Theo lời giảng giải của Ngài Ðầu Sư Thượng Sáng Thanh, trong quyển "Bí
Truyền Chơn Pháp":
"Khi Thái Tử Sĩ Ðạt Ta xuống núi đến rừng Bồ Ðề
vừa chí thì mệt mỏi quá chừng, thân hình rủ riệt, thần kinh lờ mờ, sa vào một cội
Bồ Ðề mà chết giấc. Nhờ chết giấc ấy mới xuất Thần đặng hội diện cùng chư Phật,
thấy rõ trước mắt Ðịa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt Pháp. Duy có lạ một
điều là cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ,
Người không gần đặng. Thoạt thấy một vị
Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và Chơn thần của Người đã chịu
gánh nhiều quả kiếp, cho nên ô trược nhuốc nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến
sông Ma-Ha tẩy trược.
Trong cơn ấy, có người đàn bà bưng bình bát sữa vừa
đến rừng Bồ Ðề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết,
chỉ rờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng biểu tỳ nhi và mình ra
tay hô hấp. Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người. Phật uống đặng
bình bát sữa ấy, rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa. Ấy là cơ hiệp nhứt
Tam Bửu (Tinh, Khí,Thần). Tinh là hình hài, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn
linh.
Nhờ Tam Bửu phối tế, Người định giác lần lần, thấy
đặng cõi Hư linh và cõi phàm xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi
Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.
Khi đã định Tâm đạt pháp rồi, Phật liền nhớ lời dặn
của Bồ Tát, nên lần hồi tới bãi sông Gange (Hằng hà), nhưng có điều lạ là Chơn
thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên Ngài mới mờ hồ,
chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt pháp. Xuống tắm sông Gange rồi lên bờ, cầm
bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: "Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt pháp, xin
chư Phật cho cái bình Bát vu nầy trôi ngược dòng nước." Nói đoạn, Ngài liệng
bình Bát vu giữa dòng thì Bình Bát vu từ từ trôi ngược dòng nước. Ðức Phật mừng
quá, ngoắt nó vô bờ, cầm bình Bát vu mà nói rằng: "Nước sông Gange nó sẽ rửa
sạch oan nghiệt tội chướng chi đọa."
Kể từ ngày tắm nước sông
Gange rồi, mỗi phen trì định xuất Thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập
vào Tây phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị."
Khi Chức sắc hành Phép Giải
Oan thì phải luyện Ma Ha Thủy trước. Cách luyện Ma Ha Thủy như sau:
Múc một tô nước để tại
Thiên Bàn. Người hành pháp đứng trước, định Thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng
con mắt chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái vẽ chữ (.), đạp
lên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ (.) gọi là đạp Ðinh Giáp. Khi hành pháp như
vậy rồi thì tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để
trên tô nước buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.), đoạn ngay ngón tay ra
truyền thần xuống nước, niệm Câu Chú: "Ma
Ha Thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa."
Nhắm mắt định Thần, đợi thấy
Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Ma Ha Thủy đã luyện thành.
Hành Pháp Giải Oan:
Cầm tô nước nơi tay mặt, đến
trước mặt người được giải oan, biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay
Nê Huờn Cung. Hễ vẽ vừa xong liền chụp 5 ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ấn Ngũ
Hành Sơn, vừa chụp vừa niệm Câu Chú nầy:
"Úm Ma Ni Bát Rị Hồng."
Ðoạn cầm tô nước đổ ngay
xuống mỏ ác 1 giọt niệm: "Nam mô Phật", rồi giọt thứ 2 niệm:
"Nam mô Pháp", rồi trút hết tô nước niệm: "Nam mô Tăng, Nam mô
Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát."
Phép Giải Oan đã làm xong.
Người được giải oan lạy Ðức
Chí Tôn 3 lạy 12 gật, rồi đứng dậy lui ra.
Câu 31: Liên đài may nở
thêm hoa.
Liên đài: Tòa sen, chỉ
ngôi vị Phật hay Bồ Tát. Phật dùng hoa sen làm tòa ngự vì hoa sen có những đặc
tánh quí báu là sen mọc trong bùn dơ mà không nhiễm mùi dơ của bùn, lại trổ ra
hoa sen thơm ngát; cũng giống như Phật, xuống cõi trần đầy ô trược mà không nhiễm
một chút trược trần.
C.31: Tòa sen may mắn nở
thêm một cái hoa, ý nói: Rất may mắn có thêm một vị Phật mới đắc đạo, cho nên
Tòa sen nở thêm một cái hoa để làm tòa ngự cho Ngài.
Câu 32: Lão Ðam cũng biết,
Thích Già cũng quen.
Lão Ðam: Một biệt hiệu của
Ðức Lão Tử. Ngài là chơn linh của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ giáng phàm. Ðức Lão Tử
là Giáo chủ Tiên giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Thích Già [釋 迦] Chữ Hán nầy có 2 cách đọc: Thích Ca hay Thích
Già, tùy theo trường hợp trong thơ văn, sao cho có nhạc điệu, vì chữ Ca thuộc
Bình thượng, chữ Già thuộc Bình hạ. Thích Già là Ðức Phật Thích Ca, Giáo chủ Phật
giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
C.32: Khi đắc đạo rồi thì
lên bái kiến Ðức Lão Tử, tức là Ðức Thái Thượng Lão Quân, và bái kiến Ðức Phật
Thích Ca.
KINH TẮM THÁNH
(Giọng Nam xuân)
1 . Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,
2 . Dầu cỏ cây hoa quả biến
sanh.
3 . Con người đứng phẩm tối
linh.
4 . Nửa người nửa Phật nơi
mình anh nhi.
5 . Ðại Từ Phụ từ bi tạo
hóa,
6 . Tượng mảnh thân giống
cả Càn Khôn.
7 . Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.
8 . Xây cơ chuyển thế bảo
tồn vạn linh.
9 . Xin gìn giữ Thánh hình
thanh bạch.
10 . Xin xá ân rửa sạch tiền
khiên.
11 . Căn xưa ví dữ cũng hiền.
12 . Dầu ra cửa tội đủ quyền
cao siêu.
13 . Công nuôi dưỡng nâng
niu khổ nhọc.
14 . Phép thương yêu cũng
học nơi Thầy.
15 . Sanh nơi đây, ở nơi
đây,
16 . Trăm năm là tuổi đủ đầy
mạng căn.
17 . Chốn hồng trần quen lằn
gió bụi.
18 . Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
19 . Ðã gan dốc kiếm diệu
huyền.
20 . Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
21 . Ðừng thối chí ngã lòng trở gót,
22 . Ðể cho đời chua xót tình thương.
23 . Trăm năm thọ khảo
vĩnh trường.
24 . Thuận căn thuận mạng,
đôi đường cao thăng.
(Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).
GIẢI NGHĨA
Kinh Tắm Thánh do Ðức Nguyệt
Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho. Ðồng nhi tụng bài kinh nầy trước khi vị Chức sắc
hành pháp Tắm Thánh cho các trẻ em trong Ðạo.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
cho biết, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một vị Thánh của Bạch Vân Ðộng nơi cõi
thiêng liêng. Ngài có chiết chơn linh giáng trần một kiếp tại Việt Nam là Thi
hào Nguyễn Du, sau đó Ngài chiết chơn linh giáng sanh bên Pháp là Văn hào Victor
Hugo.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Ðộ,
Ngài thọ lịnh Ðức Chí Tôn cầm quyền Chưởng Ðạo Hội Thánh Ngoại Giáo của Ðạo Cao
Ðài. Ngài thường giáng cơ giáo hóa các Chức sắc của Hội Thánh Ngoại Giáo.
Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
có giáng cơ ban cho 6 bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, kể ra:
Kinh Tắm Thánh.
Kinh Tẫn Liệm.
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
Kinh Ðưa Linh Cửu.
Kinh Khi Ðã Chết Rồi.
Kinh Hôn Phối.
Tắm Thánh: Xối nước Thánh
lên đầu đứa bé. Nước Thánh đó là Ma Ha Thủy. Cách luyện Ma Ha Thủy đã giải rõ
nơi phần cuối bài Kinh Giải Oan.
Theo Tân Luật của Ðạo Cao
Ðài, phần Thế Luật, điều thứ 22: "Ðứa con nít khi được 1 tháng sắp lên, phải
đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm Lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo."
Mục đích của Phép Tắm
Thánh là:
Trình với Ðức Chí Tôn và Ðức
Phật Mẫu, cùng các Ðấng Thiêng liêng để công nhận đứa bé nầy là con của nhà Ðạo
Cao Ðài, tức là con cái của Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu trong Ðạo Cao Ðài.
Tẩy trược Chơn thần đứa bé
để nó được thông minh sáng láng, lớn lên học hành mau hiểu biết.
Câu 1-2: Những vạn vật Âm
Dương tạo hóa,
Dầu cỏ cây hoa quả biến
sanh.
Vạn vật: Tất cả các loài vật
hiện hữu, từ Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm đến Nhơn loại.
Âm Dương: Hai chất khí
Dương quang và Âm quang do Thái Cực biến hóa phân ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương
quang, Ðức Phật Mẫu làm chủ Âm quang. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi
Thái Cực, rồi đem Âm quang phối hợp với Dương quang để tạo thành CKVT và vạn vật.
Tạo hóa: Tạo là làm ra,
hoá là biến đổi. Tạo hóa là biến đổi để làm ra cái mới. Biến sanh: Biến hóa
sanh ra.
Hoa quả: Hoa là cái bông,
Quả là cái trái. Các loài thảo mộc thường có bông, trong bông có nhụy đực và nhụy
cái. Nhụy đực rơi vào nhụy cái để kết thành trái. Trong trái có hột, lấy hột
gieo xuống đất thì hột nẩy mầm sanh ra một cây mới. Và cứ thế, loài thảo mộc
sanh sản càng ngày càng nhiều.
C.1-2: Vạn vật đều do 2
Khí Âm quang và Dương quang phối hợp tạo thành; dầu cho là thảo mộc có bông có
trái, cũng do 2 Khí Âm Dương biến hóa sanh ra.
Vật chất thì do các nguyên
tử có Dương điện và có Âm điện kết hợp tạo thành; Thảo mộc thì có nhụy đực nhụy
cái, Thú cầm thì có con trống con mái, Nhơn loại thì có Nam Nữ, hai nguyên lý
Âm Dương ấy kết hợp mới sanh hoá được.
Câu 3: Con người đứng phẩm tối linh.
Phẩm: Thứ bực cao thấp. Tối
linh: Tối là rất, Linh là thiêng liêng. Tối linh là rất thiêng liêng.
C.3: Con người đứng vào bực
rất thiêng liêng hơn hết trong chúng sanh.
Tại sao con người đứng phẩm
tối linh?
Bởi vì theo Luật Tiến hóa,
loài Kim thạch tiến hóa lên thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú
cầm tiến hóa lên Nhơn loại. Nhơn loại là bực cao hơn hết trong chúng sanh, nên
được gọi là Thượng đẳng chúng sanh.
Con người lại có đủ Tam hồn.
Từ Kim thạch vô tri giác, tiến hóa lên Thảo mộc có sự sống rõ rệt, nên Thảo mộc
có được một phần hồn, gọi là Sanh hồn. Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, nó có
thêm một phần hồn nữa gọi là Giác hồn, để có sự cảm giác và hiểu biết. Thú cầm
tiến hóa lên Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn.
Vì vậy, con người linh hơn
vạn vật nhờ có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Nhờ đó, con người có
được sự sống, sự cảm giác hiểu biết, sự suy nghĩ và có tánh linh hơn vạn vật.
Nhờ có Linh hồn nên con người có thể tu thành Thần Thánh Tiên Phật được.
Câu 4: Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.
Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới
sanh, nhi là trẻ con. Anh nhi là chỉ đứa bé nhỏ tuổi.
Nửa người nửa Phật: Ý nói
con người vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh, hay nói một cách mạnh mẽ hơn là:
Con người vừa có Thú tánh, vừa có Phật tánh, tức là vừa có tánh ác, vừa có tánh
thiện.
"Chúng ta ngó thấy
trong mình chúng ta có Thần và Thú. Vì cớ cho nên Triết lý Thất tình định duy
chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của
nó. Bây giờ, trong thân thể của chúng ta, trong nguyên bổn của chúng ta vẫn thường
chiến đấu: Phật chiến đấu với Thú, Thú chiến đấu với Phật. Hai hình trạng của Ðời
và của Ðạo, Ðạo xu hướng theo Phật, Ðời xu hướng theo Thú, hai tương quan phản
khắc nhau. Vì cớ cho nên, Thuyết Duy Tâm và Duy Vật hay tương đối với
nhau." (Thuyết đạo về Bí Pháp của Ðức Phạm Hộ Pháp).
Như thế, con người vừa có
tánh ác của Thú, vừa có tánh thiện của Phật. Có tánh ác của Thú vì con người là
do loài Thú tiến hóa mà thành; có tánh Phật vì con người được Ðức Chí Tôn ban
cho một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn. Vì vậy mà con người có thể tiến hóa đi
lên, mà cũng có thể thoái hóa đi xuống. Nếu con người chịu khổ hạnh tu hành, chắc
chắn sẽ tiến hóa thành Tiên, Phật. Trái lại, nếu không chịu tu hành, con người
lại buông xuôi theo Vật dục, làm nhiều điều gian ác thì sẽ bị thoái hóa xuống Cầm
Thú. Còn nếu con người cứ sống tự nhiên, không thiện lắm mà cũng không ác lắm,
con người vẫn cứ mãi mãi là con người sống trong vòng luân hồi sanh tử, thì rất
uổng cho cái điểm Linh quang mà Ðức Chí Tôn đã ban cho, biết chừng nào trở
thành Tiên Phật, hưởng an vui đời đời nơi Cực Lạc Niết Bàn.
C.4: Nửa người nửa Phật
nơi mình anh nhi, là trong mình đứa trẻ vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh.
Giữa người và Phật chỉ
cách nhau có một tấm màn mỏng là Vô minh. Nếu còn Vô minh, tức là còn mê lầm
thì con người mãi mãi là con người nơi cõi thế gian, nếu qua khỏi Vô minh tức
là Giác ngộ thì con người trở thành Tiên, Phật.
Câu 5-6: Ðại Từ Phụ từ bi
tạo hóa,
Tượng mảnh thân giống cả
Càn Khôn.
Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành
thiêng liêng của toàn cả chúng sanh, đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Từ bi: Lòng thương yêu bao
la, thương khắp chúng sanh và luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh thoát khổ.
Tượng: Nắn đúc nên hình
dáng. Mảnh thân: Tấm thân. Càn Khôn: Trời Ðất, CKVT.
C.5-6: Ðấng Ðại Từ Phụ mở
lòng từ bi tạo hóa ra con người, nắn đúc ra thân thể có cấu tạo giống như Trời
Ðất.
Hễ Trời Ðất có gì thì con
người có nấy, nên con người được gọi là Tiểu Thiên Ðịa, Trời Ðất là Ðại Thiên Ðịa.
Trời có Tam Bửu là Nhựt,
Nguyệt, Tinh; Ðất có Tam Bửu là Thủy, Hỏa, Phong; thì con người có Tam Bửu là:
Tinh, Khí, Thần.
Trời có Ngũ Khí; Ðất có
Ngũ Hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ; người có Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
Trời có Tứ Tượng; Ðất có Tứ
phương; người có Tứ Chi: 2 tay, 2 chân.
Trời có Thập Thiên Can; Ðất
có Thập nhị Ðịa Chi; người thì nắm đủ trong 2 bàn tay
Câu 7: Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.
Vẹn toàn: Ðầy đủ hoàn
toàn. Xác: Thể xác. Hồn: Linh hồn.
C.7: Con người có đầy đủ
Linh hồn và Thể xác.
Thể xác ở đây, nếu chúng
ta hiểu rộng ra thì có 2 trường hợp: Nơi cõi trần thì thể xác phàm; nơi cõi
thiêng liêng thì xác thân thiêng liêng.
Khi con người còn ở trên
cõi thiêng liêng thì con người có xác thân thiêng liêng, còn gọi là Chơn thần,
Nhị xác thân, bao bọc lấy Chơn linh.
Khi con người đầu thai xuống
cõi phàm trần thì con người mang thêm xác thân phàm trần bằng xương bằng thịt,
gọi là Ðệ Nhứt xác thân. Còn xác thân thiêng liêng lúc đó ẩn trong xác thân
phàm, làm khuôn viên cho xác thân phàm.
Khi xác thân phàm chết,
xác thân thiêng liêng xuất ra, lấy y hình ảnh của xác thân phàm như khuôn in rập.
Xác thân thiêng liêng bao bọc linh hồn bay trở về cõi thiêng liêng.
Câu 8: Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
Cơ: Cái máy, cơ quan. Xây
cơ: Xây dựng cơ quan.
Chuyển thế: Chuyển là dời
đổi, Thế là đời. Chuyển thế là làm cho đời thay đổi để tiến hóa cho tốt đẹp
hơn. Sự đổi thay nầy không ngoài khuôn luật tuần hoàn.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
nói về Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn như sau:
"Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu
Ngài, Ngài hứa với các môn đệ của Ngài buổi đầu tiên về Cơ quan Chuyển thế, làm
phân vân biết bao nhà trí thức, tìm hiểu 2 chữ Chuyển thế là gì?
Theo Triết Lý Học, định nghĩa 2 chữ Chuyển thế là
thay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác, hoặc không phù hợp, hoặc quá
khuôn khổ nề nếp, nên quyết đoán thay đổi lập trường thiêng liêng vì thời đại nầy
đã định. Chuyển nghĩa là sửa cũ ra mới.
Lấy nghĩa lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận
thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi
vì đời quá hung tàn bạo ngược, vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định
tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản
của loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy bỏ....
Bần đạo tìm hiểu định nghĩa 2 chữ Chuyển thế, là
thay đổi thời thế. Ðem kinh luật ra quan sát thấy mỗi thế kỷ, mỗi nguơn, từ trước
đến giờ, nhiều giai đoạn giống nhau một cách lạ lùng, những tấn tuồng nầy giống
tấn tuồng trước, không ngoài khuôn viên ấy...."
Bảo tồn: Gìn giữ cho còn.
Vạn linh: Toàn thể các Chơn linh trong CKVT, gồm đủ Bát hồn. Vạn linh đầu kiếp
xuống trần làm chúng sanh. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng ta hiểu Vạn
linh là chúng sanh.
C.8: Xây cơ chuyển thế bảo
tồn Vạn linh, nghĩa là: Xây dựng cơ quan Chuyển thế để bảo tồn chúng sanh.
Cơ quan Chuyển thế mà Ðức
Chí Tôn xây dựng là ÐÐTKPÐ, tức là Ðạo Cao Ðài. Ðức Chí Tôn sẽ dùng tinh hoa của
Giáo lý Nho giáo làm nồng cốt cho công cuộc Chuyển thế.
Câu 9: Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch.
Thánh hình: Thánh là thiêng
liêng, Hình là hình thể. Thánh hình là hình thể thiêng liêng của con người. Ðức
Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu tạo ra hình thể của con người rất thiêng liêng huyền diệu,
bởi vì hình thể nầy "giống cả Càn Khôn", nên con người mới được gọi
là Tiểu Thiên Ðịa.
Thanh bạch: Hoàn toàn trong sạch.
C.9: Xin Ðức Chí Tôn gìn giữ mảnh hình hài nầy cho được hoàn toàn trong sạch.
Câu 10: Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.
Xá ân: Ân xá, tha cho kẻ có tội để làm ơn.
Tiền khiên: Tiền là trước
, Khiên là tội lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp sống trước .
C.10: Xin Ðức Chí Tôn ban
ơn tha tội cho nó và rửa sạch những tội lỗi trong các kiếp sống trước của nó.
(Nó: Ý nói đứa bé được đem
đi Tắm Thánh).
Câu 11: Căn xưa ví dữ cũng
hiền.
Căn xưa: Cái gốc rễ của
thuở xưa, tức là nơi kiếp trước . Ví: Nếu như. Dữ: Hung dữ. Hiền: Lành.
Căn xưa ví dữ: Nếu như kiếp
trước là người hung dữ.
C.11: Nếu như kiếp trước
nó là người hung dữ, xin Ðức Chí Tôn cho nó trong kiếp nầy là người hiền lành.
Câu 12: Dầu ra cửa tội đủ
quyền cao siêu.
Cửa tội: Nơi tội lỗi, ý
nói cửa Ðịa ngục hay cửa Âm phủ. Dầu ra cửa tội: Mặc dầu mới ra khỏi nơi tội lỗi.
Ðủ quyền cao siêu: Có đầy
đủ quyền tự chủ để lập ngôi vị của mình cho được cao siêu.
C.12: Mặc dầu Chơn linh đứa
bé mới ra khỏi nơi tội lỗi, nay chuyển kiếp làm người (do Ðại Ân Xá của Ðức Chí
Tôn) thì cũng xin Ðức Chí Tôn ban cho nó đầy đủ quyền tự chủ để lập vị cao
siêu.
TNHT. II. 85: Ðức Nguyệt
Tâm Chơn Nhơn giáng cơ: "Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay là
Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Ðạo. Bần đạo để cho mỗi người tự do định
phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả,"
Qua bài Thánh ngôn trên,
chúng ta thấy rằng: Dầu cho các Chơn linh Quỉ vị (tức là ở nơi cửa tội), nay được
Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn, cho chuyển kiếp đầu thai làm người, gọi là Quỉ nhân,
nếu biết tu hành, lập công bồi đức thì cũng đắc đạo như các Nguyên nhân hay Hóa
nhân.
Câu 13: Công nuôi dưỡng
nâng niu khổ nhọc.
Công nuôi dưỡng: Công lao
khó nhọc của cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ đứa bé từ lúc nhỏ cho đến lúc lớn khôn.
Nâng niu: Yêu mến chăm sóc
giữ gìn cẩn thận.
Khổ nhọc: Khổ cực và nhọc
nhằn.
C.13: Công lao nuôi dưỡng
và nâng niu chăm sóc đứa bé thật là khổ cực và nhọc nhằn.
KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ năm 1952:
....... khó nhọc.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936,
1968, 1974, 1975:
...... khổ nhọc.
Khó nhọc: Khó khăn vất vả.
Câu 14: Phép thương yêu
cũng học nơi Thầy.
Phép: Pháp luật. Thương
yêu: Bản chất của Ðức Chí Tôn. Kỳ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn giao ước với Nhơn
loại có 4 chữ: Bác ái - Công bình, tức là: Thương yêu và Công chánh, nên mới
nói rằng: Luật Thương yêu và Quyền Công chánh. Phép thương yêu: Luật thương
yêu.
Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức
của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập lục Thiên, CLTG và Bạch Ngọc
Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa Luân hồi."
"Sự thương yêu là giềng
bảo sanh trong CKTG. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh.
Ðặng an tịnh mới không thù nghịch nhau, mới giữ bền cơ Sanh hóa." (TNHT.
II. 43-69)
Thầy: Ðức Chí Tôn tự xưng
mình là Thầy để dạy Ðạo cho các Tín đồ, và gọi các Tín đồ là môn đệ.
C.14: Phải học nơi Ðức Chí
Tôn về Luật thương yêu, bởi vì lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn thì vô cùng vô tận.
Câu 15-16: Sanh nơi đây, ở
nơi đây,
Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng
căn.
Trăm năm là tuổi: Do câu
thành ngữ chữ Hán: Nhân sinh bách tuế vi kỳ, nghĩa là: Người ta sống một trăm
năm là kỳ hạn. Người mà sống trên 100 tuổi thì rất hiếm.
Mạng căn: Mạng là cái mạng
sống của con người, căn là gốc rễ. Mạng sống có được là do Ðức Chí Tôn ban cho
Chơn linh ngự trong xác thân; còn cái gốc rễ của con người là do nơi các việc
làm trong tiền kiếp, tạo thành cái nghiệp, quyết định số phận kiếp sống hiện tại.
Do đó mạng căn là cái mạng sống và số phận của nó.
C.15-16: Ðây là 2 câu kinh
căn dặn và nhắc nhở tâm thức của đứa bé đang thọ phép Tắm Thánh: Ðược sanh ra ở
nơi đây, sống ở nơi đây, hạn định của kiếp sống thường là 100 tuổi, với đầy đủ
mạng sống và số phận.
Câu 17: Chốn hồng trần
quen lằn gió bụi.
Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi
trần. Hồng là đỏ, trần là bụi. Gió bụi: Phong trần, chỉ sự gian nan vất vả ở đời.
C.17: Nơi cõi trần, con người phải chịu đựng cho quen nhiều nỗi gian nan vất vả.
Câu 18: Cảnh phù ba may rủi
cũng duyên.
Phù ba: Phù là nổi, ba là
làn sóng. Phù ba là làn sóng nổi, tức là làn sóng nổi lên rồi liền hạ xuống. Cảnh
phù ba: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng như làn sóng. Duyên: Cái mối dây
ràng buộc được định sẵn từ trước.
C.18: Cảnh đời luôn luôn
thay đổi mau chóng, hết may tới rủi, hết rủi tới may, cũng do nơi những mối dây
ràng buộc từ trước (không ra ngoài khuôn Luật Nhân quả).
Câu 19: Ðã gan dốc kiếm diệu
huyền.
Gan: Can đảm, dám đương đầu
với khó khăn nguy hiểm. Dốc kiếm: Tuốt kiếm ra khỏi vỏ sẵn sàng chiến đấu.
Kiếm diệu huyền: Cây gươm
huyền diệu, ý nói cây gươm trí huệ. Người tu cần phải dùng cái trí huệ của mình
để trừ diệt vô minh và phiền não. Nói tỷ dụ, cái trí huệ như cây kiếm huyền diệu,
phiền não và vô minh như những tên giặc cướp, phải dùng cây kiếm trí huệ mới diệt
trừ được chúng.
C.19: Ðã có can đảm quyết
chí tu hành để đạt được trí huệ, thì phải dùng cái trí huệ nầy như một cây kiếm
huyền diệu để diệt trừ vô minh và phiền não.
Hai câu 18 và 19 cũng để
nói với đứa bé đang chịu Phép Tắm Thánh rằng, khi lớn lên sẽ phải chịu nhiều nỗi
vất vả nơi cõi trần, nhưng phải rán lo tu hành cho đạt được trí huệ thì mới dứt
được phiền não.
Câu 20: Sanh sanh là phận,
hiền hiền là công.
Sanh sanh: Sống và sinh sản
thêm ra. Phận: Bổn phận. Hiền hiền: Lành và tài giỏi. Công: Công lao.
C.20: Sống và sanh sản
thêm ra là bổn phận, dùng sự hiền lành và tài giỏi để lập công với đời.
Câu 21-22: Ðừng thối chí
ngã lòng trở gót,
Ðể cho đời chua xót tình
thương.
Thối chí: Nãn chí, không
còn muốn đeo đuổi việc đang làm vì gặp khó khăn trở ngại. Ngã lòng: Không còn
giữ được quyết tâm trước thử thách khó khăn. Trở gót: Lui bước.
Chua xót: Ðau đớn xót xa một
cách thấm thía.
C.21-22: Hai câu kinh nầy
cũng để căn dặn đứa bé Tắm Thánh: Ðừng thấy cõi trần có nhiều khổ đau phiền não
mà thối chí ngã lòng lui bước trở lại cõi TL (ý nói chết), để cho cha mẹ và những
người thân phải đau đớn xót xa vì thương tiếc.
Câu 23: Trăm năm thọ khảo
vĩnh trường.
Thọ khảo: Thọ là sống lâu,
khảo là già cả sống lâu.
Vĩnh trường: Vĩnh là lâu
dài, mãi mãi; trường là lâu dài. Vĩnh trường là lâu dài mãi mãi.
C.23: Ðây là câu cầu chúc
đứa bé sống lâu: Ðời người sống được trăm tuổi là trường thọ.
Câu 24: Thuận căn thuận mạng,
đôi đường cao thăng.
Thuận căn: Căn là cái gốc
rễ, tức là những việc làm trong kiếp trước tạo thành cái nghiệp quyết định số
phận của mình. Thuận căn là thuận theo số phận của mình để trả cho dứt nghiệp.
Thuận mạng: Thuận theo cái mạng sống của mình do Ðức Chí Tôn ban cho, tức là
thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn. Cao thăng: Phẩm vị được đưa lên cao
hơn.
C.24: Phải thuận theo số
phận của mình để trả dứt nghiệp (mà không tạo ra nghiệp mới), hoặc phải thuận
theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn, cả hai đường đều giúp cho Chơn linh được cao
thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.
I . Kinh Tận độ:
Kinh Tận độ Vong linh là
những bài kinh tụng để cứu độ linh hồn người chết, không phân biệt Nam hay Nữ,
già hay trẻ, có phẩm tước lớn nhỏ hay không phẩm tước.
Các bài kinh nầy do các Ðấng
Tiên, Phật giáng cơ tại Tòa Thánh Tây Ninh ban cho Ðạo Cao Ðài tức là Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ, cho nên được gọi là Tân Kinh.
Kinh Tân độ Vong linh gồm
các bài kinh sau đây:
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối
(KCHKHH).
Kinh Khi Ðã Chết Rồi
(KKÐCR),
Kinh Tẫn Liệm (KTL).
Kinh Cầu Siêu (KCS) (thỉnh
bên Minh Lý)
Kinh Ðưa Linh Cữu (KÐLC).
Kinh Hạ Huyệt (KHH).
Vãng Sanh Thần Chú (VSTC)
(thỉnh bên PG)
Kinh Khai Cửu, Ðại Tường,
Tiểu Tường.
9 bài Kinh Tuần Cửu từ Nhứt
Cửu đến 9 Cửu.
Kinh Tiểu Tường (KTTg).
Kinh Ðại Tường (KÐT).
Di-Lạc Chơn Kinh (DLCK).
II . Nguồn gốc các Bài Kinh Tận độ.
Nguồn gốc các Bài Kinh Tận
độ được Hội Thánh nói rõ trong Lời Tựa quyển Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, xin
chép nguyên văn ra sau đây:
"Từ khi mở Ðạo, Chí Tôn duy giáng cơ truyền
cho: Phật giáo, Minh Sư, Minh Ðường, Minh Lý dạy dâng Kinh cho ÐÐTKPÐ, song
Kinh Tận độ Vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.
Ðức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Ðức Hộ
Pháp, trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Ðạo, đã nhiều phen dâng sớ cho
Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng liêng đặng xin Kinh Tận độ, nhưng mà Chí Tôn cùng
chư Thần Thánh Tiên Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.
Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi
(dl 21 đến 31-8-1935) mới giáng cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam lộ của Ðức
Từ Bi rưới chan cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.
Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Ðã trải qua 10
năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận Ðộ. Cơ Tận Ðộ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh
nầy mà thôi.
Thương cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi
qui liễu trước ngày Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do
Thiên Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là
trì tụng Di-Lạc Chơn Kinh, hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng tịnh độ.
Ấy vậy, bổn kinh nầy nguyên của chư Phật, chư Tiên
đã giáng cơ truyền thế trong kỳ Trung nguơn Ất Hợi. Khi tụng phải thành tâm và
phải để nơi tinh khiết."
KINH CẦU HỒN KHI HẤP HỐI
(Giọng Nam ai)
1. Rấp nhập cảnh Thiêng
liêng Hằng sống.
2. Chốn quê xưa giải mộng
trần gian.
3. Dìu đường thoát tục nắm
phan.
4. Trông Kinh Bạch Ngọc định
thần giải căn.
5. Diêu Trì Cung sai nàng
Tiên Nữ,
6. Phép Lục Nương gìn giữ
chơn hồn.
7. Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo
Nhơn,
8. Phướn linh khai mở nẻo
đường Lôi Âm.
9. Ớ (Tên họ kẻ qui vị)
thành tâm cầu nguyện,
10. Nguyện Chí Tôn linh hiển
độ sanh.
11. Ăn năn sám hối tội
tình,
12. Xét câu Minh Thệ, gởi
mình cõi thăng.
13. Dầu nghiệt chướng số
căn quả báo.
14. Ðừng hãi kinh, cầu đảo
Chí Tôn.
15. Cửa Ðịa ngục khá lánh
chơn.
16. Ngọc Hư Cực Lạc đon đường
ruổi dong.
17. Dầu trọn kiếp sống
không nên đạo,
18. Dầu oan gia tội báo buộc
ràng.
19. Chí Tôn xá tội giải
oan.
20. Thánh Thần Tiên Phật cứu
nàn độ vong.
21. Kìa chiếu diệu bóng hồng
Bắc Ðẩu,
22. Kìa im đìm phúc hậu
Nam Tào.
23. Cảnh thăng trổi gót cho mau,
24. Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
(Niệm
3 lần Câu Chú của Thầy).
GIẢI NGHĨA
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng lúc một vị Tín đồ đang hấp hối hay vừa mới
dứt hơi.
Hấp hối: Sắp chết. Dứt
hơi: Hơi thở chấm dứt, chết.
Câu 1: Rấp nhập
cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
Rấp: Ðịnh, toan, sắp sửa.
Nhập: Ði vào.
Cảnh Thiêng liêng Hằng sống:
Cõi của những người đắc đạo. Con đường TLHS: là con đường dành cho các chơn hồn,
khi thoát xác, từ bỏ cõi trần, trở về với Ðức Chí Tôn nơi cõi Thiêng liêng để
được định vị thăng hay đọa.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
Con đường TLHS:
"Con đường về với Ðức Chí Tôn không phải dễ,
mà cũng không phải tới liền. Muốn về với Ðức Chí Tôn, ta phải qua nhiều Cung,
nhiều Ðiện (Y theo 9 bài Kinh Tuần Cửu, Tiểu Tường và Ðại Tường). Mỗi Cung,
chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Ðiện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau. Phải đi từ
Cung nầy đến Ðiện nọ, nên gọi là Dục tấn trên Con đường Thiêng liêng Hắng Sống.
Về được với Ðức Chí Tôn không còn hạnh phúc nào bằng."
C.1: Sắp sửa bước vào cõi
Thiêng liêng Hằng sống.
Câu 2: Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
Chốn quê xưa: Nơi mình đã
được sanh ra và sống ở đó nhiều năm.
Theo Giáo lý của Ðạo Cao
Ðài, các Nguyên nhân là những người được Ðức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên
nơi cõi TLHS. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho các Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần,
để khai hóa cho các Hóa nhân và cũng để kinh nghiệm học hỏi tiến hóa. Khi xong
nhiệm vụ thì phải trở về cõi TLHS là nơi quê cũ.
Như vậy, cõi trần là cõi tạm,
nơi mà Ðức Phật Mẫu sai xuống công tác một thời gian, khi xong việc thì phải trở
về. Cái sống nơi cõi trần là sống tạm, cái sống nơi cõi TLHS mới là cái sống
vĩnh cửu.
Giải: Cởi bỏ ra. Mộng trần
gian: Giấc mộng trần. Cuộc sống của con người nơi cõi trần và các hoạt động ở
nơi đó được các Ðấng Thiêng liêng xem như là một giấc mộng, bởi vì nó ngắn ngủi
và không bền, tan mất theo thời gian. Do đó, các Ðấng thường dùng các thành ngữ:
Giấc Huỳnh lương, Giấc Nam Kha, Giấc mộng xuân, Giấc mộng trần để chỉ về đời sống
của con người nơi cõi trần.
(TNHT: Huỳnh lương một giấc
cuộc đời in.)
Giải mộng trần gian: Cởi bỏ
giấc mộng trần, tức là cởi bỏ cuộc sống nơi cõi trần. Ý nói: Ðã chết.
C.2: Cái chết nơi cõi trần
là để linh hồn trở về nơi quê cũ.
Câu 3: Dìu đường thoát tục nắm phan.
Dìu: Dẫn dắt. Thoát tục:
Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần. Phan: Cây phướn dùng để dẫn đường.
C.3: Khi linh hồn thoát ra
khỏi cõi trần thì phải đi theo cây phướn dẫn đường.
Câu 4: Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
Trông: Nhìn, trông thấy.
Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài bằng ngọc trắng là nơi ngự của Ðức
Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. (Xem chi tiết nơi: C.6 KNHTÐ)
Ðịnh thần: Làm cho tinh thần
ổn định, bình tỉnh trở lại. Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, tức là cởi bỏ hết tất
cả các việc làm dù thiện dù ác trong lúc còn sống nơi cõi trần.
C.4: Nhìn lên Bạch Ngọc
Kinh đặng định tỉnh tinh thần và cởi bỏ hết các việc làm trong lúc còn sống nơi
cõi trần.
Câu 5-6: Diêu Trì Cung sai
nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ
chơn hồn.
Lục Nương: Vị Nữ Tiên đứng
hàng thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương ở DTC nơi cõi thiêng liêng. Lục Nương có Bửu
pháp là Cây Phướn Truy Hồn hay Phướn Tiêu Diêu để gìn giữ và dẫn dắt các Chơn hồn
đi vào Cửu Trùng Thiên.
CHƠN HỒN: Nghĩa thông thường
là Chơn linh, Linh hồn. Nhưng trong tất cả các bài kinh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn giáng cơ, Ngài đều dùng từ ngữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần của con người, tức
là Xác thân TL, hay Nhị xác thân.
C.5-6: Ðức Phật Mẫu nơi
DTC sai Tiên Nữ Lục Nương cầm Phướn Truy hồn đến gìn giữ Chơn thần người mới chết.
Câu 7 -8: Tây phương Tiếp
Dẫn Ðạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường
Lôi Âm.
Tây phương: Chỉ cõi Tây
Phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Thế Giới, vì cõi nầy ở về hướng Tây, so với Ngọc Hư
Cung. Tây Phương Cực Lạc có chùa Lôi Âm (Lôi Âm Tự).
Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật
A-Di-Ðà làm Chưởng giáo CLTG. Sang thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà trao chức
vụ nầy lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Giáo Chủ Hội Long Hoa, và Ðức A-Di-Ðà vào
ngự nơi Lôi Âm Tự.
Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn: là vị
Phật có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn hồn đến CLTG. Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn
cầm Cây Phướn Tiếp Dẫn, có giáng cơ cho bài thi:
Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên trẻ lo tu kịp tuổi già.
Danh lợi đường đời như cụm khói,
Công thành cửa Phật tợ Liên hoa.
Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
Bần Tăng vội vã dắt thuyền qua.
(Trích trong Văn Thi Hiệp
Tuyển của Phối Sư Thái Ðến Thanh)
C.7-8: Nơi cõi CLTG ở về
hướng Tây, Ðức Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm cây Phướn linh là cây Phướn Tiếp Dẫn,
đi khai mở con đường đi đến Lôi Âm Tự.
Câu 9-10: Ớ (Tên họ kẻ qui
vị) thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ
sanh.
Ớ: Cất tiếng gọi tên họ của
người đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi. Thành tâm: Tấm lòng thành thật.
Cầu nguyện: Cầu là xin,
nguyện là mong ước. Cầu nguyện là cầu xin Ðức Chí Tôn ban cho mình điều mà mình
mong ước. Linh hiển: Linh là thiêng liêng, hiển là hiện ra rõ ràng. Linh hiển
là hiện rõ ra một cách TL huyền diệu.
Ðộ sanh: Ðộ là cứu giúp,
sanh là sống. Ðộ sanh là cứu giúp thoát qua biển khổ để được sống nơi cõi TLHS.
C.9-10: Kêu gọi Chơn hồn
người chết hãy thành tâm cầu nguyện Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn linh hiển cứu
giúp thoát qua biển khổ để được đi lên sống nơi cõi TLHS.
Câu 11-12: Ăn năn sám hối
tội tình,
Xét câu Minh Thệ, gởi mình
cõi thăng.
Ăn năn: Cảm thấy ray rứt
đau xót trong lòng về lầm lỗi của mình đã gây ra. Sám hối: Ân hận những lỗi lầm
của mình và thật lòng muốn sửa đổi, không để cho tái phạm nữa.
Tội tình: Tội lỗi đáng bị
trừng phạt. Cõi thăng: Cõi của các linh hồn được siêu thăng, tức là cõi TLHS.
Minh Thệ: Minh là thề ước,
Thệ là thề nguyền. Minh Thệ là lời thề hứa chắc phải thực hiện đúng điều đã
nguyện.
Khi một người muốn nhập
môn vào Ðạo Cao Ðài, người đó phải lập Minh Thệ trước Thiên bàn thờ Ðức Chí
Tôn, có vị Chánh Trị Sự hay của Chức sắc sở tại chứng kiến.
Lời Minh Thệ do Ðức Chí
Tôn đặt ra, có in trong TNHT. I. 17, gồm 36 chữ, chép ra như sau:
Tôi tên
....................... tuổi ..........
"Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ
13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục."
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
Xét câu Minh Thệ: Hồi tưởng
xem xét lại trong suốt kiếp sanh của mình nơi cõi trần, mình có giữ đúng Lời
Minh Thệ của mình không? Tức là:
Có đổi dạ đổi lòng không?
Có hiệp đồng cùng chư môn
đệ không?
Có gìn luật lệ Cao Ðài
không?
Nếu có điều nào mình làm
không đúng Lời Minh Thệ thì phải ăn năn sám hối và cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ.
C.11-12: Hãy nhớ rõ Lời
Minh Thệ khi nhập môn vào Ðạo để tự xét mình mà ăn năn sám hối tội tình, cầu khẩn
Ðức Chí Tôn tha thứ và cứu rỗi để được siêu thăng lên cõi TLHS.
Câu 13: Dầu nghiệt chướng
số căn quả báo.
Nghiệt chướng: Nghiệt là
cái mầm ác tạo nghiệp ác, Chướng là trở ngại. Nghiệt chướng là sự ngăn trở do
nghiệp ác gây ra. Kiếp trước mình làm nhiều việc gian ác, nó sẽ trở thành Nghiệp
ác, ảnh hưởng lên kiếp sống nầy, làm cho kiếp nầy phải bị nhiều chướng ngại
như: Bệnh tật, tai ương. Sự báo ứng đó hoàn toàn theo đúng Luật Nhân quả.
Số căn: Cái số phận của
mình được định bởi cái nghiệp do các việc làm thiện ác của mình đã gây ra trong
các kiếp sống trước. Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại những việc làm thuở trước.
Làm lành thì được báo đáp bằng những điều may mắn tốt đẹp; làm ác thì được báo
đáp bằng những tai họa và phiền não.
C.13: Dù cho số phận mình
bị nghiệt chướng nên gặp phải hoạn nạn tai ương báo đáp lại.
KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm
1952:
Dầu nghiệp chướng ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936,
1968, 1974, 1975:
Dầu nghiệt chướng ...
Nghiệp chướng: Nghiệp là
con đường đi từ Nhân tới Quả. Nghiệp được tạo ra bởi các việc làm lành hay dữ
trong kiếp trước, tuy nó vô hình nhưng nó ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, bằng
sự may và sự rủi, để làm cho kiếp sống hiện tại được hạnh phúc hay đau khổ. Việc
làm lành sẽ tạo nên Nghiệp lành (Thiện nghiệp), cái Nghiệp lành nầy nó theo ủng
hộ mình, nâng đỡ mình (mà mình gọi đó là dịp may). Còn việc làm ác sẽ tạo ra
Nghiệp ác (Bất thiện nghiệp), cái Nghiệp ác nầy nó theo báo hại mình (mà mình gọi
đó là xui xẻo, rủi ro) khiến mình bị hoạn nạn tai ương và phiền não.
Vậy, Nghiệp chướng là những
ngăn trở khó khăn trong kiếp sống hiện tại do Nghiệp ác tạo ra.
Hai từ ngữ: Nghiệt chướng
và Nghiệp chướng, xem như đồng nghĩa, nhưng Nghiệt chướng có ý nghĩa rõ rệt
hơn.
Câu 14: Ðừng hãi kinh, cầu
đảo Chí Tôn.
Hãi kinh: Hãi là sợ, kinh
là sợ sệt lắm. Hãi kinh hay Kinh hãi là rất sợ sệt. Cầu đảo: Cầu là xin; đảo là
cúng tế cầu xin. Cầu đảo là cúng tế cầu xin.
C.14: Ðừng quá sợ sệt, hãy
cúng tế và cầu khẩn Chí Tôn.
Câu 15-16: Cửa Ðịa ngục
khá lánh chơn.
Ngọc Hư Cực Lạc đon đường
ruổi dong.
Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp
kém nhất, dùng để giam giữ và trừng trị các linh hồn tội lỗi. Khá: Nên.
Lánh chơn: Bước đi lánh ra
chỗ khác.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng
Trời thứ 10 Hư Vô Thiên, là cơ quan cầm quyền chánh trị CKTG. Không có một ngôi
sao nào, một Mặt Trời nào hay một Ðịa cầu nào đứng trong CKVT mà không chịu dưới
quyền của Ngọc Hư Cung.
Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới
hay Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn toàn an vui sung sướng.
Ðon đường: Hỏi thăm dò cho
biết đường đi.
Ruổi dong: Ði thẳng một mạch
cho mau tới nơi.
C.15-16: Hãy bước đi lánh
xa cõi Ðịa ngục, hỏi thăm đường để đi thẳng một mạch tới Ngọc Hư Cung và CLTG.
Câu 17-18: Dầu trọn kiếp sống
không nên đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Sống không nên đạo: Sống mà không làm được việc gì có tánh cách đạo đức, sống
mà không làm được việc gì hữu ích cho Ðạo. Ý nói: Người không thực tâm tu hành, theo Ðạo đặng dựa hơi cầu lợi,
không thành tâm tín ngưỡng.
Oan gia: Oan là thù giận,
gia là người. Oan gia là người có mối thù hận với mình. Tội báo: Báo đáp lại
cái tội lỗi đã gây ra lúc trước. Buộc ràng: Ràng buộc, dùng dây buộc lại, không
cho sút ra.
C.17-18: Dầu cho trọn kiếp
sống mà không làm được việc gì đạo đức, dầu cho kẻ oan gia đến bắt buộc phải đền
trả cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.
Câu 19: Chí Tôn xá tội giải
oan.
Xá tội: Tha thứ tội lỗi.
Giải oan: Cởi bỏ hết các thù giận, tức là cởi bỏ hết các mối dây oan nghiệt.
C.19: Cầu xin Ðức Chí Tôn
xá tội và giải oan.
Trong thời kỳ Khai Ðạo, Ðức
Chí Tôn đại khai ân xá, ban cho Phép Giải Oan để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã
gây ra trong kiếp sống, đồng thời cũng ban cho: Phép Xác để tẩy rửa Chơn thần
cho trong sạch. Phép Ðoạn căn để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt, cho Vong hồn được
siêu thăng. Ðây là thời kỳ mà nhơn loại được hưởng nhiều ơn huệ nhứt của Chí
Tôn.
Câu 20: Thánh Thần Tiên Phật
cứu nàn độ vong.
Cứu nàn: Cứu giúp tai nạn.
Chữ Nàn là do chữ Nạn đọc trại ra. Ðộ vong: Cứu độ vong hồn (linh hồn người chết).
C.20: Các Ðấng Thần,
Thánh, Tiên, Phật, cứu giúp các tai nạn và độ rỗi linh hồn người chết.
Câu 21-22: Kìa chiếu diệu
bóng hồng Bắc Ðẩu,
Kìa im đìm phúc hậu Nam
Tào.
Chiếu diệu: Chiếu là rọi
sáng, diệu là rực rỡ. Chiếu diệu là chiếu sáng rực rỡ. Bóng hồng: Ánh sáng màu
hồng.
Bắc đẩu: Ngôi sao sáng ở
hướng Bắc, nằm đúng trên trục quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là sao Bắc Cực.
Sao Bắc đẩu là một định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động quanh sao Bắc đẩu.
Cho nên sao Bắc đẩu là trung tâm của CKVT. Do đó, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn
ngay trên ngôi sao Bắc đẩu. Sao Bắc đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7
ngôi sao, mà Thiên văn học gọi là Tiểu Hùng Tinh. Chùm sao Thất tinh có hình
cái bánh lái tàu, sao Bắc đẩu là ngôi sao ở đầu cán bánh lái.
Hai vị Tiên cai quản 2
ngôi sao Nam Tào và Bắc Ðẩu là: Nam Cực Tinh Quân và Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tương
truyền hai vị Tinh Quân nầy coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại.
Im đìm: Yên lặng hoàn
toàn. Phúc hậu: Phúc hay Phước là điều may mắn tốt lành, Hậu là dày dặn. Phúc hậu
là phước đức dày dặn, hay làm điều lành cho người khác.
C.21-22: Kìa là ngôi Bắc đẩu
chiếu ra rực rỡ ánh sáng màu hồng; kìa là ngôi Nam Tào lặng yên và phúc hậu.
Câu 23-24: Cảnh thăng trổi
gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu
Chí Linh.
Cảnh thăng: Cảnh mà các
linh hồn siêu thăng đến ở, đó là cõi TLHS. Trổi gót: Cất bước lên đường. Trổi
là cất lên, gót là cái gót chân.
Tục lự: Tục là tầm thường
thấp kém, chỉ cõi trần; Lự là lo lắng. Tục lự là những nỗi lo lắng của con người
sống nơi cõi trần. Chầu: Hầu vua để chờ nghe mệnh lệnh.
Chí Linh: Rất thiêng
liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.
C.22-23: Hãy cất bước đi
mau lên cõi TLHS, lánh xa khỏi vòng tục lự, đặng lên chầu Ðức Chí Tôn.
KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm
1952:
tục lụy...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936,
1968, 1974, 1975:
tục lự ...
Tục lụy: Lụy là buồn rầu,
phiền não;
Tục lự là những nỗi phiền
não nơi cõi trần.
KINH KHI ÐÃ CHẾT RỒI
(Giọng Nam ai)
1 . Ba mươi sáu cõi Thiên
tào,
2 . Nhập trong Bát Quái mới
vào Ngọc Hư.
3 . Quê xưa trở, cõi đọa từ.
4 . Ðoạt cơ thoát tục, bấy
chừ tuyệt luân.
5 . Dưới Chín lớp Liên thần
đưa bước.
6 . Trên hồng quang phủ
phước tiêu diêu.
7 . Linh Tiêu Ðiện bảng
danh nêu,
8 . Nguyên căn đẹp vẻ mỹ
miều cao thăng.
9 . Kinh Bạch Ngọc muôn lằn
điển chiếu.
10 . Kêu Chơn hồn vịn níu
Chơn linh.
11 . Năng lai năng khứ
khinh khinh,
12 . Mau như điển chiếu,
nhẹ thành bóng mây.
13 . Cửa Tây phương khá
bay đến chốn.
14 . Diệt trần tình vui hưởng
tiêu diêu.
15 . Tiên phong Phật cốt mỹ
miều.
16 . Vào Kinh Bạch Ngọc lễ
triều Chí Linh.
(Niệm
3 lần Câu Chú của Thầy).
GIẢI NGHĨA
Kinh Khi Ðã Chết Rồi do Ðức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, dùng để tụng cho những Tín đồ khi đã chết
rồi, tụng kèm với Kinh Cầu Siêu.
Câu 1-2: Ba mươi sáu cõi
Thiên tào,
Nhập trong Bát Quái mới
vào Ngọc Hư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét