rửa Chơn thần cho trong sạch. Phép Ðoạn căn để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt, cho Vong hồn được siêu thăng. Ðây là thời kỳ mà nhơn loại được hưởng nhiều ơn huệ nhứt của Chí Tôn.

Câu 20: Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.
Cứu nàn: Cứu giúp tai nạn. Chữ Nàn là do chữ Nạn đọc trại ra. Ðộ vong: Cứu độ vong hồn (linh hồn người chết).
C.20: Các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, cứu giúp các tai nạn và độ rỗi linh hồn người chết.

Câu 21-22: Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu,
Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.
Chiếu diệu: Chiếu là rọi sáng, diệu là rực rỡ. Chiếu diệu là chiếu sáng rực rỡ. Bóng hồng: Ánh sáng màu hồng.

Bắc đẩu: Ngôi sao sáng ở hướng Bắc, nằm đúng trên trục quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là sao Bắc Cực. Sao Bắc đẩu là một định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động quanh sao Bắc đẩu. Cho nên sao Bắc đẩu là trung tâm của CKVT. Do đó, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay trên ngôi sao Bắc đẩu. Sao Bắc đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7 ngôi sao, mà Thiên văn học gọi là Tiểu Hùng Tinh. Chùm sao Thất tinh có hình cái bánh lái tàu, sao Bắc đẩu là ngôi sao ở đầu cán bánh lái.

Nam Tào: Ngôi sao ở hướng Nam. Sao Nam Tào cũng được gọi là sao Nam Cực, vì nó xác định gần đúng hướng Nam của Ðịa cầu. Rất khó nhìn thấy sao Nam Tào, vì nó ở rất thấp, nằm gần chơn trời. Muốn tìm sao Nam Tào, chúng ta tìm chùm sao chữ Thập (La Croix du Sud), kéo một đường thẳng tưởng tượng nối dài nét sổ dài của chữ Thập xuống phía chơn trời, chúng ta gặp một ngôi sao hơi lu, đó là Nam Tào.

Hai vị Tiên cai quản 2 ngôi sao Nam Tào và Bắc Ðẩu là: Nam Cực Tinh Quân và Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tương truyền hai vị Tinh Quân nầy coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại.

Im đìm: Yên lặng hoàn toàn. Phúc hậu: Phúc hay Phước là điều may mắn tốt lành, Hậu là dày dặn. Phúc hậu là phước đức dày dặn, hay làm điều lành cho người khác.
C.21-22: Kìa là ngôi Bắc đẩu chiếu ra rực rỡ ánh sáng màu hồng; kìa là ngôi Nam Tào lặng yên và phúc hậu.

Câu 23-24: Cảnh thăng trổi gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
Cảnh thăng: Cảnh mà các linh hồn siêu thăng đến ở, đó là cõi TLHS. Trổi gót: Cất bước lên đường. Trổi là cất lên, gót là cái gót chân.

Tục lự: Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần; Lự là lo lắng. Tục lự là những nỗi lo lắng của con người sống nơi cõi trần. Chầu: Hầu vua để chờ nghe mệnh lệnh.
Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.
C.22-23: Hãy cất bước đi mau lên cõi TLHS, lánh xa khỏi vòng tục lự, đặng lên chầu Ðức Chí Tôn.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
tục lụy...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
tục lự ...
Tục lụy: Lụy là buồn rầu, phiền não;
Tục lự là những nỗi phiền não nơi cõi trần.

KINH KHI ÐÃ CHẾT RỒI
(Giọng Nam ai)

1 . Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
2 . Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
3 . Quê xưa trở, cõi đọa từ.
4 . Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân.
5 . Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước.
6 . Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
7 . Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu,
8 . Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
9 . Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu.
10 . Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.
11 . Năng lai năng khứ khinh khinh,
12 . Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.
13 . Cửa Tây phương khá bay đến chốn.
14 . Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.
15 . Tiên phong Phật cốt mỹ miều.
16 . Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Khi Ðã Chết Rồi do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, dùng để tụng cho những Tín đồ khi đã chết rồi, tụng kèm với Kinh Cầu Siêu.

Câu 1-2: Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình. Thiên Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Mỗi Thiên Tào là một từng Trời.
  Home           1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét