Đạo Bà-La-Môn
(Ấn Độ giáo)
· Vệ-Đà giáo (Vedism)
· Bà-La-Môn giáo (Brahmanism)
· Ấn Độ giáo (Hinduism)
Bà-La-Môn là tiếng phiên âm từ tiếng Phạn : Brahma.
Đạo Bà-La-Môn là một tôn giáo rất cổ của Ấn Độ, xuất hiện trước thời Đức
Phật Thích Ca, tức là thuộc Nhứt Kỳ Phổ Độ.
Đạo Bà-La-Môn bắt nguồn từ Vệ-Đà giáo (cũng phiên âm là
Phệ-Đà giáo), một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ.
Đạo Bà-La-Môn phát triển đến thế kỷ thứ nhứt sau Tây lịch thì biến thành Ấn
Độ giáo.Phệ-Đà giáo), một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ.
Những công trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ và các nước ĐôngNam Á như:
Konarac, Kharujaho, Mahabalipuram, Angkor Watt, Loro Jong Grang, Tháp Chàm ở
Việt Nam và nhiều tác phẩm triết học lớn của Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata,
đều ra đời trên nền tảng của Đạo Bà-La-Môn.
Chúng ta lần lượt khảo sát Vệ-Đà giáo, Đạo
Bà-La-Môn và Ấn Độ giáo.
I . Vệ-Đà giáo :
Đây là một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ. Gọi là Vệ-Đà
giáo vì tôn giáo nầy xây dựng giáo thuyết trên Kinh Vệ-Đà. (Véda: Phiên âm
Vệ-Đà hay Phệ-Đà, nghĩa là Thông hiểu).
Vệ-Đà giáo thờ cúng thiên nhiên, gồm nhiều tín
ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền thuyết của thổ dân da đen
Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các tín ngưỡng của dân tộc da trắng từ
phương Tây Bắc đến xâm lăng, nhất là dân da trắng Aryan tràn vào phía bắc Ấn
Độ, khoảng 1550 năm trước Tây lịch.
Bộ Kinh Vệ-Đà viết bằng tiếng Phạn, của người
Aryan, gồm 4 tập, trong đó có các bài hát ca tụng Thần linh, những lời cầu
nguyện, nghi thức tế tự và các câu phù chú bí mật, kể ra như sau :
1 . Rig Véda : Phỏng theo ý mà
dịch thì Rig Véda có nghĩa là Luận rõ về sự khen ngợi (tán tụng), hình thành
vào thế kỷ thứ 20 TTL (trước Tây lịch), gồm 10 quyển, tập hợp các bài ca ngợi
Thần linh, được 1028 bài.
2 . Sama Véda : Phỏng theo ý mà
dịch thì Sama Véda có nghĩa là Luận rõ về các sự ca vịnh, hình thành vào thế kỷ
thứ 10 TTL, gồm các bài dùng để hát xướng khi cúng tế, tổng cộng 1549 bài.
3 . Yayur Véda : Phỏng theo ý mà
dịch thì Yayur Véda có nghĩa là Luận rõ về các việc tế tự cầu đảo, trong ấy bao
gồm các bài cầu nguyện trong nghi thức tế lễ.
Ba loại Kinh Véda trên được xử dụng trong thời gian
tế lễ, đều do hàng Tăng lữ tùy nghi chủ
xướng, phúng tụng.
4 . Atharva Véda : Sưu tập các chú
thuật, không quan hệ đến việc cúng tế, hình thành vào thế kỷ thứ 10 TTL, tổng
cộng có 20 quyển. Tuy chủ yếu chép các phép thuật và bùa chú, nhưng xen kẽ vào
đó có các bài khoa học làm mầm móng cho Thiên văn học và Y học sau nầy.
Bốn bộ kinh Véda trên, sau nầy đều có những sách
viết bằng tiếng Phạn giải thích riêng cho
mỗi bộ.
Giáo lý cơ bản của Vệ-Đà giáo cho rằng, con người
thường xuyên có mối quan hệ với Thần linh và có sự hòa đồng với vũ trụ. Do đó,
chỉ có cúng tế, cầu đảo thì con người
mới được Thần linh phò hộ trong mọi công việc. Song hành với các buổi
cầu nguyện là những cuộc hiến tế lớn. Những đồ hiến tế như : Thịt, bơ, sữa,
rượu, được dâng lên Thần linh bằng cách đốt trên giàn hỏa.
Việc cúng tế Thần linh rất quan trọng, nên dần dần
đội ngũ các thầy cúng tế trở nên quan trọng, có uy tín và quyền lực nhất trong
xã hội Ấn Độ, hình thành đẳng cấp Tăng lữ Bà-La-Môn sau nầy.
II . Bà-La-Môn giáo :
Đạo Bà-La-Môn hình thành trên cơ sở Vệ-Đà giáo,
khoảng 800 năm trước Tây lịch, tức là một thời gian không dài lắm trước khi Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
Đạo Bà-La-Môn đưa ra những kinh sách giải thích và
bình luận Kinh Véda như : Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya
(tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.
Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối
linh, là linh hồn của vũ trụ.
1 . Sự phân chia giai cấp xã
hội :
Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai
cấp. Ai sanh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.
a) Giai cấp trên hết là các Tăng lữ Bà-La-Môn :
Họ tự cho rằng họ được sanh ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma), nên
họ được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và
các Thần linh.
b) Giai cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ :
Họ được sanh ra từ vai của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các bậc vua
chúa, quí tộc, trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân
chúng.
c) Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá :
Họ được sanh ra từ hông của Đấng Phạm Thiên. Giai
cấp nầy gồm các nhà thương mãi, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên
môn mua bán làm ăn với các từng lớp dân chúng trong xã hội.
d) Giai cấp thứ tư là Thủ-Đà-La :
Họ được sanh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai
cấp nầy gồm các nông dân và công nhân nghèo khổ.
e) Giai cấp thứ năm là Chiên-Đà-La :
Đây là giai cấp thấp kém nhứt trong xã hội Ấn Độ,
gồm các người làm các nghề hèn hạ như : Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật,
vv …
Giai cấp Tăng lữ Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và
quyền lợi của họ. Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ giai cấp,
nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả
cưới giữa 2 giai cấp khác nhau.
2.
Giáo luật :
Giới Tăng lữ Bà-La-Môn được chia làm 3 bực : Sơ
khởi, Trung và Thượng.
Sơ khởi là những vị sư cúng lễ thường và những vị
phục sự nơi đền chùa. Họ tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm : Rig Véda, Yayur Véda,
Sama Véda. Họ hành lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thường trực tiếp với dân
chúng.
Bực trung là những vị sư bói toán, tiên tri, thỉnh
Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng nầy đọc và
giảng giải Bộ Kinh Véda thứ tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư nầy có nội dung
cao hơn 3 Bộ Kinh trước và có những câu Thần chú.
Bực thượng là bực cao hơn hết, gồm các vị sư không
còn trực tiếp với dân chúng. Hạng nầy chuyên nghiên cứu các lực vô hình trong
vũ trụ.
Hạng Bà-La-Môn sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên
hạng trung. Hạng trung tu học 20 năm mới
lên hạng thượng.
Trên hết là một vị sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo
Chủ. Vị Giáo Chủ nầy có 70 vị sư phụ tá.
Các Tăng lữ
Bà-La-Môn phải giữ 10 Điều Giới
luật :
1 . Nhẫn nhục.
2 . Làm phải (lấy điều lành mà trả điều ác).
3 . Điều độ.
4 . Ngay thật.
5 . Giữ mình
trong sạch.
6 . Làm chủ giác quan.
7 . Biết rành Kinh Luật Véda.
8 . Biết rõ Đấng Phạm Thiên.
9 . Nói lời chơn thật.
10 . Giữ mình đừng giận.
3 . Thuyết Ashrama :
Thuyết Ashrama về 4 giai đoạn mà con người phải
trải qua để cho đời sống trần thế nhập vào việc hành sự tôn giáo, kể ra sau đây
:
a) Phạn hành kỳ : Theo thầy học tập Kinh Vệ-Đà,
tiếp thu huấn luyện tôn giáo, thời gian là 12 năm.
b) Gia trú kỳ : Sống cuộc sống thế tục ở gia đình,
lấy vợ sanh con, làm các ngành nghề trong xã hội để mưu cầu cuộc sống. không vi
phạm chống lại bổn phận của một tín đồ Bà-La-Môn, tiến hành việc thờ cúng ở gia
đình và bố thí.
c) Lâm thế kỳ : Việc nhà đã xong, bản thân hoặc dắt
theo vợ vào ẩn cư trong rừng, sống đời khổ hạnh để bản thân chứng ngộ được Đấng
Brahma.
d) Độn thế kỳ : Bỏ nhà đi vân du 4 phương, sống
bằng cách nhận bố thí của dân chúng, mục đích để đạt được sự giải thoát của
linh hồn.
4 . Brahman và Atman :
Brahman là nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại
Ngã, là Đại Vũ trụ, là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế.
Atman là bản ngã của con người, là Tiểu Ngã, là
Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ. Nó chỉ là một phần rất nhỏ của Đại Ngã tách ra. Do đó,
Brahman và Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau.
Tu luyện là để đạt được sự giải thoát của linh hồn
khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần
để đem Atman trở về hiệp nhứt với Brahman.
Nhận thức được Chơn lý nầy, không phải do trí tuệ,
mà do sự giác ngộ của toàn bộ bản thể. Nếu không giải thoát được thì không dứt
khỏi Nghiệp (Karma), tức là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi
trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia.
5 .
Nghiệp báo - Luân hồi :
Kinh Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp báo và Luân
hồi một cách có hệ thống.
Nghiệp (Karma) được tạo ra bởi những hành vi thiện
ác của con người, sẽ quyết định việc luân hồi chuyển kiếp của linh hồn người ấy
sau khi chết. Nếu người nào làm điều thiện, linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành
người ở giai cấp cao hơn, và có thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu
người ấy làm nhiều điều ác thì linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai
cấp thấp kém khổ sở, và có thể bị trừng phạt đọa đày.
Con đường giải thoát là Thiền định, nhưng con đường
tu nầy quá khổ hạnh, ít người theo được, nên đa số tín đồ theo việc thờ cúng
Thần linh, tự kềm chế dục vọng của mình và làm việc từ thiện.
II . Ấn Độ giáo :
Đạo Bà-La-Môn
là quốc giáo của nước Ấn Độ. Nhưng khi Phật giáo của Đức Phật Thích Ca
truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bà-La-Môn
thu hẹp dần. Qua nhiều lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến
hóa của dân chúng, đến thế kỷ thứ nhứt sau Tây lịch, Đạo Bà-La-Môn biến thành
Ấn Độ giáo (nói tắt là Ấn giáo).
Ấn Độ giáo vẫn giữ những nét chánh của Đạo
Bà-La-Môn, thờ Đấng Brahma, về sau thờ thêm 2 Đấng nữa là Civa (Siva) và Vishnu
hay Christna.
- Đấng
Brahma là Thần Sáng tạo,
- Đấng Civa
là Thần Tranh đấu,
- Đấng Vishnu
là Thần Bảo tồn.
Ba Đấng ấy hợp lại gọi là Tam vị Nhứt thể. (Đạo Cao
Đài gọi 3 Đấng ấy là Tam Thế Phật, cai quản 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn
và Hạ Nguơn, có đúc tượng đặt trên nóc Bát Quái Đài, Tòa Thánh Tây Ninh).
Ấn Độ giáo
còn thờ các vị Thần thuở xưa khác như : - Thần Sấm Indra, - Thần Mặt Trời
Surya, - Thần lửa Agni, - Thần gió Vayu, - Thần không trung Varuna.
Ấn Độ giáo vẫn giữ sự phân chia giai cấp của xã hội
giống như Đạo Bà-La-Môn.
Ấn Độ giáo phân thành nhiều Chi phái, chủ yếu có 2
phái lớn là Vishnu và Civa (Siva), đồng thời nuôi dưỡng nhiều môn phái triết
học mà nổi tiếng nhứt là 2 môn phái : Védanta và Yoga.
Để dễ dàng
hòa nhập vào đông đảo dân chúng, ở giai đoạn nầy, nhiều nghi thức tế lễ được
đơn giản hóa, những sự hiến tế súc vật tốn kém được bãi bỏ. Đến thế kỷ 19 và
20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ giáo như : Ram Mohan Roy, Rama
Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối với Ấn Độ giáo, phục hồi
những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và thái quá ra khỏi tư
tưởng của Đạo nầy. Chính nhờ khả năng thay đổi thích ứng mà Ấn Độ giáo vẫn luôn
luôn là tôn giáo chính của người Ấn và có ảnh hưởng sâu xa đến mọi từng lớp dân
chúng từ xưa tới nay.
Theo thống kê sơ lược năm 1980, Ấn Độ giáo hiện nay
có tới 554 triệu tín đồ, đa số là người Ấn Độ.
Trong những năm gần đây, những hoạt động mang tính
quốc tế của Ấn Độ giáo rất phong phú:
Năm 1979 tại Allahabad (Ấn Độ), năm 1980 tại
Colombo (Tích Lan), năm 1981 tại Népal, đã lần lượt triệu tập Đại hội các tín
đồ theo Ấn Độ giáo trên toàn thế giới, để thảo luận các vấn đề khó khăn của Ấn
Độ giáo, làm thế nào cho Ấn Độ giáo thích ứng đời sống văn minh của dân chúng
hiện đại, và thiết lập những mối liên hệ quốc tế giữa Ấn Độ giáo với các tôn
giáo khác một cách hữu nghị tốt đẹp.
Phật giáo
· Định nghĩa.
· Nguồn gốc của Phật giáo.
· Giáo lý của Phật giáo.
· Nhơn sinh quan.
· Vũ trụ quan.
· Quan niệm về Thượng Đế và Linh hồn.
· Kinh điển : Tam Tạng Kinh.
· Những Tông phái.
· Các vị Tổ sư Phật giáo.
· Phật giáo Ấn Độ.
· Phật giáo Trung Hoa.
· Phật giáo Việt nam.
· Lá cờ Phật
giáo.
· Tiểu sử Đức Phật Thích Ca.
I . Định nghĩa :
Phật : tiếng Phạn là Buddha, nghĩa là sáng
suốt.
Phật là bậc sáng suốt hoàn toàn, giác ngộ hoàn
toàn, rồi đem sự giác ngộ ấy mà giác ngộ chúng sanh. Do đó mới nói rằng : Phật
tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Trong Cực Lạc Thế Giới có vô số chư Phật, có những
vị đã nhập Niết bàn, có những vị Phật thường du Ta-bà Thế giới để trợ giúp nhơn sanh.
Những người tu hành và tin tưởng hoàn toàn nơi Phật,
luôn luôn được Phật hộ trì, và được vòng hào quang của Đức Phật bao phủ.
Giáo : Dạy dỗ, Giáo cũng là tôn giáo.
- Phật giáo là những lời, những điều Phật dạy, tạo
thành một giáo pháp có hệ thống, để dạy dỗ nhơn sanh. Đó là một nền Giáo lý và
Triết lý rất cao thượng, dạy chúng sanh tự tỉnh, tự ngộ, tự giác, để cuối cùng
thành Phật.
- Phật giáo là một tôn giáo lớn trên hoàn cầu,
truyền bá trong nhiều nước, có số tín đồ tổng cộng gần một tỷ người. Số tín đồ
Phật giáo đông nhứt ở các nước Á Châu như : Ấn Độ, Népal, Tích Lan, Miến Điện,
Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Miên, Việt Nam, Nhựt, Triều Tiên. vv …
II .
Nguồn gốc của Phật giáo :
Phật giáo là một tôn giáo rất cổ, có từ lâu đời, kể
từ lúc nhơn loại hình thành nếp sống quần tụ thành xã hội.
Đó là thời Nhứt Kỳ Phổ Độ với Đức Nhiên Đăng Cổ
Phật giáng trần mở Đạo Phật thời Thái cổ nước Tàu, đồng thời với việc mở Vệ-Đà
giáo (sau biến thành Bà-La-Môn giáo) nơi nước Ấn Độ. Sau đó, Phật giáo lần lần
suy tàn theo sự biến đổi của thời gian và lịch sử.
Đến thời Nhị Kỳ Phổ Độ, cách đây khoảng 2600 năm,
Đức Thích Ca giáng sanh nơi nước Ấn Độ, tu hành chuyên nhất trong hơn 6 năm,
đắc đạo thành Phật, chứng ngộ được giáo lý Tứ Diệu Đế, giúp con người giải khổ,
và giải thoát khỏi vòng Luân hồi sanh tử, mở ra một con đường mới thích hợp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh thời đó, vì Đạo Bà-La-Môn lúc bấy
giờ rất suy tàn, giáo lý bị sửa cải
nhiều làm cho xã hội Ấn Độ có những bất bình đẳng trầm trọng, khiến con
người xa vòng Thiên lương, trầm luân trong bể khổ.
Đức Phật Thích Ca đem giáo lý mà Ngài chứng ngộ
được giảng giải cho chúng sanh trong suốt 45 năm, tạo thành một nền Phật giáo
rất cao siêu, do Đức Phật Thích Ca làm Giáo Chủ. Phật giáo lưu truyền từ đó đến ngày nay.
Nhưng đến năm Giáp Tý (1924 theo Tây lịch, 2468
theo Phật lịch) là năm Khai Nguơn, mở đầu một kỷ nguyên mới, chấm dứt thời Nhị Kỳ Phổ Độ, bước sang
thời Tam Kỳ Phổ Độ, với số nhơn loại rất đông đúc có trình độ tiến hóa rất
cao, mỗi ngày mỗi nhảy vọt, nên Phật giáo đã trải qua 2468
năm không còn thích hợp với đà tiến hóa của
nhơn sanh, không còn hiệu quả trong công việc kềm chế tâm lý của nhơn sanh; hơn nữa, sau đời Lục Tổ Huệ Năng,
ngôi vị Tổ Sư Phật giáo không còn được truyền kế với Y Bát nữa, nên Phật pháp
bị người đời sửa cải thêm bớt nhiều hơn, làm cho giáo lý Phật giáo càng xa dần
Chánh pháp và cuối cùng thì hoàn toàn bị thất chơn truyền.
Ngày nay, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mở ra là để chấn
hưng 3 nền tôn giáo lớn ở Á Đông là : Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.
Đức Phật Di-Lạc sẽ giáng trần để tóm thâu tất cả
các Đạo hữu hình ấy vào một mối, lập thành một nền Đại Đạo rất cao siêu, phù
hợp với trình độ tiến hóa của nhơn loại hiện nay, mới đủ sức kềm chế tâm lý của nhơn sanh hiện hữu.
Do đó, tại Chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén, tỉnh Tây Ninh,
trong Đại Lễ Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đấng Thượng Đế giáng cơ cho đôi liễn
để treo lên là :
Di-Lạc thất
bá thiên niên quảng khai Đại Đạo,
Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.
Nghĩa
là :
- Đức Phật Di-Lạc truyền bá rộng rãi nền Đại Đạo
trong 700 ngàn năm,
- Đức Phật Thích Ca lập Đạo Phật (Thiền môn) trong
25 thế kỷ là dứt. (25 thế kỷ tức là 2500 năm).
III . Giáo
lý của Phật giáo :
Giáo lý căn bản của Phật giáo là Tứ Đế và Thập nhị
Nhân Duyên.
- Tứ Đế còn gọi là Tứ Diệu Đế, Tứ Thánh Đế, Lý Bốn
Đế. (Tứ là 4, Đế là lời dạy chơn thật và căn bản, Diệu là huyền diệu, Thánh là
thiêng liêng, Lý là giáo lý).
- Thập nhị Nhơn duyên là 12 cái nhân duyên, nhân
nầy sanh ra quả nọ, quả nọ trở thành nhân khác sanh ra quả khác, 12 lần như vậy
trong một đời sống của con người nơi cõi trần, tạo thành một vòng tròn khép
kín, chỉ cho thấy không có cái nhân nào là đầu tiên, không có cái quả nào là
cuối cùng.
A. Tứ Đế :
Tứ Đế là 4 chơn lý huyền diệu tuyệt đối mà người
giác ngộ mới cảm biết được.
Trước khi Đức Phật Thích Ca thuyết minh giáo lý nầy
thì các vị hiền triết đương thời chưa ai khám phá được.
Bốn Đế nầy là thật, nếu ai không biết và không thực
hành thì không sao giải thoát được.
Đức Phật Thích Ca thuyết giáo lý nầy lần đầu tiên
để độ nhóm Kiều Trần Như gồm 5 Ông : Kiều Trần Như, A-Xá-Bà-Thệ, Ma-Ha Bạt-Đề,
Ma-Ha Câu-Lợi, Thập-Lực Ca-Diếp.
Nhờ nghe Phật giảng Tứ Diệu Đế mà 5 Ông giác ngộ,
liền quy y theo Phật, và đắc quả A-La-Hán.
Từ đó mới bắt đầu
có Tam Bảo (3 điều quí báu) : Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo, Giáo lý Tứ
Diệu Đế là Pháp Bảo, 5 người giác ngộ theo làm đệ tử của Phật là Tăng Bảo.
Pháp Bảo Tứ Đế gồm :
- Khổ Đế
- Tập Đế
- Diệt Đế
- Đạo Đế.
1 . Khổ Đế : Tất cả việc gì
không vừa lòng là khổ.
Đức Phật chia ra làm 3 thứ Khổ : Khổ khổ, Hoại khổ,
Hành khổ.
a) Khổ khổ : Cái khổ có từ vô lượng kiếp trong quá
khứ chồng chất lên tạo nên hình tướng của ta trong hiện tại. Mang hình hài xác
thịt là kết hợp những điều đau khổ, trải qua thời gian sanh sống, con người
phải chịu đựng những cái khổ bên trong do mình tự tạo ra và những cái khổ bên
ngoài do Thiên tai, ách nước, vv…
Chỉ có bực trí thức nhìn vào thực trạng thì hiểu
biết, còn người mê, dầu có giải thích, họ cũng không sáng tỏ được.
Vậy, Khổ khổ là cái khổ trong kiếp trước và cái khổ
trong kiếp nầy chồng chất lên nhau.
b) Hoại khổ : Hễ có sanh ắt có diệt. Thế nên, xác
thân con người lúc mới sanh ra, lớn lên
, già nua rồi chết, đó là khổ. Hoại khổ là cái khổ do sự tàn phá của thời gian
mà không ai cưỡng lại được.
c) Hành khổ: Hành khổ là cái khổ do nơi những hành
động của tinh thần và vật chất phát sanh. Phiền não chính là Hành khổ. Khi nào
tư tưởng chấm dứt, tâm ý ngừng nghỉ mọi hoạt động thì lúc bấy giờ tinh
thần mới hết hành và mới hết khổ. Hễ còn
Hành là còn Khổ.
Ba loại Khổ trên đây là của chúng sanh.
Nếu nói riêng về cái khổ của con người thì Phật
diễn tả 8 trạng thái khổ sau đây :
* Sanh khổ : Lúc sanh ra đã khổ và lúc sống cũng
khổ.
* Bệnh khổ : Bệnh tật là cái khổ dây dưa nhứt trong
đời sống con người và làm cho những người thân yêu khổ lây với mình.
* Lão khổ : Già thì khổ. Vai run, gối mỏi, lưng
đau, mắt mờ, tai điếc, … không làm được việc gì nên tinh thần bứt rứt, đau khổ.
* Tử khổ : Đã sống thì ắt sợ chết, thấy cái chết
đến mà không tránh khỏi thì rất lo sợ, khổ sở. Khi chết, bỏ lại nơi cõi trần nhiều điều luyến tiếc. Chết là biệt ly nên
khổ sở.
* Ái biệt ly khổ : Yêu mà xa cách thì khổ. Nhà cửa,
ruộng vườn, xe cộ, danh vọng, vợ đẹp con ngoan, nghĩ đến việc bỏ rơi hết thảy
thì khổ vô cùng.
* Cầu bất đắc khổ : Mong ước mà không được thì khổ.
Biết bao người ôm mộng giàu sang hay khanh tướng mà không thực hiện được thì thất chí đau khổ.
* Oán tắng hội khổ : Oán thù, ganh ghét, mà ở chung
đụng nhau thì khổ. Oán tắng hội khổ còn chỉ cái khổ khi sống trong nghịch cảnh.
Những cuộc tranh danh đoạt lợi cũng sanh ra cái khổ nầy.
* Ngũ ấm xí thạnh khổ : Ngũ ấm là : Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Trạng thái khổ thứ 8 nầy bao trùm lên hết mọi nỗi khổ đau
của con người. Sự thạnh suy của Ngũ ấm tức là sự thạnh suy của vật chất lẫn
tinh thần.
Con người đã cảm thông được những cảnh khổ não nầy
thì thấy rằng, trong cõi đời nầy, không một giây phút nào con người được trọn
vui.
2 . Tập Đế : Tập là tụ họp
mà thành. Vậy những cái gì tụ tập lại mà thành ra cái khổ ?
Để giải thích nguyên do của Khổ, Phật nói về quá
khứ. Cái quá khứ đó trải qua vô lượng kiếp, nó là Nhân của kiếp sống hiện tại.
Sự đau khổ mà con người phải gánh chịu trong kiếp sống nầy là hậu quả của những
việc làm hung ác của họ trong kiếp trước. Để chứng minh chơn lý nầy, Đức Phật
nói về Thuyết Nhân Quả và Luân Hồi. Căn bản của thuyết nầy là Thập nhị Nhân
Duyên. (Xem phần sau)
Những điều kết tập xấu xa của kiếp trước gây khổ
cho kiếp nầy nhiều không kể hết, nhưng tựu trung gồm 10 loại sau đây :
- Tham : Tham lam
thì ích kỷ.
- Sân : Sự nóng giận
đốt cháy lương tri.
- Si : Mê lầm do ngu
dốt.
- Mạn : Kiêu căng, ganh
tỵ nhỏ nhen.
- Nghi : Nghi ngờ. Hạng
người nầy có nhiều phiền não lo âu hơn ai hết. Họ nghi ngờ tất cả, không bao giờ họ cảm
thấy yên lòng.
- Thân kiến : Sự thấy biết của thân, biết cái Ta
trên phương diện vật chất chớ không biết cái Phật tánh của mình.
- Biên kiến : Sự thấy biết một bên, không bao quát,
nên nhỏ hẹp, dễ có quyết định sai lầm.
- Kiến thủ : Bảo thủ cái biết của mình.
- Giới cấm thủ : Làm theo lời răn cấm của Tà giáo,
nên có những hành động phạm pháp.
- Tà kiến : Những điều thấy biết không chơn chánh. Tà kiến là còn mê, Chánh kiến là giác.
Đó là 10 thứ phiền não mà con người đã
kết tập chất chứa trong vô lượng kiếp đã qua và hiện tại. Đó là nguyên nhân phát sanh ra Khổ Đế.
3 . Diệt Đế : Diệt là tiêu diệt, trừ bỏ.
Ta đã thấy rõ cái căn nguyên của sự khổ, thấy rõ Nhân và Quả, nên muốn diệt
khổ, ta chỉ cần trừ bỏ tất cả Nhân ấy.
Như vậy, ta cần phải lấy Thập nhị Nhân Duyên mà đi ngược lên dần và diệt dần,
cuối cùng ta sẽ diệt được cái Vô minh. Vô minh đã mất thì như Mặt Trời ló ra
khỏi đám mây đen, ta sẽ thoát ra được vòng Luân hồi đầy đau khổ.
4 . Đạo Đế : Đạo đế là con
đường phải noi theo để thoát khổ. Phật
vẫn chủ trương lấy cái trí hiểu biết sáng tỏ mà phá sự si mê, nhưng cái trí
sáng tỏ vẫn chưa đủ, cần phải có cái năng lực thực hành thì mới diệt được nguồn
gốc của phiền não. Cái năng lực thực hành ấy có 8 con đường để tu cho thành
Chánh quả. Đó là Bát Chánh đạo.
Bát Chánh đạo gồm :
a) Chánh kiến : Thấy rõ biết rõ chơn
lý, không để cho Tà kiến che lấp sự sáng suốt của mình, khiến cho sự thấy biết
của mình không sai lầm.
b)
Chánh tư duy : Suy nghĩ tưởng nhớ điều chơn chánh. Thể hiện Chánh tư duy là suy nghĩ
những điều lợi mình lợi người, không hại ai cả. Muốn Chánh tư duy thì không
tham, không sân, không si.
c) Chánh
ngữ : Lời nói ngay thẳng chơn thật, chơn thật với chính mình và chơn thật với
mọi người. Trái với Chánh ngữ là Vọng ngữ. Người thực hành được Chánh ngữ thì
thoát khỏi Khẩu nghiệp.
d)
Chánh nghiệp : Hành động chơn chánh, không làm điều gian ác. Muốn được Chánh nghiệp thì
phải gìn giữ chặt chẽ các Giới cấm.
e) Chánh
mạng : Sanh sống một cách chơn chánh bằng nghề nghiệp lương thiện, thanh
bạch, không tham lợi mà bỏ nhân nghĩa, không thừa cơ đục nước béo cò.
g)
Chánh Tinh tấn : Chuyên cần học tập, tu luyện cho tiến bộ. Muốn vậy phải giữ tâm trí chơn
chánh, sáng suốt.
h) Chánh
niệm : Tưởng nhớ điều chơn chánh, để
cuối cùng giữ cho Tâm được thanh tịnh, đến chỗ không không.
i)
Chánh định : Tập trung tư tưởng, tức là định cái Tâm của mình vào đạo lý chơn chánh.
Đó là sự Thiền định để giữ cái Tâm cho thanh tịnh hoàn toàn.
Bát Chánh đạo giúp cho người tu trị được mình, đưa
đến sự giác ngộ hoàn toàn, tức là đắc đạo.
B . Thập nhị Nhân duyên :
Thập nhị Nhân duyên là 12 cái Nhân duyên. Nhân là
nguyên nhân, như hạt lúa làm Nhân sanh ra cây lúa; Duyên là cái bổ trợ cho hạt
lúa sanh ra cây lúa, như là : ánh sáng, nước, phân, công chăm sóc. Vậy Nhân
duyên là cái nguyên nhân và cái bổ trợ cho cái nguyên nhân ấy thành cái quả.
Thập nhị Nhân duyên nói rõ sự tương quan của tất cả
hiện tượng vật lý và tâm lý. Sự vật vốn có sinh có diệt, biến chuyển theo Luật
Nhân Quả, không hề bị tiêu diệt hoàn toàn.
Nói cách khác, mọi sự vật đều không có bản thể độc
lập, mà là tổng hợp của nhiều yếu tố, và là vô thường, luôn luôn biến đổi từ
trạng thái nầy sang trạng thái khác.
Trong 12 Nhân duyên, không thể nêu ra một nhân
duyên nào là nguyên nhân đầu tiên, bởi vì 12 Nhân duyên tạo thành 12 cái mắc
xích đan vào nhau thành một vòng tròn liên tục, không có cái bắt đầu, không có
cái cuối cùng
(Vô thủy vô chung), mà người ta gọi là Bánh xe Sinh hóa, hay Bánh xe
Luân hồi, được biểu diễn bằng hình vẽ nơi trang sau.
Bánh xe Sinh hóa là vòng tròn không có khởi điểm,
nhưng người ta thường trình bày nó bắt đầu từ Vô Minh.
1)
Vô minh: là trạng thái mờ ám, si mê, không tỏ ngộ chơn tâm. Vô minh chỉ là tiếp
diễn của sự chết (Tử). Lúc chết, thân thể bị hủy hoại, nhưng Vô minh vẫn tồn
tại. Nó là nguyên nhân của HÀNH, tức là các hành động được tạo ra trong cuộc
sống sau nầy.
2)
Hành: là hành động, tạo tác. Do Vô minh, phiền não nổi lên làm cho Thân, Khẩu,
Ý tạo tác các nghiệp lành hay dữ, nên gọi là Hành. Vô minh và Hành được coi là
2 Nhân duyên thuộc quá khứ.
3)
Thức: là Thần thức, chỉ về phần tinh thần. Sau khi chết, các nghiệp dẫn dắt
Thần thức đi đầu thai để chịu quả báo. Trong đời sống hiện tại, giai đoạn thứ
nhứt là Thức (Kết sinh thức), nó tương đương với giây phút đầu tiên thai nghén
một hài nhi. Nó chưa có ý thức nhưng cái tâm tiềm thức hay Kết sinh thức hướng
nó vào sự sống. Khi cái tâm tiềm thức nầy tiến tới một bước tạo thành hữu hình
, đó là giai đoạn thứ hai của đời sống hiện tại : Danh Sắc.
4) Danh Sắc: là thân thể. Trong thân thể có 2 phần : Phần
tinh thần (Tâm) chỉ có tên gọi chớ không hình tướng nên gọi là Danh; phần
hình thể gọi là Sắc. Danh Sắc là
giai đoạn phát triển để Tâm và Thân lần đầu tiên kết hợp lại thành một tổ hợp,
đó là một hài nhi với đầy đủ tinh thần (Tâm) và thể xác (Thân).
5) Lục nhập: là 6 chỗ vào. Khi đã có Thân thể rồi thì
đương nhiên phải có Lục Căn : Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, là những chỗ để cho
Lục Trần xâm nhập vào, nên mới gọi là
Lục nhập. Lục trần là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp.
6)
Xúc: là tiếp xúc. Giai đoạn nầy tương ứng với 1 hay 2 năm đầu của trẻ sơ sinh.
Sáu quan năng phát triển và hoạt động, nhưng quan năng xúc giác nổi bật hơn cả.
Đứa bé gặp gì cũng sờ mó để tiếp xúc với thế giới bên ngoài bằng xúc giác của
nó.
7)
Thọ: là nhận lãnh. Khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần thì lãnh thọ những cảnh vui
buồn, sướng khổ. Hài nhi bắt đầu biểu lộ ý thức và lộ ra những tánh cá
biệt. Từ giai đoạn Thức đến giai đoạn
Thọ, được gọi là 5 quả của quá khứ xuất hiện ra trong đời sống hiện tại.
8) Ái : là ưa muốn. Khi
thọ lãnh cảnh vui thì sanh lòng tham, muốn làm sao cho vui hoài; khi gặp cảnh
khổ thì sanh lòng sân hận, buồn rầu, muốn xa lìa. Đây là động cơ thúc đẩy Thân,
Khẩu, Ý tạo tác các Nghiệp.
9)
Thủ : là giữ lấy. Vì tham dục nên cố giữ lấy những thứ khoái lạc làm mục đích
cuộc sống. Dẫu biết sống là khổ, nhưng vẫn không từ bỏ những cái đúng theo sở
thích. Do đó Thủ mà có Hữu.
10)
Hữu: là có, có ta hiện diện trongcuộc sống ở thế gian. Những cái ta thích, nó
làm cho ta ham sống. Hữu là Quả của Thủ và làm Nhân của Sinh. Ái, Thủ, Hữu biểu
hiện cho 3 giai đoạn trong các hành động của tuổi trưởng thành, kết hợp lại
thành 3 Nhân duyên của hiện tại. Khi một cá thể thụ hưởng những hiệu quả của
quá khứ thì cũng đang tạo tác những nguyên nhân cho kiếp sống vị lai.
11)
Sinh: là sanh ra. Do Ái, Thủ, Hữu làm Nhân hiện tại tạo ra các Nghiệp, nên qua
đời sau phải tái sanh để thọ chịu quả báo.
12)
Lão và Tử : là già rồi chết. Sanh ra, lớn lên, già rồi chết. Sanh tử cứ luân chuyển
thay đổi nhau. Chết là thể xác, còn là tinh anh. Cái tinh anh ấy lìa bỏ thể xác
nhưng vẫn lẩn quẩn trong Vô Minh, cho nên lại mang cái Nghiệp mà lưu chuyển
chìm nổi trong vòng Lục đạo Luân hồi. Hễ còn Luân hồi là còn khổ.
Trong Bánh xe Sinh hóa nầy, thời hiện tại được đặc
biệt giải thích chi li với 8 giai đoạn, nhưng thực sự thì Vô Minh và Hành là
của quá khứ, Sinh và Tử là của tương lai, cũng có những giai đoạn tương tự như
hiện tại.
Trong 12 Chi
Nhân duyên, Vô minh, Ái, Thủ, được gọi là Hoặc (Mê hoặc); trong khi đó Hành và
Hữu thuộc Nghiệp quả. Các Chi còn lại gồm 5 quả hiện tại và 2 quả vị lai là
thuộc về Khổ quả, tức là kết quả của đau khổ.
IV .
Nhân sinh quan Phật giáo :
1. Con người do đâu mà có :
Để giải đáp vấn đề nầy,
Đạo Phật có thuyết Thập nhị Nhân duyên. Trong 12 Nhân duyên ấy, Vô minh là căn
bản. Vậy Vô minh là gì ?
VÔ MINH là không biết
rõ sự lý đúng như thật, do đó sanh ra mê lầm, thật cho là giả, giả cho là thật,
điên đảo hư vọng, chấp ngã, chấp pháp, rồi theo cảnh thuận nghịch mà khởi phiền
não, nên cũng gọi là HOẶC.
Từ mê hoặc mà tạo ra
các Nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy là HÀNH, chi thứ 2 trong Thập nhị
Nhân duyên.
Do Nghiệp lành dữ huân
tập chứa nhóm thành ra Nghiệp thức. Nghiệp thức nầy do chỗ huân tập thuần thục,
rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là món THỨC, chi thứ 3 trong Thập nhị Nhân duyên.
Trong thai mẹ, gom tinh
huyết làm nhục thể. Tâm thức cùng nhục thể hoà hiệp gọi là DANH SẮC, đó là chi
thứ 4 trong 12 Nhân duyên. (Danh là Tâm
thức, Sắc là nhục thể).
Từ Danh Sắc lần lần tượng đủ 6 Căn, gọi
là LỤC NHẬP, đó là chi thứ 5 trong Thập nhị Nhân duyên.
Sau khi ra khỏi thai, 6 Căn tiếp xúc với 6 trần,
biết nóng, lạnh, đau, êm, ,,, nên gọi là XÚC, chi thứ 6 trong Thập nhị Nhân
duyên.
Do sự tiếp xúc ấy mà Tâm dần dần sanh niệm phân
biệt, rồi có những sự giác thọ vui, khổ, … Đó gọi là THỌ, chi thứ 7 trong Thập
nhị Nhân duyên.
Do sự cảm thọ vui, khổ, khởi niệm ưa ghét, chấp đắm
ấy mà sanh ra ÁI, chi thứ 8 trong Thập nhị Nhân duyên.
Vì tham ái nên tìm cầu nắm lấy cái hay cái tốt, cái
ưa thích. Đó gọi là THỦ, chi thứ 9 trong Thập nhị Nhân duyên.
Muốn cho thỏa mãn chỗ nhiễm trước, ưa thích của Ái
và Thủ, nên phải tạo Nghiệp. Nghiệp nầy có thể chiêu cảm quả báo vị lai, nên
gọi là HỮU, chi thứ 10 trong Thập nhị Nhân duyên.
Đã có Hữu là cái mầm giống thì thế nào cũng có
SANH, là chi thứ 11 trong Thập nhị Nhân duyên.
Đã có Sanh thì phải có LÃO và TỬ, chi thứ 12 trong
Thập nhị Nhân duyên.
Trong 12 Nhân duyên, Vô minh thuộc về Hoặc, và Hành
thuộc về Nghiệp. Đó là Nhân quá khứ.
Do Nhân quá khứ ấy mà có 5 quả khổ hiện tại là :
Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc và Thọ.
Do quả khổ hiện tại nói trên mà khởi ra Hoặc là Ái,
Thủ, và tạo Nghiệp là Hữu, để làm Nhân cho Quả khổ sau là Sanh và Lão-Tử ở vị
lai.
Như thế, từ Nhân quá khứ sang Quả hiện tại, và Quả
hiện tại lại làm Nhân cho Quả tương lai, 3 đời cứ nối tiếp xoay vần mãi mãi
không dứt, như một bánh xe xoay tròn, lên xuống, xuống lên, không ngừng nghỉ.
Cứ đó mà suy ra thì biết rằng, con người chẳng
những sống một đời trong hiện tại nầy, mà trước kia về quá khứ, đã trải qua
không biết bao nhiêu đời sống rồi; và sau nầy trong vị lai, cũng sẽ còn vô
lượng đời sống nữa.
Người hiện sống đây rồi chết, mà cái chết lại là
cái Nhân làm thành đời sống vị lai.
Như thế, sống chết nối tiếp nhau không bao giờ dứt,
như những làn sóng đại dương, cái nầy tan đi để hiệp lại một cái khác không bao
giờ hết, nếu còn có gió.
Còn người, nếu gió Vô Minh còn thổi thì dòng sanh
mạng còn lưu chuyển lăn trôi, chìm nổi mãi.
2 .
Thân người như thế nào ?
Sau khi chúng ta đã biết nguyên nhân gây tạo ra sự
hiện diện của người trên cõi thế nầy rồi, một câu hỏi khác hiện đến trong óc
chúng ta là : Thân con người như thế nào ? Đẹp đẽ hay xấu xa, thật hay giả, đáng quí hay đáng khinh ?
Để giải đáp vấn đề nầy, Đạo Phật có nhiều thuyết
tùy theo Tiểu thừa hay Đại thừa, tôn phái nầy hay tôn phái khác. Những thuyết
ấy, mặc dù nhiều, nhưng không trái nhau mà lại bổ khuyết cho nhau, làm cho vấn
đề được trình bày trong mọi khía cạnh, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ
tướng đến thể, từ biệt tướng đến tổng tướng, …
Dưới đây chúng tôi xin tuần tự trình bày các quan
niệm ấy từ Nhơn thừa đến Thiên thừa, qua Nhị thừa và cuối cùng đến Đại thừa để
độc giả có một quan niệm đầy đủ về vấn đề nầy.
a) Quan niệm Nhơn thừa :
Thân người hòa hợp, do tinh huyết cha mẹ cùng Thần
thức, góp 4 chất : Cứng, Ướt, Nóng, Động mà thành. Chủ động trong ấy là Thức
(Nghiệp thức). Bởi Nghiệp thức người nhóm các duyên hội hợp làm thân người.
Nghiệp thức ấy có ra do bởi sự gây tạo vì đời trước huân tập nơi tự tâm,kết
thành công năng có tánh cách người, có thể cảm đặng thân người.
Như vậy, từ nơi tự tâm tạo tác hạnh nghiệp, các
hạnh nghiệp ấy trở lại huân tập thành công năng nghiệp người nơi tự tâm, cho đến khi công năng nghiệp thức
ấy thuần thục, gặp đủ các trợ duyên, chiêu cảm hiện ra có thân người.
Trong khi mọi người, vì sự hiểu biết cạn hẹp, đã
lầm tưởng thân thể thoạt nhiên sanh, và sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt.
Chết để thay đổi thân mới, sanh để thế thân cũ, xoay vần nơi vòng
sanh tử, tử sanh.
Vậy thân thể của người hiện nay chỉ là một thân
trong vô lượng thân. Người đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước, và
sau nầy người cũng sẽ thay đổi không biết bao nhiêu thân nữa, nếu không một
niệm “Hồi quang phản chiếu”.
Sự sanh hiện tại chỉ là một lần sanh trong vô lượng
lần sanh, và sự chết ngày nay cũng chỉ là một phen chết trong vô lượng lần
chết.
Thân hiện có đây là cái quả của Nghiệp đã tạo ra từ
kiếp trước, và thân sẽ có sau nầy là do sự tạo Nghiệp bây giờ. Cho nên, người
trong Phật giáo đương thọ lãnh báo thân hiện tại, dầu khổ hay vui, đều nhận
chịu một cách tự nhiên và nhẫn nại, vì nếu có kêu cầu thế nào cũng không thay
đổi được. Nếu biết lo lắng trau giồi cái thân thì có thể đổi xấu ra tốt được,
để hưởng quả báo tốt đẹp ở tương lai, tức là phải tu tập các pháp lành và dẹp
bỏ hành vi hung ác.
b) Quan niệm Thiên thừa :
Trọn vẹn 5 giới cấm, nhơn đạo đã hoàn thành, đào
tạo chắc chắn nghiệp chủng người tốt lành nơi tự tâm, và sau nầy, khi thuần
thục sẽ cảm lấy thân thể loài người tốt đẹp, mạnh khỏe, trường thọ, để hưởng
hạnh phúc nơi cõi người.
Đức Phật chỉ dạy những nguyên nhân và quả báo, cùng
sự tu hành để khỏi bị những thân xấu xa khổ sở và được cảm hiện những thân tốt
đẹp, cường tráng, vui vẻ.
c) Quan niệm Nhị thừa : (Thánh nhơn)
- Thân bất tịnh : Lấy con mắt của hàng Nhị thừa xem
nơi thân thể, chỉ là một thứ nhơ nhớp, do nhiều chất nhơ uế hòa hiệp. Các Ngài
chỉ cảm thấy nó là hiện tượng của muôn điều khổ sở buộc ràng, không có mảy may
chi đáng gọi là vui thú, nên có câu : “Thân vi khổ bổn” (Thân là cội khổ).
Phải chẳng do nơi thân khổ, các sự thống khổ như :
Lạnh, nóng, đói, khát, mỏi đau, nghịch trái, vv … đều thuộc về THỌ, mà Thọ có ra là bởi Lục căn tiếp xúc với
Lục trần. Thân thể là chỗ nương dựa của Lục căn, nên sự thọ khổ lấy thân làm
gốc. Vả lại, người đời không gì khổ bằng : Lúc sanh đau đớn kêu la, khi già lụm
cụm run rẩy, lúc ốm đau yếu đuối bứt rứt, khi chết giãy giụa hãi hùng, 4 việc
đại khổ ấy lại là cái khổ sanh, trụ, dị, diệt của thân thể.
Than ôi ! Thân là cội khổ, thân là bất tịnh, thân
là vô thường, có gì đáng sợ đáng chán bằng thân !
- Thân giả hợp : Cái gốc Hoặc Nghiệp đã trừ, thì
cái ngọn là Thân, tức nhiên phải khô mục. Nhân đã không còn thì Quả cũng tự
mất. Thân sau không còn chiêu cảm thì các khổ lụy không nương đâu mà có, tức là
an vui giải thoát. Dứt được Nghiệp Hoặc thì vô lậu huệ sanh, thành bực Thánh
Nhị thừa.
Huệ nhãn của các bậc Nhị thừa Thánh nhơn cũng thế.
Đối với người thường là thân thể xinh đẹp, với các Ngài thì thân thể còn không
có, huống nữa là xinh đẹp. Chẳng phải là duyên cảnh khác, mà chỗ thấy biết có
khác. Cũng đồng một cảnh, song vì thức trí khác nhau, nên chỗ nhận biết không
đồng. Do không còn thấy là thật có thân thể, nên các Ngài không còn sanh lòng
luyến ái nơi thân, không còn có niệm : Thân người, thân mình, vì tất cả đều
đồng là Ngũ ấm, là Lục căn. Dưới huệ nhãn của các Ngài, và hơn nữa, đều đồng là
Tứ đại giả hợp : Da thịt gân xương, tóc móng, toàn là Địa đại; tinh huyết, đàm
nhớt, nước mắt mồ hôi, toàn là Thủy đại; Nhiệt độ thuộc về Hỏa đại; cùng sự
chuyển động thuộc về Phong đại. Tứ đại nếu trái nhau thì thân thể làm sao đặng
có ?
Rõ biết thân thể là hư vọng thì cả thảy phiền não
tự trừ, vì thân là căn bản của Ái nhiễm, lúc bấy giờ thì Vô ngã trí phát sanh, vĩnh viễn thoát ly
sanh tử trong 3 cõi, tức là rốt ráo được Nhị thừa Phật giáo.
d) Quan niệm Đại thừa :
- Thân như huyễn hóa : Thân không tự có, do Thức
chuyển biến mà có; thân không tự thể, lấy Thức làm thể; toàn thân là Thức,
ngoài Thức không thân. Thân có là do Thức công năng biến hiện, công năng hiện
thân bởi các Nghiệp duyên huân tập nơi Thức mà thành.
Nghiệp duyên có ra, lại nương nơi thân mà phát
khởi, nên thân thể là pháp hư giả, do Thức biến hiện. Song, từ nơi thân thể tạo
nghiệp nhiễm hay tịnh, làm duyên huân tập nơi tự tâm, khiến tự tâm chuyển thành
công năng nhiễm hay tịnh. Thân thể cùng công năng xoay chuyển làm Nhân duyên cho
nhau, có không phải thiệt có, không không phải thiệt không, thật đồng huyễn
hóa. Vì đó nên với quán trí của Đại thừa thì thân thể như huyễn hiện.
Con người, mặc dầu sống trong đau khổ, nhưng đều có
Phật tánh. Với Phật tánh ấy, con người có thể thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Con
người không cần phải quì lụy cầu xin ở một Đấng nào, mà do tự lực và hành động
của mình, chỉ có mình mới giải thoát
được cho chính mình mà thôi.
Con người chính là vị sáng tạo của đời mình. Khi mê
thì con người tự làm cho mình đau khổ, nhưng khi biết mình mê mà tìm cách thoát
ra khỏi mê thì con người chính là kẻ tự gây hạnh phúc cho mình. Đó là ưu điểm
của con người, đó cũng là niềm tin lớn của con người.
Đứng về một phương diện thì thân phận con người
thật đáng chán, nhưng đứng về một phương diện khác thì làm được con người thật
đáng quí trọng.
Cho nên, bảo Nhân sinh quan của Phật giáo là bi
quan cũng không đúng hẳn, mà bảo rằng lạc quan thì cũng không đúng hẳn. Lạc
quan hay Bi quan là tùy ở phương diện quan sát của mình. (Theo Bài Nhân sinh
quan Phật giáo của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, trong Phật Học Phổ Thông,
khóa V, trang 400 đến 422).
V . Vũ Trụ Quan Phật giáo :
1 . Đặt vấn đề tiên quyết :
Phật giáo khác với các tôn giáo khác, không tin có
tạo vật chủ. Đối với Phật giáo, vũ trụ vạn hữu sanh ra, không nhờ một Đấng nào
hay một phép nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỷ Nhân Quả tiếp nối mà thành.
Cái Quả bây giờ là do cái Nhân ở trước, cái Nhân ở
trước là do cái Quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược trở lại mãi, Nhân nầy Quả
nọ, không bao giờ cùng.
Như thế, Vũ trụ đối với Phật giáo là Vô thỉ (không
có cái bắt đầu), mà đã Vô thỉ thì làm gì có nguyên nhân đầu tiên
Trong hiện tượng giới, ta thấy có sanh diệt, chúng
ta cho là vô thường. Nhưng nếu xét toàn thể Vũ trụ, đứng về thật tại giới, thì
chẳng có sanh diệt, mà vạn hữu là thường trụ.
Như trước đã
nói, không có nguyên nhân đầu tiên, do đó, chúng ta sẽ đặt sai vấn đề nếu ta
hỏi: Nguyên nhân đầu tiên tạo thành vũ trụ là gì ?
Và ta lại càng đi xa hơn nữa trong sự sai lầm khi
hỏi : Ai sáng tạo ra vũ trụ vạn hữu ?
Phải đặt câu hỏi thế nầy mới đúng : “Thật thể của cái có và cái không
tương đối, tức là vũ trụ vạn hữu, là như thế nào ? “ hay là : “Thật tại của vũ
trụ như thế nào ?”
Đó là câu hỏi thứ nhứt, nhằm mục đích tìm hiểu thật
thể, thật tánh, thật tướng, hay nói theo danh từ Triết học, nhằm mục đích tìm
hiểu thật tại của vũ trụ vạn hữu.
Câu hỏi thứ hai là : “ Phát nguyên từ thật tại, vũ
trụ vạn hữu đã hình thành và biến chuyển bởi những nguyên nhân gì ? và như thế
nào ?”
Đây là 2 câu hỏi chính, sau đó, chúng ta có thể
thêm vào câu hỏi phụ như : Vũ trụ rộng hay hẹp ? có cùng hay không cùng tận ?
Trả lời câu hỏi thứ nhứt, Đạo Phật có Thật Tướng
Luận; trả lời câu hỏi thứ hai, Đạo Phật có Duyên Khởi Luận, trả lời câu hỏi thứ
ba, Đức Phật dạy : Vũ trụ hay Thế giới là vô lượng, vô biên, vô cùng tận.
2 . Thật Tướng Luận :
Thật Tướng Luận là lý thuyết giải bày về thật thể
của vũ trụ. Thật thể hay Thật tướng của vũ trụ, Đạo Phật thường gọi là Chơn
như. (Chơn là thật; Như là luôn luôn như thế, không biến đổi, không sanh diệt,
vô thỉ vô chung).
Vậy Chơn như là một thật thể không biến đổi, không
sanh diệt, không còn mất, vô thỉ vô chung, sáng suốt, có đủ tất cả những diệu
dụng của đức tánh.
Để chỉ Chơn như, nhiều khi Phật giáo, tùy theo mỗi trường hợp, cũng gọi bằng những danh từ
khác như : Chơn tâm, Viên giác, Thắng nghĩa, Phật tánh, Giác tánh, Pháp tánh,
Như như, Nhứt như, …
Mục đích của Thật Tướng Luận là muốn cho chúng ta
nhận chân rằng : Thật tại hay Chơn như, không thể dùng ngôn ngữ, văn tự mà thấy
được, trái lại phải rời bỏ tất cả danh tướng mà trực nhận. Nhưng để có một ý
niệm thô thiển về Chơn như, hãy tự bảo rằng “Chân như là cái gì trái hẳn với
hiện tượng giới.”,“Hiện tượng giới là mặt trái của Chơn như.”
3. Duyên Khởi Luận :
Duyên Khởi Luận là những lý thuyết nói về nguyên
nhân hay lý do sanh khởi của hiện tượng giới.
Duyên Khởi Luận trong Phật giáo, có nhiều thuyết,
nhưng không trái ngược nhau, mà chỉ khác nhau về phương diện cạn sâu, rốt ráo
hay chưa mà thôi.
Vậy chúng ta tuần tự đi từ cạn đến sâu.
a) Nghiệp cảm duyên khởi :
Nghiệp cảm duyên khởi luận là chủ trương của Tiểu
thừa Nguyên thủy Phật giáo. Lý thuyết nầy rút ra từ trong Tứ Diệu Đế và Thập
nhị Nhân duyên.
Như chúng ta đã biết về Tứ Diệu Đế, Phật dạy : Nguyên
nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do Hoặc Nghiệp. Hoặc là mê vọng,
Nghiệp là hành động tạo tác. Vì mê vọng nên có hành động sai lầm, vì hành động
sai lầm nên chịu quả đau khổ, … và cái vòng Nhân Quả Luân hồi cứ tiếp tục mãi,
tạo ra có Chánh báo là thân ta, và y báo là sơn hà đại địa. Sơn hà đại địa sở
dĩ có là có một cách tương đối với thân ta mà thôi.
Khi nguyên nhân biến đổi thì nghiệp quả cũng biến
đổi, do đó Chánh báo và y báo cũng biến đổi theo. Người, khi tạo những nghiệp
nhân làm người thì đời sau đầu thai lại, chánh báo vẫn là người và y báo vẫn là
sơn hà đại địa như người đã nhận thấy. Nhưng nếu tạo những nghiệp nhân dữ thì
chánh báo đời sau sẽ là loài súc sinh hay ngạ quỉ, và y báo, tức là cảnh giới ở
chung quanh, cũng không còn giống như cảnh giới trước của người nữa, nghĩa là
vũ trụ vạn hữu sẽ biến đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của loài ấy.
Do đó mà gọi là nghiệp cảm, nghĩa là do Nghiệp như
thế nào thì cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy.
Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân
(chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo có thể thế nầy hay thế
khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn
hiện tượng giới. Dứt trừ nghiệp là trở về cái Chân như, là nhập Niết bàn.
b) A-Lại-Da duyên khởi :
Thuyết nầy thuộc về Đại thừa Thỉ giáo, đi sâu hơn
thuyết trên một tầng.
Trong thuyết Nghiệp cảm Duyên khởi, chỉ nói có 6
Thức là : Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý. Sau khi chết, Ngũ uẩn tan rã, Nghiệp
lực dẫn dắt đi đầu thai, nhưng dẫn dắt cái gì ? Lục Thức hay Ý thức sanh diệt
vô thường, biến chuyển luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy cái gì gìn giữ cái
nghiệp quả, khiến cho nó triển chuyển không dứt ?
Đại Thừa Thỉ giáo bổ khuyết cho thuyết trên, tìm
thấy thêm 2 Thức nữa là Đệ thất Thức hay Mạt-Na Thức và Đệ bát Thức là A-Lại-Da
Thức.
Mạt-Na là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự
nhận có một cái Ngã, và gìn giữ cái Ngã ấy. Nhưng làm sao giữ được cái Ngã ấy ?
trong lúc Ngũ uẩn và Lục thức đều sanh diệt vô thường, hợp ly mãi mãi.
Vậy thì dưới Mạt-Na Thức, tất phải có một Thức khác
thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.
Đó chính là Thức thứ 8 : A-Lại-Da Thức, hay Tạng
Thức (Thức Trùm chứa). Thức nầy không phải vô thường như Ngũ uẩn, mà là hằng
khởi, thường tại. Nó có 2 công năng : Một là thâu nhiếp tất cả pháp, Hai là
sanh khởi tất cả pháp.
Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp thì
những chủng tử được dồn chứa vào Tạng Thức, đến khi đủ nhân duyên thì những
chủng tử ấy phát ra hiện hành.
Bởi A-Lại-Da Thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư
pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tượng. Khi căn thân của
ta vừa phát sanh là nó bao hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan
giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra.
Tóm lại, A-Lại-Da Thức làcăn bản của hiện tượng
giới
Từ vô thỉ, A-Lại-Da Thức đã bao trùm chủng tử. Hiện
tượng giới do chủng tử nầy phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì lại kích
thích phát sanh duyên mới, dẫn đến chỗ
tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng nhân quả nhau mãi mà làm cho hiển
hiện vạn hữu và làm nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.
Nhưng nếu A-Lại-Da Thức là nền móng của nhân quả
luân hồi thì A-Lại-Da Thức cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A-Lại-Da
Thức có đủ cả chủng tử hữu lậu và vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống
phát sanh thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối
với ngoại giới, biết có hư vọng, cho nên không để cho tâm vọng động, nên có thể
đưa đến sự giải thoát.
c) Chân Như Duyên khởi :
Thuyết nầy của Đại Thừa Chung giáo. Theo Đại Thừa
Chung giáo, Chân như tùy duyên mà sanh ra muôn pháp, hay nhất thiết duy tâm
tạo. Tâm bao gồm tất cả và có 2 phương diện : Về phương diện động, Tâm là cái
cửa của sanh diệt; về phương diện tịnh,
Tâm là cái cửa của Chơn như.
Nhưng vì sao, cũng một Tâm mà có 2 phương diện
tương phản như thế ? Ấy là bởi Vô minh. Chân như vốn thường trụ, bất động,
nhưng bởi vô minh làm duyên, khiến cho nó vọng động làm ra thiên sai vạn biệt.
Vô minh không phải là vật có thật, nó dựa nơi tâm thể mà có. Nó là một vọng
niệm. Cho nên trong Kinh thường nói : “Hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô minh.” Do
cái vọng niệm ấy mà thấy có chủ quan, có khách quan, có tự ngã, có phi ngã, có
vũ trụ vạn hữu.
Nhưng vạn hữu không phải ngoài tâm mà tồn tại được.
Chơn như tuy bị vô minh kích thích mà diêu động, nhưng trong động có tịnh,
trong tịnh có động, cũng như nước và sóng ở trong biển. Đứng về phương diện
nước mà nhìn thì tất cả sóng đều là nước; đứng về phương diện sóng mà nhìn thì
tất cả nước đều là sóng. Tâm ví như biển, Chân như ví như nước, và vạn tượng ví
như sóng.
Chúng sanh
vì vô minh che lấp nên chỉ thấy có vạn tượng giới; Bồ Tát và Phật, vì đã
trừ hết vô minh, nên thấy vạn tượng là Chơn như. Tâm gồm có Chơn như và vạn
tượng : Tịnh là Chơn như, động là vạn tượng. Động, tịnh không rời nhau, không cùng là một, nhưng cũng
không phải khác nhau. Đó là 2 phương diện của Tâm. Để chỉ 2 phương diện nầy,
trong Kinh có câu :“Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.”
Tùy duyên Tịnh sanh ra Tứ Thánh, tùy duyên nhiễm
sanh ra Lục phàm. Từ tịnh trở thành động là đi vào cửa sanh diệt, và đó cũng là
nguyên nhân phát triển của vũ trụ vạn hữu Từ động trở về tịnh là đi vào cửa
Chơn như và đó chính là nguyên nhân của giải thoát.
d) Lục đại Duyên khởi :
Lục đại duyên khởi là chủ trương của Mật Tông hay
Chơn Ngôn Tông. Lục đại là : Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không (Không gian) và Thức.
Năm đại trước thuộc về sắc pháp (tức là vật), đại thứ 6 thuộc về Tâm pháp (tức
là Tâm). Sáu đại nầy, mỗi mỗi đều dung thông không ngăn ngại nhau, và
tùy duyên sanh khởi vũ trụ vạn hữu.
Chia ra Vật và Tâm là trí thức của ta phân biệt như
thế, chớ bản thể của thật tại vẫn là một, vẫn không thể phân chia được. Vật là
hình tướng, Tâm là lực hoạt động. Lực không lìa được hình, lìa hình thì lực
không tồn tại. Còn hình, nếu không nhờ lực thì không phát hiện được. Vật và Tâm
chỉ là 2 phương diện của bản thể nhứt như.
Ta có đây là do Lục đại kết hợp mà ra. Lục đại ly
tán thì ta không còn. Còn mất chẳng qua chỉ là do Lục đại đổi thay. Lục đại kết
hợp hay ly tán làm thành vũ trụ hoạt động.
Đứng về phương diện tổng quát mà nhìn, vũ trụ là
một sự hoạt động không ngừng của Lục đại.
Chơn như là thực thể của Lục đại mà lý tánh của ta
trừu tượng được.
Thánh phàm khác nhau, thiện ác khác nhau ở chỗ biết
hay không biết phân biệt Chơn như với hiện tượng.
e) Pháp giới duyên khởi :
Pháp giới duyên khởi là chủ trương của Đại Thừa
Viên giáo (Hoa Nghiêm Tông). Thuyết nầy cho rằng : Pháp giới (tức là vũ trụ vạn
hữu) là một duyên khởi rất lớn, nghĩa là các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau,
nương tựa, tương phản, dung thông nhau mà thành lập.
Cái năng lực chủ động của pháp giới duyên khởi,
không phải thuộc về nghiệp lực của chúng
sanh, không phải
tạng thức sai biệt của A-Lại-Da, cũng không phải
cái lý tánh bình đẳng bất sanh bất diệt của Chơn như, mà chính là do vạn pháp,
pháp nầy dung thông với pháp kia, pháp kia dung thông với pháp nọ, cùng nhau
làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột, cho nên gọi là Vô tận
duyên khởi, hay Trùng trùng duyên khởi.
Như thế, vũ trụ vạn hữu là một cuộc đại hoạt động
của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô chung, nối tiếp và tràn lan vô cùng tận như
những đợt sóng. Vì có hoạt động nên mới
có sanh diệt chuyển biến. Nếu không có hoạt động thì không chuyển biến, tức là
không có vạn tượng, không có vũ trụ.
Sở dĩ các pháp làm nhân làm duyên hòa hợp, dung
thông nhau được là do 10 đặc tánh kỳ diệu mà Đại Thừa Viên giáo gọi là 10 món
huyền môn. Lại do 10 món huyền môn
nầy mà trong pháp giới, Sự và Lý, Lý Sự và Sự Sự được dung thông vô
ngại. (Sự là sự tướng sai biệt, Lý là lý tánh bình đẳng).
Để kết luận về phần trình bày Duyên khởi luận nầy,
chúng ta có thể tóm tắt như sau :
- Nghiệp cảm Duyên khởi muốn nói : Nghiệp lực là
nguyên nhân của hiện tượng giới. Nghiệp bởi mê hoặc mà có.
- A-Lại-Da Duyên khởi muốn nói : Căn nguyên của
hiện tượng giới là A-Lại-Da thức. A-Lại-Da bao trùm tất cả chủng tử hữu lậu và
vô lậu. Do chủng tử hữu lậu mà phát sanh vũ trụ vạn hữu. Muốn giải thoát khỏi
hiện tượng giới thì phải huân tập và làm phát hiện chủng tử vô lậu.
- Chơn như Duyên khởi muốn nói : Chơn như vì duyên
với vô minh mà diêu động và làm phát sanh ra vũ trụ vạn hữu.
- Lục đại Duyên khởi và Pháp giới Duyên khởi là 2
thuyết mường tuợng giống nhau, đều thuyết minh 2 phương diện hiện tượng và thật thể của nhất như. Bất tri bất giác là
nguyên nhân của hiện tượng. Tri giác được thì giải thoát được.
Những thuyết nói trên đều có những điểm giống nhau
: Mỗi thuyết đều công nhận có Chơn như
là bản thể của vũ trụ vạn hữu.
Nguyên nhân làm sanh khởi vũtrụ vạn hữu là mê vọng
hay vô minh. Muốn giải thoát thì phải trừ cho được mê vọng.
4 . Không gian và thời
gian của Pháp giới :
Chúng ta đã nói về
nguyên nhân sanh khởi của vũ trụ vạn hữu. Đến đây, chúng ta hãy nghe Phật dạy
về sự rộng lớn vô biên và sự tồn tại vô cùng của vũ trụ hay Pháp giới.
a) Không gian :
Theo lời dạy trong các
Kinh, vũ trụ hay nói theo danh từ của Phật giáo là Pháp giới, thì nó rộng lớn
vô cùng vô tận.
Thế giới chúng ta ở đây
không phải chỉ có một, mà nhiều như cát sông Hằng.
Cứ 1000 Thế giới nhỏ hiệp thành một Tiểu thiên Thế
giới; hiệp 1000 Tiểu thiên Thế giới thành một Trung thiên Thế giới, hiệp 1000
Trung thiên Thế giới thành một Đại thiên Thế giới hay Tam thiên Đại thiên Thế
giới.
Mỗi Tam thiên Đại thiên Thế giới như thế là gồm
1000 triệu (tức là 1 tỷ) Thế giới nhỏ như Thế giới của chúng ta. Hơn nữa, vũ
trụ không phải chỉ có một Đại thiên Thế giới, mà gồm vô số Đại thiên Thế giới.
b) Thời gian :
Phật đã dạy : Các pháp hữu vi, bất cứ một pháp nào,
cũng đều bị 4 thời kỳ chi phối là : Thành, Trụ, Hoại, Không.
Thế giới cũng vậy, không thể thoát ra ngoài cái
luật :Thành, Trụ, Hoại, Không, ấy được. Nhưng bởi vì trong pháp giới có không
biết bao nhiêu Thế giới, nên sự thành, trụ của một Thế giới nầy là sự hoại,
không của một Thế giới khác, cứ như thế mà xoay vần không dứt.
Nếu lấy riêng ra một Thế giới để đo lường thời
gian, chúng ta sẽ có những con số như sau:
Mỗi Thế giới đều có 4 thời kỳ hay 4 Trung kiếp. Mỗi
Trung kiếp có 20 Tiểu kiếp. Mỗi Tiểu kiếp có 16 triệu năm.
Như thế, một Thế giới từ khi hình thành đến khi
tiêu diệt phải trải qua : 4 x 20 x 16 = 1280 triệu năm.
Nhưng chúng ta đã biết số Thế giới nhiều như cát
sông Hằng, thì sự tồn tại của pháp giới lâu dài không thể suy tính nghĩ bàn được.
Ở đây, chúng ta không có ý nêu lên các con số như
trên để đo lường đích xác sự rộng lớn và sự lâu dài của pháp giới, chúng ta chỉ
có mục đích là nêu ra để có ý niệm về sự vô cùng vô tận, vô thỉ vô chung của
pháp giới mà thôi. Ý niệm nầy ngày nay cũng được khoa học tán đồng. (Theo Bài
Vũ trụ quan của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa trong Phật học Phổ thông, khóa V
trang 374).
VI . Quan niệm của Phật giáo về Thượng Đế và Linh
hồn :
Trong quyển Đức Phật và Phật pháp (The Buddha and
his Teachings) của Đại Đức NARADA, Tăng Trưởng chùa Vajirarãma ở Tích Lan,
thuộc Phật giáo Nguyên thủy (Tiểu Thừa), là Giáo sư Đại học Tích Lan, đã được
Ông Phạm kim Khánh dịch ra Việt văn, có những đoạn trích ra sau đây:
“ Ta
không nên lẫn lộn Giáo lý tái sanh của Phật giáo với thuyết chuyển sinh linh hồn
hay đầu thai của một vài hệ thống tín ngưỡng khác, bởi vì Phật giáo không nhìn
nhận có sự chuyển sinh của một linh hồn trường cửu do một Thần linh tạo ra hay
phát xuất từ một Đại hồn.” (trang 357)
“ Ta
không thể xác định khởi điểm của dòng đời của chúng sanh. Nguồn gốc và lịch
trình tiến hóa của vũ trụ, Đức Phật không đề cập đến.” (trang 367)
“
Trong toàn bộ Tam Tạng, tuyệt đối không có đoạn nào đề cập đến sự hiện hữu của
một Tạo Hóa. Nhiều lần Đức Phật phủ nhận một Linh hồn trường cửu. Ngài tuyệt
nhiên không chấp nhận có một Đấng Tạo Hóa, bất luận dưới hình thức một năng lực
hay một chúng sanh. Mặc dầu Đức Phật không hề đặt một Thần linh siêu nhơn nào
lên trên con người, có vài học giả cũng quả quyết rằng Ngài đặc biệt không đề
cập đến vấn đề tranh luận quan trọng ấy.” (trang 368)
“Phật
giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào,
chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai.” (trang 419)
“
Ngoài Danh và Sắc, Tâm và Vật, là 2 thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật giáo
không nhận có một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà con người đã
thọ lãnh một cách bí ẩn từ một nguồn gốc
cũng bí ẩn không kém. Một linh hồn mà trường cửu, tức nhiên phải bất biến,
trước cũng như sau. Nếu linh hồn mà người ta giả thiết là phần tinh túy của con
người là trường tồn vĩnh cửu thì linh hồn không thể phát sanh hay tiêu diệt, mà
ta không thể giải thích vì sao “ từ lúc sơ khởi, linh hồn nầy lại khác biệt rất
xa với linh hồn kia.” (trang 422)
“Phật
giáo dạy một thứ Tâm lý học trong đó không có linh hồn. Phật giáo chủ trương
rằng, chúng ta là sự cấu hợp của 2 thành phần Danh và Sắc, Tâm và vật chất, và
2 thành phần nầy ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường lưu bất tức.” (trang 427)
“
Nếu không có linh hồn, coi như một thực thể đơn thuần không biến đổi, thì cái
gì đi tái sanh ? (trang 433)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét