Giải Nghĩa Kinh Thiên Và Thế Ðạo - 8 / 8 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Ba mươi sáu cõi Thiên Tào là 36 từng Trời, gọi là Tam thập lục Thiên. (Xem: C.18 KNHTÐ). Nhập: Ði vào. Bát Quái: BQÐ nơi cõi thiêng liêng. Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS mô tả Bát Quái Ðài và Ngọc Hư Cung, xin chép ra sau đây 
"Ðài ấy có 8 góc, kêu là Bát Quái Ðài, không thể gì chúng ta tả ra với
lời nói đặng, bởi Ðài ấy huyền bí, biến hóa vô cùng, nó có 8 cửa, trong 8 cửa, chúng ta ngó thấy cả Vạn linh và vật loại, các hình thể vạn linh đều xuất hiện, hình ảnh sáng suốt hiện ra hào quang chiếu diệu. Trong 8 góc có 8 cái cầu. Lạ thay! Cầu ấy không phải bằng cây ván mà nó là 8 đạo hào quang. Cầu ấy bắc ngang bờ. Dưới cầu ấy, chúng ta ngó thấy dường như một Bích Hải, nước xao sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong 8 góc, chúng ta thấy đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn loại đi tới đi lui nhiều hơn hết. Lạ thay! Cầu ấy rất huyền diệu, ai đứng lên đó được, mới biết mình nhập vô BQÐ.

Lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi, làm cho chúng ta phải yếu, đi không đặng, chúng ta muốn thối bộ. Khi chơn vừa bước tới, chính mình ta ngó thấy như mình yếu đi, nhưng người nào bước tới cũng đặng. Ði được nửa chừng, nếu không đủ Thiên vị, hay vì tội tình oan gia nghiệt chướng chi mà chúng ta đã đào tạo nơi mặt thế nầy, chúng ta tới nửa cầu sẽ bị lọt xuống Bích Hải. Lọt xuống đó rồi, ta thấy hồi lúc đi, còn ở trên cầu, chúng ta thấy hình ảnh còn đẹp đẽ tốt tươi, hễ lọt xuống Bích Hải rồi, chúng ta thấy hình thù đen thui dị hợm lắm, ta không thể tưởng tượng, còn hơn loài mọi kia, tối đen như vậy." (Bích Hải cũng còn được gọi là Ao Ô Trì.)

"Vậy kiếm hiểu coi BQÐ ấy là gì? Phải chăng là Tòa Tam Giáo của Ðức Chí Tôn do Thánh Ngôn để lại. ...
Nếu chúng ta xin phép Ðức Chí Tôn vô Ðài ấy, chúng ta biết trước là Tòa Tam Giáo Ngọc Hư Cung. ...

Chí Tôn có BQÐ, chúng ta ở ngoài thấy mênh mông, hào quang chiếu diệu một Tòa nhà 8 cửa. Khi chúng ta vô rồi, Ðài ấy biến mất, chỉ còn CKVT chung quanh. Ðài ấy vẫn xây, xây mãi, mà ta biết rằng Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu xông lên như ngọn lửa vậy."
C.1-2: Phía trên là Tam thập lục Thiên. Vào trong BQÐ rồi mới vào được Ngọc Hư Cung.

Câu 3: Quê xưa trở, cõi đọa từ.
Quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra, lớn lên và sống ở đó nhiều năm. Quê xưa thật sự của mình là cõi TLHS.

Trở: Trở lại, trở về. Từ: Từ bỏ, từ giã.
Cõi đọa: Cõi trần. "Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả Chơn linh là Luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là Khách trần." (TNHT. II. 3)
C.3: Trở lại cõi TLHS, từ bỏ cõi trần vì nó là cõi đọa.

Câu 4: Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân.
Ðoạt cơ thoát tục: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần. Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần.
Bấy chừ: Bấy giờ. Tuyệt: Dứt hẳn. Luân: Luân hồi.
Tuyệt luân: Dứt hẳn luân hồi, tức là đắc đạo.
C.4: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần, tức nhiên lúc bấy giờ dứt hẳn sự luân hồi: Ðắc đạo.

Câu 5: Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước.
Chín lớp: Chín từng Trời, tức là Cửu Trùng Thiên. (Xem: C.8 NH). Liên: Bông sen. Thần: Thiêng liêng mầu nhiệm. Liên thần là cái bông sen mầu nhiệm, mà khi Chơn hồn bước lên đứng trên đó thì bông sen bay lên, đưa chơn hồn đi lên các từng Trời. Ðưa bước: Ðưa đi.
C.5: Phía dưới Chín từng Trời, có một bông sen mầu nhiệm gọi là Liên thần, đưa chơn hồn bay lên các từng Trời.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974:
đưa bước.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1975:
đưa rước.

Câu 6: Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
Hồng quang: Ánh sáng màu hồng. Phủ: Bao trùm xuống, bao phủ. Phước: Ðiều may mắn tốt lành.
Tiêu diêu: Tiêu là lượn trên cao, diêu hay dao là xa xôi. Tiêu diêu là đi chơi đó đây một cách thảnh thơi nhàn hạ.
C.6: Trên thì có ánh sáng màu hồng bao phủ ban phước cho được thảnh thơi nhàn hạ dạo chơi đây đó.

Câu 7-8: Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
Linh Tiêu Ðiện: Nơi Ðức Chí Tôn họp Thiên triều. (Xem: C.2 TTCÐDTKM). Bảng danh: Tấm bảng đề tên những người thi đậu (tức là đắc đạo). Bảng danh nêu: Nêu tên họ lên bảng cho biết đó là những người đắc đạo trở về.

Nguyên căn: Nguyên là buổi đầu, căn là gốc rễ. Nguyên căn là những người được sanh ra từ buổi đầu tiên, lúc khai Thiên, được gọi là Nguyên nhân. Mỹ miều: Xinh đẹp. Cao thăng: Bay lên cao, tức là được siêu thăng lên cõi TLHS.
C.7-8: Nơi Linh Tiêu Ðiện, tên họ được nêu lên bảng, đó là những nguyên nhân đắc đạo, hình dáng xinh đẹp, cao thăng lên cõi TLHS.

Câu 9: Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu.
Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn. Lằn điển: Làn sóng điện. Chiếu: Phát ra và rọi sáng. Muôn lằn điển chiếu là chỉ ánh hào quang phát ra vì nó giống như các làn sóng điện. Ngày nay, khoa học cho chúng ta biết rằng, ánh sáng truyền đi theo dạng sóng, giống y như các làn sóng điện truyền thanh hay truyền hình.
C.9: Bạch Ngọc Kinh phát ra muôn ánh hào quang chiếu sáng chung quanh, giống như các làn sóng điện.

Câu 10: Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.
Chơn hồn: Chơn thần. Chúng ta lưu ý rằng, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn luôn luôn dùng chữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần. Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào để có thế vững. Níu: Nắm chặt. Vịn níu: Dùng tay nắm chặt. Chơn linh: Linh hồn.
C.10: Kêu gọi Chơn thần hãy giữ chặt Chơn linh.

Câu 11-12: Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.
Năng: Chữ Hán, Năng là có khả năng làm được việc.
Lai: Tới, đến. Khứ: Ði. Năng lai: Có khả năng đi đến.
Khinh: Nhẹ. Khinh khinh: Nhẹ nhàng. Mau như điển chiếu: Ði nhanh như làn sóng điện truyền đi.
C.11-12: (Chơn hồn) có khả năng đến và đi một cách nhẹ nhàng, nhanh như làn sóng điện, nhẹ như đám mây bay.

Câu 13: Cửa Tây phương khá bay đến chốn.
Cửa Tây phương: Cửa đi vào CLTG ở hướng Tây.
C.13: Nên bay đến cửa đi vào cõi CLTG ở hướng Tây.

Câu 14: Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.
Trần: Bụi bặm, chỉ cõi trần. Trần tình: Những tình cảm của con người nơi cõi trần, thường có ý chỉ các tình cảm xấu: Nộ (Giận), Ố (Ghét), Ai (Buồn), Dục (Muốn). Những tình cảm xấu nầy thường làm mất công đức và gây chướng ngại trên đường tu tiến, nên cần phải diệt nó bằng cách chuyển hóa nó vào nẻo cao thượng. Tiêu diêu: (Xem C. 6).
C.14: Tiêu diệt những tình cảm xấu để hưởng được sự vui vẻ thảnh thơi đi chơi đây đó.

Câu 15: Tiên phong Phật cốt mỹ miều.
Tiên phong: Dáng dấp đẹp như Tiên. Phong là dáng dấp. Phật cốt: Cốt cách như Phật. Mỹ miều: Xinh đẹp.
C.15: Vóc dáng như Tiên, cốt cách như Phật, thật là xinh đẹp.

Câu 16: Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
Lễ triều: Lễ là lạy, triều là chầu vua. Lễ triều là chầu lạy Ðức Chí Tôn. Chí Linh: chỉ Ðức Chí Tôn.
C.16: Vào Bạch Ngọc Kinh để chầu lạy Ðức Chí Tôn.

KINH TẪN LIỆM
(Giọng Nam ai)
1 . Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ.
2 . Nương huyền linh sạch giũ thất tình.
3 . Càn Khôn bước Thánh thượng trình.
4 . Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.
5 . Khối vật chất vô hồn viết tử.
6 . Ðất biến hình tự thử qui căn.
7 . Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân.
8 . Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
9 . Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.
10 . Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi.
11 . Từ từ Cực Lạc an vui.
12 . Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Tẫn Liệm do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trước khi liệm thi hài người chết vào trong quan tài.

Tẫn liệm: Tẫn là đặt xác người chết vào trong áo quan rồi đậy nắp đóng lại cho thật kín, Liệm là bọc xác người chết cho thật kín bằng những lớp vải, và đặt vào áo quan.

Câu 1: Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ.
Oan: Thù giận. Nghiệt: Nghiệp ác. Dây oan nghiệt: Những sự thù giận (Oan) và những nghiệp ác (Nghiệt) mà con người đã gây ra trong suốt kiếp sống, tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình ràng buộc Chơn thần, không cho Chơn thần xuất ra khỏi thể xác, mặc dầu thể xác đã chết rồi.

Trái chủ: Trái là món nợ, Chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ. Nợ đây là nợ oan nghiệt. Ðó là những người mà trước đây họ thù giận mình vì mình đã hãm hại họ, họ trở thành chủ nợ oan nghiệt, còn mình là con nợ oan nghiệt, họ chờ dịp để đòi mình phải trả món nợ oan nghiệt đó.
C.1: Những sợi dây oan nghiệt được cắt đứt rồi thì Chơn thần mới dứt rời các chủ nợ mà bay lên được.

Trong thời kỳ Ðại Ân Xá, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt các sợi dây oan nghiệt vô hình nầy, giúp cho Chơn thần người chết xuất ra khỏi xác mà bay trở về cõi TL. (Xem: C.3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu).

Câu 2: Nương huyền linh sạch giũ thất tình.
Nương: Dựa vào. Huyền: Sâu kín, huyền diệu. Linh: Thiêng liêng. Nương huyền linh: Dựa vào phép huyền diệu thiêng liêng. Giũ: Lắc mạnh cho rớt ra các bụi đất hay chất dơ. Thất tình: Bảy tình cảm của con người gồm: Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (thương), Ố (ghét), Ai (buồn), Lạc (vui), Dục (muốn). Sạch giũ: Làm cho sạch sẽ bằng cách giũ mạnh cho rớt ra hết các chất bẩn.
C.2: Dựa vào phép huyền diệu TL để giũ sạch thất tình.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
sạch đủ thất tình.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
sạch giũ thất tình.

Câu 3: Càn Khôn bước Thánh thượng trình.
Càn Khôn: CKVT. Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm.
Thượng: Bước lên. Trình: Ðường đi. Thượng trình: Lên đường, đồng nghĩa với Thượng lộ.
C.3: Bước chơn mầu nhiệm lên đường đi vào CKVT.

Câu 4: Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.
Giải: Cởi bỏ ra. Xác tục: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt của con người nơi cõi trần. Khi thể xác nầy chết thì nó sẽ thúi rã biến thành đất. Hình Chí Tôn: Hình ảnh của Ðức Chí Tôn. Mượn hình Chí Tôn là chỉ Chơn thần con người, bởi vì khi Ðức Phật Mẫu tạo hóa ra Chơn thần của con người thì lấy theo hình ảnh của Ðức Chí Tôn.
C.4: Cởi bỏ xong xác phàm thì Chơn thần liền xuất ra.

Câu 5: Khối vật chất vô hồn viết tử.
Khối vật chất: Thể xác phàm của con người, vì nó chỉ là một khối vật chất, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng vật chất, và khi chết thì thúi rã biến trở thành vật chất lẫn vào đất.
Vô hồn: Không có linh hồn ngự trong thể xác.
Viết tử: Nói rằng chết. Viết là nói rằng, Tử là chết.
C.5: Thể xác của con người không có linh hồn ngự trị thì gọi là chết.

Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn để tạo sự sống cho thể xác, gìn giữ sự sống ấy và điều khiển các hoạt động của thể xác. Khi Linh hồn ấy xuất ra khỏi thể xác thì thể xác hết hoạt động và chết.

Câu 6: Ðất biến hình tự thử qui căn.
Ðất biến hình: Ðất biến ra hình thể của con người, bởi vì thể xác con người được nuôi dưỡng và lớn lên bằng những thực phẩm do Ðất sản xuất ra. Tự thử: Từ đó, từ lúc ấy. Qui căn: Trở về gốc, gốc ấy là Ðất. Qui là trở về, căn là gốc rễ.
C.6: Thể xác con người do Ðất biến hoá ra thì khi chết, thể xác nầy từ đó biến hóa trở lại thành Ðất.

Câu 7: Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân.
Ðừng gìn: Không nên gìn giữ, tức là phải cởi bỏ ra hết. Thân ái: Gần gũi thương yêu. Nghĩa: Cách cư xử theo lẽ phải, hợp đạo lý. Nhân: Lòng thương người mến vật.
C.7: Nên cởi bỏ ra hết các thứ tình cảm thân ái và các điều nhân nghĩa (để Chơn thần dứt khoát ra đi).

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952:
Ðừng gìn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
Ðừng vì.

Câu 8: Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
Xôn xao: Rộn rịp ồn ào. Thoát khổ: Thoát ra khỏi các cảnh khổ não, hết khổ. Xa lần: Lần lần đi xa.
Bến mê: Chỉ cõi trần. (Xem: C.38 TTCÐDTKM).
C.8: Rộn rịp thoát khỏi nơi đau khổ nầy và đi xa dần cho khỏi cõi trần.

Câu 9: Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.
Hóa: Sanh ra. Hồn Trời hóa: Linh hồn của con người do Trời sanh ra. Ðó là Ðiểm Linh quang được Ðức Chí Tôn chiết ra từ Khối Ðại Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người. Thiên cảnh: Cõi Trời.
C.9: Linh hồn của con người do Trời sanh ra thì nay trở về cõi Trời.

Câu 10: Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi.
Xác Ðất sanh: Thể xác con người do các thực phẩm sanh ra từ Ðất nuôi dưỡng và lớn lên, nên có thể xem như do Ðất tạo ra. Phục hồi: Trở về. Phục là trở lại, hồi là về.
C.10: Thể xác do Ðất tạo nên nay được lịnh trở về Ðất.
Con người có Thể xác, Chơn thần và Linh hồn. Khi đến kỳ qui định (tới số), thể xác chết tan rã trở lại thành Ðất; còn Linh hồn và Chơn thần thì xuất ra đi trở về Trời.
Hai câu kinh 9 và 10 có ý nghĩa tương tự như đôi liễn nơi Thuyền Bát Nhã :
Vạn sự viết vô, nhục thể Thổ sanh huờn tại Thổ,
Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

Nghĩa là:
Muôn vật đều không, xác thịt Ðất sanh huờn lại Ðất,
Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.

Câu 11: Từ từ Cực Lạc an vui.
Từ từ: Thong thả. Cực Lạc: CLTG. An vui: An ổn vui vẻ.
C.11: Thong thả đi đến cõi CLTG hưởng sự an vui.

Câu 12: Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.
Trược khí: Chất khí dơ bẩn. Nơi trược khí: Chỉ cõi trần, vì nơi cõi trần có nhiều trược khí, trược khí chiếm tới 2 phần, thanh khí chỉ có 1 phần. (Thanh khí là khí trong sạch).
Siêu thăng: Bay vượt lên cao, bay lên cõi TLHS.
C.12: Linh hồn bay lên lánh xa mùi trược khí của cõi trần, hưởng được siêu thăng nơi cõi TLHS.

KINH CẦU SIÊU
(Giọng Nam ai)
1 . Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
2 . A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
3 . Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
4 . Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.
5 . Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
6 . Bố từ bi tế bạt vong hồn.
7 . Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,
8 . Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.
9 . Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại,
10 . Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.
11 . Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương,
12 . Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
13 . Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.
14 . Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
15 . Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên,
16 . Nơi phước địa ở yên tu luyện.
17 . Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
18 . Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Cầu Siêu do Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát giáng cơ ban cho Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu). Thuở mới Khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Ngũ Chi Minh Ðạo dâng kinh cho ÐÐTKPÐ, nên Hội Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm Kinh ÐÐTKPÐ. Bên Minh Lý gọi bài Kinh nầy là SÁM CẦU SIÊU.

Cầu siêu: Cầu là xin, siêu là vượt lên cao, siêu thăng.
Cầu siêu là cầu xin các Ðấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn người chết cho được siêu thăng.
Kinh Cầu siêu: là bài Kinh tụng cầu xin Ðức Chí Tôn và các Ðấng thiêng liêng Phật Tiên Thánh Thần ân xá tội tình và cứu giúp linh hồn người chết được siêu thăng.

Hội Thánh có ghi chú dặn rằng: "Khi tụng hết bài Kinh Cầu siêu thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) vì sợ e cho vong hồn hoặc là người không tu mà Hội Thánh mới độ hồn, hoặc là đạo hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng bài Kinh Cầu siêu (Ðầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,....) hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) đặng vong hồn hưởng phép siêu thăng tịnh độ.
Phải tụng xen kẽ như vậy cho đủ 3 lần. Khi dứt, niệm Câu Chú của Thầy 3 lần."

Câu 1-2: Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
Ðầu vọng bái: Ðầu là cái đầu, vọng là trông ngóng, bái là lạy. Ðầu vọng bái là cúi đầu cầu khẩn lạy xuống.

Tây Phương: Hướng Tây, chỉ cõi CLTG ở về hướng Tây. Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo, nên gọi Ðức Thích Ca là Phật Tổ.

A-Di-Ðà Phật: Phiên âm từ tiếng Phạn: AMITABHA, dịch là Vô Lượng Quang Phật hay Vô Lượng Thọ Phật. Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo CLTG. Nay là thời TKPÐ, Ngài giao quyền lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chưởng giáo CLTG, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự. Ðộ: Cứu giúp. Chúng dân: Dân chúng, chỉ chung nhơn sanh hay nhơn loại.
C.1-2: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Phật Tổ và Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi CLTG, xin cứu giúp nhơn sanh.

Câu 3-4: Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.
Quan Thế Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Như Lai, Quán Thế Âm Phật.

Ðối với Phật giáo Tây Tạng, Quán Thế Âm Phật là một vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Dân chúng Tây Tạng đều tin rằng, Ngài chuyển hóa vào thân Ðức Vua Ðạt Lai Lạt Ma, cai trị xứ Tây Tạng, nên họ xem Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là vị Phật Sống của họ. Ðức Quan Thế Âm có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt và có 108 hồng danh.

Ở nước Trung Hoa và Việt Nam, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Phật Nữ, do 2 truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Công Chúa Diệu Thiện.

Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đắc quả Phật, nhưng Ngài đại nguyện xuống cõi Ta Bà cứu khổ cứu nạn chúng sanh, nên Ngài vẫn mang danh Bồ Tát. Bất cứ hạng nào trong chúng sanh, khi bị quá sức đau khổ, hay bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải nạn lửa cháy, chìm tàu, oan ức tù đày, ... , nếu thành tâm niệm danh hiệu cầu cứu Ngài, hoặc tụng bài Kinh Cứu Khổ, thì Ngài liền hiện thân tới cứu giúp.

Trong ÐÐTKPÐ, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Ðức Chí Tôn làm Ðệ nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo, nêu cao gương từ bi bác ái tế độ của Phật.

Lân mẫn: Lân là thương xót, mẫn là lo lắng. Lân mẫn là thương xót và lo lắng giúp đỡ. Ân cần: Săn sóc đầy đủ với lòng thương mến.

Vớt: Cứu vớt. Lê thứ: Dân đen, dân chúng nghèo khổ. Lê là màu đen, thứ là nhiều. Khổ trần: Những nỗi đau khổ nơi cõi trần. Ðọa lạc: Phạt rơi xuống chỗ thấp kém, tối tăm, khổ sở. Ðọa là bị phạt xuống chỗ tối tăm khổ sở, lạc là rơi rụng.

C.3-4: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin thương xót, lo lắng ân cần cứu vớt dân chúng nghèo khổ đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần.

Câu 5-6: Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
Bố từ bi tế bạt vong hồn.
Ðại Thánh: Bực Thánh lớn. Ðịa Tạng Vương Bồ Tát: Phật hiệu nầy có ý nghĩa như sau: Ðịa là đất, Tạng là chứa, đất chứa và chở muôn vật, vì Ngài có lập nguyện độ vô số chúng sanh ở hằng hà sa số thế giới, không một chúng sanh nào ra khỏi tự tâm của Ngài. Ngài lại còn Ðại nguyện: Ðịa ngục mà còn chúng sanh thì Ngài chưa chịu thành Phật.

Do lời Ðại nguyện nầy, Ðức Chí Tôn phong Ngài làm U Minh Giáo chủ (hay Phong Ðô Ðại Ðế), cai quản cõi U Minh Ðịa phủ (cũng gọi là cõi Phong Ðô). Thời TKPÐ, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, giải tán Ðịa ngục, phóng thích các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả. Ðức Chí Tôn lập ra một cõi mới là cõi Âm Quang để các linh hồn tội lỗi đến đó xét mình và học Ðạo, nhận biết lỗi lầm của mình mà ăn năn sám hối, cầu khẩn Ðức Chí Tôn cứu rỗi. Do đó, Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát trở thành Giáo chủ cõi Âm Quang, giáo hóa các Nam tội hồn; còn các Nữ tội hồn thì có Thất Nương DTC đến giáo hóa.

Bố: Bày ra, cho. Từ bi: Lòng thương yêu chúng sanh và lúc nào cũng muốn giúp chúng sanh thoát khổ. Tế: Giúp đỡ. Bạt: Nhảy qua, vượt qua. Vong hồn: Linh hồn người chết.
C.5-6: Ðức Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu giúp các vong hồn vượt qua biển khổ.

Câu 7-8: Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,
Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.
Khổ nàn: Khổ nạn, tai nạn khổ sở. Miền Âm cảnh: Cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục. Ngục môn: Cửa ngục. Giải: Cởi bỏ.
C.7-8: Xin Ðức Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp các tai nạn khổ sở, xin khai mở và bỏ đi các cửa ngục nơi cõi Âm phủ.

Câu 9-10: Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại,
Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.
Ðông Nhạc Ðế Quân: Vị Thần làm đầu Ngũ Nhạc, cai trị phần hồn của nhơn loại. Tương truyền, ai mới thác xuống, linh hồn phải đến cho Thần Ðông Nhạc tra xét tội phước, rồi đến lúc đi đầu thai, cũng phải đến cho Thần Ðông Nhạc liệu định đường luân hồi.

Theo truyện Phong Thần, 5 vị Thần Ngũ Nhạc chia ra ở trên 5 hòn núi theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc và ở Trung ương, kể ra:
Hoàng Phi Hổ: Ðông Nhạc Thái Sơn, Tề Thiên Nhân Thánh Ðại Ðế, làm đầu Ngũ Nhạc.
Sùng Hắc Hổ: Nam Nhạc Hành Sơn, Tư Thiên Chiêu Thánh Ðại Ðế.
Thôi Anh: Bắc Nhạc Hằng Sơn, An Thiên Huyền Thánh Ðại Ðế.
Tưởng Hùng: Tây Nhạc Hoa Sơn, Kim Thiên Thư Thánh Ðại Ðế.
Văn Sính: Trung Nhạc Tung Sơn, Trung Thiên Sùng Thánh Ðại Ðế.
Năm vị Thần Ngũ Nhạc có bổn phận xem xét họa phước cho dân.
Quảng đại: Lòng dạ bao la rộng rãi.
Ðộ: Cứu giúp. Chế cải: Sửa đổi cái cũ để làm ra cái mới. Tai ương: Ðiều hại lớn. Tai là điều hại lớn, ương là xấu.
C.9-10: Ðông Nhạc Ðế Quân có lòng rộng rãi, ban ơn cứu giúp người lành và sửa đổi cho bớt tai ương.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 68, 74, 75:
...... quảng đại.
Ðộ kẻ lành .....
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo 1973:
...... khoan đại.
Hộ kẻ lành .....
Khoan đại đồng nghĩa Quảng đại.
Ðộ là cứu giúp. Hộ là che chở, giữ gìn.

Xét trên ý nghĩa của câu kinh 10, dùng chữ: "Hộ kẻ lành" thì đúng hơn là "Ðộ kẻ lành", bởi vì người lành rồi thì không cần độ nữa, mà chỉ cần hộ trì cho họ được lành mãi. Còn độ là độ kẻ chưa lành, độ kẻ tội lỗi, cho họ trở nên lành.

Ðức Chí Tôn có nói rằng: "Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến để độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy." (TNHT. I. 44)

Câu 11-12: Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
Dạ đài: Lầu đài ban đêm, tức là lầu đài cung điện nơi cõi Âm phủ. Dạ là đêm thuộc về Âm, đài là lầu đài.

Thập Ðiện Từ Vương: 10 vị vua nhơn từ cai quản 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, thường gọi là Thập Ðiện Diêm Vương, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

Thập Ðiện Diêm Vương gồm 10 vị, kể ra sau đây :
Nhứt Ðiện: Tần Quảng Vương cầm sổ sống chết.
Nhị Ðiện: Sở Giang Vương coi Ðẳng Huợt Ðại Ðịa ngục.
Tam Ðiện: Tống Ðế Vương coi Hắc Thắng Ðại Ðịa ngục.
Tứ Ðiện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Ðại Ðịa ngục.
Ngũ Ðiện: Diêm La Vương coi Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
Lục Ðiện: Biện Thành Vương coi Ðại Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
Thất Ðiện: Thái Sơn Vương coi Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
Bát Ðiện: Bình Ðẳng Vương coi Ðại Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
Cửu Ðiện: Ðô thị Vương coi A-Tỳ Ðại Ðịa ngục.
Thập Ðiện: Chuyển Luân Vương coi việc cho đi đầu thai.
C.11-12: Nơi cõi Âm phủ, Thập Ðiện Diêm Vương nhơn từ, thấy tội nhơn bị hình phạt khổ sở thì đem lòng thương xót thảm thiết.

Câu 13: Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.
Luy tiết: Luy là sợi dây dùng để trói kẻ có tội; tiết là sợi dây dùng để trói. Luy tiết là trói buộc kẻ có tội, ý nói cảnh giam cầm tù tội.
C.13: Làm cho giảm bớt những hình phạt và giảm bớt việc giam cầm tù tội.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 74, 75:
... ly tiết.
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo năm 1973:
... luy tiết.

Từ ngữ "ly tiết" không có nghĩa nào thích hợp với câu kinh nầy. Vả lại, người bình dân đọc 2 chữ LY và LUY như cùng một âm. Do đó, câu kinh nầy phải viết là LUY TIẾT mới đúng.

Câu 14: Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
Xá: Tha cho, xá tội. Linh quang: Ðiểm Linh quang do Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm linh hồn. Xá linh quang: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn. Tiêu diệt: Làm cho mất hẳn đi. Tiền khiên: Những lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước. Khiên là lỗi lầm, tiền là trước.
C.14: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn và tiêu diệt hết các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.

Câu 15-16: Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên,
Nơi phước địa ở yên tu luyện.
Cung Tiên: Chỉ cõi Tiên, cõi TLHS. Phước địa: Ðất phước, vùng đất lành và an vui. Tu luyện: Tu là sửa đổi đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tìm đường Thiên lý; luyện là rèn, trau giồi cho sáng suốt. Tu mà không luyện thì chẳng khác chi một cục sắt, không rèn giũa thì làm sao trở thành món đồ dùng hữu ích.
C.15-16: Linh hồn được nhẹ nhàng bay thẳng lên cõi TLHS, và ở yên nơi đất phước để lo tu luyện.

Câu 17-18: Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
Sở nguyện: Ðiều quan trọng mà mình mong mỏi trong lòng. Hộ: Che chở giữ gìn. Thương sanh: Những người sống thấp kém nghèo khổ, chỉ chung nhơn sanh. Thương là màu xanh, sanh là sống.
U hiển: U là tối tăm, chỉ cõi Âm phủ; Hiển là hiện ra rõ ràng, chỉ cõi Dương gian. U hiển là chỉ cõi Âm phủ của người chết và cõi Dương gian của người sống. Khương ninh: Mạnh khỏe an ổn. Khương là mạnh khỏe, ninh là an ổn.
C.17-18: Xin Ðức Chí Tôn và chư Phật chứng điều sở nguyện và xin gìn giữ che chở nhơn sanh ở cõi Âm cũng như ở cõi Dương được mạnh khỏe và an ổn.

KINH ÐƯA LINH CỮU
(Giọng Nam ai)
1 . Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
2 . Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
3 . Nam mô Ðịa Tạng thi ân,
4 . Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
5 . Nam mô Tam Trấn Hư Vô,
6 . Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.
7 . Nam mô Tam giáo diệu huyền,
8 . Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
9 . Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng,
10 . Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.
11 . Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng,
12 . Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.
13 . Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,
14 . Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
15 . Tòa sen báu vật xin đưa,
16 . Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
            (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA
Kinh Ðưa Linh Cữu do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trong suốt thời gian đưa linh cữu từ nơi phát hành đến nơi chôn cất.

Linh cữu: Linh là linh hồn người chết, cữu là cái áo quan. Linh cữu là cái áo quan trong đó đã có liệm thi hài của một linh hồn vừa bỏ xác.

Theo cách gọi thông thường, khi đưa đi chôn thì gọi là Linh cữu, khi còn đặt trong nhà để tế lễ thì gọi là Quan tài.

Câu 1-2: Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng. Các Trấn Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng trấn nhậm ở các địa phương như: Thần Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Thần, Thổ Ðịa, Sơn Thần .

Trợ lịnh: Trợ là giúp đỡ. Trợ lịnh là giúp đỡ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên cho được hiệu quả.

Chơn hồn: Ở đây có nghĩa là Chơn thần, xác thân thiêng liêng, Nhị xác thân. (Xem trở lại C.6 KCHKHH)
Xa lánh: Tránh đi chỗ khác cho xa chỗ đó. Xác trần: Thể xác phàm, Ðệ nhứt xác thân.
C.1-2: Cầu xin các vị Thần linh trấn nhậm ở địa phương nầy giúp lịnh gìn giữ Chơn thần của người chết lánh xa xác phàm.

Câu 3-4: Nam mô Ðịa Tạng thi ân,
Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
Nam mô: do tiếng Phạn phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Ðạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho một câu cầu nguyện. Ðịa Tạng: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo chủ cõi Âm quang. Khi xưa, thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ngài là Giáo chủ cõi U Minh hay cõi Phong Ðô, nên gọi Ngài là U Minh Giáo chủ hay Phong Ðô Ðại Ðế. Thi ân: Làm ơn cho người.
Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Lánh gần: Lánh đi chỗ khác, đừng lại gần.
Phong Ðô: Ở đây chỉ cõi Âm quang do Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát làm Giáo chủ.
C.3-4: Xin cầu nguyện với Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát ban ơn đưa linh hồn người chết lên đường về cõi Thiêng liêng Hằng sống, lánh xa không cho đến gần cõi Âm quang.

Câu 5-6: Nam mô Tam Trấn Hư Vô,
Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.
Tam Trấn: Thường gọi là Tam Trấn Oai Nghiêm, đó là 3 vị cầm quyền Tam giáo trong thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Tam Trấn Oai Nghiêm gồm:

Nhứt Trấn Oai Nghiêm: Ðức Ðại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, cầm quyền Tiên giáo, kiêm Giáo Tông ÐÐTKPÐ.

Nhị Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, cầm quyền Phật giáo.
Tam Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thánh Ðế Quân, cầm quyền Nho giáo.

Hư Vô: Hư là trống không, vô là không. Hư Vô là hoàn toàn trống không, nhưng trong không mà có tất cả. Hư vô là cảnh giới vô cùng mầu nhiệm mà chẳng ai rõ thấu, vì cảnh giới ấy vắng lặng trống không mà lại sanh ra các Pháp.

Oai Nghiêm: Trang nghiêm khiến người khác nể sợ.
Ðộ rỗi: Ðộ là cứu giúp, rỗi là cứu vớt khỏi những ràng buộc tội lỗi. Ðộ rỗi là cứu giúp thoát khỏi những ràng buộc tội lỗi để được siêu thăng.

Cao đồ: Môn đồ của Ðấng Cao Ðài, tức là tín đồ của Ðạo Cao Ðài. Qui nguyên: Qui là trở về, nguyên là cái gốc khởi sanh ra, đó là Thái Cực, tức là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.
C.5-6: Xin cầu nguyện với Tam Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Hư Vô mầu nhiệm độ rỗi linh hồn của người tín đồ Cao Ðài được trở về với Ðức Chí Tôn.

Câu 7-8: Nam mô Tam giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).
Diệu huyền: Huyền diệu, huyền là sâu kín, diệu là khéo léo. Huyền diệu là sâu kín khéo léo mà trí phàm không thể biết rõ được.
Tuyệt luân: Tuyệt là dứt, luân là sự luân hồi. Tuyệt luân là dứt luân hồi, tức là không còn luân hồi nữa.
Bát Nhã thuyền: Bát Nhã là trí huệ, tức là sự hiểu biết đạo lý sáng suốt. Bát Nhã thuyền là chiếc thuyền trí huệ đưa các chơn hồn vượt qua biển khổ đến bờ giải thoát. (Xem chi tiết: C.25 PMCK)
Ðộ vong: Cứu giúp linh hồn người chết.
C.7-8: Xin cầu nguyện với Ba Ðấng Giáo Chủ Tam giáo huyền diệu, xin đem chiếc thuyền Bát Nhã cứu giúp các vong hồn thoát qua biển khổ, dứt khỏi luân hồi.

Câu 9-10: Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng,
Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.
Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài làm bằng ngọc trắng, là nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

Công Ðồng: Công là chung, đồng là cùng nhau.
Bạch Ngọc Công Ðồng: là một Ðại Hội chư Thần Thánh Tiên Phật tại Bạch Ngọc Kinh để quyết nghị các công việc chung có tính cách quan trọng, dưới quyền chủ tọa của Ðức Chí Tôn.

Trái oan: Oan là thù giận, trái là món nợ. Trái oan là món nợ oan nghiệt. Kiếp trước, mình làm cho người ta thù giận mình, tức là mình tạo ra oan trái, nay mình phải đền trả món nợ đó.
C.9-10: Xin cầu nguyện với các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật trong Hội Công Ðồng nơi Bạch Ngọc Kinh, xin cởi mở ra cho hết vòng oan trái.

Câu 11-12: Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng,
Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.
Tận độ: Tận là hết, độ là cứu giúp. Tận độ là cứu giúp toàn cả chúng sanh, không chừa một người nào cả. Cơ tận độ: Cơ quan có nhiệm vụ tận độ chúng sanh. Cơ quan nầy là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tức là Ðạo Cao Ðài.
Trong Bài Tựa quyển Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, Hội Thánh có viết như sau:
"Ðức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Ðức Hộ Pháp, trót 10 năm trường, nghĩa là từ ngày mở Ðạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng liêng đặng xin Kinh Tận độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần Thánh Tiên Phật chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới ngày mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) mới giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam Lồ của Ðức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.
Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Ðã trải qua 10 năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận độ. Cơ Tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi."
C.11-12: Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn mở ra cơ quan Tận độ nhơn sanh để linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thăng.

Câu 13-14: Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,
Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
Cửa Cực Lạc: Cửa đi vào Cực Lạc Thế giới. Thinh thinh: Rộng rãi thênh thang. Lui trở: Lui bước trở về.
Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng liêng.
C.13-14: Cửa CLTG mở rộng thênh thang để rước các vong hồn trở lại ngôi vị cũ.

Câu 15-16: Tòa sen báu vật xin đưa,
Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
Tòa sen: Ngôi vị của Phật hay Bồ Tát. Báu vật: Vật quí báu. Chơn linh: Linh hồn. An ngự: An là yên ổn, ngự là ngồi lên một cách trang trọng. An ngự là ngồi lên một cách trang trọng và an ổn. Cho vừa: Cho tương xứng.

Quả duyên: Quả là cái kết quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành cái Quả. Quả duyên là cái kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do công đức tu hành.
C.15-16: Xin đưa Chơn linh đến an ngự trên tòa sen quí báu cho tương xứng với công đức tu hành.

KINH HẠ HUYỆT
(Giọng Nam ai)
1 . Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn.
2 . Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
3 . Giải thi lánh chốn đọa đày,
4 . Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
5 . Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.
6 . Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.
7 . Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
8 . Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
9 . Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ.
10 . Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.
11 . Ðưa tay vịn phép diệu huyền,
12 . Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.
13 . Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi.
14 . Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên.
15 . Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
16 . Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

GIẢI NGHĨA
Kinh Hạ Huyệt do Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát (Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai) giáng cơ ban cho.
Khi đưa linh cữu ra tới huyệt thì vị chứng đàn và đồng nhi đứng trước đầu huyệt, tụng Kinh Hạ Huyệt 3 hiệp, mỗi hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng tiếp 3 biến Vãng Sanh Thần Chú. Hễ dứt thì niệm Câu Chú của Thầy 3 lần.

Hạ Huyệt: Hạ là đem xuống, huyệt là cái lỗ đào xuống đất. Hạ huyệt là đem quan tài đặt xuống cái huyệt đã đào sẵn dưới đất để chôn.
Kinh Hạ Huyệt là bài kinh để đồng nhi tụng trước khi đem quan tài đặt xuống huyệt để chôn.

Câu 1: Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn.
Huỳnh lương: Huỳnh là màu vàng, lương là bắp. Huỳnh lương là bắp vàng, một lọai trong ngũ cốc dùng để nấu ăn. Giấc mộng huỳnh lương: Giấc chiêm bao kéo dài trong thời gian nấu chín nồi bắp vàng.

ÐIỂN TÍCH: Chung Ly Vân Phòng đời nhà Hớn, nên thường gọi là Hớn Chung Ly, là một vị Ðại Tiên, thấy Ông Lữ động Tân (thường gọi Lữ đồng Tân) có căn lành nên muốn độ họ Lữ đi tu, liền đến huyện Hàm Ðang gặp họ Lữ nói rằng:
- Ta là Chung Ly Vân Phòng tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không?

Lữ đồng Tân có vẻ lưỡng lự vì muốn đi thi Tiến sĩ để dương danh với đời. Chung Ly biết vậy, liền mời Lữ đồng Tân đến bên nồi bắp vàng đang nấu, ngồi chơi, rồi đưa cho một cái gối bảo nằm xuống nghỉ, còn mình thì tiếp tục đun nồi bắp vàng. Ðồng Tân kê đầu vào gối nằm xuống giây lát thì chiêm bao thấy mình vác lều chõng đi thi, ngang qua một nhà giàu nọ, gặp một người con gái rất đẹp thì ướm lời. Nàng nọ nói rằng: " Nếu chàng đi thi đậu Trạng Nguyên thì thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp." Lữ đồng Tân vào khoa thi, đậu được Trạng Nguyên, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp nữa, được vua bổ làm quan Gián Nghị, lần lần được thăng lên đến chức Tể Tướng, giàu sang tột bực, con cháu đầy nhà.

Chẳng may, sau đó bị gian thần hãm hại, vu oan giá họa, vua truyền bắt tội, tịch thu hết gia sản sự nghiệp, rồi đày ra chốn Lãng Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt mình thức dậy, ngơ ngẩn tâm thần.
Chung Ly Vân Phòng ngồi kế bên bèn cười lớn, ngâm hai câu thơ:
Nồi bắp hãy còn ngòi,
Chiêm bao đà thấy cháu.

Lữ đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng:
- Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao?

- Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường.

Lữ đồng Tân nghe Hớn Chung Ly nói thế thì tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ lại mà chán ngán cuộc đời, liền từ bỏ mộng công danh, cầu xin Hớn Chung Ly truyền đạo.

Do sự tích nầy, người ta thường dùng các thành ngữ: Giấc huỳnh lương, Huỳnh lương mộng, Giấc Hàm Ðang, là để chỉ giấc mộng của Lữ đồng Tân, ý nói rằng: Cuộc vinh hoa phú quí ở đời, nên xem nó là phù du mộng ảo.

Câu 2: Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
Phồn ba: Phồn là nhiều; ba là cái hoa. Phồn ba, đồng nghĩa Phồn hoa, là chỉ nơi dân cư đông đúc, mua bán tấp nập, ngựa xe như nước, là trường náo nhiệt đua chen danh lợi.

Thoáng: Thoảng qua, lướt qua một cách nhẹ nhàng trong thời gian rất ngắn, chỉ đủ để cảm nhận được.
C.1-2: Khi thức tỉnh lại rồi, thấy cuộc đời như là một giấc chiêm bao. Cái âm vang của trường náo nhiệt đua chen danh lợi cũng hết thoảng bên tai.

Câu 3-4: Giải thi lánh chốn đọa đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
Giải thi: Giải là cởi bỏ, thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là khi thể xác chết, Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác, đi lên cõi Thiêng liêng.

Chốn đọa đày: Chỉ cõi trần, vì cõi trần là cõi đọa.
Chơn linh trong sạch: Chơn linh trong sạch thì Chơn thần phải trong sạch. Muốn cho Chơn thần trong sạch thì phải giữ cho Thể xác trong sạch. Muốn cho Thể xác trong sạch thì phải ăn chay trường, cúng kiếng thường và giữ tư tưởng cho thanh cao. Một Chơn linh trong sạch khi ở trong một Chơn thần trong sạch; một Chơn thần trong sạch khi ở trong một Thể xác trong sạch. Chơn thần trong sạch thì mới nhẹ nhàng, mới bay lên tới cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Càn Khôn: Trời Ðất, thường nói CKVT. Ra ngoài Càn khôn: Bay thoát ra ngoài cõi trần, đi vào CKVT.
C.3-4: Cởi bỏ thể xác để Linh hồn và Chơn thần bay lên lánh khỏi cõi trần đày đọa. Khi Linh hồn và Chơn thần trong sạch thì mới được nhẹ nhàng, thoát ra ngoài cõi trần, đi vào CKVT.

Câu 5: Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.
Phép Giải oan: là một phép Bí tích rất huyền diệu của Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn ban cho nhơn loại trong kỳ Ðại Ân Xá nầy, để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra từ nhiều kiếp trước, nhờ đó nhơn sanh dễ tiến bước trên đường tu hành, theo đúng với Cơ Tận độ của Ðức Chí Tôn. (Xem: C.30 KGO).
C.5: Phép Giải oan cứu giúp các linh hồn thoát khỏi các tội tình đã gây ra trong nhiều kiếp trước.

Câu 6: Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.
Phướn Tiêu Diêu: Cây phướn của Lục Nương cầm, cũng gọi là Phướn Truy Hồn, để gìn giữ và hướng dẫn Chơn hồn đi lên các từng Trời của Cửu Trùng Thiên.
Trường sanh: Sống hoài, hằng sống, chỉ cõi TLHS.
C.6: Cây Phướn Tiêu Diêu của Lục Nương dẫn dắt các chơn hồn lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Câu 7-8: Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
Hồng phước: Hồng là to lớn, phước là điều may mắn tốt lành. Hồng phước là điều may mắn tốt lành lớn do Ðức Chí Tôn ban cho. (Chữ Hồng dùng để chỉ cái gì to lớn của Ðức Chí Tôn hay do Ðức Chí Tôn ban cho. Thí dụ: Hồng oai, Hồng từ, Hồng ân, Hồng phước.)

Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.
Lôi Âm: Lôi Âm Tự, chùa Lôi Âm ở tại kinh đô của cõi CLTG, nơi ngự của Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Ở đây, Lôi Âm là chỉ cõi CLTG, là nơi hoàn toàn sung sướng và an vui. Tự toại: Tự là chính mình, toại là thỏa lòng. Tự toại là lòng dạ thỏa thích, ung dung thơ thới.

Bồng Dinh: Hai hòn đảo: Bồng Lai và Dinh Châu. Tương truyền trong biển Bột Hải nơi cõi Thiêng liêng có 3 hòn đảo tên là: Bồng Lai, Dinh Châu, Phương Trượng, đều có Tiên ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (cũng gọi là Bồng sơn) có 8 động đá là nơi ở của Bát Tiên. Bồng Dinh là chỉ cõi Tiên. Lôi Âm là chỉ cõi Phật.
C.7-8: Nhờ hưởng được ơn phước của Ðức Chí Tôn, nên Chơn hồn được ung dung thơ thới nơi cõi Phật, và an nhàn nơi cõi Tiên.

Câu 9: Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ.
Hậu Thổ: Hậu là vua (theo nghĩa xưa), Thổ là đất. Hậu Thổ là vua Ðất, tức là vị Thần cai quản đất đai của một nước, làm đầu các vị Thổ Thần. Thổ Thần là vị Thần cai quản một vùng đất nhỏ. Xương tàn: Bộ xương còn lại sau khi xác chết thúi rã thành nước tan vào đất.
C.9: Xin nhờ thần Hậu Thổ gìn giữ các mảnh xương tàn của người chết gởi tại nơi đây.

Câu 10: Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.
Nghĩa Chí Tôn: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn. Tiền khiên: Lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.
C.10: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.

Câu 11-12: Ðưa tay vịn phép diệu huyền,
Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.
Phép diệu huyền: Phép Bí tích huyền diệu mà Ðức Chí Tôn đã ban cho như: Phép Giải oan, Phép Xác, Phép Ðoạn căn, Phép Ðộ thăng, vv. Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào cho có thế vững, ý nói dựa vào. Vịn phép diệu huyền: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu.

Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung nơi cõi Thiêng liêng, là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Hiệp Thiên Ðài là hình ảnh của Ngọc Hư Cung tại thế.
Lập vị: Làm nên phẩm vị cho mình.
Cửu tuyền: Tuyền là suối, Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Âm phủ. Tương truyền, cõi Âm phủ có 9 dòng suối.
Lánh chơn: Bước đi lánh khỏi chỗ đó.
C.11-12: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu mà lên Ngọc Hư Cung lập phẩm vị cho mình, và bước đi lánh xa cõi Âm phủ.

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936:
Ðưa tay dịnh phép.
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
Ðưa tay định phép.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
Ðưa tay vịn phép.

Câu 13: Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi.
Ngó: Nhìn. Cực Lạc: CLTG, cõi Phật.
Huờn: do chữ Hoàn nói trại ra. Hoàn là một viên tròn, một cái hột. Thí dụ như: Hoàn thuốc.
Xá lợi: Sau khi Ðức Phật Thích Ca tịch diệt, thể xác của Phật được hỏa thiêu. Trong mớ tro tàn còn lại có những hột tròn tròn chiếu sáng như ngọc, gọi là Ngọc Xá lợi. Các hột Xá lợi nầy được thu giữ cẩn thận, phân chia ra nhiều chỗ để thờ. Vị Tăng Thống của Phật giáo Tích Lan có đem qua tặng Tòa Thánh Tây Ninh một hột Ngọc Xá lợi nầy. Do đó, từ ngữ Huờn Xá lợi là chỉ Ðức Phật.
C.13: Nhìn về phía CLTG để theo về với Phật.

Câu 14: Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên.
Cửu Trùng Thiên: Chín từng Trời. Cửu là 9, Trùng là nhiều lớp chập chồng lên nhau, Thiên là Trời. (Xem chi tiết về Cửu Trùng Thiên nơi chữ: Chín từng Trời, Câu 8 bài Kinh Niệm Hương). Mở lối: Mở đường.

Qui nguyên: Qui là trở về; Nguyên là cái gốc mà từ đó nó được sanh ra, gốc đó là Thái Cực tức là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.
C.14: Chín từng Trời mở ra một con đường để các Chơn hồn trở về với Ðức Chí Tôn.

Câu 15: Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
Rỡ ràng: Sáng ngời một cách đẹp đẽ.
Phật cốt: Cốt cách như Phật. Tiên duyên: Có duyên với Tiên, tức là có mối dây ràng buộc với các vị Tiên.
C.15: Cốt cách sáng ngời như Phật, có mối dây ràng buộc với Tiên.

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ- năm 1936:
Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975:
Rõ ràng Phật cốt tiền duyên.
Rõ ràng: Rất rõ, rất minh bạch.
Tiền duyên: Có mối dây ràng buộc từ trước.

Câu 16: Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân.
Nước Cam lồ: Chữ Hán là Cam lồ thủy, Cam là ngọt, Lồ do chỡ Lộ đọc trại ra, Lộ là giọt sương. Cam lồ thủy tức là Cam lộ thủy là nước sương ngọt. Ðây là chất nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát luyện thành, có vị ngọt, mùi thơm, công dụng rất linh diệu, giải trừ oan nghiệt, cải tử huờn sanh.
Thuyền độ nhân: Chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người.
C.16: Nước Cam lồ rửa sạch tiền khiên nghiệp chướng, và chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người đưa qua biển khổ.

VÃNG SANH THẦN CHÚ
            Nam-mô         
            A-Di-Ðà Bà-Dạ, Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
            Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
            A-Di-Rị-Ða, Tất-Ðam-Bà-Tì,
            A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ðế,
            A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ða,
            Già-Di-Nị, Già-Già-Na,
            Chỉ-Ca-Ða-Lệ, Ta-Bà-Ha.
            (Tụng 3 lần rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần).


GIẢI NGHĨA
Vãng sanh: Vãng là đã qua, ý nói chết, qua đời; Sanh là sanh ra và sống. Vãng sanh là chết ở thế giới ô trược nầy để linh hồn chuyển sanh qua một thế giới khác cao hơn, thanh khiết hơn, tốt đẹp hơn, an vui sung sướng hơn.
Thần chú: Thần là thiêng liêng mầu nhiệm, Chú là câu niệm đặc biệt có tác dụng rất huyền diệu.
Vãng sanh Thần chú: là Câu niệm bằng tiếng Phạn đặc biệt của Phật giáo để cầu nguyện với Ðức Phật A-Di-Ðà cứu độ linh hồn người chết được sanh về cõi CLTG.

Vãng sanh Thần chú gồm 59 chữ, được giải nghĩa theo Phật Học Từ Ðiển của Ông Ðoàn trung Còn như sau:
Nam-mô A-Di-Ðà Bà-Dạ: Tiếng Phạn là Namah Amitabhavyuha, nghĩa là: Qui kính Ðức A-Di-Ðà Phật.
Ða-Tha-Già-Ða-Dạ: Tiếng Phạn là Tathagata, nghĩa là: Như Lai. (Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật).
Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: dịch là tức thuyết chú viết, nghĩa là: Liền đọc bài Chú dưới đây.
10 câu tiếp theo: là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: Nhổ bỏ tận gốc các nghiệp chướng.
Ta-Bà-Ha: tiếng Phạn là Swâha. Thường các bài Thần chú đều có 3 chữ chót là Ta-Bà-Ha, có nghĩa là: Thường tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính Phật chứng minh.

Vãng Sanh Thần Chú còn được gọi là: Chú Vãng Sanh, Vãng Sanh Chơn ngôn, Vãng Sanh Quyết định Chơn ngôn.

KINH KHAI CỬU
ÐẠI TƯỜNG & TIỂU TƯỜNG
(Giọng Nam xuân)
1 . Ðã quá chín từng Trời đến vị.
2 . Thần đặng an, Tinh Khí cũng an.
3 . Tầng Trời gắng bước lên thang.
4 .Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
5 . Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi.
6 . Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào.
7 . Ngó chi khổ hải sóng xao,
8 . Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
9 . Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,
10 . Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
11 . Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
12 . Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.

GIẢI NGHĨA
Kinh Khai Cửu, Ðại Tường và Tiểu Tường do Ðức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng mở đầu trước khi tụng Kinh Tuần Cửu, Kinh Tiểu Tường hay Ðại Tường.
Tuần Cửu: Tuần là khoảng thời gian đều đặn gồm nhiều ngày, Cửu là 9. Tuần Cửu là khoảng thời gian 9 ngày.
Một tín đồ Cao Ðài khi chết, được thân nhân làm Tuần Cửu tại Thánh Thất sở tại, với một nghi thức đặc biệt ấn định trong Nghi Lễ của Ðạo Cao Ðài.
Cứ sau khi chết được 9 ngày thì thân nhân đến Thánh Thất sở tại làm Tuần Nhứt Cửu, rồi tiếp theo đếm 9 ngày nữa thì làm Tuần Nhị Cửu, vv., cho đến Tuần Cửu Cửu mới chấm dứt Tuần Cửu, tổng cộng là 81 ngày.
(Phật giáo thì làm Tuần Thất [Tuần 7 ngày], sau khi chết được 7 ngày thì làm Tuần Thất thứ nhứt, sau 7 ngày nữa thì làm Tuần Thất thứ nhì, vv. và tiếp tục đến Tuần Thất thứ bảy là chấm dứt, tính chung là 49 ngày).

Tuần nhứt Cửu: Ngày chết được kể là 1, đếm tới ngày thứ 9 thì làm Tuần Nhứt Cửu tại Thánh Thất sở tại, tụng Kinh Ðệ Nhứt Cửu.
Tuần Nhị Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 18 thì làm Tuần Nhị Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Ðệ Nhị Cửu.
vv . . . . . . . . . . . . .

Tuần Cửu Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 81 thì làm Tuần Cửu Cửu, là kỳ chót hết, nên gọi là Chung Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại y như 8 kỳ Cửu trước và tụng bài Kinh Ðệ Cửu Cửu.

Tiểu Tường: Tiểu là nhỏ, Tường là tốt lành. Tiểu Tường là điều tốt lành nhỏ. Ðại Tường là điều tốt lành lớn.

Trong nhà có tang, cả nhà đều đau buồn thương xót tưởng nhớ người quá cố. Nhưng thời gian lâu dần xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn bớt dần, đem lại cái vui như một điều lành, điều tốt . Vì vậy, Tiểu Tường cũng là Tiểu Kiết Tường.

Theo Tân Luật của Ðạo Cao Ðài, hôm sau ngày làm Tuần Cửu Cửu, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 200 thì làm Lễ Tiểu Tường, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Tiểu Tường.

Ðại Tường: Hôm sau ngày làm Tiểu Tường, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 300 thì làm Lễ Ðại Tường. Tới Ðại Tường là mãn tang, làm Lễ Trừ Phục (đốt áo tang và khăn tang).

Tính từ ngày chết đến ngày Lễ Ðại Tường mãn tang là 581 ngày, tức khoảng 1 năm 7 tháng rưỡi, chưa tới 2 năm.

Câu 1: Ðã quá chín từng Trời đến vị.
Chín từng Trời: Cửu Trùng Thiên. (Xem chi tiết nơi Câu 8 bài Niệm Hương). Phía trên 9 từng Trời, là từng Trời thứ 10, gọi là Hư Vô Thiên, có cõi Cực Lạc Thế Giới, là nơi hoàn toàn an vui sung sướng. Ðã quá 9 từng Trời: Ðã đi qua được 9 từng Trời, tức là đến được từng Trời thứ 10 có cõi CLTG.
Vị: Ngôi vị. Ðến vị: Ðến chỗ đặt ngôi vị của mình.
C.1: Ðã qua khỏi Chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên) thì đến cõi CLTG là nơi có ngôi vị cũ của mình.

Câu 2: Thần đặng an, Tinh Khí cũng an.
Thần, Tinh, Khí: Ðây là Tam bửu của con người. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh hay Linh hồn.

C.2: Người chết rồi thì Thể xác nằm yên trong lòng đất, còn Chơn thần và Chơn linh được các Ðấng Thiêng liêng cứu giúp nên cũng được yên ổn.

Câu 3:  Tầng Trời gắng bước lên thang.
Các từng Trời từ thấp dần dần lên cao như những nấc thang, Chơn thần cố gắng bước lên.

Câu 4:  Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
Trông thấy các lớp mây thì nhìn lại cái cảnh thong dong nhàn hạ thuở xưa, lúc còn ở cõi TL, chưa đầu kiếp xuống trần.

Câu 5:  Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi.
Cõi thảm khổ là cõi trần, Chơn thần đã vừa thoát ra khỏi cõi trần.

Câu 6:  Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào.
Trần ai: Trần là bụi bặm, ai là bụi. Trần ai là chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống, vì cõi nầy có nhiều bụi bặm ô trược. Ðộng Ðào: chỉ cõi Tiên. (Xem Ðiển tích C.5 KKV)
C.6: Quên đi cõi trần đầy bụi bặm ô trược nầy, hãy mong mỏi đi lên cõi Tiên.

Câu 7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao,
Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
Ngó chi: Nhìn làm chi. Khổ hải: Biển khổ, chỉ cõi trần. Sóng xao: Những làn sóng xao động trên mặt nước.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có đoạn nói về Khổ hải sóng xao:
"Chúng ta dòm phía dưới thấy đại hải mênh mông, nước cuồn cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ KHỔ, chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào quang nổi lên dữ tợn lắm, mấy chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có một chữ KHỔ. Chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ đại hải như thế nào thì khổ hải là cả nước chúng ta như thế ấy."

Ðoạn tình: Ðoạn là cắt đứt, tình là các thứ tình cảm của con người. Con người có Thất Tình: Hỷ [mừng], Nộ [giận], Ái [thương], Ố [ghét], Ai [buồn], Lạc [vui], Dục [muốn]. Ðoạn tình là cắt đứt các thứ tình cảm.

Yểm dục: Yểm là đè nén, dục là ham muốn. Con người có Lục Dục, tức là 6 thứ ham muốn, kể ra: Sắc dục [ham muốn sắc đẹp], Thinh dục [ham muốn âm thanh êm tai], Hương dục [ham muốn mùi thơm],Vị dục [ham muốn ăn ngon], Xúc dục [ham muốn da thịt mát mẻ], Ý dục [ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ]. Yểm dục là đè nén lòng ham muốn. Lòng ham muốn là của xác thịt nên có xu hướng về đường vật chất, xúi giục con người làm điều sái quấy để nó được thỏa mãn. Cho nên cần phải đè nén lòng dục, và cần chuyển hóa nó vào đường cao thượng.
C.7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao, Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên, nghĩa là: Ðừng nhìn biển khổ đang dợn sóng ba đào, hãy cắt lìa các thứ tình cảm và đè nén lòng ham muốn thì mới vào được cõi Trời (cõi TLHS).

Con người có Thất Tình và Lục Dục. Chúng là mối loạn hằng ngày trong tâm trí. Con người vì bị Thất Tình Lục Dục khiến sai mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Chúng luôn luôn xô đẩy con người vào hang sâu vực thẳm.

Làm người phải lập chí cao thượng, đừng để Thất Tình cám dỗ, Lục Dục khiến sai, mình phải có ý chí cương quyết mạnh mẽ làm chủ nó, hướng dẫn nó vào đường đạo đức, chớ đừng yếu ớt lôi thôi, mới mong đắc đạo, bước vào Tiên cảnh.

Câu 9-10: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
Giọt lụy: Giọt nước mắt, chỉ sự đau khổ thương tiếc.

Cửu huyền: Theo nghĩa thông thường thì Cửu Huyền là Tổ Tiên 9 đời trước mình, sanh ra dòng họ nhà mình. Thờ Cửu Huyền là ý nói mình thờ Tổ Tiên 9 đời trước mình. (Xem chi tiết: Cửu Huyền Thất Tổ, C.20 Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu)

Nhưng trong Câu Kinh nầy: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, là ý nói những người thân yêu đang chảy nước mắt khóc than thương tiếc cho cái chết của người thân, như thế thì Cửu Huyền ở đây là chỉ những người thân thiết đang còn sống, đang còn hiện tiền, mới khóc than trước cái chết của người thân yêu.

Do đó, theo hướng nầy, chúng ta giải thích chữ Cửu Huyền là Cửu Tộc, bởi vì Bổn thị Cửu Tộc tức Hệ thống Cửu Huyền, Cửu Tộc và Cửu Huyền đều có cùng một nguyên lý.

Theo Tộc chế đời nhà Châu, Cửu Tộc là 9 hạng người có liên hệ thân thuộc với bản thân mình, kể ra như sau:
Những người trong ngũ phục thuộc họ cha.
Cô và con cô.
Chị em gái và con của chị em gái.
Con gái và con của con gái.
Bốn hạng người trên thuộc tộc cha.
Cha của mẹ, tức là Ông ngoại.
Mẹ của mẹ, tức là Bà ngoại.
Chị em gái của mẹ và con của các vị ấy.
Ba hạng người nầy thuộc tộc của mẹ.
Cha vợ.
Mẹ vợ.
Hai hạng người nầy thuộc tộc của vợ.

Nếu không căn cứ theo Tộc chế của nhà Châu, mà căn cứ theo sự gần gũi thương yêu, Cửu Tộc là 9 hạng người gần gũi thân thiết nhứt của mình có thể được kể ra như sau:
Cha ruột.
Mẹ ruột.
Cha vợ [hoặc Cha chồng].
Mẹ vợ [hoặc Mẹ chồng].
Vợ [hoặc chồng] của BẢN THÂN.
Anh chị ruột.
Em ruột trai hay gái.
Con.
Cháu.
C.9: Dầu cho những người thân thích trong 9 hạng đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình.

Thuận: Bằng lòng theo. Trầm luân: Chìm đắm. Thuận nợ trầm luân: Bằng lòng đi theo sự kéo níu tình cảm của những người thân yêu để phải chìm đắm trong vòng luân hồi.

C.9-10: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân. Nghĩa là: Dầu cho những người thân yêu đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình, thì mình cũng chớ đau lòng mà trở lại cõi trần để phải chịu chìm đắm trong vòng luân hồi.

Câu 11-12: Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.
Huệ: Sáng suốt, thông hiểu sự lý, dứt điều mê muội.

Thần: Thiêng liêng huyền diệu.
Huệ kiếm gươm thần: Cây kiếm trí huệ, cây gươm mầu nhiệm. Ðây là cách nói so sánh cho dễ hiểu, bởi vì người chiến sĩ dùng gươm và kiếm để đánh thắng kẻ địch, còn người tu thì dùng cái trí huệ đạt được của mình làm như cây gươm cây kiếm để quyết thắng các tên giặc Lục dục Thất Tình và chặt đứt mọi phiền não, mọi sợi dây ràng buộc con người vào cõi trần, để trở về cõi TLHS. Dứt tan: Làm cho mất hẳn. Sự thế: Việc đời. Nợ trần: Các món nợ oan nghiệt gây ra nơi cõi trần.
C.11-12: Cầm chặt cây kiếm trí huệ huyền diệu để dẹp tan việc đời và chặt đứt các món nợ oan nghiệt ràng buộc vào cõi trần thì từ đây mới có thể trở về cõi TL.

Kinh Ðệ Nhứt Cửu
(Giọng Nam xuân)
1 . Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.
2 . Khối hình hài đã chịu rã tan.
3 . Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
4 . Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
5 . Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.
6 . Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.
7 . Cung Thiềm gắng bước cho mau.
8 . Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.
9 . Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
10 . Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
11 . Ðem mình nương bóng Chí Linh,
12 . Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
13 . Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.
14 . Phách anh linh ắt phải anh linh.
15 . Quản bao Thập ác Lục hình,
16 . Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
            (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA
Kinh Ðệ Nhứt Cửu do Nhứt Nương DTC giáng cơ ban cho. Nhứt Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các Chơn hồn vừa mới thoát xác, lên từng Trời thứ nhứt, đến Vườn Ngạn Uyển xem cái hoa của mình mới vừa héo úa. Các Chơn hồn còn được Nhứt Nương giúp cho định tỉnh Chơn thần và Chơn linh.

Câu 1: Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.
Ngạn Uyển: Ngạn là bờ cao, Uyển là cái vườn của nhà vua. Ngạn Uyển là cái vườn hoa của Ðức Phật Mẫu nơi cõi TL. Trong vườn Ngạn Uyển có trồng đủ 12 sắc hoa khác nhau, tượng trưng 12 con Giáp (Thập nhị Ðịa Chi). Tuổi của con người nằm trong 12 con Giáp nầy. Mỗi sanh mạng của con người nơi thế gian đều được tượng hình bằng một cái hoa nở trong vườn. Mỗi khi hoa ấy héo tàn thì người ấy lìa trần trở về cõi TL. Khi người ấy tái kiếp xuống trần thì hoa ấy lại nở ra. Khi người ấy làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, nếu làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS:
"Trước mắt chúng ta hiện tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp đẽ đủ màu. Vườn hoa ở cảnh TL ấy không phải như vườn hoa ở thế gian nầy đâu! Bông hoa thiêng liêng ấy sẽ sống một triệu lần do nơi huyền năng biến hóa của nó, và nó sẽ hiện tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng vô tận vậy. Bởi vì nó thay đổi màu sắc rực rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế nầy, đường tấn hóa trên con đường trí thức tinh thần, mỗi khi nhơn loại tiến triển lên thì vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp đẽ vô ngần."
C.1: Một cái hoa được sanh ra ở trong vườn Ngạn Uyển mà héo tàn thì một sanh mạng con người nơi cõi trần đã chết.

Câu 2: Khối hình hài đã chịu rã tan.
Khối hình hài: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt.
C.2: Thể xác phàm chết thì sình thúi và rã tan thành đất.

Câu 3-4: Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
Bảy Dây oan nghiệt: Khi con người sống nơi cõi trần, Chơn thần liên lạc với Thể xác qua 7 dòng điện từ [còn gọi là 7 sợi dây từ khí] mà mắt phàm không thấy được.

Nhờ 7 dòng điện từ nầy mà Chơn thần ra lịnh cho Thể xác phải làm đúng theo lời dạy bảo của Chơn linh, nhưng cũng qua 7 dòng điện từ nầy mà Xác phàm đòi hỏi Chơn thần phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu Chơn linh yếu đuối không ngăn cản nổi thì Chơn thần làm theo sự đòi hỏi của Thể xác, nên mới gây ra nhiều mối oan nghiệt trong kiếp sống. Do đó mới gọi 7 dòng điện từ nầy là 7 dây oan nghiệt.

Khi ta nằm chiêm bao, Chơn thần xuất khỏi Thể xác, nhưng vẫn nối liền Thể xác bằng 7 dòng điện từ. Khi có tiếng động mạnh, Thể xác nghe được, liền dùng 7 dòng điện từ nầy kéo Chơn thần trở về lập tức, và liền đó ta giựt mình thức dậy.

Bảy dây oan nghiệt ở vào 7 nơi trong cơ thể:
Trên đầu [mỏ ác].
Ngay trán.
Ngay cổ.
Ngay tim.
Ngay hông trái,
Ngay dạ dưới.
Dưới xương khu.

Khi Thể xác chết, 7 dây oan nghiệt vẫn còn kéo níu Chơn thần, ràng buộc Chơn thần không cho xuất ra. Do đó, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt 7 dây oan nghiệt, Chơn thần mới xuất ra rời bỏ thể xác, bay lên cõi TL.

Bợn trần: Các thứ dơ bẩn nơi cõi trần làm ô trược bổn tánh tốt đẹp và Chơn thần của con người.
Câu kinh 4 nói về Phép Xác, Chức sắc hành pháp dùng Cam Lồ Thủy tẩy rửa Chơn thần của người chết cho thanh khiết , trước khi hành pháp Ðoạn Căn cắt 7 dây oan nghiệt.
C.3-4: 7 sợi dây oan nghiệt đã được cắt đứt rồi, không còn ràng buộc Chơn thần nữa, đồng thời cũng đã rửa sạch hết các nhơ bợn của cõi trần bám vào Chơn thần làm cho Chơn thần dứt hết các nỗi đau thương.

Câu 5: Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.
Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi TLHS. Vòi vọi: Ở cao quá tầm nhìn của mắt như là không thấy đâu là tận cùng.
C.5: Kìa là con đường cao vòi vọi đi lên cõi TLHS.

Câu 6: Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.
Hồng Quân: Hồng là to lớn, Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn dùng để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng: Ðấng Tạo Hóa là Ông Thợ Trời, chuyển vận 2 khí Âm Dương làm như cái bàn xoay to lớn để tạo hóa ra vạn vật. Do đó, Hồng Quân là chỉ Ðức Chí Tôn. Ngọc Lầu: Tòa lầu đài bằng ngọc, ý nói Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.
C.6: Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn đương chiếu sáng rực rỡ Bạch Ngọc Kinh.

Câu 7: Cung Thiềm gắng bước cho mau.
Cung Thiềm: Thiềm là con thiềm thừ, tục gọi là con cóc. Tương truyền trên Cung Trăng có một con thiềm thừ to lớn đẹp đẽ, đã sống được 8000 tuổi, dưới họng có chữ son. Do đó, Cung Thiềm là chỉ Cung Trăng hay Mặt trăng. Nơi đây là Bạch Vân Ðộng của chư Thánh, mà vị đứng đầu là Thanh Sơn Ðạo Sĩ, tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.
C.7: Kìa là Cung Trăng, Chơn thần cố gắng bước đi cho mau.

Câu 8: Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.
Ba Thần phẩm: 3 bực Thần: - Ðịa Thần, - Nhơn Thần, - Thiên Thần. Tam Thiên: Tam là thứ 3, Thiên là từng Trời. Tam Thiên là từng Trời thứ 3, đó là từng Thanh Thiên. Theo Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài: Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển, Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên, Từng Trời thứ ba là Thanh Thiên, Từng Trời thứ tư là Huỳnh Thiên, vv.
C.8: Ði lên qua được 3 Thần phẩm thì Chơn hồn đứng đầu ở từng Trời thứ ba (để chuẩn bị đi lên từng Trời thứ tư).

Câu 9-10: Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
Khá: Nên, phải nên. Tỉnh thức: Thức tỉnh, tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa. Tiền duyên: Duyên trước, tức là mối dây ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước.
Ðoạn: Cắt đứt. Oan trái: Oan là thù giận, trái là món nợ. Oan trái là món nợ về thù giận, tức là món nợ oan nghiệt.
Buổi sanh: Lúc còn sống nơi cõi trần.
C.9-10: Nên thức tỉnh để nhớ lại là mình đã có duyên từ kiếp trước. Cắt đứt cho rồi các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra lúc còn sống nơi cõi trần.

Câu 11-12: Ðem mình nương bóng Chí Linh,
Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
Nương: Dựa vào, nhờ cậy vào. Bóng: Ánh sáng.
Ðịnh tâm: Gìn giữ cái Tâm cho được yên ổn, không vọng động. Phép tu Thiền: Giới, Ðịnh, Huệ, là để định cái Tâm cho đến khi đạt được trí huệ. Chí Thánh: Rất thiêng liêng mầu nhiệm. Thánh là thiêng liêng mầu nhiệm. Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
C.11-12: Ðem mình nương theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn mà bước tới. Ðịnh cái Tâm cho được thiêng liêng mầu nhiệm thì mới gìn giữ được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

Câu 13: Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.
Ðịnh tỉnh: Ðịnh là sắp đặt yên ổn, tỉnh là không mê, hiểu rõ mọi việc. Ðịnh tỉnh là làm cho tinh thần được yên ổn mà nhận biết rõ mọi việc.
C.13: Phải giữ cho linh hồn được yên ổn và thức tỉnh.

Câu 14: Phách anh linh ắt phải anh linh.
Phách: Chơn thần. Anh linh: Anh là đẹp nhứt, linh là thiêng liêng. Anh linh là cao quí thiêng liêng.
C.14: Chơn thần vốn cao quí thiêng liêng thì phải giữ cho luôn luôn được cao quí thiêng liêng.

Câu 15-16: Quản bao Thập ác Lục hình,
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
Quản bao: Chẳng ngại, có sá chi, coi không đáng kể.
Thập ác: Mười điều ác do Thân, Khẩu, Ý của con người gây ra. Thân thì tạo ra 3 điều ác: - Sát sanh, - Du đạo, - Tà dâm. Khẩu thì tạo ra 4 điều ác: - Nói dối, - Nói ác, - Nói chia rẽ, - Nói phù phiếm. Ý thì tạo ra 3 điều ác: - Tham lam, - Sân giận, - Si mê. Khi còn sống nơi cõi trần thì Thân, Khẩu, Ý còn gây ra được 10 điều ác. Nay Thể xác đã chết rồi thì không thể gây ra Thập ác, nên chẳng còn e ngại nữa.

Lục hình: Sáu hình thức phô bày ra nơi cõi trần, Phật giáo goị là Lục cảnh hay Lục trần, gồm: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Trong thể xác con người có Lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý, tức là: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da thịt,

Ý nghĩ. Lục cảnh phô bày trước Lục căn, hấp dẫn Lục căn, làm cho Lục căn ham muốn, sanh ra Lục dục: Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Ý dục. Chính Lục dục nầy xúi giục và xô đẩy con người vào vòng vật chất, xa đường đạo đức, tạo ra cho con người biết bao mối oan nghiệt nơi cõi trần .

Khi thân thể con người chết đi thì Lục căn tiêu mất, cho nên dù Lục cảnh (Lục trần hay Lục hình) có cám dỗ thế mấy đi nữa thì cũng chẳng làm gì được.

Giải thi: Giải là cởi bỏ, Thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là thể xác chết vì Chơn thần và Linh hồn đã lìa bỏ thể xác. Thoát khổ: Thoát khỏi cảnh khổ não.
Diệt hình: Diệt là làm cho mất đi, tiêu diệt; Hình là hình thể sắc tướng. Diệt hình là là tiêu diệt hình thể sắc tướng, mà khi sắc tướng không còn nữa thì chỉ còn cái Vô vi, Vô hình.

Ðoạt căn: Ðoạt được cái nguồn gốc của mình, tức là đắc đạo, trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
C.15-16: Quản bao Thập ác Lục hình, Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn. Nghĩa là: Có sá chi Mười điều ác của Thân Khẩu Ý, Sáu cảnh hấp dẫn phô bày nơi cõi trần, vì nay đã cởi bỏ thể xác rồi, hình hài đã tiêu mất rồi, đã thoát khỏi các cảnh khổ não nơi cõi trần và đoạt được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, Kinh Lễ năm 1952:
đoạt căn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
đoạn căn.

Ðoạn căn: là phép cắt đứt 7 Dây oan nghiệt để cho Chơn thần thoát khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.
Kinh Ðệ Nhị Cửu
(Giọng Nam xuân)
1 . Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín.
2 . Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
3 . Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
4 . Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.
5 . Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.
6 . Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều.
7 . Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu.
8 . Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
9 . Khí trong trẻo dường như băng tuyết.
10 . Thần im đìm dường nét thiều quang.
11 . Xa chừng thế giới Ðịa hoàn,
12 . Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
            (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA
Kinh Ðệ Nhị Cửu do Nhị Nương DTC giáng cơ ban cho. Nhị Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các chơn hồn từ từng Trời thứ nhứt đi lên từng Trời thứ hai, đến Vườn Ðào Tiên dự tiệc trường sanh.

Câu 1: Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín.
Tây Vương Mẫu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.

Vườn Ðào: Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu. Trái Ðào Tiên còn được gọi là trái Bàn Ðào. Cây Ðào Tiên không trồng ở thế gian được vì theo lời Ðức Phật Mẫu, đất ở thế gian mỏng lắm. Tương truyền, vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu có 3600 cây, chia làm 3 phần:
Ðàng trước có 1200 cây, hoa nhỏ trái nhỏ, 3000 năm mới chín, người ăn Ðào nầy thì thân thể nhẹ nhàng.
Khoảng giữa có 1200 cây, hoa thơm trái ngọt, 6000 năm mới chín, người ăn vào có thể bay bổng lên mây.
Phía sau có 1200 cây, trái có vỏ vân tím hột vàng, 9000 năm mới chín, người ăn vào được trường sanh bất lão.

Theo lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, nơi DTC, Ðức Phật Mẫu trụ sanh quang lại làm thành một khối gọi là quả Ðào Tiên, đủ sự sống vĩnh cửu nơi cõi Hư linh. Người ăn trái Ðào Tiên sẽ được mạnh khỏe luôn, trẻ mãi không già.

Ðức Phật Mẫu dùng trái Ðào Tiên làm phần thưởng cho các Chơn linh đắc đạo trở về đến bái kiến Ðức Phật Mẫu.
Ướm chín: Trái cây vừa mới bắt đầu chín, màu hơi ửng lên.
C.1: Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu có trái sắp chín.

Câu 2: Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
Trường sanh: Sống lâu dài. Chén trường sanh: Chén rượu Tiên, uống vào thì được trường thọ. Ngự ban: Ý nói Ðức Phật Mẫu ban tặng. Ngự là chỉ hành động của vua.
C.2: Chơn hồn lên đến Vườn Ðào Tiên thì có lịnh của Ðức Phật Mẫu ban cho chén rượu Tiên, để Chơn hồn uống vào được trường sanh.

Câu 3-4: Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.
Tiệc hồng: Hồng là to lớn. Tiệc hồng là bữa tiệc lớn, long trọng, có nhiều người tham dự. Khá đến: Nên đến.
Hội hàng: Hội hè, hội họp. Chư Linh: Các Ðấng TL. Chư là nhiều vị, Linh là thiêng liêng.
C.3-4: Bữa tiệc lớn đã được dọn sẵn sàng, Chơn thần nên đến tham dự để hội họp cùng các Ðấng Thiêng liêng.

Câu 5: Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.
Thiên đình: Triều đình của Ðức Chí Tôn.
Huyền pháp: Phép thuật biến hóa huyền diệu.
C.5: Ðã thấy đủ các phép biến hóa huyền diệu của Thiên đình.

Câu 6: Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều.
Cổi: Bỏ ra. Giác thân: Giác là biết, thân là xác thân. Giác thân là xác thân có các cơ quan để nhận biết các sự vật và hiện tượng chung quanh. Ðây là xác thân phàm của con người có ngũ giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da). Cổi Giác thân: Bỏ đi cái xác thân phàm, đừng luyến tiếc nó.
Ngân kiều: Ngân là sông Ngân, Ngân Hà; Kiều là cây cầu. Ngân kiều là cây cầu bắc qua Ngân Hà. Ngân Hà là con sông lớn nơi cõi Thiêng liêng, chia cách tình yêu của Ngưu Lang và Chức Nữ, đó là dòng sông đau khổ, nối liền với biển khổ, nên nó cũng được xem như biển khổ.
C.6: Cổi bỏ xác thân phàm, Chơn thần nhẹ nhàng đặt chân lên Ngân kiều để chuẩn bị đi qua biển khổ.

Câu 7: Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu.
Ðẩu tinh: Tinh là ngôi sao, Ðẩu tinh là ngôi sao Bắc Ðẩu. Nguyên tiêu: Nguyên là bắt đầu, thứ nhứt; Tiêu là từng Trời. Nguyên tiêu là từng Trời thứ nhứt. Ở đây, Nguyên tiêu không có nghĩa là đêm rằm tháng giêng.
C.7: Sao Bắc Ðẩu chiếu sáng thấu đến từng Trời thứ nhứt.

Câu 8: Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
Kim quang: Lằn ánh sáng màu vàng. Kiệu: Ðồ dùng sang trọng để ngồi trên đó có người khiêng đi. Kiệu đỡ: Ngồi lên kiệu có người khiêng đi. Triều: Chầu vua. Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.
C.8: Lằn ánh sáng vàng làm như cái kiệu đỡ gót Chơn thần đưa đến chầu Ðức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung.

Câu 9-10: Khí trong trẻo dường như băng tuyết.
Thần im đìm dường nét thiều quang.
Khí và Thần: Tam bửu của con người là Tinh, Khí, Thần. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh.
Băng tuyết: Băng là nước đong lại thành những tảng lớn, thấy trong suốt. Tuyết là hơi nước gặp lạnh ở dưới 0oC, đông lại thành những hạt nhỏ rơi xuống trắng xóa. Băng tuyết là chỉ sự trong sạch. Im đìm: Hoàn toàn im lặng.
Thiều quang: Thiều là đẹp, quang là ánh sáng. Thiều quang là ánh sáng đẹp. Ðó là ánh sáng của mùa Xuân.
C.9-10: Chơn thần thì trong trẻo tinh khiết như băng tuyết, còn Chơn linh thì im lìm và đẹp như ánh sáng mùa Xuân.

Câu 11-12: Xa chừng thế giới Ðịa hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
Xa chừng: Chừng là mức độ hạn định một cách đại khái. Xa chừng là đã khá xa chỗ đó. Ðịa hoàn: Ðịa là đất, hoàn là vùng đất lớn. Ðịa hoàn là Ðịa cầu. Thế giới Ðịa hoàn: Ý nói Ðịa cầu 68 của nhơn loại.
C.11-12: Ði đã khá xa cõi trần, thấy cõi TLHS đẹp đẽ, Chơn thần nhẹ nhàng bay lên cao.

Kinh Ðệ Tam Cửu
(Giọng Nam xuân)
1 . Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
2 . Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.
3 . Cam lồ rưới giọt nhành dương,
4 . Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.
5 . Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc.
6 . Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.
7 . Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.
8 . Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
9 . Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
10 . Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.
11 . Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
12 . Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
            (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA
Kinh Ðệ Tam Cửu do Tam Nương DTC giáng cơ ban cho. Tam Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên. Gọi là Thanh Thiên vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có màu xanh.

Câu 1-2: Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.
Bồng đảo: Ðảo Bồng Lai. Tương truyền ở biển Bột Hải nơi cõi TL có 3 hòn đảo: Bồng đảo [tức là đảo Bồng Lai], Dinh đảo [tức là đảo Dinh Châu], Phương đảo [tức là đảo Phương Trượng]. Ba hòn đảo nầy đều có các vị Tiên đến ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (Bồng sơn) là nơi ở của Bát Tiên. Nước biển chung quanh 3 hòn đảo nầy thì rất nhẹ, không đỡ nổi hột cải, nên gọi là Nhược Thủy (nước yếu).

Ðộng: Hang đá trong núi. Thiên Thai: tên của một hòn núi có Tiên ở. Trong truyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai chàng đi lên núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc không biết đường về, xảy gặp 2 nàng Tiên từ trong núi đi ra, rồi kết duyên cùng 2 nàng Tiên nầy. Ở núi Thiên Thai được chừng nửa năm, 2 chàng nhớ quê đòi trở về thăm. Khi về đến nhà thì con cháu đã đến đời thứ 7, không còn ai nhận ra. Hai chàng thất vọng, buồn bã trở lại núi Thiên Thai thì không tìm được đường lên núi, đành chịu chết ở chơn núi.
Bảy Lão: Bảy Ông Tiên, có lẽ đây là Trúc Lâm Thất Hiền tu thành Tiên. Ðây là 7 Ông Hiền ở trong rừng trúc, vào đời nhà Tấn bên Tàu, có tên là: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Sơn Ðào, Nguyễn Hàm, Vương Nhung.
C.1-2: Từ cõi Thanh Thiên đi lên miền đảo Bồng Lai, có 7 Ông Tiên ở động Thiên Thai ra đường đón tiếp.

Câu 3-4: Cam lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.
Cam lồ: Nước Cam lồ, thứ nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát chế thành. Thường thấy trên các hình hay tượng Ðức Quan Thế Âm, tay trái của Ðức Bồ Tát cầm Tịnh bình chứa nước Cam lồ, tay mặt cầm cành dương liễu, để nhúng vào Tịnh bình mà làm phép rải nước Cam lồ.
Giọt nhành dương: Giọt nước nơi cành dương liễu, đó là giọt nước Cam lồ của Ðức Quan Âm Bồ Tát.
C.3-4: Dùng cành cây dương liễu nhúng vào nước Cam lồ, rải lên Chơn thần để làm cho Lục dục và Thất tình tiêu tan.

Hai Câu kinh nầy là nói về Phép Xác: Vị Chức sắc hành pháp dùng nước Âm Dương cúng nơi Thiên bàn, đổ chung lại để luyện thành Cam lồ thủy, rồi dùng cành dương liễu nhúng vào nước nầy rải lên Chơn thần người chết đang nằm trong quan tài, để tẩy rửa Chơn thần cho được tinh khiết. Vị Chức sắc hành pháp phải trụ thần cho có huệ nhãn mới nhìn xuyên qua được lớp ván của quan tài, thấy được Chơn thần của người chết, thì việc hành pháp mới đạt hiệu quả huyền diệu.

Câu 5: Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc.
Cung Ðẩu Tốt: Ðây là Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân. Nhặt khoan: Khi nhanh khi chậm.
C.5: Nơi Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân có tiếng nhạc phát ra khi nhanh khi chậm.

Câu 6: Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.
Ðệ: Ðưa lên cấp trên với cử chỉ kính trọng. Lịnh bài: Cái thẻ bài dùng làm hiệu lịnh của một vị Bề Trên cấp cho. Cánh hạc: Ðôi cánh chim hạc. Ðưa linh: Ðưa linh hồn đi lên.
C.6: Trình cái thẻ lịnh bài thì được cỡi lên chim hạc để chim hạc đưa chơn linh đi lên.

Câu 7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.
Tiêu thiều: Tiêu là cái ống sáo, thiều là sáng đẹp. Tiêu thiều là tên của một khúc nhạc thổi bằng ống sáo nghe rất réo rắt, khiến người nghe có tư tưởng trở nên cao thượng. Tương truyền khúc nhạc Tiêu thiều nầy do Bà Nữ Oa chế ra và vua Thuấn học được, đem dạy cho nhạc công trong triều đình.
Dục tình: Lòng ham muốn vật chất hay thú vui xác thịt.
C.7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình, nghĩa là: Khúc nhạc tiêu thiều che lấp dục tình, khiến cho tâm hồn con người trở nên cao thượng.

Câu 8: Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
Bờ dương: Cái bờ đất có trồng cây dương. Trong Ðạo Ðức Kinh có câu: Dương vô trần nhiễm, Ðạo giả như dương. Nghĩa là: Cây dương không nhiễm bụi trần, Ðạo thì như cây dương. Do đó, Bờ dương là bờ đạo đức.
Bóng phụng: Hình ảnh của con chim phụng.
Bờ dương bóng Phụng: Do câu Hán văn: Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn, nghĩa là: Con chim phụng ngậm sắc lịnh của vua tiến lên bờ đạo đức. (Hàm là ngậm, Ðơn chiếu là tờ chiếu đỏ của vua, Ðề là tiến lên, Dương bạn là bờ dương).
Nâng thân: Nâng đỡ xác thân thiêng liêng đem lên.
C.8: Chim phụng đưa Chơn thần lên bờ đạo đức.

Câu 9-10: Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.
Ðức Thái Thượng Lão Quân tiếp khách tại Cung Như Ý,
Ðức Thái Thượng hội chư Tiên và chư Thánh lại gọi là Hội Thánh Minh, giao cho Chơn hồn một quyển sách tên là sách Trường Xuân, để Chơn hồn học tập theo đó mà tu luyện thành bực Thánh, bực Tiên.

Câu 11-12: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
Thanh quang: Ánh sáng màu xanh. Thanh là màu xanh. Nơi từng Trời Thanh Thiên, ánh sáng đều có màu xanh.
Rỡ rỡ: Sáng ngời rực rỡ chói lọi.
Ðòi ngàn: Ðòi là nhiều, ngàn là rừng núi. Ðòi ngàn là rừng núi chập chồng.
Vọng Thiên: Vọng là trông mong, Thiên là Trời. Vọng Thiên là trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.
C.11-12: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn, Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên. Nghĩa là: Ánh sáng màu xanh sáng ngời rực rỡ soi khắp núi rừng, Chơn hồn khoái lạc lên đường, trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.

KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974:
đôi ngàn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1975:
đòi ngàn.
Ðôi là hai. Ðòi là nhiều.
Dùng chữ ÐÒI mới đúng.
Còn Tiếp Theo
  Home           1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét