1 .
Vấn đề kế vị Mahomet :
Sau khi Mahomet chết, Cộng đồng Hồi giáo có nguy cơ
tan rã. Các vị thân cận của Giáo chủ Mahomet hiểu rõ nguy cơ nầy nên quyết tâm
bảo vệ Cộng đồng Hồi giáo, tức là thay thế Mahomet để lãnh đạo tôn giáo và
chánh trị.
Người đầu tiên kế vị Mahomet là Abu Bahr, một cha
vợ của Mahomet, chức vụ lãnh đạo đó được gọi là Calife. Abu Bahr tại vị được 2
năm
(632-634) đã duy trì được nền thống nhứt của Cộng đồng Hồi giáo.
Kế đó là Omar, một cha vợ khác của Mahomet, ông cầm
quyền được 10 năm (634-644). Omar
dốc toàn lực
vào các cuộc bành trướng Hồi giáo bằng đoàn Thánh quân chinh phục các
nước : Syrie, Ba Tư, Ai Cập, Cyrénaique, Tripolitaine, đảo Chypre, Crète, làm
chủ vùng Địa Trung Hải.
Omar bị một tên nô lệ ám sát chết.
Lên thay Omar là Othman, một người con rể của
Mahomet, nhưng Othman bất tài, làm nội bộ của Hồi giáo chia rẽ trầm trọng, các
phe nhóm được lập ra để chống đối nhau. Năm 656, Othman bị một đám đông vây nhà
giết chết.
Ali lên thay, Ali cũng là một con rể của Mahomet. Tình
trạng phân tán trong nội bộ vẫn tiếp tục. Đến năm 661, Ali bị ám sát chết.
Người lên thay là Mo’aouiya, sáng lập ra triều đại
Omeyyade.
2 . Triều đại Omeyyade
(661-750) :
Trung tâm của thế giới Hồi giáo lúc bấy giờ di chuyển đến Damas, thủ đô của Syrie. Các
Calife của triều đại nầy chế tạo được nhiều khí giới lợi hại nên đã tấn công
vào đế quốc Byzance, chinh phục Bắc Phi,
tấn công nước Pháp và Y Pha Nho. Phía Á Châu, quân Hồi giáo xâm lăng A Phú Hãn,
đe dọa Trung quốc, tiến về lưu vực sông Ấn Hà ở phía Nam. Đến năm 750, một cuộc
nội loạn xảy ra ở Damas lật đổ triều đại Omeyyade, thay thế bằng triều đại
Abbasside.
3 . Triều đại Abbasside
(750-1258) :
Trung tâm của Đế quốc Hồi giáo bây giờ được di
chuyển đến Bagdad, thủ đô của Irak. Đế quốc Hồi giáo bành trướng mạnh sang miền
Đông Phi Châu, các xứ ớ Ấn Độ Dương và ở Đông Nam Á.
Văn minh của Hồi giáo trong thời đại nầy đạt đến
đỉnh cao nhất.
Về sau, triều đại
Abbasside suy yếu,
các Calife của
các nước nhỏ tách ra lập một nước riêng, đối nghịch
với Calife ở Bagdad. Cuối cùng thì uy quyền của Calife Abbasside ở Bagdad bị
thu hẹp trong lãnh thổ Irak, Ba Tư và miền Lưỡng Hà.
4 . Người Mông Cổ chiếm
Bagdad :
Năm 1357, cháu của Thành Cát Tư Hãn (vua Mông Cổ)
là Hốt Tất Liệt đem quân Mông Cổ viễn chinh tấn công Irak, chiếm thủ đô Bagdad,
chấm dứt triều đại Abbasside.
Người Âu Châu lúc đó muốn dùng thế lực Mông Cổ để
tiêu diệt Hồi giáo, nhưng người Mông Cổ lại bị Hồi hóa nên người Mông Cổ nối
tiếp các công trình bành trướng Hồi giáo.
Trong lúc đó, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman trở nên hùng
mạnh, tạo thành một đế quốc rộng lớn ở phía Đông Nam Âu Châu và Tây Á Châu, nên
Hồi giáo cũng được phát triển mạnh
trong đế quốc
Ottoman nầy.
Như thế, Cộng đồng Hồi giáo đã chia làm 2 : Đế quốc
Mông Cổ và Đế quốc Ottoman. Nhờ đó mà Hồi giáo đã truyền bá được một vùng rộng
lớn từ Phi Châu sang Trung Đông, Nam Á Châu và Đông Nam Á.
Số tín đồ Hồi giáo lúc đó lên đến 500 triệu người,
nhưng phần lớn kém văn minh, còn trong vòng bán khai.
5 .
Đế quốc Hồi giáo sụp đổ :
Các nước Âu Châu, nhờ văn minh cơ khí, sớm trở nên
hùng mạnh. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ, các nước Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha,
Y Pha Nho, Nga, đánh chiếm hầu hết các lãnh thổ của Đế quốc Hồi giáo làm thuộc
địa. Các nước Âu Châu văn minh hùng mạnh chia cắt đế quốc Hồi giáo thành manh
mún, để sau cùng chịu sự ảnh hưởng về kinh tế và chánh trị giữa 2 khối thế lực
hùng mạnh nhất trên thế giới là :
Tư bản và Cộng sản.
Các nước Hồi giáo lần lần tranh đấu giành lại độc
lập. Nhưng từ đó, ý thức quốc gia trở nên mạnh mẽ, làm cho các nước Hồi giáo
đánh chiếm lẫn nhau, tạo nên những Chi phái Hồi giáo thù nghịch nhau.
Một điều quan trọng là Giáo lý Hồi giáo không còn
thích hợp nữa, nhất là Giáo lý nầy đưa con người đến cảnh giết chóc luôn luôn,
trái với bổn tánh thiên lương tự nhiên của con người, nên làm cho con người lần
lần chán ghét. Sự sụp đổ của thế giới Hồi giáo tất nhiên không thể tránh khỏi
được, và sự tư hủy diệt chỉ là vấn đề thời gian.
VI .
Các Chi phái của Hồi giáo :
Đặc tính đầu tiên và căn bản của Hồi giáo là sự
liên hệ mật thiết đến độ lẫn lộn giữa tôn giáo và chánh trị, tức là giữa Đời và
Đạo, lý do là vì Thánh Kinh Coran chứa đựng lý thuyết tổ chức xã hội bao gồm cả
tôn giáo và chánh trị của Cộng đồng Hồi giáo. Chính vì thế mà ngay sau khi Mahomet
chết, sự chia rẽ xảy ra ngay giữa các đồng đạo, tạo thành các nhóm chánh trị
chống đối nhau, đưa đến sự thành hình nhiều Chi phái Hồi giáo.
Có 3 Chi phái lớn kể ra :
1 . Chi phái Chính Thống hay Sunna :
Chi phái nầy lấy sách
Sunna làm căn bản bên cạnh Thánh Kinh Coran và sách Hadith, nhứt là những quyết
định của 4 vị Calife đầu tiên liên tiếp kế vị nhau sau khi Mahomet qua đời.
2 . Chi phái Kharejite :
Chi phái nầy chủ trương
rằng : Bất cứ tín đồ Hồi giáo nào cũng
đều có thể trở thành một vị Calife được và tất nhiên Calife nào
không làm tròn
sứ mạng của
mình thì sẽ bị truất phế. Do đó
mà Ali bị ám sát chết vào măm 661.
Chi phái Kharejite sau
đó còn đi xa hơn nữa, họ không công nhận ngôi Calife như đương thời quan niệm.
Tiếp theo, từ thế kỷ thứ
10, họ không công nhận bất cứ ai ở địa vị Imâm. Mỗi người trong Chi phái nầy tự
tôn thờ Allah riêng cho mình, không cần tới những người trung gian.
3 . Chi phái Shi’ite :
Chi phái nầy chủ trương đích truyền, chỉ công nhận
một mình Ông Ali trong trong số 4 vị
Calife đầu tiên, còn 3 vị kia là thoán
nghịch, và đồng thời họ cho rằng chỉ có những người nào dòng dõi của Ali mới có thể làm Imâm được.
Về tổ chức, Chi phái nầy do 12 vị Imâm lần lượt cầm
đầu, đều là dòng dõi của Ali.
Vị Imâm thứ 12 vào núi ẩn mình từ hồi trẻ (năm 878)
và sẽ tái xuất hiện vào lúc đổi đời nhằm tái lập một xã hội công bằng. Một vị
gọi là Mahdi được chọn ra thay thế. Nhưng các nhà giải thích luật pháp của Chi
phái Shi’ite từ thời nầy vẫn nhân danh vị
Imâm ẩn cư .
Đối với Chi phái Shi’ite, hai Chi phái Sunna và
Kharejite bị coi là kẻ thù truyền kiếp vì họ có trách nhiệm về cái chết của
Ali.
Chi phái Shi’ite về sau lại phân ra làm nhiều Chi
phái nhỏ nữa như : Notawal, Zaid, Ismai, Tân Ismail.
Các tín đồ của Chi phái Shi’ite rất cuồng tín, một
số đã lập ra những tổ chức khủng bố hoạt động rất mạnh trong thời Trung cổ ở
Iran (Ba Tư) và Syrie dưới danh hiệu là : Hachichin, hay Assassin.
Hiện nay, Hồi giáo có rất nhiều Chi phái, vì Chi
phái lại nảy sinh Chi phái, và các Chi phái thường chống đối nhau.
VII . Số tín đồ Hồi giáo trên thế giới :
Hiện nay, số tín đồ Hồi giáo của các nước trên thế
giới được khoảng 900 triệu, đứng hàng
thứ nhì, sau Công giáo.
Theo thống kê của Hội Đồng các Giáo Hội Thế giới,
đến cuối năm 1979, số lượng tín đồ Hồi giáo của một số quốc gia kể ra sau đây :
- Pakistan 145
triệu - Arabie 8 triệu
- Indonésia 140. - Jordanie 3.
- Malaysia 6. - Syrie 5.
- Trung quốc 15. - Yemen 7.
- Maroc 18. - Afganistan 18.
- Algérie 16. - Thổ Nhĩ Kỳ 40.
- Tunisie 4. - Nam Tư 3 .
- Tagania 3. - Liên Xô cũ 40.
- vv . . . . . . . . . . . . .
Nếu tính số lượng tín đồ Hồi giáo theo Châu Lục thì :
- Châu Á 600 triệu
- Châu Phi 250.
- Châu Âu 30.
VIII . Hồi giáo tại Việt Nam :
Đại đa số người VN không theo Hồi giáo, chỉ có một số rất
ít, không đáng kể là theo Hồi giáo.
Những người Chàm ở VN hầu hết đều theo Hồi giáo. Tổng số người Chàm ở VN khoảng
700.000 người, tập trung vào một số khu vực như : Phan Rang, Biên Hòa, Sàigòn,
Tây Ninh và Châu Đốc. Số người Chàm ở Phan Rang theo Hồi giáo không chính
thống, vì có pha trộn tín ngưỡng đạo Bà-La-Môn. Số người Chàm ở Sàigòn, Biên
Hòa, Tây Ninh, Châu Đốc thì theo Hồi giáo chính thống, có đi hành hương ở
Mecca.
Phần
kết :
Hồi giáo là một tôn giáo đặc biệt hơn tất cả các
tôn giáo khác vì nó hoàn toàn đồng hóa với chánh trị. Giữa Hồi giáo và Chánh
trị không có ranh giới phân chia, cho nên trong một quốc gia Hồi giáo, người
đứng đầu Giáo hội Hồi giáo cũng là Quốc trưởng hay Tổng Thống của nước đó.
Giáo lý của Hồi giáo phần lớn rút từ Kinh Thánh Cựu
Ước và Tân Ước của Thiên Chúa giáo, nhưng vì Hồi giáo mở ra sau Thiên Chúa giáo
khá lâu, lại ở trong hoàn cảnh tranh đấu sống còn giữa các Bộ lạc Á Rập, nên
Giáo lý của Hồi giáo đi đến chỗ cực đoan, thái quá, chuyên chế, hoàn toàn đồng
hóa với chánh trị và quân sự, lại áp dụng chánh sách bá quyền để mở rộng Hồi
giáo, xem những người không theo Hồi giáo là thù địch cần phải tiêu diệt, nên
luôn luôn gây ra các cuộc chiến tranh tàn khốc, đặt dưới danh nghĩa Thánh
chiến, mà người tín đồ Hồi giáo có bổn phận phải tham gia, cho đó là do ý muốn
của Thượng Đế Allah.
Vì tham vọng bá quyền của các lãnh tụ Hồi giáo nên
thế giới Hồi giáo không lúc nào hòa bình
yên ổn. Họ rất hiếu chiến và luôn luôn gây chiến, đánh những nước láng giềng
không theo Hồi giáo, nhứt là những nước theo Thiên Chúa giáo; và ngay giữa các
Chi phái Hồi giáo, họ cũng đánh nhau để giành giựt chánh quyền.
Tất cả tài sản quốc gia không được dùng để nâng cao
đời sống dân chúng, mà là để tạo một quân đội hùng mạnh với vũ khí tối tân,
giết người hằng loạt, mưu đồ thôn tính lẫn nhau, thỏa mãn mộng bá quyền.
Các nhà tiên tri đều nói rằng các nước Hồi giáo sẽ
mở màn Thế giới Đại chiến thứ ba, khởi đầu Đại cuộc Tận Thế, để chuyển số nhơn
loại còn sống sót qua thời kỳ Thánh Đức.
Thông Thiên Học
· Tổng quát.
· Sự thành lập Hội
Thông Thiên Học.
· Giáo lý và Nguyên lý.
· Tiểu sư Bà H.P.
Blavatsky.
· Tiểu sử Ông H.S.Olcott.
Thông Thiên Học là một ngành nghiên cứu những luật
bí ẩn của Trời Đất, của Thiên đình và những quyền năng ẩn tàng trong con người.
Tiếng Anh, Thông Thiên Học là : THEOSOPHY, chiết tự
nghĩa là :
- THEO : là Thượng Đế.
- SOPHY : là
Minh triết (Sagesse).
Vậy, Thông Thiên Học là Minh triết thiêng liêng, là
Chơn lý hay là sự xác thực tuyệt đối và
đại đồng, bao gồm dĩ vãng, hiện tại và tương
lai.
Hội Thông Thiên Học là một tổ chức thế giới được thành lập với 3 mục đích sau đây :
* Tìm học
những luật bí ẩn của Vũ trụ và những quyền năng ẩn vi trong con người.
* Nghiên
cứu và học hỏi Giáo lý, Triết lý của các tôn giáo bằng sự so sánh với Triết học
và Khoa học.
* Gây tạo
giữa nhơn loại một khối tình huynh đệ đại đồng, không phân biệt màu da sắc tóc,
giai cấp, nam nữ hay tôn giáo.
“ Đây là Hội Thông Thiên Học (Société
Théoso-phique) để truyền bá Chơn lý, tức là tinh hoa của các Đạo, và câu châm
ngôn của nó là: Không Đạo nào qua Chơn lý (Il n’y a pas de religion supérieure
à la Vérité.)
Người Thông Thiên Học kính trọng tất cả các tôn
giáo và cũng kính tất cả các Đức Giáo chủ, thờ phượng tất cả các Đấng Trọn Lành
(Trời, Phật, Thánh, Tiên) vì biết rằng các tôn giáo đều do một gốc, một luật mà
ra.
Dưới trần thế, sở dĩ có nhiều Đạo là vì có nhiều
nước, nhiều giống dân, nhiều màu da, nhiều trình độ tiến hóa khác nhau.
Người Âu Châu, phần lớn giữ Đạo Gia Tô (Công giáo),
gọi Đức Jésus là Chúa Cứu Thế; người Á Châu phần đông theo Phật giáo, gọi Đức
Phật Thích Ca là Giáo chủ.
Hai tôn giáo đó có số tín đồ nhiều nhất trên hoàn
cầu nầy. Nhưng ít ai biết rằng hai Đấng Giáo chủ ấy và luôn cả các Giáo chủ của
các Đạo khác đều do một gốc mà ra. Tuân lịnh Đức Ngọc Đế trên Thiên đình, các
Đấng Giáo chủ, mỗi Ngài xuống một nơi để dạy Đạo.
Đức Chúa Jésus xuống thế dạy Đạo cho nhơn loại
trong thời buổi ấy để nhơn loại tiến hóa theo Cơ Trời. Ngài xuống gần bên Âu
Châu, nên người Âu Châu gần gũi Ngài và theo Đạo của Ngài nhiều hơn.
Còn Đức Phật Thích Ca xuống bên Á Châu, lấy xác
người Ấn Độ, tên là Cakyamouni, tức là Thích Ca Mâu Ni, mà dạy Đạo. Đức Thích
Ca lâm phàm tại Ấn Độ nên người Á Châu được gần gũi Ngài và theo Đạo của Ngài
nhiều hơn.
Khi hai vị Giáo chủ làm xong phận sự thì hai Ngài
đều bỏ xác phàm mà trở lại ngôi thứ cũ ở Thiên đình và cũng vẫn luôn luôn không
ngừng lo sự tiến hóa cho nhơn loại.
Đạo người, Đạo ta, là do người phàm tục kiêu hãnh tranh
hơn tranh kém với nhau, chớ Thiên đình và Chơn lý chỉ có một mà thôi.
Hai Đức Giáo chủ thường gặp nhau ở Thiên đình và
chắc không khi nào hai Ngài nói : Đạo người, Đạo ta, bao giờ.
Vậy, ai là người tầm Chơn lý, nên mở trí cho thật
sâu rộng để thấu rõ nguồn gốc, hầu tránh
sự hiểu lầm và xô xát lẫn nhau vì tôn giáo khác nhau vậy.” (Trích trong
quyển : Con đường đi đến Chơn Tiên, của Ông Nguyễn văn Lương, Tổng Thơ Ký Hội
Thông Thiên Học VN).
I . Sự thành lập Hội Thông
Thiên Học :
Hai vị sáng lập Hội Thông Thiên Học là Bà H.P.
Blavatsky và Ông H.S. Olcott.
Bà H.P. Blavatsky là người Nga, và là đệ tử của hai
Đấng Đại Tiên, thường được gọi là Chơn Sư, trong Quần Tiên Hội, là Đức Đế Quân
Kuthumi và Đức Đế Quân Morya, nơi cõi thiêng liêng.
Ông H.S. Olcott là người Mỹ, và là cựu Đại Tá quân
đội, làm Luật sư kiêm phóng viên viết
báo, đang hành nghề tại New York, là người mà hai Đấng Đại Tiên lựa chọn để
cộng tác với Bà H.P. Blavatsky, thành lập Hội Thông Thiên Học.
Cho nên việc thành lập Hội Thông Thiên Học là hoàn
toàn do sự sắp đặt của hai Đấng Đại Tiên Kuthumi và Morya, theo lịnh của Đức
Ngọc Đế nơi cõi thiêng liêng. Bà H.P. Blavatsky và Ông H.S. Olcott chỉ là người
thừa hành mạng lịnh của các Đấng ấy mà thôi.
Giữa năm 1874, Bà H.P. Blavatsky đang ở tại Paris
nước Pháp, được lịnh của Chơn sư bảo rời Paris (Ba lê) đi qua New York (Nữu Ước) ngay. Bà tức khắc chuẩn bị, đến Hải
cảng Le Havre lấy vé tàu đi qua New York
của nước Mỹ.
Khoảng tháng 9 năm ấy, Bà thấy trên tờ báo Daily
Graphic có đăng, tại nông trại của gia đình ông William Eddy ở Chittenden, tiểu
bang Vemont, cách Nữu Ước vài trăm dặm, có xảy ra hiện tượng Thần Linh Học mà
Bà Eddy là đồng tử.
Bà H.P. Blavatsky liền đi đến đó để xem xét, thì
gặp Ông H.S. Olcott đang ở đó quan sát và nghiên cứu để viết một thiên phóng sự
đầy đủ về hiện tượng nầy.
Hai người liền quen nhau, và như đã có mối liên hệ
tiền kiếp, hai người trở nên đôi bạn thân.
Sau đó, hai vị trở về Nữu Ước, viết báo binh vực
Thần Linh Học một cách mạnh mẽ, thách thức những người Duy vật chỉ trích, tạo
nên một cuộc bút chiến trên mặt báo rất sôi nổi, và Bà H.P. Blavatsky bắt
đầu nổi danh.
Ông H.S. Olcott tổ chức nhiều buổi diễn thuyết về
Thần Linh Học, chứng minh có những sinh vật nơi cõi vô hình, và Bà H.P.
Blavatsky làm những pháp thuật Huyền môn mà Bà học được nơi Chơn Sư, trước mắt
nhiều người, được rất nhiều người tin tưởng, nhứt là giới trí thức lúc bấy giờ.
Ông H.S. Olcott chợt có ý nghĩ: “ Phải chăng là một
điều tốt nếu chúng ta thành lập một Hội để khảo cứu vấn đề Thần Linh Học nầy ?
“
Bà H.P. Blavatsky đồng ý ngay.
Buổi họp thành lập Hội Thông Thiên Học tại Nữu Ước,
được một tờ Nhựt báo tại Nữu Ước đăng tin, với nội dung tóm tắt như sau :
“ Một phong trào rất quan trọng vừa được khai
trương tại Nữu Ước, dưới sự lãnh đạo của Đại Tá H.S. Olcott, trong việc thành
lập một Hội gọi là Hội Thông Thiên Học Thế giới.
Đề nghị khởi xướng công việc nầy là một điều hoàn
toàn không dự tính trước, và được phát động vào buổi tối ngày 7-9-1875, tại
phòng khách của nhà Bà H.P. Blavatsky. Cử tọa gồm khoảng 17 vị quan khách Nam
Nữ trong giới thượng lưu trí thức đã hội họp để nghe Ông Henry Felt thuyết
trình về một vài khía cạnh của Huyền môn Ai Cập một cách vô cùng lý thú và hấp
dẫn . . .
Trong cuộc thảo luận sau đó, thừa dịp thuận tiện,
Đại Tá Olcott đứng lên phát biểu ý kiến. Sau khi phát họa tình trạng của phong
trào Thần Linh Học đương thời, thái độ của các nhà Duy vật chống lại phong trào
nầy, sự xung đột ý kiến giữa khoa học và tôn giáo, tính cách triết học của đạo
lý cổ truyền, sự khả dĩ dung hoà tất cả mọi lý thuyết tương phản hiện hữu, và
công trình khảo cứu siêu việt của Ông Henry Felt đã khám phá ra được bí quyết
cấu tạo của Thiên nhiên, do những tàn tích cổ xưa của khoa Huyền môn Ai Cập.
Ông Olcott đề nghị thành lập một Hội tinh thần để
qui tụ tất cả những người có khuynh hướng tâm linh, sẵn sàng làm việc chung với
nhau để sưu tập và truyền bá những kiến thức Huyền môn.
Chương trình của Ông Olcott là tổ chức một Hội các
nhà Huyền học và bắt đầu lập ngay một
Thư Viện, kế đó là phổ biến những Giáo lý về những Định luật huyền bí trong
Thiên nhiên mà người cổ Ai Cập và Trung Đông đều biết rõ, nhưng lại hoàn toàn
xa lạ đối với thế giới khoa học của chúng ta hiện nay. “ (Trích trong : Hồi Ký
của Ông H.S. Olcott).
Khi Hội đã
được chấp thuận thành lập trên nguyên tắc thì một phiên họp sau đó được tổ chức
để soạn thảo Nội Qui và Điều Lệ, rồi bầu một Ban Chấp Hành để quản trị công
việc của Hội.
Ngày 30-10-1875, bản Điều Lệ và Nội Qui được chấp
thuận và một Ban Chấp Hành được chánh thức bầu cử, gồm những vị sau đây :
- Hội Trưởng: H.P. Olcott.
- Phó Hội Trưởng: B.S. Pancosat và G.H. Felt.
- Tổng Thơ Ký Ngoại vụ: H.P. Blavatsky.
- Tổng Thơ Ký Nội vụ: John
S. Cobb.
- Thủ Bổn : Henry Newton.
- Quản lý Thư Viện: Charles
Sotheran.
- Luật Sư
nhiệm trách: William Q. Judge.
- 5 vị Cố
Vấn.
Phiên họp lại tái nhóm vào ngày 17-11-1875 để đọc
Bản Tuyên Ngôn của Hội, và để nghe vị Hội Trưởng Olcott đọc bài Diễn văn khai
trương.
Thế là Hội Thông Thiên Học Thế giới được chánh thức
thành lập vào ngày 17-11-1875, với Ông H.S. Olcott làm Hội Trưởng và Bà H.P.
Blavatsky làm Tổng Thơ Ký.
Tuy là có chức vụ như vậy, nhưng thực tế thì Bà
H.P. Blavatsky là linh hồn của Hội và Ông H.S. Olcott là người công tác tổ chức
Hội.
Ông Olcott viết trong tập Hồi Ký, trích ra sau đây
:
“ Lịch sử ban đầu của Hội Thông Thiên Học đã được
tường thuật khá đầy đủ. Tôi không thấy có gì cần nói thêm, trừ ra việc hoàn
chỉnh những ký ức đã qua với vài mẫu chuyện vặt về đời sống xã hội của chúng
tôi tại Nữu Ước cho đến ngày chúng tôi lên đường sang Ấn Độ.
Trong thời gian từ khoảng cuối năm 1876 cho đến
cuối năm 1878, Hội Thông Thiên Học có vẻ tương đối bất động : Những Điều lệ của
Hội trở nên vô hiệu lực, những buổi
họp
đã gần như không còn tiếp tục. Những buổi sinh hoạt
ít oi của Hội trước công chúng đã được diễn tả trên đây, và những dấu hiệu gia
tăng ảnh hưởng của Hội được phản ảnh nơi sự gia tăng số lượng thơ từ giao dịch
của 2 nhà sáng lập với các giới trong nước và ngoài nước, những bài vở tranh
luận trên báo chí, sự thành lập các Chi Hội ở Luân Đôn và ở Corfu, và việc mở
đầu các mối liên hệ với những cảm tình viên ở Ấn Độ và Tích Lan.”
“ Còn nói về Hội Thông Thiên Học, tôi có thể nói
rằng, trong khi Bà H.P. Blavatsky và tôi không ai được phép tiêu xài hoang phí,
nhưng chúng tôi không bao giờ bị để cho phải thiếu thốn khổ sở về những nhu cầu
cần thiết cho đời sống và cho công việc làm của mình.
Đã có biết bao nhiêu lần cạn tiền, triển vọng về
tài chánh của Hội vô cùng bấp bênh và chán nãn đến mức xuống tinh thần, nhưng
rốt cuộc, tôi luôn luôn nhận được vào giờ chót, từ phía nầy hay phía khác (do
các Chơn Sư dùng huyền năng trợ giúp) những món tiền để trang trải vừa đủ mọi
phí tổn cần thiết, và công việc của Hội không hề bị ngưng trệ ngày nào vì lý do
thiếu phương tiện để xúc tiến các hoạt động của Hội.”
Ngày 17-12-1878, Bà H.P. Blavatsky và Ông H.S.
Olcott vâng lịnh các Đấng Chơn Sư dời Trụ Sở Trung Ương của Hội Thông Thiên Học
Thế giới đến thành phố Bombay nước Ấn Độ, nhưng sau đó lại dời đến Adyar ở
thành phố Madras, nơi bờ biển Đông Nam nước Ấn Độ và ở lại luôn tại đó cho đến
ngày nay.
Theo tài liệu năm 1952, Hội Thông Thiên Học Thế
giới hoạt động được 76 năm, đã được 56 nước trên thế giới xin gia nhập Hội, và mỗi nước đều có 7 Chi Hội sắp lên. Riêng nước
Ấn Độ có tất cả 2000 Chi Hội Thông Thiên Học.
Nước Việt Nam cũng có gia nhập Hội Thông Thiên Học
Thế giới, có Trụ Sở Trung Ương đặt tại Sài gòn, số nhà 462 đường Nguyễn Kiệm
(đường cũ là Võ Di Nguy) quận Phú Nhuận.
Bà H.P. Blavatsky mất năm 1891 mất tại Trụ Sở Trung
Ương của Hội Thông Thiên Học Thế giới vào năm 1891, hưởng thọ 60 tuổi. (Xem
Tiểu sử của Bà nơi phần sau).
Hội Thông Thiên Học Thế giới vẫn nối tiếp hoạt động
và phát huy rộng rãi trên toàn thế giới, xuất bản nhiều bộ sách rất giá trị về
Thần học và Triết lý, bởi các nhà Thông Thiên Học tài giỏi sau Bà H.P.
Blavatsky, xin kể ra vài vị tiêu biểu như
sau :
- Bà Bác sĩ
Annie Besant.
- Ông C.W.
Leadbeater.
- Ông C.
Jinarâjadâra.
- Bác sĩ
G.S. Arundale.
- Ông N. Sri
Ram.
- Ông
Alcyone tức J. Krishnamurti.
- vv . . . .
. . . . . .
II . Giáo lý và Nguyên lý :
A.
Nguyên lý :
Hộâi Thông Thiên Học đề xướng 3 Nguyên lý sau đây :
1). Đề xướng
tình huynh đệ đại đồng đối với tất cả nhơn loại, không phân biệt hình thức và
tinh thần. Hội còn cố gắng làm cho người đời hiểu được Chơn lý nầy để thực hiện
nguyên lý đại đồng trong đời sống.
2). Đề xướng sự tự do tìm Chơn lý, bất chấp sự hạn
chế bắt buộc của các đảng phái, học thuyết, tôn giáo, vv . . . Hội lại đặc biệt
khuyến khích sự nghiên cứu các tôn giáo, về Triết lý, về Khoa học, để tìm thấy
những cái hay cái đẹp, hầu đi đến sự hiệp nhứt, chớ chẳng phải chia ly như
nhiều người thiếu hiểu biết.
3). Nới rộng đời sống và biên cương của loài người
bằng sự can đảm phá tan những vách thành
ranh giới củng cố sự chia phân người đời, và bằng sự mạo hiểm đi sâu vào lãnh
vực huyền bí để tìm thấy sự thật ẩn tàng trong Vũ trụ mà Khoa học chưa khám phá
được, và những huyền năng tiềm tàng
trong con người.
B . Giáo
lý của Hội Thông Thiên Học :
Giáo lý của Thông Thiên Học gồm 5 điểm sau đây :
1) . Sự sống duy nhứt và đại đồng dẫu dưới bao lớp
hình trạng vật chất.
2) . Sự sống phải chịu biết bao kiếp luân hồi để
tiến hóa từ cõi tối tăm đến nơi sáng suốt, từ cõi tử đến cõi trường sanh, từ
nơi thấp kém đến chốn vinh quang rực rỡ muôn đời.
3) . Cuộc tiến hóa không ngừng nầy phải bị khép
dưới một Định luật thiêng liêng tuyệt đối đầy ơn huệ.
4) . Những thời cuộc xảy ra cho cõi đời hay cho cá
nhân, như giặc giã hay thái bình, thạnh hay suy, giàu hay nghèo, sướng hay cực,
vv . . . đều là những ký hiệu của sự tiến hóa dưới Định luật bất di bất dịch
nầy.
5) . Mỗi cá nhân là phần tử của cuộc sống, đều có
quyền tự do hối thúc cuộc tiến hóa của mình hay là trì huỡn, mà muốn hối thúc
thì phải hiểu và hành động theo Định luật ấy, còn muốn trì huỡn thì làm trái
lại.
(Theo bài của Ông Nguyễn văn Huấn viết trong trong
Tạp chí : Tìm hiểu Thông Thiên Học, số 1 tháng 2 năm 1954)
Mười Lý do
cốt yếu của Thông Thiên Học :
l) . Thông Thiên Học bao hàm các tôn giáo và giải
rõ cội rễ Giáo lý đã làm nền tảng cho
mỗi tôn giáo.
2). Thông Thiên Học dung hòa giáo lý các tôn giáo
với khoa học và làm cho người ta hiểu biết mỗi tôn giáo một cách sâu xa tinh
tường.
3) . Thông Thiên Học giải rõ hơn các tôn giáo về
cái sống thật của cuộc đời bằng cách nêu rõ ràng lẽ Công bằng và lòng Bác ái, ấy là 2 nguyên tắc luân lý chi phối
những việc thiện trong thế gian.
4) . Thông Thiên Học dẹp bỏ được lòng sợ chết và
giảm bớt nỗi buồn lúc chết, bằng cách chỉ rõ việc : Sanh, Tử, Vui, Buồn, ở đời
chẳng qua chỉ là cuộc biến diễn những tấn kịch trên sân khấu đời, nối hoài tiếp
mãi theo cái vòng tấn hóa dài vô tận đó thôi.
5) . Thông Thiên Học chỉ rõ ràng chính con
người mới làm chủ cái vận mạng của mình
và giải rành cái nghĩa : Ai trồng cây nào không chóng thì chầy sẽ được hưởng
quả của cây ấy.
6) . Thông Thiên Học vạch sáng tỏ con đường Đại
hùng, Đại lực, Đại từ, Đại bi, để diệt
hết phiền não của chúng sanh.
7) . Thông Thiên Học chỉ cho biết : Ngoài các thế
giới mà mắt phàm thấy được, còn có những
thế giới không thấy được, gọi là vô hình, và giải rõ những phương pháp để bước mau lên đường tấn hóa và
quan sát những thế giới đó.
8) . Thông Thiên Học nêu rõ cái Chơn linh mầu nhiệm
của Thượng Đế, cái tình nghĩa huynh đệ giữa loài người và các dây liên lạc ràng
buộc con người với vạn vật.
9) . Thông Thiên Học ví cõi đời như một trường học
mà con người phải trở đi trở lại nhiều lần, cho đến ngày nào học xong và đồng
hóa hết các bài học kinh nghiệm mới thôi.
10) . Thông Thiên Học chỉ rõ con người thực là ai ? Từ đâu đến cõi trần nầy ? Rồi sẽ đi đâu ?
(Trích trong quyển : Con đường đi đến Chơn Tiên của
Ông Nguyễn văn Lượng, Tổng Thơ Ký Hội Thông Th. Học VN, trang 66)
D . Trường Bí giáo (École Ésotérique) :
Sau khi lập xong Hội Thông Thiên Học Thế giới
, Bà Blavatsky vâng lịnh hai vị Đế
Quân Kuthumi và Morya lập Trường Bí giáo
tại Adyar. Mục đích của Trường Bí giáo là chọn lựa trong tất cả Hội viên của
Hội Thông Thiên Học trên khắp thế giới, những người có tài đức để cho các Đấng
Chơn Sư đào tạo, đặng sau đứng vào hạng
những bực cứu thế.
Ấy là một Trường để đào tạo các bậc Thánh nhơn
(C’est une École pour la formation des Saints). Các bực nầy sẽ được thâu nhận
vào Quần Tiên Hội đời đời.
E . Quần Tiên Hội (La Fraternité Blanche) :
Ở thế gian có những người ham mộ đạo đức, có tâm
hiền lành, ưa làm việc phước thiện, thường hội hiệp nhau để giúp đời, giúp cho
nhơn loại mau tấn hóa.
Ở Thiên đình của vậy, và còn hơn nữa, các Đấng Trọn
Lành Phật, Thánh, Tiên, khi đã đắc đạo rồi, chia ra : Có vị giúp Cơ Trời ở mấy
cảnh trên, có vị nguyện ở lại cõi trần
đặng dìu dắt chúng sanh vào con đường quang minh chánh đại. Các vị nầy
làm việc không ngừng và luôn luôn dòm xuống thế gian để chọn lựa người tài đức,
hầu thâu nhận làm đệ tử, rồi đào luyện dạy dỗ các đệ tử ấy cho đến ngày thành
đạo.
Trên mỗi dãy
Hành tinh, đều có những vị Phật, Thánh, Tiên thay mặt Đức Thái Dương Thượng Đế, coi sóc vạn
vật, làm sao cho các loài nầy tiến hóa,
hạp với Cơ Trời.
Ở Trái đất nầy, các Đấng Trọn Lành, vì nguyện giúp
cho loài người và vạn vật nên lập ra QUẦN TIÊN HỘI mà Chúa tể là Đức Ngọc Đế
(Le Seigneur du monde).
Đây xin kể rõ ngôi thứ của các Ngài trong Quần Tiên
Hội :
1) . Trên hết là Đức Ngọc Đế được 9 lần điểm đạo, là Chúa tể của Quần Tiên
Hội.
2) . Dưới Ngài có 4 vị Phật được 8 lần điểm đạo.
Trong 4 vị, có 3 vị Độc giác Phật (Pratyéka
Bouddha) thuộc về Cung thứ nhứt. Ba vị Độc giác Phật đã thành Phật ở bầu Kim
Tinh, và qua Trái đất nầy với Đức Ngọc Đế để giúp cho nhơn vật ở Trái đất nầy
tấn hóa.
Vị thứ tư là Đức Phật Thích Ca coi về Cung Đạo đức.
Ngài là người đầu tiên của nhơn loại ở Trái đất nầy tu hành và đắc quả Phật.
3) . Dưới 4 vị Phật có Tam Thanh, được 7 lần điểm
đạo.
Ba vị Tam Thanh, xin kể ra dưới đây :
- Đức Bàn Cổ (Manou) coi sóc sự sanh hóa của một giống dân.
- Đức Chưởng
giáo hay là Đức Di-Lạc Bồ Tát lo về phần đạo đức.
- Đức Văn
Minh Đại Đế (Mahachohan : Seigneur de la Civilisarion) coi sóc sự văn minh tấn
hóa cho nhơn loại cho hạp với Cơ Trời.
4). Dưới Tam Thanh thì có 7 vị Đế Quân hay là 7 vị
Đại Tiên (Chohan) được 6 lần điểm đạo.
Bảy vị Đế Quân coi sóc 7 Cung dưới đây :
- Cung thứ 1
do Đức Đế Quân Morya coi về Chánh trị.
- Cung thứ 2 do Đức Đế Quân Kuthumi coi về tôn
giáo. (Tiền kiếp của Đức Kuthumi là Giáo chủ Pythagore).
- Cung thứ 3 do Đức Đế Quân Vénitien coi Thiên văn.
- Cung thứ 4 do Đức Đế Quân Sérapis coi về Mỹ thuật
và các Nghề nghiệp.
- Cung thứ 5 do Đức Đế
Quân Hilarion coi Khoa học.
- Cung thứ 6 do Đức Đế
Quân Jésus coi về Tín ngưỡng tôn giáo. (Đức Đế Quân Jésus là Đức Chúa Cứu Thế
Jésus, Giáo chủ Thiên Chúa giáo).
- Cung thứ 7 do Đức Đế
Quân Le Comte de Saint Germain coi về khoa Pháp môn Phù thủy.
Tất cả mọi người trên thế gian
đều thuộc về một trong 7 Cung kể trên, và cũng chịu ảnh hưởng của 6 Cung kia.
5) . Dưới các Đức Đế Quân (Đại Tiên) là những vị
Chơn Tiên (Aseka) được 5 lần điểm đạo.
6) Dưới những vị Chơn Tiên là những vị đệ tử được
điểm đạo từ 1 đến 4 lần.
- Điểm đạo được 4 lần gọi là La-Hán (Arhat).
- Điểm đạo được 3 lần gọi là Anahàm (Anagamin).
- Điểm đạo được 2 lần gọi là Tưđàhàm (Sakadagamin)
- Điểm đạo được 1 lần gọi là Tuđàhuờn (Sotapanna).
Muốn được điểm đạo lần thứ 1 thì phải có 4 đức
tánh :
. Tánh phân biện (Le discernement).
. Sự dứt bỏ (Le détachement).
. Hạnh kiểm tốt (La bonne conduite).
. Lòng từ ái ( L’amour).
Bốn đức tánh nầy có giải rõ trong quyển “Dưới chơn Thầy “ (Aux pieds
du Maitre). Ai ăn ở theo đó thì sẽ được điểm đạo và sẽ được vào Quần Tiên Hội.
(Trích trong : Con đường đi đến Chơn Tiên, Nguyễn
văn Lượng)
III . Tiểu sử Bà H.P. Blavatsky :
Bà H.P. Blavatsky có tên tộc là Heleona Petrovna,
sanh tại Ekaterinosla thuộc nước Nga, đêm 30 rạng 31-7-1831, thuộc dòng quí tộc
của nước Nga, cha là Quan năm Pierre Haln, ông nội là Quan sáu Alexis Haln de
Rottenstein Haln, ông ngoại là André Fadeef làm Cố Vấn tại triều đình Nga Hoàng
và bà ngoại là Công Chúa Heleona Dolgorouki.
Bà H.P. Blavatsky mồ côi mẹ năm 11 tuổi, và năm 15
tuổi, cỡi ngựa rất thành thạo. Ở với ông ngoại được 5 năm, ông ngoại làm quan
Thủ Hiến ở Eurivau và Saratow. Thư viện to lớn của ông ngoại dường như không đủ
sách cho Cô Heleona Petrovna đọc.
Ngày 7-7-1848, Cô Heleona Patrovna được 17 tuổi,
thành hôn với Quan sáu Blavatsky 70 tuổi. (?)
Ở chung với chồng một thời gian, Bà Heleona
Petrovna Blavatsky (viết tắt H.P.
Blavatsky) từ giã Quan sáu, đi ta bà thế giới
để tầm đạo. Bà đi Caucase, Ai Cập, Athènes, Suryness, Trung Đông, rồi
muốn đến Tây Tạng, nhưng thất bại phải trở về.
Đến năm 1851, Bà qua nước Anh. Tại đây, trên bờ
sông Serpentine trong Hyde Park, Bà được duyên lành gặp được Chơn Tiên, và Bà
đã dọn mình trong 10 năm, trải qua nhiều cuộc thử thách lao khổ.
Sau đó, Bà qua Ấn Độ, rồi cũng tìm cách đến Tây
Tạng, nhưng cũng thất bại.
Năm 1853, Bà trở về Luân Đôn, đi qua ngã Trung Hoa,
Nhựt, và Mỹ.
Năm 1855-1856, Bà qua Ai cập, sang Ấn Độ, rồi cũng
tìm cách đến Tây Tạng, đây là lần thứ 3, nhưng vẫn không kết quả.
Bà ẩn mặt một thời gian.
Cuối năm 1858, người ta gặp Bà ở Nga, ngụ tại
Tiflis.
Năm 1863, Bà lại qua Ai cập, Ba Tư, Ấn Độ, rồi cũng
tìm cách đi Tây Tạng, và lần nầy thành công, ấy là năm 1864.
Năm 1873, Bà qua Pháp, sau đó sang nước Mỹ, ở tại
thành phố Nữu Ước.
Ngày 17-9-1874, Bà gặp Đại Tá H.S. Olcott và Bà
được mạng lịnh thiêng liêng hợp tác với ông nầy để lập Hội Thông Thiên Học, và
Hội nầy được mở ra ngày 17-11-1875.
Trong thời gian Bà H.P. Blavatsky ở Nữu Ước, Bà
viết báo tích cực binh vực Thần Linh Học. Bà có viết một bài trong đó Bà tâm
sự sau đây :
“ Tôi rất tiếc mà nói rằng, tôi phải đứng về phe
các nhà Thần Linh Học trong vụ tố giác 2 đồng tử Holmes. Tôi phải cứu vãn tình
thế, vì tôi được Chơn Sư biệt phái từ
Paris sang Mỹ để chứng minh cho mọi người thấy những hiện tượng Thông linh là
có thật, và vạch rõ sự sai lầm của thuyết cho rằng tất cả những hiện tượng
Thông linh chỉ là do tác động của Vong hồn người chết.
Nhưng tôi có thể làm gì tốt nhất ?
Tôi không muốn cho người ta biết rằng tôi có thể
tạo ra các hiện tượng ấy tùy ý muốn. Tôi được lịnh phải làm trái lại. Tuy nhiên
tôi phải duy trì đức tin nơi các hiện tượng đó trong lòng những người có óc Duy
vật để họ trở thành Duy linh, nhưng vì
nay có sự tố giác của nhiều nhà đồng tử, nên họ đã quay trở về thái độ hoài
nghi của họ trước kia.
Bởi vậy, tôi đã chọn lựa vài tín hữu cùng đi với
tôi đến nhà Ông Holmes, và với sự trợ giúp của Chơn Sư Morya và quyền năng của
Ngài, tôi đã làm cho những Tinh linh John King và Katie King xuất hiện từ cõi
Vô hình, tạo nên những hiện tượng “hiện hình” và làm cho các giới Thông linh ở
khắp nơi tưởng rằng đó là do khả năng của Đồng tử của Bà Holmes tạo nên. Bà nầy đã trải qua một
cơn hoảng sợ khủng khiếp, vì Bà ta biết rằng lần nầy các Vong linh đã hiện hình
thực sự.
Tôi đã làm đúng hay sai
? Thế gian chưa đủ chuẩn bị để hiểu rõ Triết lý của khoa Huyền môn : Trước hết, họ hãy nhận định
rằng, có những sinh vật trong cõi giới Vô hình, dù đó là Tinh linh Ngũ Hành hay
Vong linh người chết; và con người có những huyền năng
ẩn tàng khả dĩ làm cho họ trở thành một Đấng Thần Tiên bất tử.
Sau khi tôi qua đời, có lẽ người ta sẽ nhận thức
tấm lòng vô tư của tôi. Tôi đã phát nguyện nêu cao Chơn lý để giúp đỡ người đời
trên đường tìm đạo và tôi sẽ giữ trọn lời nguyền đó.
Mặc cho người thế gian vu khống và phỉ báng tôi, họ
có thể gọi tôi là Đồng bóng, Phù thủy, bịp bợm hay là gì tùy ý. Một ngày kia,
hậu thế sẽ có dịp biết tôi rõ hơn.
Ôi ! Thế gian đau khổ và tội lỗi ! Tôi biết làm sao
hơn.
(Trích trong quyển : Hồi Ký của H.S. Olcott)
Trong thời gian Bà H.P. Blavatsky ở Nữu Ước nước
Mỹ, Bà bắt đầu viết quyển sách : Isis
unveiled (Isis dévoilé : Vén màn Isis) với sự trợ giúp của Ông H.S. Olcott. Quyển
sách nầy rất có giá trị và rất được hoan nghinh.
Bà đã học được nơi Đấng Chơn Sư những
phép thuật Thần thông và Bà là một kiện tướng trong Huyền môn.
Ngày 17-12-1878, Bà H.P. Blavatsky và Ông H.S.
Olcott, vâng lịnh Chơn Sư, qua nước Ấn
Độ, để lập Cơ quan Trung Ương của Hội Thông Thiên Học Thế giới tại thành phố
Bombay, nhưng sau đó lại dời về Adyar ở Madras, thuộc về bờ biển phía Đông Nam
của Ấn Độ, và Hội quán Trung Ương. nầy vẫn tồn tại đến ngày nay.
Công đức của Bà H.P. Blavatsky rất lớn :
1) . Đánh đổ thuyết Duy vật, chứng minh có Thượng Đế, và con người có Linh
hồn.
Bà lập ra cơ quan truyền bá Chơn lý là tờ báo lấy
tên là “ THE THEOSOPHIST” vẫn còn xuất bản đến ngày nay.
Bà hợp tác với Bà Mabel Colline lập ra Tạp chí “LUCIFER”
tại Luân Đôn nước Anh.
Năm 1885, Bà qua Nice, Paris (Pháp), Wurburg (Đức), Ostende (Bỉ). Tại đây
Bà lâm bịnh nặng, các bác sĩ đành bó tay. Bà sẵn sàng và cầu xin sớm được bước qua cửa tử, nhưng vị
Chơn Tiên, sư phụ của Bà hiện đến nói rằng :
- Con ơi !
Con có thể hy sinh để làm cho hoàn tất bộ sách “ Giáo lý nhiệm mầu “ (La
doctrine secrète) mà con vừa phát họa ra không ? Nếu con chịu hy sinh thì Thầy
sẽ cho con sống thêm ít lâu nữa, nhưng con sẽ khổ sở với tấm thân gần tan rã
của con.
Trước sự thử lòng ấy, Bà nhận chịu vì lòng thương nhơn loại.
Khi lời cầu nguyện của Bà được lập thành, Đấng Chơn
Tiên, sư phụ của Bà, ban ơn huệ cho Bà hết bịnh một cách kỳ diệu, làm cho tất
cả bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc.
Mặc dầu khổ nhọc,
Bà được sự trợ giúp đắc lực của Ông Olcott, Bà viết suốt ngày đêm để
hoàn thành quyển sách Giáo lý nhiệm mầu, như
Bà đã hứa với Đấng sư phụ.
Bộ sách nầy chỉ rõ Cơ Trời, nó là chìa khóa mở vào
cửa Đạo.
Tất cả mọi người đều ca tụng quyển sách nầy và nhìn
nhận giá trị tuyệt đối của nó ở thế gian.
2) . Công đức thứ nhì là Bà H.P. Blavatsky tuyên bố
sự có mặt của các Đấng Chơn Tiên.
Bà có được nhiều bức thơ do các Đấng Chơn Tiên gởi
đến cho Bà. Bà nói : “ Chơn Tiên vốn là người như chúng ta, nhưng các Ngài đã
đi hết nấc thang tiến hóa nơi cõi trần . Các Ngài là Anh Cả của nhơn loại, là
bông hoa của cây Nhơn sinh đó vậy.”
Bà H.P. Blavatsky từ trần tại Adyar lúc 2 giờ 25
phút ngày 8-5-1891, hưởng được 60 tuổi, và đến ngày 11-5-1891 thì làm lễ thiêu
xác.
Bà để lại cho nhơn loại 3 tác phẩm bất hủ, được
dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế
giới :
- Isis unveiled (Isis
dévoilée) : Vén màn Isis.
- Secret doctrine (Doctrine
secrète): Giáo lý nhiệm mầu
- Voice of silence (Voix du
silence) : Tiếng nói vô thinh
IV . Tiểu sử Ông H.S. Olcott :
Ông Henry Steel Olcott là Chánh Hội Trưởng và cũng là người sáng
lập Hội Thông Thiên Học Thế giới .
Ông sanh ngày 2-8-1832 tại Orange, tiểu bang New
Jersey của nước Mỹ. Ông tốt nghiệp xuất sắc tại City College và Đại Học Đường
Colombia.
Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ông gia nhập quân đội
và đứng về phía Chánh phủ trong trận nội chiến giữa Nam và Bắc nước Mỹ từ năm
1860 đến năm 1865, để giải phóng chế độ nôlệ của người da đen ở miền nam nước
Mỹ. Ông được thăng dần lên chức Đại Tá.
Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt, Ông xin giải ngũ
và hành nghề Luật Sư và đồng thời cũng làm ký giả báo chí cho các tờ báo tại
Nữu Ước (New York).
Ông có thuật lại trong quyển Hồi Ký của Ông như
sau:
“ Một ngày nọ vào khoảng tháng 7 năm 1874, ngồi tại
văn phòng Luật Sư, tôi đang nghiên cứu một vụ kiện quan trọng liên quan đến Tòa
Đô Chánh thành phố Nữu Ước, tự nhiên tôi lại nghĩ rằng từ nhiều năm nay, tôi
không chú ý đến phong trào Thần Linh Học.
Tôi không hiểu sao trí óc tôi lại liên tưởng từ vụ
kiện nọ đến phong trào Thần Linh Học nầy. Dù sao, tôi đã bước ra phố đến mua
một tờ Nhựt báo “Banner of Light”, trong đó, tôi đọc được một bài tường thuật
về hiện tượng hồn ma hiện hình xảy ra tại một nông trại ở Thị trấn Chittenden
thuộc Tiểu bang Vermont, cách Nữu Ước độ vài trăm dặm.
Tôi liền nghĩ rằng nếu quả thật đúng là người ta có
thể nhìn thấy, sờ mó, và nói chuyện được với những thân nhân đã chết, nhưng tìm
cách hiện nguyên hình để tạm thời xuất hiện trở lại thế gian
thì đây là một sự kiện tối quan trọng về khoa học Vật lý hiện đại.
Tôi bèn quyết định đi đến quan sát tại chỗ.
Tôi đến tận nơi xem xét các hiện tượng và thấy rằng
câu chuyện quả có thật. Tôi quyết định ở lại đó thêm 3 hoặc 4 ngày để quan sát
và hỏi han cho thật tường tận.
Sau đó, tôi trở về Nữu Ước, viết một bài tường
thuật dài về những điều mà tôi đã quan sát được, gởi cho tờ báo New York Sun.
Bài báo của tôi được các báo trên thế giới
in lại và phổ biến khắp thế giới
, vì tính cách thực tế hấp dẫn và quan trọng của những sự việc đã xảy ra.
Kế đó, vị Chủ nhiệm tờ báo Daily Graphic đến đề
nghị với tôi hãy trở lại Chittenden để viết thêm một thiên phóng sự khác với
một họa sĩ đi theo quan sát để vẽ lại những hình ảnh, làm một cuộc điều tra chi
tiết với những hình ảnh mô tả cụ thể về vấn đề Thần linh nầy.
Việc ấy làm cho tôi thích thú đến mức tôi phải thu
xếp ngay tất cả việc văn phòng để chuẩn bị đi nhiều ngày.
Ngày 17-9-1874, tôi trở lại nông trại của gia đình
Eddy. Tôi lưu trú trong ngôi nhà bí mật đó 12 tuần, và hằng ngày, tôi thu thập
được những kinh nghiệm vô cùng kỳ dị.
Tôi viết bài đăng trên tờ Daily Graphic mỗi tuần 2 lần, có kèm theo những bức vẽ các
hồn ma hiện hình do tôi và người họa sĩ vẽ ra. Ông Kappes đã nhìn thấy tận mắt
cùng với khoảng 40 quan khách đến viếng.
Chính những bài tường thuật của tôi đã làm cho Bà
Blavatsky đến Chittenden, nhờ đó, chúng tôi quen biết nhau.
Tháng 11 năm 1874, sau khi đã hoàn tất cuộc khảo
sát về Thần Linh Học ở nông trại Eddy, tôi trở về Nữu Ước và đến viếng Bà
Blavatsky. Tại đây, Bà biểu diễn cho tôi xem vài hiện tượng Cơ bút, Gõ nhịp,
Xây bàn, phần nhiều là do tác động của một vong linh khuất mặt xưng là John King.”
Bà Blavatsky nhân dịp nầy giải thích cho Ông Olcott
rõ về Chánh đạo và Tà đạo. Để chứng minh lời nói của Bà, Bà dùng Huyền môn làm
vài phép lạ để Ông Olcott lãnh hội phần nào về những Định luật thiên nhiên
trong Vũ trụ và nhất là sự hiện hữu và tồn tại của các Đấng Chơn Sư vô hình.
Rốt cuộc, Ông Olcott thọ giáo với Bà Blavatsky về
khoa Huyền môn và được Bà dẫn dắt đi trên đường Đạo pháp phụng sự nhơn loại,
ngõ hầu giúp đỡ phong trào Tu Tiên sắp được phát động. Bà cho Ông Olcott biết
rằng, sự bộc phát của những hiện tượng Thông linh ở khắp nơi trên thế giới,
chính là do Quần Tiên Hội phát động, làm một khí cụ trợ giúp cho cơ tiến hóa tâm
linh của nhơn loại.
Như vậy, sự hoạt động của Cơ bút, Đồng tử, không
nên coi là bất hảo như vài người chống
đối cực đoan tuyên bố.
Ông H.S. Olcott mất tại Adyar (Ân Độ) năm 1907.
Thần Linh Học
· Thần Linh Học là một nền đạo.
· Thần Linh Học xuất hiện ở nước Mỹ.
· Thần Linh Học ở Âu Châu.
· Thần Linh Học với Đạo Cao Đài.
I .
Thần Linh Học là một nền đạo :
Thần Linh Học (Spiritisme), còn được gọi là Thông
Linh Thuyết, Thông Thần Học, Chiêu Hồn Thuật, Giáng Thần Thuật, là một khoa học
nghiên cứu về cách thông công giữa con người đang sống nơi thế giới hữu hình
với các Đấng Thần Thánh Tiên Phật ở trong thế giới vô hình, để chứng
minh rằng : Có sự hiện hữu của thế giới Vô hình, có sự hiện hữu của Đấng Thượng
Đế và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, và có sự hiện hữu của Linh hồn của con
người.
Con người khi thể xác chết đi, không phải là mất
hết, mà còn có linh hồn tồn tại. Linh hồn xuất ra khỏi xác để chuyển qua sống
trong thế giới vô hình.
Chính thế giới vô hình nầy điều khiển thế giới hữu
hình.
Hiện tượng Cơ Bút của Đạo Cao Đài phát xuất từ
những kết quả nghiên cứu của khoa Thần Linh Học từ bên nước Mỹ và nước Pháp
truyền qua Việt Nam.
Trong sách Thánh Ngôn Hiệp Tuyển của Đạo Cao Đài,
Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế có giáng cơ nói rằng :
“ Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần Linh Học
là một nền đạo tương lai sao ? “ ( N’ai-JE pas prédit que le Spiritisme est une
religion d’avenir ? ) [TNHT. I. 72]
“ Đạo Cao Đài căn cứ ở Thần Linh Học, mà Thần Linh
Học là một khoa học và một triết lý.
Năm 1950, trong một buổi họp của Hội Nghị
HAYWARDS HEATH, tôi đã có dịp định nghĩa
rõ ràng thế nào là Thần Linh Học, một khoa học, không nên lầm với mê tín quàng
xiên. Tôi đã có dịp nhắc lại một nguyên tắc căn bản dùng để xét định những việc
Thần linh, dù tự nhiên xảy ra hay là thí nghiệm.
Nguyên tắc ấy là :
Phải giải thích rõ ràng một hiện tượng Thần Linh
Học mà xưa nay thường bị nhiều kẻ chỉ trích (hoặc mê sảng, hoặc bịa đặt), nếu
một lẽ chỉ trích ấy mà đúng, dầu ở cách xa, thì hiện tượng ấy đáng hủy bỏ. Trừ
ra khi nào một Vong linh đến giải thích một hiện tượng mà trước đây không ai
hiểu đặng, đó mới thật là một kỳ diệu của khoa Thần Linh Học.
Về mặt khoa học và triết lý, Thần Linh Học rất có
ích cho các tôn giáo vì nó làm cho con người không có đức tin hay không nhìn
nhận sự huyền bí, hay chỉ nhận những sự vật mà giác quan của họ biết được, phải
nhận rằng : Con người có một Linh hồn.
Thần Linh Học làm cho ta thấy một cách chắc chắn
rằng Linh hồn có thật, thể xác tuy chết mà Linh hồn vẫn còn, và giữa những
người sống và những người chết vẫn còn giao cảm với nhau được.
Năm rồi, ở Hội nghị Bruxelles, tôi đã tuyên bố
những ý kiến tương tự như thế nầy, và
nhận thấy rằng, trong những lúc đàm luận riêng, nhiều Hội viên đã hiểu biết ý
tôi.”
(Trích bài của Ông
Henry Regnault, Hội viên Thần Linh Học ở Paris, Đại diện Đạo Cao Đài tại
Pháp, Bán Nguyệt san Thông Tin dịch, số 116 Xuân Giáp Dần 1974, trang 18)
II . Thần Linh Học xuất hiện
ở Mỹ :
Phong trào Thần Linh Học thế giới khởi đầu xuất
hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1847, tiểu bang New York, nơi nhà của Ông Veckman trong
một nông trại tại Hydesville. Hằng đêm, Ông Veckman nghe có tiếng đập cửa hay
tiếng gõ vào vách, nhưng khi mở cửa ra xem thì không thấy ai cả, làm cho gia
đình Ông hoảng sợ, cho là có hồn ma phá khuấy, nên không dám ở đó nữa, phải trả
nhà dọn đi nơi khác ở.
Sau đó có gia đình Ông thợ may nghèo tên là John
Fox đến mướn ở. Mấy tháng đầu, Ông Fox chẳng thấy chi lạ cả, nhưng thời gian
sau đó thì hiện tượng gõ cửa hay đập vách lại xảy ra, và đặc biệt ban đêm, đồ đạc
trong nhà tự nhiên xê dịch từ chỗ nầy qua chỗ khác.
Ban đầu, Ông bà Fox cũng hoảng sợ, nhưng thấy các
hiện tượng lạ nầy không có phương hại chi đến gia đình nên Ông bà bỏ qua không
để ý đến nữa, dần dần rồi cũng quen với các hiện tượng kỳ bí đó.
Ông bà Fox có 2 đứa con gái, đứa lớn tên Margaret
15 tuổi và đứa nhỏ tên Kate 12 tuổi.
Một hôm, Ông bà Fox định đi ngủ sớm vì ban ngày may
vá mỏi mệt quá, và không để ý đến tiếng đập vách. Khi vào phòng ngủ thì thấy
Kate còn thức và vỗ tay chơi. Liền sau đó, bà Fox nghe có tiếng gõ vách đáp
lại. Cô bé vỗ tay 3 tiếng thì có 3 tiếng gõ vách đáp lại.
Bà Fox nói thử : Hãy gõ 10 tiếng coi.
Liền đó có 10 tiếng gõ vách đáp lại.
Bà Fox kinh ngạc nói tiếp : Nếu linh hiển, hãy gõ
đúng số tuổi của Kate.
Liền đó tiếng gõ đáp lại đếm đúng 12 tiếng.
Bà Fox lại nói : Nếu là người thật thì gõ 1 tiếng
trả lời.
Hoàn toàn yên lặng.
Chờ một chút, Bà Fox nói tiếp : Nếu là hồn linh thì
gõ 2 tiếng trả lời.
Tức thì có 2 tiếng gõ đáp lại.
Hiện tượng lạ lùng nầy ngày hôm sau được lan truyền
ra khắp nơi rất nhanh, khiến nhiều người hiếu kỳ tấp nập đến xem. Giới tu sĩ,
giới khoa học, đều có tìm đến tận nơi để quan sát, thử nghiệm, nghiên cứu. Kết
quả họ rất ngạc nhiên lẫn kinh sợ, xác nhận hiện tượng kỳ bí có xảy ra thực,
nhưng không cách nào giải thích được sự kỳ bí nầy.
Sau đó có một nhà nghiên cứu tên là Issas Post đến
xem. nảy ra sáng kiến là bảo hồn linh gõ theo thứ tự các mẫu tự A, B, C, . . .
Gõ 1 tiếng là chữ A, gõ 2 tiếng là chữ B, gõ 3 tiếng là chữ C, vv. . . để sau
đó ráp lại thành câu văn mà nói chuyện với nhau.
Vong linh liền gõ 2 tiếng để tỏ sự đồng ý.
Thế là nhờ phương cách nầy, tuy mất nhiều thời giờ,
nhưng Ông Issas Post có thể nói chuyện được với hồn linh. Ông được hồn linh trả
lời nhiều điều mà trước đây không ai có thể biết được về thế giới vô hình.
Nhờ phương
pháp nầy, Ông Fox nói chuyện được với hồn linh. Hồn linh cho biết, khi còn sống
tên là Charles Haynes, góa vợ, có 5 con, làm phu khuân vác, đã bị chủ nhà trước
giết chết, xác được chôn trong hầm của nông trại. Hồn
linh cũng cho biết tên của người giết chết ông ta,
là người đã ở kế căn nhà nầy 2 năm về trước.
Ông Fox đào thử trong hầm của nông trại thì tìm
thấy được : Một mớ vôi, một mớ than, nhiều mảnh chén bể, một nắm tóc, vài khúc
xương, một miếng giống như óc.
Ông Fox rất ngạc nhiên và hoảng sợ.
Lối xóm đồn ầm lên là gia đình Ông Fox nói chuyện
được với hồn ma.
Báo chí hay tin, liền cử người đến quan sát, rồi
đăng tin lên báo, khắp nước Mỹ đều hay biết. Giới tu sĩ và giới trí thức rất
chú ý hiện tượng bí ẩn nầy.
Hậu quả của việc thông linh nầy là gia đình Ông Fox
không làm ăn gì được cả, nên phải dọn nhà đi nơi khác ở. Giáo hội Méthodiste
(Église Méthodiste) thuộc đạo Tin Lành trục xuất ông bà Fox ra khỏi Giáo hội.
Ông Fox đưa gia đình đến ở Rochester, là nơi đông đúc dân cư, tránh khỏi khu vực đó, nhưng hồn ma Charles
Haynes cũng theo gia đình Ông Fox đến Rochester.
Hai chị em Margaret và Kate phải làm trung gian để
những người sống muốn nói chuyện với linh hồn ông Haynes.
Rất nhiều người trước đây không biết gì về hồn ma
và cũng không tin có ma, nay chứng nghiệm được hiện tượng hiển nhiên như vậy
thì họ rất tin tưởng và cũng trở thành Đồng tử
giống như 2 cô gái Margaret và Kate.
Nhiều cuộc trình diễn được tổ chức trước công
chúng, kết quả rất tốt đẹp, khiến nhiều người phải xác nhận có linh hồn, người
chết thì thể xác tiêu tan, nhưng linh hồn vẫn tồn tại nơi thế giới vô hình.
Tiếng tăm của gia đình Ông Fox nổi bật giữa quần
chúng nước Mỹ. Báo chí Mỹ không ngớt tường thuật tỉ mỉ các buổi thông linh nầy.
Hội Đồng Thành phố Rochester thành lập Ban điều tra
đặc biệt về hiện tượng thông linh nầy. Sau mấy năm nghiên cứu, 3 lần họp, có
đến hằng trăm diễn giả thuyết trình, tranh luận sôi nổi, nhưng chưa đạt được
một kết luận dứt khoát nào.
Kinh sợ trước những hiện tượng kỳ bí mà họ chứng
kiến, một số người hồ đồ xấu miệng đồn lên rằng, gia đình Ông Fox là phù thủy,
là hiện thân của ma quỉ, họ sách động đám đông đập chết toàn cả gia đình Ông
Fox gồm bốn người, một cách hết sức oan uổng.
Sau khi gia đình Ông Fox bị thảm sát, hiện tượng
thông linh “gõ cửa hay gõ vách “ vẫn tiếp tục xuất hiện ở nhiều nơi trên đất
nước Mỹ.
Luật Sư J. Edmonds, Giáo Sư E. Mapes thuộc Hàn Lâm
Viện Hoa Kỳ, Giáo Sư Robert Hare tại Đại Học đường Pensylvania, sau nhiều năm
nghiên cứu, thông công được với nhiều người trong thế giới vô hình, đã có những
kết luận rất xác đáng, nên tổ chức các buổi thuyết trình, viết ra nhiều sách để
phổ biến, xác nhận sự hiện hữu của linh hồn và của thế giới vô hình.
Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học (Congrès
Spirite) đầu tiên được tổ chức tại Cleveland nước Mỹ.
Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Hoa Kỳ lên
đến con số 3 triệu người, trong đó có hơn 10 ngàn Đồng tử.
III .
Thần Linh Học ở Âu Châu :
Từ năm 1852, một Phái đoàn Thần Linh Học từ Mỹ qua
nước Anh, và đã gây được một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ ở nước Anh.
Năm 1853, một nhóm Thần Linh Học khác lại đi từ Mỹ
qua nước Pháp và Đức, cũng gây được những
phong trào Thần Linh Học đáng
kể ở 2 nước nầy.
Năm 1854, Ông Chevreul thuộc Hàn Lâm Viện Khoa học
Pháp và Ông Faraday ở nước Anh, đả phá kịch liệt Thần Linh Học, nhưng không kết
quả.
Bà Giradin, một Đồng tử Thần Linh Học ở nước Pháp
đã giúp cho Văn hào Victor Hugo thông công được với linh hồn người chết lúc
Victor Hugo đang tị nạn, sống lưu vong ở đảo Jersey của nước Anh.
Đêm 11-9-1853, tại đảo Jersey, Bà Giradin tổ chức
xây bàn, có mặt quí Ông : Victor Hugo với 2 cậu con trai là Charles Hugo,
Francois Hugo và cô con gái là Madelène Hugo, ngoài ra còn có Đại Tá Le Flot,
Ông De Tréveneuse, Ông Auguste Vacquerie. Đêm ấy, vong linh Bà Charles
Vacquerie (tức là con gái của Victor
Hugo, nhũ danh là Léopoldine Hugo, cùng với chồng đi tắm biển và cả 2 vợ chồng
đều bị chết đuối), giáng bàn nói chuyện với Victor Hugo, hỏi thăm cha mẹ, và có tiết lộ nhiều điều
huyền bí nơi cõi vô hình. Nhờ vậy, Victor Hugo bắt đầu tin tưởng Thần Linh Học.
Đêm 13-9-1853, Victor
Hugo tiếp tục tổ chức xây bàn để thông công với cõi vô hình, có một Vong linh xưng là Bóng Hư
Linh giáng bàn bảo Ông Victor Hugo hãy đặt trọn đức tin vào Thượng Đế.
Tiếp tục xây bàn, nhóm Victor Hugo thông công được
với các Đấng, kể ra dưới đây :
- Các Đấng Giáo chủ : Socrate, Moise, Jésus,
Mahomet, Luther.
- Các Danh nhân : André Chénier, Shakespeare,
Molière, Dante, Racine, Lion d’Androclès, . .
- Các vong linh ẩn danh : Bóng Hư Linh, Bóng dưới
mồ, Sứ giả Thượng giới, Người trong mộng, . . .
Đêm 11-10-1853, nhận thấy những điều tiết lộ, những
điều khuyên bảo, những giáo lý, triết lý, nhận được từ các Đấng Thiêng liêng
nơi cõi vô hình qua hiện tượng thông linh xây bàn, rất hữu ích cho nhơn loại,
nên văn hào Victor Hugo hỏi Vong linh đang giáng bàn :
- Những lời vàng tiếng ngọc mà chúng tôi hân hạnh
đón nhận từ cõi Hư Linh bấy lâu nay, thật đáng xem là những Chơn truyền quí báo
hiếm có, chúng tôi có nên in thành sách xuất bản để phổ biến cho mọi người cùng
học được hay không, xin cho biết ?
Vong linh ấy đáp :
- Không ! Vì chưa đến ngày giờ.
Victor Hugo hỏi tiếp :
- Đến bao giờ ? Chúng tôi còn sống đến ngày đó
không ?
Vong linh đáp :
- Nếu không thấy nơi nầy thì sẽ gặp ở nơi khác.
Chừng đến ngày giờ sẽ có lịnh. Hiện tại, có thể phổ biến hạn chế cho những
người đã có đức tin.
Những Thánh giáo nhận được từ những cuộc xây bàn
của Victor Hugo ở đảo Jersey, sau nầy được ông Gustave Simon
in thành sách với nhan đề là “
Les Tables tournantes de Jersey chez Victor Hugo “.
Sách nầy được tái bản nhiều lần, làm chấn động dư
luận nước Pháp và thế giới.
Giáo Sư Charles Richets tại Đại Học đường Sorbonne
Paris, sau nhiều năm nghiên cứu Thần Linh Học, đã cho xuất bản quyển sách tựa
đề là Traité de Métaphysique (Khái luận về Huyền bí học).
Trong lúc đó, ở nước Anh, nhà bác học William
Crookes, trước đây không tin Thần Linh, nhưng sau gần 20 năm nghiên cứu và
chứng nghiệm việc thông công với thế giới
vô hình, đã viết một cuốn sách dầy trình bày các kết quả nghiên cứu của
ông.
Trong một bài thuyết trình tại Đại Hội Thần Linh
Học Thế giới họp tại Luân Đôn, ông kết
luận một câu khẳng định : “ Tôi không nói là những điều tôi đã nghe, những việc
tôi đã thấy, có lẽ có được, mà tôi dám nói chắc chắn rằng có hiển nhiên như
vậy.”
Chính lời nói xác định mạnh mẽ nầy của một nhà bác
học nước Anh làm cho nhiều người giựt mình thức tỉnh.
Ở nước Pháp, nhà Thần Linh Học Léon Rivail tức là
Allan Kardec, nhờ được học hỏi nhiều nơi các Đấng vô hình, nên đã hệ thống hóa
được lý thuyết về Thần Linh Học, để môn Thần Linh Học trở thành một ngành khoa
học.
Năm 1853, Ông Allan Kardec lập thành Học thuyết
Thần Linh Học với 2 tác phẩm căn bản là : Le livre des Esprits và Le livre des
Médiums, với những bằng chứng thực nghiệm về tâm linh.
Nhờ đó, Thần Linh Học được truyền bá rộng rãi khắp
thế giới .
Nhiều cuộc Hội nghị Quốc tế về Thần Linh Học đã
được mở ra, gây một phong trào Thần Linh Học sâu rộng.
Sau Allan Kardec thì có Camille Flammaron
(1842-1925) tiếp nối, nhưng phong trào Thần Linh Học không được rầm rộ như
trước.
Tóm lại, Thần Linh Học phát khởi từ nước Mỹ vào năm
1847, sau đó truyền qua Âu Châu, nhứt là ở 2 nước Anh và Pháp, tạo thành một
phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ và sâu rộng, ảnh hưởng lên toàn thế giới .
Với phong trào Thần Linh Học, Thượng Đế muốn nhắn
nhủ với nhơn loại là con người không phải chết là hết, mà mỗi người đều có một linh hồn và linh hồn nầy
làm chủ nhơn của thể xác. Khi thể xác chết đi, linh hồn xuất ra khỏi thể
xác, chuyển qua cõi vô hình và có một
đời sống trong thế giới vô hình.
IV . Thần Linh Học với Đạo
Cao Đài :
Trong lúc Phong trào Thần Linh Học khởi lên rầm rộ
và sôi nổi ở khắp các nước Âu Mỹ thì nước Việt Nam đang chịu sự xâm chiếm của
đế quốc Pháp, và cuối cùng biến VN thành thuộc địa của Pháp.
Báo chí và sách vở của Pháp được đưa sang VN, nhờ
đó, phong trào Thần Linh Học (TLH) truyền đến VN.
Đầu thế kỷ 20, trong dân chúng nổi lên các nhóm Xây
bàn nói chuyện với các Vong linh hay Cầu Cơ thỉnh Tiên xin thuốc chữa bịnh
nan y. Nhóm Xây bàn ở Sàigòn của quí Ông
: Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, được Đấng Thượng Đế và các vị
Tiên, Phật giáng dạy thường xuyên, dần dần hình thành một Phong trào TLH VN, gọi là Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài phát triển rất mạnh và thu hút rất
nhiều tín đồ, làm cho nhà cầm quyền Pháp lo ngại ảnh hưởng xấu nền an ninh của
thuộc địa Pháp, nên họ ra lịnh đàn áp.
Hai vị Đại diện Đạo Cao Đài tại Paris nước Pháp là
: Gabriel Gobron và sau đó là Henry Regnault, vận động các giới tại Pháp binh
vực Đạo Cao Đài, nhất là trong các Hội Nghị TLH Quốc tế, Ông Gabriel Gobron luôn luôn yêu cầu Hội Nghị
ủng hộ Đạo Cao Đài và can
thiệp với Chánh
phủ
Pháp cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng và thờ cúng.
Sau đây là
vài kết quả thâu được trong các Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế :
1) Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế Barcelone (1934) :
Tạp chí Thần
Linh Học tháng 10-1934, trang 505 có đăng các nguyện vọng được toàn Hội Nghị
chấp thuận :
Phong trào
Thần Linh Học thứ 8 là Đạo Cao Đài : Do đề nghị của Ông Gabriel
Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài (hay Thần Linh Học VN), Hội
Nghị Thần Linh Học Quốc tế lần thứ 5 họp
tại Barcelone (Tây Ban Nha) từ ngày 1 đến 10-9-1934, yêu cầu Chánh phủ Pháp đặt
ra cho tín đồ Cao Đài một qui chế rộng rãi như qui chế áp dụng cho các tín đồ
Thiên Chúa giáo hay Phật giáo Việt Nam trong các nước Đông Dương, thể theo lời
hứa long trọng của Ông Tổng Trưởng Sarraut của Bộ Thuộc địa, vào tháng 3 năm
1933 tại Quốc Hội Pháp.
2) . . . . .
. . . . . . . . .
3) Hội Nghị Thần Linh Học Quốc tế Glasgow (1937):
Tờ báo Việt Nam Mới ngày 14-11-1937 đăng tin :
Do đề nghị của Ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài hay Thần Linh Học VN, Hội Nghị TLH Quốc tế lần
thứ 6 họp tại Glasgow (Anh quốc) từ ngày 3 đến 10-9-1937, đưa ra nguyện vọng :
Thần Linh Học VN trong 3 nước Đông Dương nên được hưởng sự tự do tín ngưỡng và
thờ cúng như các tín đồ Công giáo và Tin Lành, dầu họ là dân thuộc địa, dân bảo
hộ, hay ngoại quốc.
Nguyện vọng đưa ra trong Hội Nghị TLH ở Barcelone
mở màn cho một thời kỳ rộng rãi hơn đối với các tín đồ của Đạo Cao Đài hay Thần
Linh Học VN.
Đạo
Cao Đài
(Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ)
I . Các Định nghĩa :
I . Các Định nghĩa :
1) . Cao Đài : là một cái đài cao nơi Linh Tiêu
Điện, trong Ngọc Hư Cung, ở cõi Thiêng liêng, là nơi ngự của Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế mỗi khi đại hội triều đình của Ngài.
Vào năm 1927, trong một đàn cầu cơ tổ chức tại Cần
Thơ (miền Nam Việt Nam), Đức Chí Tôn giáng cho 4 câu thi giải thích 2 chữ CAO
ĐÀI :
Linh
Tiêu nhất tháp thị Cao Đài,
Đại
hội quần Tiên thử ngọc giai.
Vạn
trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ
danh bửu cảnh Lạ Thiên Thai.
Nghĩa là :
- Nơi Linh Tiệu Điện có một cái tháp gọi là Cao
Đài,
- Đại hội các vị Tiên nhóm tại bệ ngọc ấy.
- Muôn trượng hào quang từ nơi đó chiếu ra,
- Tên xưa, cảnh quí báu đó là Lạc Thiên Thai.
Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Đế giáng cơ mở đạo, lấy đài ngự của Ngài là CAO ĐÀI làm danh hiệu.
Do đó, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Đấng Cao Đài,
nên cũng gọi là Cao Đài Thượng Đế, và
nền Đại Đạo do Ngài mở ra vào thời Tam Kỳ Phổ Độ được gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, cũng gọi là Cao Đài Đại Đạo, hay vắn tắt là Đạo Cao Đài.
Danh xưng Cao Đài cũng được Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng
Thượng Đế giải thích trong 4 câu Thánh ngôn sau đây:
Nhiên
Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích
Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái
Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Kim
viết Cao Đài.
Nghĩa là :
- Nhiên Đăng Cổ Phật là Ta,
- Thích Ca Mâu Ni là Ta,
- Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta,
- Nay gọi là
Cao Đài.
Do đó, từ
ngữ Cao Đài còn có ý nghĩa là Đấng đã sản xuất ra các vị Phật, Tiên : Đức Nhiên
Đăng Cổ Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Thái Thượng Lão Quân và Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn. Cho nên, Đấng Cao
Đài chính là Đại Từ Phụ của toàn cả chư Thần Thánh Tiên Phật trong Càn khôn Vũ
trụ.
2) . Cao Đài Đại Đạo : là một con
đường rộng lớn (Đại Đạo) hướng dẫn chúng sanh tiến hóa, tiến hóa mãi cho đạt
đến các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, và sau đó tiến hóa tiếp tục lên phẩm
vị cao nhất cuối cùng là Thượng Đế để hiệp nhất vào Thượng Đế.
Cao Đài Đại Đạo là một nền tôn giáo lớn, có một
Giáo lý và một Triết lý rất đầy đủ, bao quát và dung hợp được tất cả các nền
Tôn giáo và Triết lý của loài người đã có từ trước tới nay, do một Đấng Tối
Cao, Chúa tể Càn khôn Vũ trụ là Đấng Cao Đài lập nên. (Đây không phải là lời
nói ngoa có tánh cách phô trương quá đáng, mà là sự thật, khi chúng ta nghiên
cứu kỹ lưỡng và sâu xa Giáo lý và Triết lý của Đạo Cao Đài, chúng ta sẽ thấy
rõ).
Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài cho nhơn sanh tu hành vào thời Hạ nguơn. Do đó,
Đức Chí Tôn khai đạo vào ngày Rằm Hạ nguơn (15-10 âl) năm Bính Dần, vì khởi đầu
một Nguơn là năm Giáp Tý, kế đó là năm
Ất Sửu, tiếp theo là năm Bính Dần, hợp với Thiên cơ : Thiên khai ư Tý, Địa tịch
ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần.
Đạo Cao Đài sẽ truyền bá phổ độ nhơn sanh trong
700.000 năm (thất ức niên) thì mới chấm
dứt, chuyển qua một Nguơn Hội khác với một nền tôn giáo khác.
Bài thi của Đức Chí Tôn về Tịch đạo Nam phái nói rõ
điều đó :
Thanh
đạo tam khai thất ức niên,
Thọ
như Địa quyển, thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo
vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Nghĩa là :
- Đạo Cao Đài mở
ra lần thứ 3 kéo dài 700 ngàn
năm,
- Lâu dài như Trái đất, thạnh vượng cùng Trời.
- Đem trở lại cõi Hư Vô các chơn linh của nhơn
sanh,
- Tạo ra từ muôn xưa đàn cúng để soi sáng những
người có duyên với Phật.
Thuở mới
Khai đạo, năm Bính Dần, các vị Tiền bối mở Đạo đã báo cáo với nhà cầm quyền
Pháp lúc bấy giờ, Đạo Cao Đài là Thần Linh Học Việt Nam (Spiritisme
Viêtnamien) cũng gọi là Phật Giáo Chấn
Hưng (Bouddhisme Renové) có thờ Đức Phật Thích Ca và Đức Quan Âm Bồ Tát, để cho
người Pháp tạm hiểu đây là một tôn giáo mới mở ra trong nước Việt Nam đang là
thuộc địa của Pháp và yêu cầu cho tôn giáo nầy được tự do truyền bá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét