Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy.
Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói :
- Con thú ấy là con kỳ lân.
Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi Thúc Lương Ngột là
hang núi Không Tang ở đâu ?
Thúc Lương Ngột nói :
- Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi là hang
Không Tang.
Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sanh đẻ trong
hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sanh ra Khổng Tử, có
2 con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở 2 bên sườn núi và có 2 vị
Thần Nữ
đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong thì biến đi. Khi
Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một suối nước nóng chảy ra để cho
Trưng Tại tắm. Tắm xong thì suối cạn ngay.
Thúc Lương Ngột nói :
- Vì ta cầu
tự nơi núi Ni sơn mà được đứa bé nầy,
nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni.
Trưng Tại biết đứa con nầy sẽ làm nên việc lớn, nên
hết sức nuôi nấng và chăm sóc con.
Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm : Môi như môi trâu,
tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng
và cao, khi lớn, mình cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tánh ham học.
Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ngài sống với
mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với trẻ hàng
xóm, thích bày trò cúng tế.
Năm 15 tuổi, lập chí học tập.
Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là con của
họ Thượng Quan nước Tống.
Năm 20 tuổi, vợ Ngài sanh đặng một con trai. Hôm
đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lý ngư), nên nhân
đó, Ngài đặt tên con là Lý tự là Bá Ngư, để tỏ lòng tôn trọng vật của vua ban
tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư
tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo
học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.
1 . Đức tánh của Đức Khổng
Tử :
Đức Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham
học. Bất cứ việc gì, Ngài cũng để ý xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng
tận mới thôi.
Tánh Ngài ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc
gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh.
2 . Thời kỳ tham chánh và dạy học :
Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại,
một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gạt lúa. Sau
đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế
tự.
Năm Ngài 25 tuổi thì chịu tang mẹ.
Năm 29 tuổi, Ngài học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ.
Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng Đức Khổng Tử đã nổi
tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ,
cho 2 người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Ngài học Lễ.
Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà
Châu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ
miếu đường, nhưng vì nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi.
Học trò Ngài là Nam Cung Quát nghe vậy, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền
ban cho Ngài một cổ xe song mã và vài tên quân hầu cận để đưa Ngài và Nam Cung
Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Đức Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường,
khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên
Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ.
Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì Ngài đến quan
sát và hỏi han cho tường tận.
Ngài đến gặp Trành Hoành để hỏi về Nhạc.
Khi ở Lạc Dương, Đức Khổng Tử còn tìm đến gặp Đức
Lão Tử để hỏi về Lễ. (Xem trở lại Tiểu sử của Đức Lão Tử trong phần Lão giáo, để biết việc đối đáp giữa 2 vị
Thánh nhân) .
Đức Khổng Tử
ở Lạc Dương khảo sát các việc xong thì trở về nước Lỗ.
Từ đó, sự học của Ngài càng rộng hơn nhiều nên học
trò xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng Ngài vào việc
nước.
Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn.
Ngài theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Ở đây Ngài học được Nhạc thiều.
Tề Cảnh Công mời Ngài tới để hỏi việc Chánh trị. Vua Tề rất khâm phục, muốn đem
đất Ni Khê phong cho Ngài, nhưng quan Tướng Quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản
không cho.
Năm sau, Ngài trở về nước Lỗ, thấy họ Quý dùng
Dương Hổ để chuyên quyền, ý muốn tiếm đoạt. Ngài quay về quê lo việc dạy học,
và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh Hiền. Lúc đó Ngài được 36 tuổi.
Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Ngài được 51
tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở
Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, 4 phương lấy chính sự của Ngài
làm khuôn mẫu.
Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 năm trước Tây lịch),
Ngài phò vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và
ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ 3 khoảnh đất ở
Quy Âm mà Tề đã chiếm của Lỗ từ mấy năm trước.
Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi
thăng lên Đại Tư Khấu (Hình Bộ Thượng Thơ) coi việc hình án. Ngài đặt ra luật
lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có
trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không còn nữa, xã hội được
an bình thạnh trị.
Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong Ngài lên làm Nhiếp
Tướng Sự (Tướng Quốc), coi việc Chánh trị trong nước.
Ngài cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua Lỗ xin
giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính.
Đức
Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão :
Thiếu Chính Mão là một nịnh thần rất nguy hiểm dưới
trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc nước Lỗ. Quý
Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn hỏi ý kiến của
Đức Khổng Tử mỗi khi có một quyết định trong
công việc trị nước. Nhưng phần Thiếu Chính Mão, khi Đức Khổng Tử nói ra câu gì
thì liền gièm pha khiến cho người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc.
Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công :
- Nước Lỗ không cường thịnh lên được là vì trung
nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn trồng lúa
tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt (dùng vào
việc hình) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng vào việc hình.
Lỗ Định Công thuận cho.
Sáng hôm sau, Lỗ Định
Công truyền cho các quan triều đình hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi
hại thế nào. Các quan người nói nên phá, người nói không nên phá.
Thiếu Chính Mão đón
ý Đức Khổng Tử, nói rằng :
- Phá thành có 6 điều tiện :
1 . Để tôn trọng quyền vua không ai bằng.
2 . Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.
3 . Để ức quyền tư môn.
4 . Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không cho nương cậy.
5 . Để yên lòng 3 nhà : Mạnh, Thúc, Quý.
6 . Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm mà phải kính phục.
Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công :
- Thành ấp nay đã thế cô còn làm gì được, huống chi
Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với
vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu Chính Mão dùng lời nói khéo để làm
loạn chánh trị, khiến vua tôi ly gián, cứ theo phép thì nên giết.
Các quan trong triều tâu :
- Thiếu Chính Mão là người danh giá ở nước Lỗ ta,
dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.
Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công :
- Thiếu Chính Mão là người dối trá mà lại biện bác,
làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì việc chánh trị không thi hành
nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội.
Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu Chính Mão
đem đến Lưỡng quán mà giết đi.
Các quan trong triều đều sợ hãi, xám xanh cả mặt.
Ba nhà : Mạnh, Thúc Quý, trông thấy cũng đều
kinh sợ.
Từ khi giết xong Thiếu Chính Mão, Lỗ Định Công và 3
nhà Mạnh, Thúc, Quý mới một lòng nghe
theo lời của Đức Khổng Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước,
dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không còn nhiễu loạn mà chánh
trị mỗi ngày một hay.
Ba tháng sau, phong tục biến cải cả : Các nhà buôn
gà và heo không dám nhồi cám vào để dối người mua; trong khi ra đường, trai gái
đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường thì không ai lượm,
người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đãi tử tế, không để cho thiếu thốn.
Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng công đức
của Khổng Tử. Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề.
Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng :
- Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên nghiệp Bá,
tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào ?
Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng :
- Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao
không lập cách ngăn đi.
Tề Cảnh Công nói :
- Nước Lỗ
giao quyền chánh trị cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được ?
Lê Di tâu:
- Tánh con người ta, hễ được cường thịnh tất sanh
lòng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Vua Lỗ mà
nhận Bộ Nữ Nhạc tất sanh lười biếng mà chán
Khổng Khâu. Bấy giờ tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công mới có thể ngồi yên được.
Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can gián của
Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc thì mê say theo, bỏ bê việc triều chánh, có khi
luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ Quí. Đức Khổng Tử can
gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị hại vì lời gièm siễm của
bọn gian thần.
Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không nhìn
đến, cũng không đem phần thịt tế biếu
cho các quan Đại Phu. Đức Khổng Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức,
bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.
3.
Thời kỳ soạn sách và dạy học trò :
Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đã 68 tuổi. Ngài
trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách.
Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000
người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên
gọi là Thất thập nhị Hiền.
Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh
Hiền đời trước như : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.
Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước,
xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch,
Ngài chú giải rất kỹ.
Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu để bày
tỏ cái Đạo của Ngài.
Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng Ngài
vẫn khiêm tốn không dám nhận mình là Thánh nhân.
Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dãi. Hễ ai theo
đúng lễ đến xin học thì Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học trò,
không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục bình dân
đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có đức hạnh
trong giới bình dân.
Sự giáo hóa của Ngài chủ yếu là làm sao cho sáng tỏ
cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền thụ kiến thức. Đây là
một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của con người vậy.
5 . Đức Khổng Tử tạ thế :
Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây
lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què một chân bên trái phía
trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng :“Ngô
đạo cùng hỹ !” (Đạo của ta đến lúc cùng !).
Sách Xuân Thu chép đến chuyện nầy thì hết, nên đời
sau còn gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.
Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 trước Tây
lịch), một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi
tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát : Thái sơn kỳ đồi hồ ! Lương mộc kỳ hoại hồ !
Triết nhân kỳ nuy hồ ! (Núi Thái sơn đổ ư ! Cây gỗ tốt hư hoại ư ! Triết nhân
mòn mỏi ư !)
Học trò của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi thăm Ngài.
Ngài nói : “ Ta biết mình sắp chết.”
Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm
Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi.
Mộ của Ngài ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành
nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và than
khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ
để lo phụng tự trong 3 năm, riêng Tử
Cống ở đó hết 6 năm mới thôi.
Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng chừng 100
mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm các thứ hoa
thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.
6 . Các triều đại phong tặng
Đức Khổng Tử :
- Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng Đức Khổng
Tử là Văn Tuyên Vương, mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước :
Công, Hầu, Bá.
- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài là : Đại
Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho thân phụ Ngài là Lỗ Công, phong cho thân mẫu
Ngài là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị
làm Vân Phu Nhân, và ra lịnh cho các tỉnh lập miếu thờ Ngài.
- Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng Ngài
là Chí Thánh Tiên Sư .
- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong là Đại Thành Chí
Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
7 . Văn miếu :
Văn miếu hay Văn Thánh miếu là tòa nhà dựng lên để
làm Đền thờ Đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cùng với các Tiên Hiền, Tiên
Nho qua các thời đại gồm :
a . Tứ Phối : Bốn vị Thánh
cùng được phối hưởng cúng tế với Đức Khổng Tử.
Tứ Phối gồm :
- Phục Thánh Nhan Tử (Nhan Hồi)
- Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm)
- Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp)
- Á Thánh Mạnh Tử
(Mạnh Kha)
b . Thập Triết : Mười vị Hiền
triết, học trò tài giỏi nhứt của Đức Khổng Tử. Thập Triết gồm:
- Mẫn Tổn (Mẫn
Tử Khiên)
- Bá Ngưu (Nhiễm Canh)
- Trọng Cung (Nhiễm Ung)
- Tể Dư (Tử
Ngã)
- Đoan Mộc Tứ (Tử
Cống)
- Nhiễm Cầu (Tử
Hữu)
- Trọng Do (Tử
Lộ)
- Ngôn Yển (Tử
Du)
- Bốc Thương (Tử
Hạ)
- Chuyên Tôn Sư (Tử
Trương).
c .
Thất thập nhị Hiền: 72 vị học trò giỏi của Đức Khổng Tử, nhưng ở dưới
Thập Triết một bực.
Nói là Thất thập nhị Hiền, chớ thật ra chỉ có 62
vị, vì trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết, nên phải trừ ra 10 vị.
d . Tiên Hiền, Tiên Nho : gồm
120 vị, qua các triều đại từ xưa đến nay.
8 . Đức
Khổng Tử trong Đạo Cao Đài :
Đức Khổng Tử là một Đấng Giáo chủ trong Tam giáo
thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhờ Đức Khổng Tử mà Nho giáo mới được hưng hạnh, và trở thành một học
thuyết triết học nhân sinh có hệ thống
chặt chẽ và hoàn hảo, chủ yếu dạy về Nhơn Đạo (Đạo làm Người). Không có một
giáo thuyết nào dạy Nhơn Đạo hoàn hảo bằng Nho giáo.
Do đó, Đức Chí Tôn
mới có chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, tức là dùng tinh hoa của Giáo lý
Nho giáo để dạy dỗ người đời, tái lập trật tự
và đạo đức trong xã hội.
Trong Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài có Bài Kinh
Nho giáo để xưng tụng công đức của Đức Khổng Tử.
VIII
. Các Chi phái của Nho giáo :
Nho giáo kể từ thời của Đức Khổng Tử cho đến đời
nhà Thanh bên Tàu kể có 2500 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Nho giáo có lúc
thịnh lúc suy, nhưng bao giờ cũng có cái tinh thần mạnh mẽ để đối phó với thời
cuộc mà sinh tồn, mà phát đạt. Nhờ cái tinh thần ấy, học thuật tuy có biến
thiên nhiều lần, nhưng cái đặc tính của Nho giáo vẫn không mất, mà lúc nào cũng
giữ được thái độ tôn nghiêm đủ làm cho người ta tín phục.
Xét về sự biến thiên của học thuật, từ đời Hán trở
đi, ta có thể chia Nho giáo làm 2 cái học : Cái học Nghĩa lyù và cái học Từ
chương.
1 . Cái học Nghĩa lý :
Sau thời Đức Khổng Tử, Nho giáo có 2 phái lớn
: Mạnh Tử và Tuân Tử. Hai phái nầy đều
xưng là theo cái học của Khổng Tử,
song mỗi phái chủ trương một tôn chỉ
riêng.
Từ cuối đời Chiến Quốc đến hết đời nhà Tần, sang
đời nhà Hán, Nho giáo bị một trạng thái trung suy, rồi từ đời vua Hán Võ Đế trở
đi, Nho giáo rất được thịnh hành, song cái học thuật trong thời đại từ đời Hán
đến đời Đường, chỉ chú trọng ở sự tìm nghĩa lý trong các Kinh Truyện, thành ra
một lối học gọi là Huấn Hỗ học.
Kế đến đời nhà Tống, các Nho gia bỏ lối học Huấn
Hỗ, tìm lấy những vi ngôn đại nghĩa của Thánh Hiền, lập ra phái Lý Học, đem cái
tư tưởng lên đến cõi siêu việt và gây thành một nền triết học rất cao minh.
Phái Lý Học của Nho giáo đời Tống có 3 học thuyết :
- Tượng số học.
- Đạo học.
- Tâm học.
Tượng số học
do Thiệu Khang Tiết lập ra, nhưng về sau không thạnh hành.
Đạo học và Tâm học thì đời nhà Tống đến đời nhà
Minh, đều cùng nhau đối lập. Đạo học lấy Trình Chu làm tiêu biểu, còn Tâm học
thì lấy Lục Vương làm tiêu biểu.
Nho giáo đến cuối nhà Thanh lại chia ra làm mấy
phái nữa, như : Hán Học phái, Tống Học phái, và sau cùng là Tân Học phái.
Hán Học phái lấy sự khảo cứu các Kinh Truyện làm
tôn chỉ. Tống Học phái lấy học thuyết của Tống Nho làm tôn chỉ. Tân Học phái
lấy việc chánh trị theo nghĩa trong Ngũ kinh làm tôn chỉ.
Các Học phái ấy đều muốn sửa đổi cái lưu tệ để
khiến cho sự học được thích hợp với sự ứng dụng ở đời.
2 . Cái học Từ chương :
Ngoài những Học phái chuyên về đường Nghĩa lý, còn
có cái học Từ chương, chỉ chú trọng về mặt Khoa cử, để đem người học vào đường
danh lợi.
Cái học Khoa cử từ đời Hán đến đời Đường rất cực
thịnh. Nho giáo nhờ cái học ấy mà lan rộng khắp thiên hạ, nhưng cũng vì cái học
ấy mà thành ra cái học hư văn, làm mất chơn tướng sự học của Thánh Hiền.
Hoàng Lê Châu đời nhà Thanh sơ nói rằng: “ Cử
nghiệp thịnh nhi Thánh học vong.” Nghĩa là: Cái học Khoa cử thạnh thì cái học
của Thánh Hiền mất. Đây là câu nói thật đúng cái bệnh của sự học Khoa cử vậy.
Nho giáo sở dĩ có cái mãnh lực biến thiên và phát
đạt như thế là bởi có cái học “phí nhi ẩn”, rộng mà sâu, thiết thực mà huyền
bí, và bao giờ cũng theo đạo Trung Dung, nghĩa là cái tư tưởng thì lên đến chỗ
cực cao xa, mà sự hành vi thì vẫn giữ có chừng mực, không thiên lệch về bên
nào, khiến cho sự nhân sinh của các hạng người đều được an vui, (Theo Nho giáo
của Trần trọng Kim)
IX . Sự Giáo dục của Nho giáo :
Về phương diện giáo dục, Nho giáo cho cái Tánh bản
nhiên của Trời phú cho mỗi người là Chí
thiện. Bởi có cái Tánh ấy, nên ai sanh ra cũng có sẵn Tứ Đoan, gồm : Trắc ẩn,
Tu ố, Từ nhượng, Thị phi, tức là 4 cái mối đầu của : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
Người ta sở dĩ
làm điều ác là tại để cái tư tâm tư dục che lấp mất Tứ Đoan ấy.
Cho nên sự Giáo dục là cốt gây nuôi lấy cái Thiện
đoan và tài chế các Ác đoan. Người nào thực hiện được 4 điều : Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, thì đó là người quân tử có cái phẩm giá rất tôn quí.
Việc giáo dục của Nho giáo lấy Đức dục làm gốc và
lấy Trí dục làm ngọn. Cái gốc có bền chặt thì cái ngọn mới tươi tốt. Có Đức dục thì nghĩa lý thấm
thía vào lòng người ta, làm cho tự mình bỏ được cái bụng gian tà. Người có học
hạnh thường phải bó mình trong cái phạm vi danh giáo, thành thử cái Tà tâm mà
có sanh ra thì cũng không trưởng thành lên được. Ấy thật là cái công của Nho
giáo , dẫu người ta không thực hành hoàn toàn được cái đạo của Thánh Hiền,
nhưng cũng gây được cái phong khí rất hay ở trong xã hội vậy.
Cái nền Đức dục của ta là Nho giáo, đã được xây đắp
lên hằng mấy ngàn năm nay rồi, và đã có hiệu quả mỹ mãn, thì ta cứ giữ lấy mà
lưu truyền để làm cái sản nghiệp riêng của dân tộc ta.
Ta lại thu lấy những điều Trí dục mà ta còn khiếm
khuyết, bồi bổ thêm vào cái sản nghiệp ấy, làm cho Tâm với Trí điều hòa với
nhau mà tiến hóa.
Như thế, cái học của ta có căn bản, nên dầu có thay
đổi điều gì ắt cũng ít có sự lầm lỗi vậy.
X . Nho giáo Việt Nam :
Việt Nam là một nước bé nhỏ bên
cạnh một nước vĩ đại Trung Hoa, dân VN lại kém văn minh, nên VN bị Trung hoa đô
hộ 4 lần kéo dài đến hơn 1000 năm.
Trong khoảng thời gian bị đô hộ đó, người Tàu có ý
đồng hóa dân VN với dân Tàu, biến VN thành một châu quận của nước Tàu. Người
Tàu đã di dân sang VN, làm ăn buôn bán với người VN, cưới gả với người VN,
truyền qua VN các phong tục tạp quán của Tàu, các nghề nghiệp và các tín
ngưỡng. Tuy nhiên, người VN có một tinh thần dân tộc rất mạnh, luôn luôn quật
khởi chống lại sự đồng hóa của người Tàu. VN lại có tinh thần cầu tiến, luôn
luôn học hỏi cái hay của người để được khôn ngoan và tiến bộ cho bằng người
Tàu, để đủ sức bảo tồn nói giống VN.
Về phương diện tín ngưỡng tôn giáo, người Tàu
truyền qua VN ba nền tôn giáo (Tam giáo) : Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo.
Người VN thu nạp và tôn sùng 3 nền tôn giáo đó, đồng thời lại dung hợp 3 tôn
giáo ấy thành một tín ngưỡng có sắc thái riêng biệt của người VN.
Riêng về Nho giáo, người Tàu truyền qua VN sớm hơn
Phật giáo và Lão giáo, qua các vị quan sang làm Thái Thú cai trị Việt Nam.
Theo Sử Ký, vào thế kỷ thứ 1, đời nhà Tây Hán bên
Tàu, Thái Thú cai trị Giao Chỉ (nước VN) là Tích Quang, hết lòng lo việc khai
hóa dân Giao Chỉ, dạy dân điều Lễ Nghĩa, làm lễ Cưới Hỏi trong việc vợ chồng.
Dân Giao Chỉ rất mang ơn và kính trọng.
Đến đầu thế kỷ thứ 3, VN vẫn còn nội thuộc nhà Tây
Hán, Giao Chỉ được đổi lại là Giao Châu, và Thái Thú cai trị là Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp trị dân rất có phép tắc, chăm
lo việc dạy dân học chữ Nho và các kinh sách của Nho giáo, tạo thành một nền
đạo đức luân lý cho dân VN. Người VN cảm mộ cái công đức đó, tôn Sĩ Nhiếp là Sĩ
Vương và tôn là Học Tổ của VN.
Trong hơn 1000 năm đô hộ của người Tàu, người VN
chịu sự cai trị và giáo hóa của người
Tàu, nên sự học vấn, luân lý, phong tục, tín ngưỡng, đều hoàn toàn theo người
Tàu. Tuy vậy, người Tàu không đồng hóa được người VN vì người VN có một đức tin
mạnh mẽ về nguồn gốc thiêng liêng của nòi giống dân tộc mình là con Rồng cháu
Tiên, nên luôn luôn quật khởi chống lại sự đô hộ của người Tàu.
Sau đây, chúng ta xem sự biến thiên của Nho giáo VN
kể từ thời Tự chủ, vua Ngô Quyền (939-965)
đến ngày nay.
1)
Nho giáo VN dưới thời : Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và nhà Lý :
Trong các triều đại nầy, Tam giáo đều được thạnh
hành cả. Nho giáo theo cái học của nhà Đường, và cái học của Nho giáo là cái
học Khoa cử để tuyển lựa nhơn tài.
Đến đời vua Lý Thánh Tông (1034-1072), Văn Miếu
được lập ra để thờ Đức Khổng Tử, Châu Công Đán và Thất thập nhị Hiền.
Lý Nhân Tông (1072-1127) mở khoa thi Tam Trường
(1075) để tuyển người văn học Nho giáo ra làm quan, ông Lê văn Thịnh đỗ đầu. Sau đó, vua Nhân Tông lập Quốc Tử
Giám, là nhà dạy học, đào tạo nhân tài; mở Hàn Lâm Viện, có Nho gia là Mạc Hiển
Tích làm Hàn Lâm Học Sĩ.
Nho giáo đời Nhà Lý thạnh hơn các triều đại trước,
và nhờ vậy, sản xuất được nhiều vị hiền lương, trung nghĩa, tiết tháo. Những
người Nho học có danh tiếng lớn dưới thời nhà Lý là : Lý Đạo Thành, Trương Bá
Ngọc, Tô Hiến Thành. Những vị nầy, tuy
không phải là những học giả chuyên nghề luận đạo làm văn, nhưng biết
dùng cái tinh hoa của Nho học mà thi thố trong
việc làm, xứng đáng là những danh
Nho.
2) Nho giáo VN dưới thời nhà Trần, nhà Hồ :
Đến đời nhà Trần, Nho giáo thịnh hơn trước, có
nhiều nhà Nho chân chính như : Mạc Đỉnh Chi, Trương Hán Siêu, Chu văn An, Lê
văn Hưu, Nguyễn Phi Khanh, Hàn Thuyên, …
Đặc biệt trong thời nhà Trần, ngoài Nho học còn có
Lão học và Phật học cũng rất được tôn trọng. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Tam
giáo, chọn những người tài giỏi về Nho học, hay Lão học, Phật học. Ai theo cái học nào mà tinh thâm
đạo lý thì được vua dùng, không nhất thiết phải là Nho học. Như thế, Tam giáo
bấy giờ được xem trọng như nhau.
Nhà Hồ soán ngôi nhà Trần. Nhà Minh bên Tàu có cớ
đem quân sang đánh chiếm và đô hộ nước ta, đặt ra các học quan, đem cái học của
Tống Nho dạy cho dân, lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư của họ Trình, họ Chu đã chú thích mà
dạy. Cái học của Trình của Chu càng ngày càng thịnh.
3) Nho giáo
dưới thời nhà Lê, nhà Mạc :
Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) hết lòng mở mang việc
học, đặt riêng các Học quan để lo việc giáo hóa. Vua bắt các quan từ Tứ phẩm
trở xuống phải đi thi Minh Kinh, nghĩa là quan văn thì phải thi Kinh Sử, quan
võ thì phải thi Võ Kinh.
Đến đời Lê Thánh Tôn (1460-1497), văn học nước ta
cực thạnh. Những người thi đậu Tiến Sĩ được khắc tên lên bia đá dựng trong Văn
Miếu.
Những danh Nho thời nhà Lê là : Nguyễn Trãi, Lương
thế Vinh, Lương đắc Bằng, và thời Lê Trung Hưng là : Phùng khắc Khoan, Lương
hữu Khánh, Phạm đình Trọng.
Đặc biệt trong thời nhà Mạc, trước Lê Trung Hưng,
xuất hiện một đại danh Nho là Nguyễn bỉnh Khiêm, tinh thông Lý số và Dịch Kinh,
làm cho người Tàu phải kính phục.
Trong thời nhà Lê nói chung, Nho giáo rất thạnh,
nhưng các Nho gia chỉ chú trọng cái học khoa cử, vụ lấy văn chương cầu sự đỗ
đạt ra làm quan, chớ không có ai đạt được chỗ uyên thâm của Nho giáo, tìm được
đạo lý cao siêu mà đề xướng các học thuyết có giá trị như bên Tàu. Đó là chỗ
yếu kém của Nho học nước ta.
4)
Nho giáo dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn Gia Long:
Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Nho học ít được
các vua chúa quan tâm, mà chỉ lo việc võ bị để đánh nhau. Sự học hành thi cử
đại khái giống như thời nhà Lê, luôn luôn lấy Nho học làm trọng.
Một việc quan trọng là Chúa Trịnh Giang ra lịnh in
sách. Trước đây, các sách Nho như Ngũ Kinh, Tứ Thư đều mua từ bên Tàu, nay Chúa
Trịnh Giang ra lịnh khắc bản in tại Thăng Long và phát ra mọi nơi.
Ở Bắc Hà có các danh Nho như : Lê Quí Đôn, Ngô Thì
Sĩ, Nguyễn Du. Ở phía Nam, Chúa Nguyễn bận lo việc mở mang bờ cõi xuống phương
Nam nên ít quan tâm đến Nho học, làm cho Nho học ở phía Nam kém xa phía Bắc,
nhưng cũng sản xuất được một vài danh Nho tài kiêm văn võ như : Đào duy Từ,
Nguyễn hữu Dật, Nguyễn hữu Tiến, Nguyễn hữu Hào với truyện Song Tinh Bất Dạ.
Thời nhà Tây Sơn (1788-1802) kéo dài 14 năm, bị
chiến tranh liên miên, nên Nho học không
được chú trọng.
Có một sự kiện đặc biệt, vua Quang Trung ra lịnh
chánh thức dùng chữ Nôm trong văn tự, để gây thành một tinh thần dân tộc mạnh
mẽ của người VN. Một nền văn học chữ Nôm đã được các Nho gia ủng hộ từ trước
nhưng không được các vua chánh thức công nhận và phát huy, mãi đến đời vua
Quang Trung mới được mở ra thay thế nền
văn học chữ Hán.
Chữ Nôm đã được Hàn Thuyên chế ra từ đời nhà Trần,
hình thức giống như chữ Hán, nhưng đọc thành tiếng nước Nam. Điều nầy chứng tỏ
ý thức dân tộc của người VN muốn thoát khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào văn
tự Trung quốc.
Những tác phẩm chữ Nôm rất có giá trị tiêu biểu nền
văn học VN như : Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Hoa Tiên của Nguyễn huy Tự,
Truyện Song Tinh Bất Dạ của Nguyễn hữu Hào, vv . . .
Trong thời kỳ nầy có những bậc Nho học uyên thâm,
khí tiết cao thượng, ẩn dật chốn sơn lâm, không chịu ra làm quan, như các ông :
Ngô thế Lân, Đặng thái Phương, Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử), đặc biệt ông Đặng
thái Phương đem sách Chu Dịch ra diễn Nôm theo lối văn vần, gọi là Chu Dịch
Quốc Âm quyết.
Vua Gia Long đánh đuổi Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn,
rất chú trọng việc học. Vua cho lập Văn miếu ở các Doanh, các Trấn để thờ Đức
Khổng Tử, tỏ lòng tôn trọng Nho học, mở trường Quốc Tử Giám để dạy Nho học. Văn
chương chữ Nôm rất thịnh, nhưng nhà vua vẫn dùng chữ Hán làm chánh.
Các vua triều Nguyễn rất tôn trọng Nho học, sửa
sang việc thi cử để chọn những người Nho học tài giỏi ra giúp nước. Nhiều Nho
sĩ nổi tiếng như : Lý văn Phức, Nguyễn công Trứ, Phan huy Chú, Nguyễn Khuyến,
vv . . .
Vua Gia Long phục quốc thành công nhờ sự viện trợ
của nước Pháp ở Âu Châu, nên phải cho các Giáo sĩ người Pháp vào VN truyền đạo
Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo đã làm cho Nho học lung lay mạnh mẽ.
Vua Minh Mạng nói : “Đạo phương Tây là Tả đạo, làm
mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, nên phải nghiêm cấm để khiến cho
dân theo Chánh đạo.”
Việc cấm đạo Thiên Chúa bắt đầu từ thời vua Minh Mạng. Đây chính là nguyên do
để người Pháp xâm chiếm nước ta, đặt nền thống trị lên dân tộc ta gần một thế
kỷ.
Thiên Chúa giáo và Triết học Tây phương du nhập vào
VN làm cho Nho giáo mất hẳn độc tôn
trong xã hội VN.
5)
Nho giáo dưới thời Pháp thuộc : Sự suy tàn của Nho giáo VN :
Tầng lớp Nho sĩ đang lãnh đạo xã hội VN, khi phải
đương đầu với nền văn hóa Âu Tây, thấy người ta hùng mạnh văn minh, còn mình
thì yếu hèn hủ lậu, nên tưởng lầm cái nguyên nhân gây ra sự hùng mạnh kia là do máy móc cùng đầu óc khoa học cơ giới. Thế rồi một số sĩ phu chủ trương rủ
sạch quá khứ, bài bác Đạo học cổ truyền, cho đó là nguyên nhân gây ra yếu hèn
và thất bại. Họ chủ trương hoàn toàn theo Tân học.
Người Pháp đem đạo Thiên Chúa truyền bá trong nước
VN, dành cho người theo đạo nhiều quyền lợi vật chất. Các Giáo sĩ Thiên Chúa giáo, vì nhu cầu truyền đạo, nên
phiên âm tiếng VN bằng cách dùng các mẫu tự của chữ Pháp để tạo thành chữ quốc ngữ ngày nay.
Đó là công trình của 2 Giáo sĩ : Alexandre de Rhode
(Đắc Lộ) và Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc).
Chữ quốc ngữ rất dễ học hơn chữ Hán hay chữ Nôm,
nên được phái Tân học ủng hộ triệt để và dần dần thay thế hoàn toàn chữ Hán
trong việc giáo dục.
Năm 1918, triều đình Huế, dưới sự bảo hộ của nước
Pháp, đã ra lịnh bãi bỏ việc thi cử bằng chữ Hán. Nhờ vậy, chữ quốc ngữ mới trở nên quan trọng và thiết yếu cho sự
tiến hóa của VN.
Chữ Hán là một lợi khí của Nho giáo, mà ngày nay đã
bị bãi bỏ thì Nho học cũng không còn được trọng dụng và tồn tại nữa. Cái học từ
chương, xa rời thực tế của Nho giáo thực sự chấm dứt, nhường chỗ cho Tân học
với chữ quốc ngữ.
Tóm lại, đường lối học thuật và tư tưởng của Nho
giáo VN từng thời kỳ đều biến đổi giống như Nho giáo Trung hoa.
Những Nho gia VN cho rằng những tư tưởng mà Thánh
Hiền đã nói trong các Kinh, Thư, Truyện. đều đầy đủ hết cả, không còn ai biết
hơn được nữa, nên Nho gia chỉ chăm chăm học cho làu thuộc những điều ấy và cố
gắng đem ra thực hành. Do đó, không có Nho gia nào đạt được cái uyên thâm cao
viễn của Nho giáo mà phát minh ra một học thuyết mới mẻ nào.
Nho giáo VN chỉ nằm trong phạm vi Hình Nhi Hạ học mà thôi.
XI . Phần Kết :
Xin trích ra sau đây lời nhận xét của Ông Phan Kế
Bính, viết trong quyển Việt Nam Phong Tục, về Nho giáo VN, để làm phần kết của
bài khảo luận về Nho giáo nầy.
“Đạo Nho là một đạo bình thường giản dị, thuận theo
lẽ tự nhiên của Tạo Hóa, hợp với tánh tình đương nhiên của người ta, ai cũng có
thể noi theo được.
Người mà có Nho học thì nên một người nết na, có phép tắc, có lòng nhân ái. Nước mà dùng đạo Nho thì nên một nước có
kỷ cương, có thể thống, dễ cho việc cai
trị, mà nhân dân cũng được hưởng phước hòa bình.
Duy có một điều : Triết lý thì nhiều điểm viển
vông, khiến người ta khó hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc khiến người ta khó
theo. Tánh tình thì chuộng êm ái hòa nhã khiến cho dân khí nhu nhược, không
hùng dũng hoạt động như tánh người Âu Châu, nhu dụng thì chuộng cách tiết kiệm
tầm thường, khiến cho kỹ nghệ thô sơ, không được tinh xảo phát đạt như các nước
Âu Châu.
Nói rút lại, đạo Nho là một đạo tự trị rất hay, mà
đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh.
Còn như các thói hủ bại, phần nhiều là bởi tự người
làm nên tệ, chớ không nên đổ cho tại Nho giáo.
Tuy vậy, nước ta cũng nhờ có Nho học mới theo được các văn minh của nước Tàu, mà
nên một nước có văn chương, có chánh trị, có luân thường, có học thức.
Nếu trước khi chưa có Âu học, mà lại không có Nho
học, thì nước ta chẳng qua cũng là một nơi mọi rợ mà thôi.
Vậy thì cái công của Nho giáo truyền sang nước ta
rất to, dẫu khi nào nhờ Âu học mà nên một nước thạnh vượng hơn trước, ta cũng
không nên quên cái công ấy. Vì cái công ấy đã mở mắt cho ta, ví như đứa trẻ
thơ, trước nhờ một ông thầy dạy bảo cho mở một đôi chút trí khôn, về sau dẫu có
nhờ được ông thầy khác, học được thêm khôn thêm khéo, thì cũng không nên quên
cái công của ông thầy trước.
Và cứ theo Đạo Nho mà dùng cho khéo, bỏ những điều
câu thúc hủ bại, đem cách trí, tư tưởng
mới để bổ vào những nơi khuyết
điểm thì cũng nên được một nước phú cường thạnh vượng, mà có lẽ lại hay hơn
nữa.
Tôi thấy gần nay, các ông cựu Nho thở vắn than dài
riêng với nhau rằng đạo Nho ta suy đồi, sắp đến ngày tiêu diệt. Tôi thiết
tưởng, vật gì lâu ngày cũng phải mục nát, mà đạo nào cũng có lúc thạnh lúc suy.
Huống chi, một thời biến đổi, là một cơ hội của Tạo Hóa xây vần, cái nền cũ có
đổ nát thì mới gây nên được cái nền mới.
Vậy hội nầy chính là dịp tấn hóa của nước ta đó.”
Do Thái giáo
· Nguồn gốc.
· Kinh Thánh Cựu Ước.
· Tiểu sử Thánh Môi-se.
I . Nguồn gốc :
Do Thái giáo là tôn giáo của người Do Thái ở vùng
Trung Cận Đông. Vùng Trung Cận Đông là vùng đất nằm tiếp giáp giữa 3 Châu lục :
Á Châu, Âu Châu và Phi Châu, nên là giao điểm của các nền văn minh cổ.
Nước Do Thái, ngày nay được gọi là nước Israel.
Khoảng 1000 năm trước Tây lịch, quốc gia Do Thái được thành lập với vị vua anh
hùng nổi tiếng là vua David. Quốc gia Do Thái trải qua nhiều lần hưng vong, đặc
biệt vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, Do Thái bị nhiều nước tấn công xâu xé,
người Do Thái phải lưu tán sang các nước khác, một số lớn bị bắt làm nô lệ, xem
như quốc gia Do Thái đã bị diệt vong.
Người Do Thái ở phương xa luôn luôn nhớ về Tổ quốc
của họ với một quá khứ oai hùng. Các nhà trí thức Do Thái lưu vong đã viết lịch
sử của Do Thái từ những ngày đầu lập
quốc, và sách nầy trở thành Thánh Kinh của đạo Do Thái. Ngày nay quyển Thánh
Kinh nầy được gọi là Kinh Thánh Cựu Ước (Ancien Testament).
Người Do Thái rất tôn trọng và tín ngưỡng quyển
Thánh Kinh nầy, nên họ vẫn giữ được những nét đặc thù của dân tộc họ, mặc dầu
họ đang sống lưu vong nơi nước khác.
Năm 1948, quốc gia Do Thái được tái lập, gọi là
nước Israel. Người Do Thái ở các nơi trên thế giới qui tụ về thành lập nhà nước
Do Thái, và năm 1949, nước Do Thái được Liên Hiệp Quốc nhìn nhận.
Đạo Do Thái xuất phát từ tộc trưởng ABRAHAM (ông Tổ
của người Do Thái) và nhà Tiên tri MÔI-SE (người giải phóng dân tộc Do Thái
khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập và đưa dân tộc Do Thái đến vùng Đất Hứa) vào
khoảng năm 1850 trước Tây lịch.
Dân tộc Do Thái được Đấng Thượng Đế Jehovah ân sủng
lựa chọn, và Kinh Thánh Cựu Ước là sơ sở Giáo lý và Triết lý của Do Thái giáo.
Điều cơ bản mà Đạo Do Thái khẳng định là chỉ có một
Thượng Đế Jehovah mà thôi. Do đó, Đạo Do Thái là tôn giáo cổ Nhứt Thần.
Trong lịch sử cổ đại phương Tây và Trung Cận Đông,
Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhứt cấm tạc tượng và vẽ hình Thần.
Do Thái giáo là quốc
giáo của nước Do Thái. Đạo nầy qui định nhiều lễ nghi và tục lệ bao gồm hầu hết các
lãnh vực sinh hoạt của các tín đồ như : Lễ cắt bao qui đầu của con trai, Lễ
hằng ngày cầu kinh bằng tiếng Do Thái cổ, Lễ nghỉ hằng tuần ngày Sa-bát tính từ
tối ngày thứ 6 đến tối ngày thứ 7.
II .
Kinh Thánh Cựu Ước :
Như trên đã nói, Kinh Thánh Cựu Ước của Đạo Do Thái
do các nhà bác học và tiên tri của nước Do Thái viết ra.
Họ viết lại lịch sử oai hùng hình thành dân tộc Do
Thái và sự dựng nước của họ, sự ân sủng của Đấng Thượng Đế đối với dân tộc Do
Thái mà Đấng Thượng Đế lựa chọn.
Kinh Thánh Cựu Ước được các tôn giáo khác như :
Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành, tin tưởng và tôn thờ, xem đó là đầu mối
của Thiên Chúa giáo. (Nhưng Do Thái giáo thì không tôn thờ Đức Chúa Jésus và
không nhìn nhận Kinh Thánh Tân Ước của Thiên Chúa giáo.)
Trong Kinh Thánh Cựu Ước có luật pháp ghi thành văn
do Thượng Đế truyền báo cho Ông Môi-se trên núi Sinai. Sau đó, còn có nhiều
điều luật truyền miệng để giải thích thêm, do những vị Thánh và những bác học
ghi chép lại trong cuốn KINH TALMUD, hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Kinh Talmud là cẩm nang để
các Pháp sư Do Thái giáo thực hành việc giáo dục trong các cộng đồng tín đồ.
Kinh Thánh Cựu Ước gồm có 4 phần, trong mỗi phần có chia làm nhiều đoạn, chép ra sau
đây :
Phần thứ nhứt : Năm quyển sách của Môi-se :
- Sáng thế
ký.
- Xuất Ê-dip-tô ký. (1)
- Lê-vi ký.
- Dân số ký.
- Phục truyền luật lệ ký.
Phần thứ hai : Các sách về lịch sử :
- Giô-suê -
II Các vua
- Các quan xét - I Sử ký
- Ru tơ -
II Sử ký
- I Sa-mu-ên - E-xơ-ra
- II Sa-mu-ên - Nê-hê-mi
- I Các vua - Ê-xơ-tê
(1) Ê-dip-tô
là nước Ai Cập (Égypte).
Phần thứ ba : Các sách văn thơ :
- Gióp -
Truyền đạo
- Thi Thiên - Nhã ca
- Châm ngôn
Phần thứ tư : Các sách Tiên tri :
- Ê-sai -
Giô-na
- Giê-rê-mi - Mi-chê
- Ca thương -
Na-hum
- Ê-xê-chi-ên -
Ha-ba-cúc
- Đa-ni-ên - Sô-phô-ni
- Ô-sê -
A-ghê
- Giô-ên - Xa-cha-ri
- A-mốt - Ma-la-chi.
- Ap-đia
Trong Phần thứ nhứt, 5 quyển sách của Môi-se có 2
quyển quan trọng nhứt là: Sáng Thế ký
và Ê-dip-tô ký.
* Sáng Thế ký :
Trong quyển Sáng Thế ký, Môi-se cho biết Đức Chúa
Trời ( Đấng Thượng Đế) tạo thành Trời
Đất, các loài sinh vật và loài người
trong 6 ngày : (Đức Chúa Trời viết tắt là ĐCT)
Ngày thứ 1 :
ĐCT tạo ra sự sáng và sự tối, tức ngày và đêm.
Ngày thứ 2 :
ĐCT tạo ra bầu Trời.
Ngày thứ 3 :
ĐCT tạo ra đất, biển, thảo mộc.
Ngày thứ 4 :
ĐCT tạo ra mặt trời, mặt trăng, các vì sao.
Ngày thứ 5 :
ĐCT tạo ra loài cá, loài chim.
Ngày thứ 6: ĐCT tạo ra các loài thú trên mặt đất
gồm thú rừng, súc vật và côn trùng.
Trong ngày thứ 6 nầy, ĐCT còn tạo ra loài người
giống như hình tượng của ĐCT, đặng quản trị tất cả các loài sinh vật. Ngài dựng
nên người Nam và người Nữ và ra lịnh : “ Hãy
sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất, hãy làm
cho dất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng
các vật sống hành động trên mặt đất.”
Đức Chúa
Trời ban cho loài người thức ăn là các thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất và các
loài cây sanh quả.
Ngày thứ 7 : ĐCT đã dựng xong Trời Đất, loài người
và muôn vật trong 6 ngày là xong. Ngày thứ 7, ĐCT nghỉ các công việc và đặt tên
là ngày Thánh (Chúng ta thường gọi ngày ấy là Chúa Nhựt).
Sau đó, Đức Chúa Trời lập ra một cảnh vườn Eden
(Ê-đen), rồi lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi thì người
bằng đất sống dậy, đặt tên là Adam
(A-đam), để trồng cây và giữ vườn Eden. Đức Chúa Trời phán cùng Adam : “ Ngươi
được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong
vườn, nhưng về cây biết điều thiện điều ác thì chớ hề ăn đến, vì một mai ngươi
ăn, chắc sẽ chết.”
Đức Chúa Trời nhận thấy chẳng có ai giúp đỡ Adam,
nên Ngài làm cho Adam ngủ mê, lấy ra một cái xương sườn của Adam, để tạo thành
một người nư,õ theo giúp đỡ Adam. Adam gọi người nữ là Eve (Ê-va). Adam và Eve, cả hai đều trần
truồng mà không biết hổ thẹn.
Trong các loài thú do Đức Chúa Trời tạo ra, có con
rắn là giống quỉ quyệt hơn hết, nói với Eve rằng : “Tại sao Đức Chúa Trời cấm
hai ngươi ăn trái của cây biết điều thiện điều ác, hai ngươi có biết không ? Là
tại vì khi hai ngươi ăn trái cấm đó thì trí khôn mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời,
biết điều thiện điều ác.”
Eve thấy trái cấm đó có vẻ ngon, lại nghe lời rắn
nói ăn vào được mở trí khôn, quên lời cấm của Đức Chúa Trời, liền hái ăn, rồi
trao cho Adam ăn nữa.
Sau khi ăn xong, hai người biết mình lõa lồ, bèn
lấy lá cây đóng khố che thân.
Đức Chúa Trời biết được, liền hành phạt và đày đọa
rắn : Rắn phải bò bằng bụng, ăn bụi đất, và bị loài người ghét bỏ. Còn Adam và
Eve bị đuổi ra khỏi vườn Eden, phải chịu khổ nhọc cày ruộng làm ra thức ăn là
rau của đồng ruộng.
Việc Bà Eve và Ông Adam ăn trái cấm, không nghe lời
dạy của Đức Chúa Trời (ĐCT) nên bị ĐCT quở phạt. Tội đó gọi là TỘI TỔ TÔNG, vì
2 vị ấy là Tổ tông của loài người.
Nhơn loại do Thủy tổ Adam và Eve sanh ra càng lúc
càng nhiều, và qua nhiều thế hệ thì càng thâm nhiễm những ô trược của cõi trần,
nên say mê theo đường vật dục, xa lìa đạo đức, gây nhiều tội lỗi với ĐCT. ĐCT bèn gây ra một cuộc Đại Tận Thế với trận
Đại Hồng Thủy, tiêu diệt hết những người hung ác, chỉ chừa lại gia đình Ông
Nô-ê và vợ, con trai và dâu, vì biết đạo đức, công bình, kỉnh trọng ĐCT.
Vợ chồng Ông Nô-ê trở thành thủy tổ của loài người
sau nầy.
Loài người từ đó được sanh ra càng lúc càng nhiều,
và qua nhiều thời kỳ, nhơn loại cũng dần dần tiêm nhiễm vật chất, xa đường đạo
đức. Đặc biệt loài người lại kiêu ngạo, định xây Tháp Babel thật cao để đi vào
nước Trời.
ĐCT giận dữ vì hành động quá lắm nầy, nên khiến cho
loài người chia ra làm nhiều thứ tiếng nói khác nhau, để sự bất đồng ngôn ngữ
ấy mà loài người không thể xây dựng được Tháp Babel.
Mỗi nhóm người có một thứ tiếng nói riêng, phân tán
đi khắp các nơi trên Địa cầu để tìm đất sống, và sinh sôi nẩy nở càng nhiều,
tạo thành nhiều dân tộc khắp mặt Địa cầu.
Dân tộc Do Thái (Israel) là dân tộc được ĐCT chọn,
đang bị bắt làm nô lệ cho các vua Pharaon của nước Ai Cập.
Đoạn nầy trong sách “SÁNG THẾ
KÝ” là cơ sở của Vũ trụ quan và Nhân sinh quan của Do Thái giáo, và cũng
là của Thiên Chúa giáo sau nầy.
* Xuất
Ê-dip-tô ký :
Trong quyển sách nầy, phần đầu viết về sự ra đời
của Ông Môi-se. Đức Chúa Trời chọn Môi-se làm người hướng đạo cho dân Israel
(Y-sơ-ra-ên), dẫn dắt dân Israel ra khỏi xứ Ai Cập (Égypte, phiên âm là
Ê-dip-tô) để tránh sự đày đọa khắc nghiệt của các Pharaon (Pha-ra-ôn) vua Ai
Cập.
Đức Chúa Trời hiện ra trên đỉnh núi Sinai, rồi gọi
Môi-se lên ở cùng Đức Chúa Trời (Thượng Đế Jehovah) trong 40 ngày đêm, không ăn
bánh, cũng không uống nước. Đức Chúa Trời ban 2 tấm bảng đá, trên đó chép 10
ĐIỀU RĂN, để Môi-se đem xuống núi dạy dân Do Thái tuân theo.
MƯỜI ĐIỀU RĂN của Đức Chúa Trời là giao ước của Đức
Chúa Trời với dân Israel, mà cũng là với nhơn loại.
Trong 10 Điều Răn nầy, trong đó có 3 điều nói về
Đức Chúa Trời, và 7 điều nói về Người, chép ra sau đây :
1 . Kính chuộng Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.
2 . Chớ lấy tên Đức Chúa Trời mà thề dối.
3 . Giữ ngày Chúa nhựt, nghỉ hết các công việc để
kỉnh thờ Đức Chúa Trời.
4 . Thảo kính cha mẹ.
5 . Chớ giết người.
6 . Chớ làm Tà dâm.
7 . Chớ ăn trộm cướp.
8 . Chớ bỏ vạ cho người.
(Chớ làm chứng gian hại người).
9 . Chớ muốn vợ chồng người.
10 . Chớ tham của người.
Mười Điều Răn nầy được Đức Chúa Trời gọi là Giao
Ước của Jehovah với dân Do Thái, có nghĩa là : Ai giữ trọn được 10 Điều Răn thì được Đức Chúa Trời ban phước, rước về Thiên
đường sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa Trời, còn ai không tuân 10 Điều Răn nầy
thì bị đọa vào Địa ngục.
Mười Điều Răn nầy được xem là Đệ Nhứt Thiên Nhơn
Hòa Ước giữa Thượng Đế và Nhơn loại.
Đức Chúa Trời chọn và ban phước cho dân tộc Do
Thái, một dân tộc nhỏ nhoi đang chịu nô lệ dưới sự áp bức của Ai Cập, nên Đức
Chúa Trời sai Ông Môi-se giáng trần làm người Do Thái, mở ra Đạo Thánh với 10
Điều Răn, để dẫn dắt dân tộc Do Thái
khỏi vòng nô lệ của Ai Cập, và lập ra một nước Do Thái độc lập và hùng cường.
III . Tiểu sử Thánh Môi-se :
Dân Do Thái thuở xưa được gọi là dân Hébreu
(Hê-bơ-rơ), bị nước Ai Cập (Égypte, phiên âm là Ê-dip-tô) đô hộ vàbị
bắt làm nô lệ. Các vua Ai Cập được gọi là Pharaon
muốn tiêu diệt dân Do Thái nên ra lịnh :“ Phàm con trai của dân Hébreu mới sanh
thì liệng xuống sông, còn con gái thì để cho sống.”
Một gia đình Hébreu vừa sanh đứa con trai, thấy con
ngộ nên mẹ nó đem đi giấu trong 3 tháng, nhưng giấu lâu hơn nữa không được.
Người mẹ lấy một cái rương mây, trét chai thật kín, đặt con vào đó, rồi thả
trong đám sậy dựa mé sông. Chị của đứa bé đứng xa nơi đó đặng dòm chừng cho
biết số phận của đứa em trai ấy ra sao.
Một Công Chúa của Pharaon ra tắm sông, thấy cái
rương giữa đám sậy, bèn sai kẻ hầu vớt lên. Công Chúa mở rương thấy một đứa bé
trai đang khóc, bèn động lòng thương xót, nói : “ Đây là một con trai của người
Hébreu.” Chị của đứa bé đến gần nói : Công Chúa nên kêu một người vú trong bọn
đàn bà Hébreu đặng cho nó bú chớ ? Công Chúa bảo : Hãy đi kêu đi. Chị đứa bé
liền chạy đi kêu mẹ của nó đến. Công Chúa nói: “ Hãy đem đứa trẻ nầy về nuôi bú
cho ta, ta sẽ trả tiền công cho.”
Khi đứa bé lớn khôn, người vú dẫn nó vào gặp Công
Chúa, được Công Chúa nhận làm con, và đặt tên nó là Môi-se. (Môi-se có nghĩa là : được cứu khỏi nước).
Môi-se lớn lên là một tráng niên vạm vỡ, thấy một
người Ai Cập đánh đập một người Hébreu, Môi-se nổi giận đến binh vực và giết
chết tên Ai Cập đó, rồi trốn đi.
Môi-se dừng chân tại xứ Ma-đi-an, ngồi gần một
giếng nước. Thầy Tế lễ xứ Ma-đi-an có 7 con gái, các nàng đến giếng xách nước
đổ đầy máng cho bầy chiên của cha mình uống, nhưng các nàng bị các kẻ chăn
chiên đuổi đi. Môi-se thấy vậy, binh vực các nàng. Nhờ vậy, Môi-se được cha của
các nàng nhận làm rễ. Nàng Sê-phô-ra, vợ của Môi-se, sanh đặng một đứa con
trai, đặt tên là Ghẹt-sôn.
Ngày kia, Môi-se dẫn bầy chiên của nhạc gia qua
phía bên kia đồng vắng để cho ăn cỏ. Môi-se bỗng thấy Đức Chúa
Trời hiện ra bảo : “TA đã nghe thấu tiếng kêu rên đau đớn của dân Do
Thái, Môi-se ngươi hãy lại đây, đặng TA sai ngươi đi dẫn dân Do Thái ra khỏi
tay người Ai Cập, để đi đến một xứ kia đẹp đẽ, rộng rãi, đượm sữa và mật.”
Môi-se bèn thưa rằng: - Tôi là ai mà dám đi đến gặp
Pharaon để dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai Cập ?
Đức Chúa Trời phán: - Ta sẽ ở cùng ngươi. Hãy nói
cho dân Do Thái như vầy : Đấng Tự Hữu Hằng Hữu sai ta đến cùng các ngươi.
Môi-se thưa rằng: - Tôi vẫn chẳng phải là một tay
nói giỏi vì miệng và lưỡi tôi hay ngập ngừng.
Đức Chúa Trời liền phán : Có phải A-rôn, người
Lê-vi là anh của ngươi chăng ? Ta biết người đó có tài nói giỏi, người đó sẽ đi
theo ngươi và nói thế cho ngươi.
Môi-se và A-rôn trở về xứ Ai Cập, đến tâu cùng
Pharaon rằng : Đức Chúa Trời kêu tôi đến yêu cầu Pharaon (Pha-ra-ôn) phóng
thích dân Israel.
Môi-se và A-rôn nhiều lần đến yêu cầu như thế,
nhưng Pharaon nhứt định không chịu, lại bắt dân Israel khổ dịch hơn. Đức Chúa
Trời nổi giận làm cho dân Ai Cập bị 10 tai vạ khổ sở, cuối cùng, Pharaon chịu không nổi, phải phóng
thích dân Israel, chấm dứt thời kỳ nô lệ của dân Israel. (Dân Israel làm nô lệ
cho Ai Cập suốt thời gian 430 năm).
Môi-se hướng dẫn dân Israel ra đi, qua rất nhiều
gian truân vất vả, họ đến được cánh đồng vắng đối diện núi Si-Nai, và họ được
Đức Chúa Trời cho lập quốc tại đó.
Đức Chúa Trời hiện ra trên đỉnh núi Sinai, gọi
Môi-se lên ở cùng Ngài trong 40 ngày đêm, rồi qua trung gian của Môi-se, Ngài
ban cho dân Do Thái (Israel) 10 Điều
Răn, coi đó là Giao Ước của Đức Chúa Trời với dân Do Thái, để dân Do
Thái hưởng được những điều tốt lành do Đức Chúa Trời ban cho. Ngoài ra, Đức
Chúa Trời còn ban cho nhiều điều luật
khác về việc xây dựng Đền Thờ, thiết lập Thầy Tế
lễ, lập ngày Sa-bát, cấm việc đúc hình tượng để thờ, vv . . .
Vả lúc đó Môi-se đã già, Đức Chúa Trời phán cùng
Môi-se rằng : Hãy lên trên núi A-ba-rim nầy và nhìn xem xứ mà TA đã ban cho dân
Israel. Ngươi sẽ nhìn xem xứ đó, rồi ngươi cũng sẽ được trở về cùng Tổ phụ
ngươi, cũng như A-rôn, anh của ngươi, đã được về trước đây vậy. Hãy chọn lấy
Giô-suê, con trai của Nun, người có Thần cảm động, thay thế cho ngươi, phải đặt
tay của ngươi trên mình Giô-suê, rồi đem Giô-suê ra mắt các Thầy Tế lễ và cả
hội chúng, và trao phần vinh hiển cho Giô-suê, hầu cho cả hội chúng nghe theo
người.
Môi-se
qua đời :
Theo như lịnh của Đức Chúa Trời, Môi-se qua đời tại
đồng bằng Mô-áp, và Đức Chúa Trời chôn Môi-se trong trũng của xứ Mô-áp. Môi-se
thọ 120 tuổi, mắt người không mờ, sức người không giảm. Dân Israel chịu tang và
khóc Môi-se trong 30 ngày tại đồng bằng Mô-áp.
Giô-suê, con trai của Nun, được đầy dẫy thần khôn
ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên mình người. Dân Israel bèn vâng lời người và
làm theo điều Đức Chúa Trời Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
Về sau,
trong dân Israel, không còn dấy lên nhà Tiên tri nào giống như Môi-se mà Đức
Chúa Trời đã biết giáp mặt.
Thiên Chúa Giáo
* Tổng quát về lịch sử
Thiên Chúa Giáo.
* Tổ chức Giáo Hội.
* Cộng Đồng Vatican II.
* Giáo lý và các Điều
Răn.
* Các phép Bí tích.
* Các Dòng tu.
* Hai Chi phái lớn.
* Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam.
* Tiểu sử Đức Chúa Jésus.
Thiên Chúa là Đức Chúa
Trời, tức là Đấng làm vua cõi Trời, Đấng đã tạo dựng ra CKVT và vạn vật, mà Đạo
Cao Đài gọi là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thiên Chúa Giáo là đạo thờ Đức Chúa Trời.
Thiên Chúa Giáo do Đức Chúa Jésus Christ mở ra tại
nước Do Thái cách nay gần 2000 năm, nên còn được gọi là đạo Gia-tô (Da-tô) hay
đạo Ky-tô, đạo Cơ-đốc, cũng thường được gọi là đạo Thiên Chúa hay Thiên Chúa
giáo.
(Chữ Jésus phiên âm là : Giê-xu, hay Gia-tô
(Da-tô); chữ Christ phiên âm là Ki-tô hay Cơ-đốc).
Khi đạo Thiên Chúa bị phân chia ra làm nhiều Giáo
hội thì người ta dùng từ ngữ Công giáo
để chỉ Giáo hội La-Mã (Roma), phân biệt với các Giáo hội khác.
“ Công giáo (Catholicisme) là từ ngữ có nguồn gốc
Hy Lạp : Katholicos, có nghĩa là Phổ quát (Universel), để chỉ rằng Thiên Chúa
giáo là một tôn giáo phổ quát cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Lúc đầu, Công giáo là một tính từ để chỉ một đức
tính của Thiên Chúa giáo là đạo phổ quát. Trong Kinh Tin Kính được soạn thảo ở
Cộng Đồng Nicéa I (năm 351) mà ngày nay Giáo hội Chính Thống cũng như Giáo hội
Công giáo đều tuyên xưng : “Tôi tin Giáo hội duy nhứt, Thánh thiện, công giáo
và tông truyền.”
Công giáo được truyền sang Việt Nam từ đầu thế kỷ
17. Các vua quan thời nhà Lê gọi Công giáo là Hoa Lang giáo (tức là đạo của
người Bồ Đào Nha, đạo của người Châu Âu). Dưới thời nhà Nguyễn, Công giáo được
gọi là đạo Da-Tô (cũng viết là Gia Tô), có khi cũng gọi là đạo Cơ-Đốc.
Trong Hòa Ước ký kết giữa nước Pháp và Triều đình
vua Tự Đức ngày 15-3-1874, lần đầu tiên cụm từ Thiên Chúa giáo được sử dụng.
Thiên Chúa giáo là tôn giáo thờ Đấng Thiên Chúa,
tức là Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối Cao. Người Hồi giáo cũng thờ
Đấng Alla là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối Cao.
Vậy nếu gọi một thành phần của đạo Ky-tô là Công giáo (Giáo hội Công giáo) và người
Công giáo thì cũng để chỉ nói rằng, Công giáo là đạo của mọi người, cho mọi dân
tộc, chứ không riêng gì cho một chủng tộc hay một quốc gia nào, như Thần đạo là
đạo của người Nhựt, chứ Công giáo không hề có nghĩa là đạo Công như trường
Công, hoặc là đạo được chính thức nhìn nhận như một Quốc đạo.” (Trích trong
quyển Công giáo VN qua quá trình 50 năm : 1945 - 1995)
I . Tổng quát về Lịch
sử của Thiên Chúa giáo :
Thiên Chúa giáo do Đức Chúa Jésus Christ mở ra tại
xứ Galilée nước Do Thái, dưới thời vua Hérode.
Đức Chúa Jésus khởi đầu giảng đạo vào năm Ngài 30
tuổi. Ngài thâu nhận 12 môn đệ, giảng đạo được 3 năm, bị Thầy Cả giáo phẩm đạo
Do Thái tên là Cai-phe, hợp tác với chánh quyền thời đó là quan Tổng Đốc Pilate
bắt giữ và giết chết Đức Chúa Jésus bằng cách đóng đinh tay và chân căng trên
Thập tự giá.
Năm Đức Chúa Jésus giáng sinh được qui định làm năm
khởi đầu cho kỷ nguyên Tây lịch (Dương lịch).
Đạo Thiên Chúa hình thành dựa trên cơ sở Kinh Thánh
Cựu Ước của đạo Do Thái. Đạo Thiên Chúa giữ nguyên phần Giáo lý cơ bản và tín
điều của đạo Do Thái, nhìn nhận những điều chép trong Kinh Thánh Cựu Ước là
đúng. Như thế, chúng ta có thể xem, Thiên Chúa giáo nối tiếp, chấn hưng và phát triển Do Thái giáo.
.
Thế kỷ thứ 1, Thiên Chúa giáo bị nhà cầm quyền cấm đoán và hàng lãnh đạo Do Thái giáo
đố kỵ, nên Thiên Chúa giáo chỉ truyền đạo hạn hẹp trong giới bình dân và giới
nô lệ nghèo khổ. Các sinh hoạt của Thiên Chúa giáo phải núp dưới bóng đạo Do
Thái thì mới được an ổn.
Khoảng năm 60, nhiều vị Thánh Tông đồ bị nhà cầm
quyền sát hại, trong đó có 2 vị : Phao-lô và Phê-rô (Pierre) bị sát hại tại La
Mã (Rome). Thánh Phê-rô bị giết chết bằng cách đóng đinh trên Thập tự giá nhưng
đầu bị quay ngược xuống đất.
.
Thế kỷ thứ 2, Thiên Chúa giáo được nhiều người tin theo, đào tạo được một số Giáo sĩ
chuyên nghiệp, khởi đầu hình thành Giáo hội.
.
Thế kỷ thứ 3, Thiên Chúa giáo phát triển khá hơn, nhiều người giàu và có thế lực tin
theo đạo. Chánh quyền Đế quốc La Mã cũng bắt đầu thay đổi thái độ, từ chỗ cấm đạo, chuyển sang
ủng hộ và tạo điều kiện cho Thiên Chúa
giáo phát triển, để ổn định trật tự xã hội, và củng cố Đế quyền. Triều đại vua
Dioclétien (258-305) bãi bỏ lệnh cấm đạo Thiên Chúa.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét