Đạo Cao Đài & Các Tôn Giáo Lớn Trên Thế Giới - 11 / 11 (Đức Nguyên)

Từ trước tới nay, Đức Chí Tôn mở ra 3 thời kỳ phổ độ giáo hóa  nhơn sanh :
-  Thời kỳ Phổ Độ thứ 1 gọi là Nhứt Kỳ Phổ Đoä, thuộc thời Thái cổ, Đức Chí Tôn cho các Đấng Phật Tiên giáng trần mở ra các mối Đạo như : Do Thái giáo ở nước Do Thái, đạo Bà-La-Môn ở Ấn Độ, Phật giáo, Tiên giáo, vv. . . Nhứt Kỳ Phổ Độ chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân và một số nhơn loại.
Các nền tôn giáo nầy, sau một thời gian dài
cũng  lần lần suy tàn và thất Chơn truyền.
-  Đức Chí Tôn lại mở lòng Đại từ bi, mở kỳ Phổ Độ thứ 2 gọi là Nhị Kỳ Phổ Đoä, thuộc thời Thượng cổ, gồm các nền tôn giáo : Thiên Chúa giáo ở nước Do Thái và Âu Châu, Phật giáo ở Ấn Độ, Lão giáo và Khổng giáo ở Trung Hoa, Thần đạo ở Nhựt Bổn và Trung Hoa.
Nhị Kỳ Phổ Độ chỉ độ được 2 ức Nguyên nhân và một số lớn nhơn loại.

Các nền tôn giáo nầy trải qua hơn 2500 năm thì cũng bị thất Chơn truyền, suy tàn và bế lại.

-  Đức Chí Tôn Thượng Đế lại mở lòng Đại từ Đại bi, mở đạo lần thứ 3 để cứu vớt  nhơn sanh, gọi là Tam Kỳ Phổ Độä, và cho biết đây là thời kỳ Phổ Độ chót, trước khi nhơn loại bước vào cuộc Phán Xét cuối cùng, để chọn người tài đức vào Hội Long Hoa.

Trong thời kỳ Phổ Độ thứ 3 nầy, Đức Chí Tôn không sai chư Tiên Phật giáng trần mở đạo nữa, mà chính mình Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Cơ bút, trực tiếp mở một nền đạo lớn, gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để cứu vớt  nhơn sanh. Lần nầy, chính mình Đức Chí Tôn sẽ thống nhứt các nền đạo của 2 thời kỳ phổ độ trước, tạo thành một nền Đại Đạo duy nhứt, với một Giáo lý duy nhứt bao hàm tất cả các Giáo lý, dưới sự chưởng quản của Ngài, để nhơn loại  không còn phân biệt nhau về tín ngưỡng mà chia rẽ đánh giết nhau.

9) Ngũ Chi Phục Nhứt :
Các nền tôn giáo thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, tuy số lượng có nhiều, nhưng tựu chung đều nằm trong 5 con đường lớn (Đại Đạo) với 5 cấp tiến hoá đến Thượng Đế. Năm con đường lớn đó gọi là Ngũ Chi Đại Đạo, gồm :
- Phật đạo: có đạo Bà-La-Môn, Phật giáo của Đức Phật Nhiên Đăng, Thích giáo của Đức Phật Thích Ca, Pythagore  giáo.
- Tiên đạo : có Lão giáo, Dương Châu, Mặc Địch. . .
- Thánh đạo : có Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo với 2 Chi phái lớn là đạo Tin Lành, và Chính Thống giáo.
- Thần đạo : có Hy Lạp Phong Thần, Ai Cập Phong Thần, Trung Hoa Phong Thần, Thần đạo Nhựt Bổn.  
- Nhơn đạo : có Nho giáo, Socrate, Platon, . . .

Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ là 2 thời kỳ mà Đức Chí Tôn cho nhiều Đấng Giáo chủ xuống trần mở đạo cứu đời. Đó là thời kỳ “Nhứt bổn tán vạn thù”.

Đến thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn qui các mối đạo về một mối gọi là Ngũ Chi phục nhứt, ấy là thời kỳ “Vạn thù qui nhứt bổn”, và chính mình Đức Chí Tôn làm CHA chưởng quản tất cả. Như vậy, chúng ta thấy, Tam giáo qui nguyên nằm trong Ngũ Chi phục nhứt.

10) Thiên Nhãn, một biểu tượng đại đồng :
Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy vẽ hình Thiên Nhãn để thờ, tức là dạy thờ biểu tượng Con Mắt, tượng trưng Thượng Đế.

Việc thờ biểu tượng nầy có 2 lý do :
- Đức Chí Tôn là Thái Cực, do Hư Vô chi Khí biến sanh, nên Đức Chí Tôn không có hình ảnh chi hết, chỉ vẽ hình Con Mắt tượng trưng để chỉ rằng : Trời cao có mắt, Thượng Đế luôn luôn dòm ngó săn sóc  con cái của Ngài là toàn thể nhơn loại.

- Biểu tượng Con Mắt có ý nghĩa đại đồng. Bất cứ sắc dân nào, dân tộc nào cũng biết vẽ Con Mắt để thờ, và vẽ hình Con Mắt không có tính cách phân biệt chủng tộc, quốc gia, nên có tính cách đại đồng.

Như Phật giáo vẽ hình Đức Phật Thích Ca để thờ, mà Phật Thích Ca là người Ấn Độ; Thiên Chúa giáo tạo hình Đức Chúa Jésus để thờ, mà Chúa Jésus là người Do Thái, Nho giáo thờ Đức Khổng Tử, mà Khổng Tử là người Tàu. Do đó mà còn tính cách phân biệt về dân tộc và quốc gia, là thờ người ngoại quốc.

Vẽ hình Con Mắt để thờ thì tránh được các sự phân biệt kể trên.
Mở Đạo Cao Đài,  Đức Chí Tôn dạy thờ Con Mắt là có ý muốn cho nhơn loại không còn phân biệt nhau về quốc gia hay về chủng tộc, nhìn nhận Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu là 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng, nên toàn cả nhơn loại đều là anh em một nhà, cần phải thương yêu giúp đỡ nhau, tạo nên một xã hội đại đồng huynh đệ.

Dân tộc Việt Nam chỉ là một dân tộc lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn để thực hiện đại đồng trên toàn thế giới .

11) Tiểu Thượng Đế :
Thượng Đế tạo ra con người và ban cho con người tất cả những gì mà Thượng Đế có. Thượng Đế rút ra từ cái vĩ đại huyền diệu của Ngài,  mỗi thứ một điểm nhỏ, ban cho con người, rồi che phủ lên đó một bức màn vô minh, đặt con người ở giữa sự Thiện và sự Ác, giữa Chánh và Tà, giữa sự Yêu và sự Ghét, để con người học hỏi, chứng nghiệm hiểu biết tất cả các thứ bài học từ trược đến thanh mà tiến hóa.

Do đó, con người chính là một Tiểu Thượng Đế.
Tiểu Thượng Đế học hỏi, tiến hóa mãi, qua rất nhiều kiếp, để cuối cùng đi hết các nấc thang tiến hóa, trở về hiệp nhứt cùng Thượng Đế, Tiểu hồn hiệp nhứt Đại hồn.

12)  Mục đích của đời sống con người :
Con người sống nơi cõi trần là để học hỏi và tiến hóa.

Nơi cõi trần  có đủ các thứ bài học, rất đa dạng và phong phú. Học Ác rồi lại học Thiện, học điều Tà rồi học điều Chánh, học điều xấu rồi lại học điều tốt, học cho biết rõ cái tối tăm rồi học qua cái sáng suốt, học bài học vật chất rồi đến bài học tinh thần. vv . . .

Học bài học Ác, thử nghiệm làm Ác, được chấm điểm âm (-), bị thoái hóa, buồn bực khổ sở. Học Ác hoài cũng chán, nên bắt qua học Thiện, làm Thiện, được điểm dương (+) tiến hóa,  cảm thấy vui sướng. Học tất cả các bài học ấy để chứng nghiệm Luật Nhân Quả, và Luật Công Bình thiêng liêng của Tạo Hóa.

Học dần dần, hết bài học nầy thì qua bài học khác, cứ thế mà tiến hóa dần. Đó là sự Tiến hóa theo dòng tự nhiên, nên rất chậm chạp.

Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để thúc giục sự Tiến Hóa cho khẩn trương nhanh chóng thêm, bởi vì sắp đến kỳ thi chung kết để chấm dứt một giai đoạn  tiến hóa của CKVT, tuyển lựa người có đầy đủ phước đức vào Hội Long Hoa, rồi sau đó lại bắt đầu một chu trình tiến hóa  mới ở cấp cao hơn.

Chỉ nơi cõi trần, con người  mới có đủ các loại bài học để học tập, vừa học hỏi lý thuyết, vừa thực hành chứng nghiệm, nên sự tiến hoá đạt được tốc độ nhanh chóng.

Vậy, mục đích của đời sống con người nơi cõi trần  là học tập và tiến hóa. Người nào sáng suốt thì học nhanh và tiến hoá nhanh, người nào bơ thờ thì học chậm,tiến hoá chậm.

Các điều vừa trình bày trên đây chỉ là một số nét lớn của Triết lý Đạo Cao Đài. Học giả muốn tìm hiểu kỹ hơn, chi tiết hơn, sâu hơn, thì phải nghiên cứu Giáo lý của Đạo Cao Đài một cách sâu rộng trong các Thánh ngôn của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng giáng dạy.

Nói rằng, Triết lý của Đạo Cao Đài là gốc của các nền Triết lý trên thế giới từ trước đến nay, là bởi vì nền Triết lý nầy phát xuất trực tiếp từ Thượng Đế, chính Thượng Đế là nguyên lý đầu tiên của tất cả các nguyên lý trong CKVT và vạn vật.

Từ xưa đến nay, con người chưa trực tiếp được với Đấng Thượng Đế, nên  chỉ  hình  dung  Thượng  Đế  theo  chủ quan của trí não phàm trần eo hẹp của mình,  giống như trường hợp những anh mù rờ voi, rồi cãi lý với nhau, ai cũng cho cái nhận biết của mình là đúng và của kẻ khác là sai. Họ có ngờ đâu, tất cả những cái biết đó chỉ là những phần khác nhau của con voi, và tổng hợp tất cả những cái biết đó  mới có thể hình dung đúng được con voi.

Trường phái Triết lý Duy Tâm, trường phái Triết lý Duy Vật, công kích nhau, chống đối nhau, cãi nhau đến muôn đời thì cũng không thể có bên thắng bên bại, vì họ chỉ thấy được một phiến diện của Chơn lý hằng hữu bất biến là Thượng Đế. Họ có biết đâu rằng Thượng Đế gồm cả hai mặt : Duy Tâm lẫn Duy Vật.

Ngày nay, Đấng Thượng Đế giáng trần qua việc sử dụng cơ bút để trực tiếp giảng dạy Giáo lý, Triết lý, Lễ nghi, để nhơn loại thấy rõ Thượng Đế hiện hữu, có thật, là Chơn lý hằng hữu bất biến, chớ không phải là giả thuyết tưởng tượng hay truyền thuyết mơ hồ vô căn cứ.

Đấng Thượng Đế mở đạo kỳ nầy là thể hiện lòng Đại từ Đại bi của một Đấng Đại Từ Phụ, nhìn thấy nhơn loại là con cái thương yêu của Ngài còn nhiều vô minh, trì trệ trên đường học hỏi và tiến hóa, mà kỳ thi chung kết lại gần kề. Ngài hiện diện là để khai phá màn vô minh, để nhơn loại biết Ngài, hướng về Ngài, khẩn trương lo học tập tiến hóa, trong hồng ân của Ngài.

VII . Nhơn Sanh quan của Đạo Cao Đài
Nhơn sanh quan là một hệ thống tư tưởng Triết học xem xét về nguồn gốc của con người, sự sống và sự chết, về mục đích và ý nghĩa của đời sống con người.

 Về Nhân sinh quan, Triết học phân ra 2 nhóm có tư tưởng đối lập nhau :
- Nhơn sinh quan Duy Vật do 2 Triết gia Marx và Engels chủ trương, không công nhận con người có Linh hồn, đưa đến thuyết Cộng Sản Vô Thần.

- Nhân sinh quan Duy Tâm do các Triết gia Socrate, Platon, Hégel, . . . và nhất là các nhà tôn giáo chủ trương, công nhận con người có một Linh hồn bất diệt, đưa đến thuyết Tư bản Tự Do.

Sau đây, chúng tôi xin trình bày Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài.
Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài là một Nhân sinh quan triết học Duy Linh Duy Nhất, vượt lên trên 2 quan niệm Duy Tâm và Duy vật vừa kể trên, mà còn dung hợp được 2 khuynh hướng nầy. Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài sẽ giải đáp một cách minh bạch các vấn đề sau đây :
- Nguồn gốc của loài người. Con người từ đâu tới ?
-  Con người có Linh hồn không ? Linh hồn là gì ?

Khi thể xác chết đi, Linh hồn xuất ra đi về đâu ?
-  Con người đầu thai xuống cõi trần  bằng cách nào ?
- Thượng Đế là ai ?  Sự liên hệ giữa Thượng Đế và con người.
- Mục đích của cuộc sống.
- Thiên đàng và Địa Ngục.

A1 . Nguồn gốc của loài người :
Đạo Cao Đài xác nhận rằng, loài người nguyên thủy có được là do sự tiến hoá của loài khỉ vượn thuộc lớp động vật cao cấp mà thành. Điều nầy được chứng minh bằng Định luật Tiến hóa của chúng sanh và của Bát hồn.

a) Luật Tiến hóa của chúng sanh :
Chúng sanh là các loài sanh vật, tức là các loài vật có sự sống được sanh ra trên mặt Địa cầu nầy, gồm: Vật chất Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

Khởi thủy, quả Địa cầu của chúng ta chỉ là một khối lửa văng ra từ Mặt Trời. Theo thời gian, khối lửa ấy nguội dần, tạo ra một lớp vỏ đất đá bao bọc bên ngoài. Đến lúc nhiệt độ hạ xuống khá thấp, lớp hơi nước được tạo thành bao bọc chung quanh Địa cầu, gây ra những đám mưa lớn rơi xuống, tạo nên các sông ngòi và biển cả.
Nước của biển và sông làm ổn định nhiệt độ của Địa cầu, nên sanh vật bắt đầu  xuất hiện trong nước.

Sanh vật đầu tiên là loài Thảo mộc đơn giản chỉ có một tế bào (đơn bào). Dần dần nó sanh sản thêm bằng cách phân bào, rồi tiến hóa lên thành các loại nấm, rong rêu, tiến hóa tiếp thành cây cỏ, và cây cối. Càng tiến hóa, Thảo mộc càng to lớn, rắn chắc  và phức tạp.

Một thời gian dài tiếp theo, loài động vật bắt đầu  xuất hiện. Động vật đầu tiên xuất hiện trong nước, có cơ cấu đơn giản chỉ một tế bào (đơn bào). Dần dần nó sanh sản và tiến hóa lên thành các loài sứa, loài cá, rồi tiến hóa thành các loài động vật sống trên cạn có chân, tiến hóa lên nữa thành loài thú chạy, thú bay. Loài động vật có trình độ tiến hóa cao nhất là  giả nhân thuộc loài khỉ vượn.

Trong loài khỉ vượn, ở cấp thấp thì chúng có thân hình nhỏ và có đuôi. Chúng tiến hóa lên thành loài khỉ vượn cao cấp gọi là giả nhơn, có thân hình to lớn và không có đuôi.

Một thời gian dài tiếp theo, loài giả nhơn tiến hóa lên thành loài người nguyên thủy. Giả nhơn còn di chuyển bằng 4 chi, tiến hóa lên thành người nguyên thủy chỉ đi bằng 2 chân sau, 2 chi trước trở thành 2 tay để cầm bắt và hái lượm trái cây. Hình vóc cũng  lần lần biến đổi, tướng đi đứng thẳng, lông trên thân thể rụng dần, cái đầu nở to ra, bộ óc lớn hơn.

Chúng ta có thể tóm tắt sự tiến hóa của chúng sanh bằng hình vẽ sau đây, với ký hiệu mũi tên:
- Đầu mũi tên là gốc, là cái đầu.
- Đuôi mũi tên là ngọn , là cái đuôi, là chân.
- Vật chất kim thạch, chưa phân biệt được cái nào là gốc, cái nào là ngọn, cái nào là đầu, cái nào là đuôi.
- Thảo mộc có gốc có ngọn, gốc là đầu mũi tên, ngọn là đuôi mũi tên, được tượng trưng bằng mũi tên chúc xuống thẳng đứng.
- Động vật có đầu và có đuôi ngang nhau, thân mình nằm ngang, được tượng trưng bằng mũi tên nằm ngang.
- Nhơn loại có đầu hướng lên Trời, chân đạp xuống đất, thân hình thẳng đứng, được tượng trưng bằng một mũi tên thẳng đứng hướng lên trên. Như vậy, sự tiến hóa đến phẩm nhơn loại thì đã thuận theo Thiên lý.

Sự trình bày như trên đây là trình tự  Tiến hóa về mặt hình thể, thuộc về vật chất hữu hình.
Sau đây là sự Tiến hóa về mặt khôn ngoan hiểu biết.
- Loài Kim thạch có sự sống chưa thể hiện rõ rệt, nó chỉ là sự liên kết của các tế bào tạo thành tinh thể rắn chắc. Loài kim thạch hoàn toàn không có tri giác.
- Loài Thảo mộc, được Thượng Đế ban cho một điểm nguyên hồn để làm Sanh hồn, tạo nên sự sống. Điểm nguyên hồn nầy được Đấng Thượng Đế rút ra từ khối Đại hồn (Đại Linh Quang) của Ngài.

Loài Thảo mộc chỉ có sự sống mà chưa có tri giác. Loài Thảo mộc ở cấp cao hơn thì lá biết khép lại khi đêm xuống hay khi bị đụng chạm, như cây su đủa, cây mắc cở; vài loại Thảo mộc có những cánh hoa có mùi thơm để dụ côn trùng bay đến rồi khép những cánh hoa ấy lại đặng bắt côn trùng mà hút thịt và máu. Như thế, chúng đã có chút ít tri giác nhưng rất thô sơ, gần như chỉ là những phản xạ tự nhiên.
- Tiến lên là loài Động vật, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm Nguyên hồn nữa để làm Giác hồn, tạo ra sự hiểu biết, như đau đớn biết la, sợ hãi biết chạy trốn, biết đi tìm thức ăn thích hợp, biết tìm chỗ ẩn trú an toàn, biết nuôi con, có chút ít trí nhớ nhưng rất sơ sài.
- Tiến lên đến phẩm Nhơn loại, là đẳng cấp cao nhứt của chúng sanh, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm Nguyên hồn nữa để làm Linh hồn, lúc đó sự hiểu biết  mới được hoàn toàn.
Con người có được sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự phán đoán, biết được lẽ phải trái và có tánh linh.
Đến đây, con người có đủ Tam Hồn : Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.

TÓM TẮT :
“ Luật Tấn hóa của Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại, nó từ từ tăng tiến mãi, nhưng nó cũng có thối hóa vậy.
Các con nghe : Như loài Thảo mộc cũng có thọ nơi Thầy một điểm Nguyên hồn. Nó cũng sống, nhưng trí hóa khờ ngây. Các con coi đó, từ Thảo mộc bắt đầu  lên cho chí loài người, có 3 cái Pháp :
1 . Như Thảo mộc, cái gốc trở xuống, ngọn day lên. (Gốc là đầu, ngọn là chơn).
2 . Rồi nó tấn hóa lên đến bực Thú cầm thì cái đầu với cái đuôi ngang nhau.
3.  Thú cầm qua Nhơn loại thì cái đầu trở lên, cái chơn xuống dưới.

Ấy là 3 Pháp. Vậy từ  Thảo mộc có một phần Hồn.
Thảo mộc tấn hóa mãi, muôn vàn kiếp  mới bước sang qua Thú cầm đã đặng 2 phần Hồn.

Thú cầm  mới dần dần tấn hóa mãi, trăm muôn ngàn kiếp, lên đặng làm Người, thiệt là trăm đắng ngàn cay, muôn thảm vạn sầu, biết bao nhiêu là công phu khổ hạnh, xả thân giúp đời một cách khó khăn cực nhọc,  nhưng  cũng  vui  lòng, mãn kiếp nọ sang kiếp kia, cứ lập công quả mãi. Vàn vàn muôn muôn lần đầu thai  mới qua đặng phẩm bực loài người.

Khi tấn hóa đến loài người thì đã đủ trọn Tam Hồn, Thất Phách.
Những con thú  mới qua làm người thì còn khờ khạo ngu ngây, tánh tình độc hiểm, nếu biết khôn xá thân giúp đời thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng đặng minh mẫn khôn ngoan. “ (ĐTCG. 115)

b) Luật Tiến hóa của Bát hồn :
Tất cả Chơn linh trong CKVT, gọi là Vạn linh, được chia làm 8 bực tiến hóa cao thấp khác nhau, gọi là Bát hồn hay Bát phẩm Chơn hồn, kể từ thấp tiến hóa dần lên cao :
1 . Kim thạch hồn.                   5 . Thần hồn.
2 . Thảo mộc hồn.                    6 . Thánh hồn.
3 . Thú cầm hồn.                      7 . Tiên hồn.
4 . Nhơn hồn.                           8 . Phật hồn.

- Sự Tiến hóa trong giai đoạn đầu từ Kim thạch hồn lên đến Nhơn hồn là sự Tiến hóa tự nhiên, do sự thúc đẩy của Luật Tiến hóa của Thượng Đế, và sự tiến hoá đi lên dần dần theo từng cấp bực, không có sự nhảy cấp và cũng không có sự thoái cấp.
- Sự Tiến hóa trong giai đoạn  tiếp theo, từ Nhơn hồn lên đến Phật hồn là do sự tu luyện của Nhơn hồn, nên Nhơn hồn có thể tiến hóa rất nhanh, một kiếp tu có thể vượt lên 3 hay 4 cấp, để đến Phật hồn; nhưng cũng có thể thoái hóa xuống loài  Cầm thú khi Nhơn hồn không tu mà lại phạm vào tội đại ác.

*  Con người nhờ có trí não khôn ngoan hiểu biết, phân biệt được điều hay lẽ dở, thiện ác, chánh tà, có lương tâm kềm chế, có lục dục thất tình xúi giục. Nếu biết bỏ ác theo lành, cải tà qui chánh, chế ngự lục dục thất tình và chuyển hóa chúng theo đường Thiên lý thì con người sẽ tiến hóa đi lên, tùy theo công đức nhiều ít mà đạt được các phẩm : Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

*  Nếu ngược lại, con người bỏ chánh theo tà, bỏ lành làm ác, đi theo vật dục thấp hèn, thì Nhơn hồn sẽ bị thoái hóa xuống loài Cầm thú, mang lông đội sừng mà đền tội lỗi.

Sự Tiến hóa đi lên của Nhơn hồn, khi đã đến Phật hồn rồi thì chưa phải là đến mức tối cao của nấc thang tiến hóa. Phật hồn còn phải tiếp tục tu luyện để tiến hóa lên mức tận cùng tối cao là Thiên hồn, tức là Đại hồn của Thượng Đế.

Tới đây  mới giáp một chu trình tiến hóa của của Vạn linh, bởi vì Vạn linh xuất phát từ  Thiên hồn (Đại Hồn, Đại Linh Quang, Thái Cực), đi chu du một vòng tiến hóa, trải qua Bát hồn, nay trở về hiệp nhập vào Đại hồn của Thượng Đế là đúng một chu trình tiến hóa.

Đức Cao Thượng Phẩm có giáng cơ giảng giải về sự tiến hóa của Bát hồn, trong Luật Tam Thể, trích ra như sau :
“ Từ lúc Hỗn Độn sơ khai, Âm Dương biến hóa, trong Khí Hư Vô đã sẵn các tế bào. Sau tiếng nổ, Âm Dương phân tách : Khí Dương quang là khí nhẹ nhàng bay lên trên, còn khí Âm quang là khí chất chứa các tế bào nên lóng xuống dưới.
- Sau một Chuyển, các chất khí trên liên đới với tế bào mà tụ lại thành chất khí và biến thành vạn vật. Khi chưa thành hình thể hữu vi, thì chất khí vẫn là một cục lửa do khí Dương quang đốt cháy, sau đó, nơi Diêu Trì Cung thâu Thập nhị Địa Chi mà biến khí Dương quang và chất khí làm Ngũ Hành. Vậy cho nên, Đất, Nước, Sắt, Đá, và Lửa được nẩy sanh trước hết, đó là Kim thạch hồn.
- Sau một Chuyển nữa, Nước, Đất, Đá, Lửa và Sắt  mới tiêu ra một chất khí và liên đới với các tế bào lại mà tạo nên cây cỏ, đó là Thảo mộc hồn.
- Sau một Chuyển nữa, các cây cỏ chia tế bào mà liên đới với Ngũ Hành tạo nên Bách Thú, trong đó phần ở khô gọi là Điểu thú, còn phần ở nước gọi là Ngư thú, đó là Thú cầm hồn. Cầm thú đều là Bách thú.
- Sau một Chuyển nữa, Ngũ Hành hiệp với Thảo mộc mà nuôi Thú cầm. Trong Thú cầm, chơn hồn đã bước vào Cơ Tấn hóa, do đó tạo nên Thỉ Tổ loài người là La Hầu, tức là người khỉ  đó.

La Hầu lần lần sanh hóa và nhờ điểm Linh quang của Chí Tôn mà lần đến loài người như hiện giờ, đó là Nhơn hồn”
“ Nhơn hồn nào được trọn Trung, ấy đã vào Thần vị.
Biết được nghĩa chánh, bồi bổ đạo Nhơn luân, tức là Thánh vị. Đến Thánh hồn thì tự nhiên phải thông suốt phần Thế Đạo đó vậy. Trong phần Thế Đạo mà tạo được Bí pháp đặng bước qua mặt Thể pháp Thiên Đạo, tức là Tiên vị.

Đã lập được Thể pháp Thiên Đạo mà tầm nên Bí pháp Thiên Đạo, tức là đắc pháp, ấy là Phật vị.”
Như vậy, theo lời dạy của Đức Cao Thượng Phẩm, La Hầu tiến hóa lên phẩm người thành Thỉ Tổ loài người. Điều nầy rất phù hợp với sự khám phá của các nhà khoa học và khảo cổ với chứng tích là các bộ xương hóa thạch của vượn-người, rồi người-vượn, và tiến hóa thành người nguyên thỉ.

Nhiều người phủ nhận nguồn gốc con người là sự tiến hóa từ  La Hầu, cho rằng như vậy là hạ thấp phẩm giá của con người, nhưng đây là sự thật đúng theo luật Tiến hóa của Càn Khôn, đúng theo Luật Tiến Hóa của Bát Hồn. Đức Phật Thích Ca, Giáo chủ Phật giáo, cho biết rằng Ngài có những tiền kiếp là Thú cầm như : Voi, thỏ, nhạn, rắn, nai, quạ, sư tử, khổng tước, rùa, rận, ngựa, cá ông, nhĩ hầu, vv . . . 

c) Con người từ đâu tới ? Ba hạng người :
Nhơn loại được chia làm 3 hạng người, căn cứ theo nguồn gốc : Đó là Nguyên nhơn, Hóa nhơn, Quỉ nhơn.

1 . Hoá nhơn : Hóa nhơn là những người do sự tiến hóa đi lên từ loài Thú cầm. Đa số trong nhơn loại đều là Hóa nhơn. Tuy Hóa nhơn có đủ Tam Hồn, nhưng ý thức còn rất ngu khờ, lại  mới thoát thai từ loài Cầm thú, nên tánh tình còn hung dữ thô lỗ, hình dáng còn thô kệch xấu xí, chưa đủ khôn ngoan và kinh nghiệm để xây dựng một đời sống tiện nghi tốt đẹp.

Đó là loài người nguyên thủy, còn trong tình trạng ăn lông ở lỗ. Thời gian nầy kéo dài khá lâu.
Thượng Đế thấy vậy mới cho các  Nguyên nhơn khôn ngoan và tốt đẹp giáng trần để khai hóa các Hóa nhơn.

2 . Nguyên nhơn : Chơn linh của các Nguyên nhơn được Thượng Đế sanh ra từ lúc Khai Thiên. Thượng Đế cho các Nguyên nhơn đầu kiếp xuống trần, nhập vào bào thai của các Nữ Hóa nhơn, sanh ra làm người, gọi là Nguyên nhơn.

Các Nguyên nhơn lớn lên có hình dáng tốt đẹp, giữ được Thiên tánh, chưa nhiễm trược trần, trí  não  thông  minh sáng suốt, đứng ra lãnh đạo và giáo hóa các Hóa nhơn cho được hiểu biết, tiến bộ, thoát khỏi đời sống dã man ăn lông ở lỗ, xây dựng một xã hội trật tự  tiến bộ.

Theo sử sách xưa để lại, chúng ta biết :
- Hữu Sào dạy dân kết cây làm tổ để ở, tránh nguy hiểm do thú dữ gây ra.
- Toại Nhân dạy dân khoan cây lấy lửa, dùng lửa nấu chín thức ăn.
- Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến làm lụng, chế ra lưới để bắt cá bắt chim, chế đàn cầm đàn sắt để dạy dân lễ nghĩa, qui định phép gả cưới để tạo thành gia tộc, chế ra Bát Quái để chỉ cái lẽ Âm Dương biến hóa của Trời Đất cho dân biết thuận tùng Thiên lý.
- Thần Nông dạy dân làm cày bừa, phát triển nghề nông, gieo trống Ngũ cốc, tổ chức chợ búa để dân hội họp trao đổi hàng hóa, chế ra lịch để dân biết năm tháng mà gieo cấy, nếm thử các thứ cây cỏ để chế thuốc trị bệnh cho dân.
- Huỳnh Đế (Hoàng Đế) chế ra xe thuyền để đi lại và vận chuyển hàng hóa, chế ra áo mão để phân định tôn ti trật tự, chế ra văn tự để ghi chép.

Những vị vừa kể trên chỉ là những điển hình của các Nguyên nhơn có công lao giáo hóa dân chúng, đem lại nhiều lợi ích cho nhơn sanh, nên được nhơn sanh tôn lên làm vua.

Theo Thánh giáo thì có tất cả 100 ức Nguyên nhơn giáng trần ở khắp nơi, trong đủ các sắc dân nơi cõi trần . Đã có 8 ức Nguyên nhơn làm xong nhiệm vụ, giữ được bổn tánh thiên lương, nên đã trở về cùng Đức Chí Tôn, còn lại 92 ức Nguyên nhơn bị nhiễm nhiều thứ ô trược nên vẫn còn trầm luân nơi cõi trần. (1 ức = 100 ngàn;  92 ức  =  9 triệu 200 ngàn)

3 . Quỉ nhơn : Những Hóa nhơn và những Nguyên nhơn  ác hành, vi phạm Thiên điều, linh hồn bị đọa vào Quỉ vị, thành ra các Quỉ hồn. Các Quỉ hồn đầu kiếp lên làm người nơi cõi trần  để trả quả và được gọi là Quỉ nhơn.

Vậy, nhơn loại trên Địa cầu nầy đến với 2 nguồn gốc :
- Một là từ Thú cầm tiến hóa lên phẩm Người, gọi là Hóa nhơn, đó là người nguyên thủy, Thủy tổ của loài người.
- Hai là từ cõi Trời, được Thượng Đế cho giáng sanh xuống làm người nơi cõi trần, gọi là Nguyên nhơn.

Phần lớn trong nhơn loại đều là Hóa nhơn. Số Nguyên nhơn hiện nay còn lại nơi cõi trần là 92 ức tức là 9.200.000 người. Số  Quỉ  nhơn trong nhơn loại cũng khá nhiều, vì đây là thời Mạt Kiếp sắp chấm dứt để bước vào Đại Hội Long Hoa, nên Đức Chí Tôn cho tất cả các Quỉ hồn đầu kiếp để thực hiện sự trả quả gấp rút và rốt ráo.

A2 . Con người có linh hồn không ?
Ba Thể của con người :
“Cái tình cảm hóa của con người là tình thường ứng hiệp với Trời Đất, cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi  u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn, ấy là kẻ có sẵn tình  ý thiên nhiên tạo hóa.

Còn một hạng người cũng có tánh thiêng liêng ấy, nhưng không để trí thông minh vào lối cao thượng, mà cứ quen thói hung hăng, nghĩ những việc bạo tàn, làm  những  điều  tội

lỗi, ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết luân hồi chi cả. Chúng nó lại tưởng rằng, kiếp người  là kiếp sống chỉ  có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho được của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân hồi.

Thầy hỏi : Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn, mà toàn trong nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu ? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con ?

Thầy hỏi như vậy đặng cho các con  mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình. Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Đạo, còn ngu xuẩn thì cũng huờn ngu xuẩn.” (TNHT. I.101)

Con người khi  mới được sanh ra,hài nhi biết tìm vú mẹ để bảo tồn sự sống, khi đau biết khóc, khi đói biết la, khi khát biết uống; lớn lên một chút thì khi vui biết cười, khi giận biết la hét. Cái hiểu biết tự nhiên đó, không ai dạy mà biết, là do linh hồn của đứa bé mà Thượng Đế đã ban cho. Nếu phủ nhận linh hồn thì cái hiểu biết tự nhiên đó do đâu mà có ?

Khi lớn lên hơn nữa, đứa trẻ nhờ sự thông minh sáng suốt mà biết được lẽ phải quấy, lẽ thiện ác; khi làm điều thiện thì nó vui vẻ, khi làm điều ác thì nó bị lương tâm cắn rứt. Cái lương tâm ấy do đâu mà có ? Nó chính là sự thể hiện của linh hồn đứa trẻ, và cái sự thông minh sáng suốt ấy cũng là do linh hồn của nó mà ra.

Khi đứa trẻ vào trường, học những điều khôn ngoan của người xưa truyền lại, nhờ có trí nhớ, nó thu thập được các điều đó để trở nên khôn ngoan hiểu biết thêm, trí não mở mang. Cái hiểu biết do học tập mà có là của trí não, thuộc về Chơn thần, một thể trung gian giữa Thể xác và Linh hồn.

Mặt khác, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy bằng cách dùng huyền diệu cơ bút để thông công giữa Ngài và nhơn loại ở thế giới hữu hình.

Ngài muốn cho nhơn loại thấy rằng,  ngoài  thế  giới vật chất hữu hình, còn có một thế giới  siêu tuyệt hơn, thuộc về vô hình của các Đấng Thần Thánh Tiên Phật.

Hiện tượng Thông Linh học đã được nhơn loại khám phá từ  giữa thế kỷ 19 với việc xây bàn nói chuyện với các Vong linh người chết của Văn Hào Victor Hugo tại đảo Jersey của nước Anh.

Ở Việt Nam, trong giới bình dân, người ta biết dùng một mảnh ván hòm nhỏ để xây cơ ma, nói chuyện với các Vong linh người đã chết. Việc làm nầy rất dễ dàng, ai nghi ngờ không có Linh hồn,  đều có thể thử nghiệm được.

Nhưng một số người vẫn ngoan cố nói rằng Linh hồn ở đâu mà họ không thấy ?

Vậy, chúng ta cũng hỏi rằng : Chúng ta có thấy được nguyên tử không ? Có thấy được con vi khuẩn không ? Chắc là chưa ai thấy được, nhưng chúng ta tin chắc rằng có nguyên tử, có vi khuẩn, bởi vì các nhà bác học đã nghiên cứu tìm ra được nó, với những hệ quả rõ rệt của nó và công bố lên cho mọi người đều biết.

Tương tự như thế, vấn đề Linh hồn cũng không ai thấy được, nhưng các nhà khoa học về Thông Linh đã nghiên cứu phát hiện ra với các hệ quả rõ rệt, và các nhà tu luyện có huệ nhãn cũng đã nhận biết được, nên công bố lên cho mọi người đều biết, thì đương nhiên chúng ta phải tin đó là sự thật.

Trong Giáo lý của Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy chúng ta biết rằng, con người có 3 Thể :
- Thể xác, thuộc về vật chất hữu hình.
- Linh hồn, thuộc về vô vi vô hình.
- Chơn thần, thuộc về bán hữu hình, làm trung gian cho Linh hồn và Thể xác.

1 . Thể xác : Đệ nhứt Xác thân, Xác thân phàm.
Thể xác con người được gọi là Đệ nhứt Xác thân, hay Xác thân phàm, do tinh huyết của cha mẹ phàm trần tạo nên, lớn lên và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất. Đến khi già nua, tế bào không còn hoạt động được nữa thì chết, thể xác thúi rã biến thành vật chất trở lại.

Như thế, Thể xác phàm không bền, chỉ sống được một khoảng thời gian rồi chết, nên gọi đó là Giả thân, Xác thân giả tạm.

Phật giáo cho rằng, xác thân phàm do Tứ đại giả hiệp, nên nó là huyễn, chỉ tồn tại một thời gian rồi phải rã tan để trở về cát bụi.

2 . Chơn thần : Đệ nhị Xác thân, Xác thân thiêng liêng.
“Chơn thần là gì ? Là Nhị Xác thân (Périsprit), là Xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm níu kéo.

Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật, là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu, khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy  mới đặng phép đến trước mặt Thầy. “ (TNHT. I. 6)

“ Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có 2 xác thân : Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng. . . . .

Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như  khuôn in rập.” (TNHT. I. 29)
“ Thầy nói : Cái Chơn thần là Nhị xác thân các con, là khí chất (Sperme évaporé), nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy, nơi trung tim của nó là óc, nơi xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là Vi Hộ.” (TNHT. I. 85)
“ Nơi Ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang, đài ấy thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên Chơn thần cho vạn linh trong CKVT.” (Bát Nương giáng cơ trong Luật Tam Thể).

Cái Chơn thần của mỗi người có được là do Đức Phật Mẫu lấy 2 nguyên khí Âm quang và Dương quang kết hợp tạo thành. Còn lằn  Sanh quang của Thái Cực là Điểm Linh quang của Đức Chí Tôn.

Đức Phật Mẫu thâu Điểm Linh quang nầy làm Linh hồn, rồi tạo ra một Chơn thần tức là Xác thân thiêng liêng bao bọc Linh hồn, tạo thành một con người nơi cõi thiêng liêng.

Khi một người nơi cõi thiêng liêng được phép đầu kiếp xuống cõi trần thì Chơn thần và Linh hồn đi xuống nhập vào hình hài đứa bé vừa lọt khỏi lòng mẹ, làm cho đứa bé giựt mình phát ra tiếng khóc chào đời. Chơn thần sẽ làm khuôn viên cho thể xác đứa bé lớn lên, còn Linh hồn tạo ra sự hiểu biết và bảo tồn sự sống cho đứa bé.

Do đó, hình ảnh của thể xác đứa bé là hình ảnh của Chơn thần đứa bé, từ khi ấu thơ đến khi trưởng thành hay đến lúc già.

Khi Thể xác chết đi thì Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi Thể xác, bay trở về cõi thiêng liêng. Chơn thần mang lấy hình ảnh của Thể xác như  khuôn  in  rập.

Cái Chơn thần của người chết có khi hiện hình cho người phàm thấy được, thường gọi đó là Ma hay Hồn Ma, khi thì biến mất, nên Chơn thần thuộc về bán hữu hình, nghĩa là có thể thấy được và có thể không thấy được.

Chơn thần được Đức Phật Mẫu tạo ra bằng 2 nguyên khí Âm quang và Dương quang, nên Chơn thần có thể đi xuyên qua vật chất, không có gì cản trở được nó. Ánh sáng còn có thể bị vật chất cản trở, nhưng Chơn thần thì giống như từ trường, đi xuyên suốt qua vật chất dễ dàng.

Đối với người sống, Chơn thần  ẩn trong Thể xác phàm, trung tâm của nó là óc, là não bộ, và cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, tức là Nê Huờn Cung.

Chơn thần liên hệ với Thể xác qua 7 dòng từ điện. Chơn thần ra lịnh điều khiển thể xác qua 7 dòng từ điện nầy, thể xác đòi hỏi Chơn thần làm cho nó thỏa mãn cũng qua 7 dòng từ điện nầy, do đó mà tạo ra nhiều mối oan nghiệt, nên 7 dòng điện từ  nầy được gọi là 7 Dây Oan Nghiệt.

Đức Chí Tôn ban cho Phép Đoạn Căn là để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt nầy, để cho Thể xác không còn kéo níu Chơn thần thì Chơn thần  mới có thể bứt ra, lìa khỏi Thể xác mà trở về cõi thiêng liêng.

3 . Chơn linh : Linh hồn, Điểm Linh quang.
“ Thầy đã nói ra, nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều  cho một Chơn linh gìn giữ cái Chơn mạng sanh tồn.

Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng : Đấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét. Bởi vậy, một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, cái Chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi  Lương tâm là đó .” (TNHT. II. 66)

“ Các con đừng vì tư lợi mà làm mất nhơn cách thì rất uổng cái Điểm Linh quang của Thầy để vào Xác thân của các con lắm. Các con nghe à ! “ (TNHT. I. 102)

Chơn linh, tức là Linh hồn, là Điểm Linh quang của Đức Chí Tôn Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài để ban cho  mỗi người, có nhiệm vụ tạo nên sự sống, gìn giữ sự sống, tạo nên sự hiểu biết và tánh linh.

Con người có đủ Tam Hồn : Sanh Hồn, Giác Hồn, Linh Hồn. Cái Linh Hồn ấy  mới là quan trọng hơn cả, vì nhờ nó mà phân biệt con người với Thú cầm.

Chơn linh hay Linh hồn, ngự trong Chơn thần, Chơn thần thì ở trong Xác phàm và rập khuôn theo Xác phàm.

Đối với một người đang sống nơi cõi trần, Chơn linh ngự tại Trái Tim, bởi vì Trái tim là nơi điều hành và ban phát sự sống cho toàn cơ thể. Do đó, Chơn linh được gọi là Lương tâm, Phật giáo gọi Chơn linh là Tâm, cũng do đó.

Khi Chơn linh và Chơn thần xuất ra khỏi Thể xác thì Trái tim ngưng đập, Thể xác chết.

Khi đó, Chơn thần và Chơn linh bay trở về cõi thiêng liêng, trở thành một người nơi cõi thiêng liêng.

Vậy, một người nơi cõi thiêng liêng chỉ có 2 thể :
- Một là Chơn thần, tức là Xác thân thiêng liêng.
- Hai là Chơn linh, ngự trong Chơn thần để điều khiển Chơn thần.

Còn đối với một người sống nơi cõi phàm trần thì có, ngoài 2 thể trên, còn một thể nữa là : Xác thân phàm.

Vậy một người nơi cõi trần  có 3 thể :
- Thể xác phàm, Đệ nhứt xác thân, do cha mẹ phàm trần sanh ra, được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất.
- Chơn thần, Đệ nhị xác  thân,  Xác  thân  thiêng  liêng
do Đức Phật Mẫu tạo nên. Do đó, Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu, là Mẹ Chơn thần của toàn nhơn loại.
- Chơn linh, Linh hồn, Điểm Linh quang, do Đức Chí Tôn ban cho để tạo sự sống, sự khôn ngoan hiểu biết. Do đó, Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, là Cha Chơn linh của nhơn loại.

Chơn linh ngự trị trong Chơn thần, Chơn thần ẩn trong Thể xác và làm khuôn cho Thể xác.
Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển Thể xác qua 7 dòng điện từ gọi là 7 Dây Oan nghiệt. Thể xác thường hay đòi hỏi Chơn thần làm cho nó thỏa mãn, và xúi giục Chơn thần đi vào đường vật chất, cũng do theo 7 Dây Oan nghiệt nầy.

Chơn linh thường ngăn chận Chơn thần không nên chiều theo các đòi hỏi của Thể xác, phải kềm chế và điều khiển Thể xác; nhưng nếu Chơn linh yếu đuối không đủ sức kềm chế Chơn thần, để Chơn thần nghe theo Thể xác, lúc đó, con người đi vào đường vật dục tội lỗi. Khi Thể xác chết, Chơn linh và Chơn thần sẽ bị đày đọa theo Luật Nhân Quả.

A3 . Con người khi chết đi về đâu ?
Như phần A2 vừa trình bày, con người chết không phải là hết, chỉ có Thể xác  chết đi, còn Linh hồn và Chơn thần thì bất tiêu bất diệt, xuất ra khỏi Thể xác và trở về cõi thiêng liêng, vì nơi đây là cõi chơn thật của Linh hồn.

Để giải đáp vấn đề : Con người khi chết đi về đâu ? Chúng ta phân ra làm 3 trường hợp với 3 nhóm người :
- Người không có tín ngưỡng tôn giáo.
- Người tín đồ Cao Đài giữ đúng lời Minh Thệ và Luật Đạo.
-  Người tín đồ của các tôn giáo khác.

1 . Đối với người không tín ngưỡng :
Trong TNHT, Đức Chí Tôn dạy như sau :
TNHT.I. 74-75 : “ Các con đã sanh tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi : Các con chết rồi, các con ra thế nào ? Các con đi đâu ? Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy.

Thầy dạy : Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong Vật chất mà ra Thảo mộc, từ Thảo mộc đến Thú cầm, loài người, phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn phẩm.

Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá  mỗi hạng. Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu nầy, chưa đặng vào hạng chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu, Tam thiên Thế giới  thì  mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu  mới vào đặng Tam thập lục Thiên; vào Tam thập lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới đặng đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi đạo Phật  gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.  . . .

Vậy Thầy lại dặn các con : Nếu kẻ không tu, làm đủ bổn phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy.

Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.

Mà hại thay ! Mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy. Vậy Thầy dặn : Đạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.”

Những người không có tín ngưỡng tôn giáo, khi chết đi, Linh hồn và Chơn thần chưa thể xuất ra khỏi Thể xác được vì bị 7 Dây Oan nghiệt ràng buộc níu kéo, phải chờ đợi một thời gian cho thể xác tan rã, Chơn thần mới bứt rời các sợi Dây Oan nghiệt, để cùng Linh hồn bay lên cõi Trung giới. Tại đây có Minh Cảnh Đài hay Đài Chiếu Giám để cho Linh hồn và Chơn thần nhìn vào tấm kiếng, xem lại tất cả các hành vi và lời nói của mình trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, để định rõ ràng tội và phước, có cây Cân Công bình thiêng liêng và các Đấng cân phân tội phước cho  mỗi Linh hồn.

- Nếu phước nhiều tội ít thì được chuyển kiếp lần lượt theo các nấc thang tiến hóa mà Đấng Thượng Đế đã dạy trong bài Thánh ngôn nêu trên, tức là tiến hóa theo Thất thập nhị Địa, lên Tam thiên Thế giới, rồi  Tam thập lục Thiên, vv . . . . .

- Nếu phước ít tội nhiều thì Chơn thần và Linh hồn được đưa đến cõi Âm Quang để tịnh tâm xét mình, thấy được các tội lỗi mà mình  đã làm để ăn năn sám hối.

Cõi Âm Quang là cõi mới được lập ra trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để thay thế cõi Địa ngục, bởi vì cõi Địa ngục trước đây là nơi giam giữ và hành phạt các tội hồn, nay  Đức Chí Tôn  thể lòng từ bi ra lịnh đóng Địa ngục, ân xá các tội hồn, không cho hành phạt các tội hồn nữa, mà được đưa đến cõi Âm Quang để học đạo. Nơi đây, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các Nữ tội hồn. (Xem phần sau : Cõi Âm Quang).

Những tín đồ Cao Đài thất thệ, không giữ tròn Luật Đạo, hoặc những tín đồ của các tôn giáo khác mà không giữ được giới luật tu hành thì cũng được đưa đến cõi Âm Quang để học đạo, tịnh tâm xét mình. Khi đã biết ăn năn sám hối, các Đấng sẽ cho đầu kiếp trở lại cõi trần để trả quả và cũng để lo tu hành, lập công bồi đức mà trừ bớt tội lỗi.

2 . Đối với các tín đồ Cao Đài :
Đối với các tín đồ Cao Đài giữ tròn lời Minh Thệ, gìn giữ Luật Đạo, ăn chay được 10 ngày mỗi tháng, sau khi chết, Linh hồn và Chơn thần được hưởng ơn huệ của Đức Chí Tôn trong Đại Ân Xá kỳ 3 nầy.                   

Linh hồn và Chơn thần hưởng được các Phép Bí tích : Phép xác, và Phép Đoạn căn cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt. Do đó, Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi Thể xác dễ dàng, được hướng dẫn đi vào Cửu Trùng Thiên, từ từng Trời thứ nhứt lên đến từng Trời thứ 9, do Cửu vị Tiên Nương DTC hướng dẫn đưa đi, đúng  y theo 9 Bài kinh Tuần Cửu. Ở  mỗi từng Trời đều có các Đấng thiêng liêng đón tiếp, giảng giải Đạo lý.

Khi đến từng Trời thứ 9 là Tạo Hóa Thiên thì được vào Diêu Trì Cung bái kiến Bà MẸ thiêng liêng, Đức Phật Mẫu.

Đến Tiểu Tường thì Chơn thần và Linh hồn được đưa lên từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, vào Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn, rồi đến Tòa Tam Giáo thiêng liêng để cây Cân Công bình thiêng liêng cân tội phước. Nếu phước đức nhiều thì được Đức Chí Tôn ban cho phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương  xứng, nếu tội nhiều thì cầu xin Đức Chí Tôn cứu vớt để ở lại cõi thiêng liêng tu luyện thêm, hoặc cho tái kiếp xuống trần để trả cho xong nghiệp quả.

TNHT.II.92 : “ Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.”

3 . Đối với tín đồ các tôn giáo khác :
Đối với các tín đồ của các tôn giáo khác thuộc Nhị Kỳ Phổ Độ, con đường tiến hóa do các vị Giáo chủ thời đó đặt ra nay đã bị bế lại, vì đã chuyển qua thời  Tam Kỳ Phổ Độ.

Đối với các tín đồ nầy, họ sẽ đi theo con đường tiến hóa qua Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới. Công đức tu hành của họ đạt được mức nào thì họ sẽ được đưa thẳng lên đẳng cấp tiến hóa tương  xứng. Vì họ có công tu luyện nên họ được vượt cấp tiến hóa, chớ không phải đi từ từ lên từng cấp bực như những người không tín ngưỡng tu hành.

Tóm lại,  dù Linh hồn đi theo con đường tiến hóa nào, qua Cửu Trùng Thiên hay qua Thất thập nhị Địa, điểm cốt yếu vẫn là công đức lập được trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, chính cái công đức nầy mới định đoạt phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật cho Linh hồn. Các Linh hồn tội lỗi chất chồng, dù đi trên đường tiến hóa nào, dù có được cầu siêu bao nhiêu lần đi nữa, dù có được làm đám tang lớn lao, và ngôi mộ xinh đẹp to lớn bao nhiêu đi nữa, rốt cuộc cũng phải đến cõi Âm Quang mà thôi.

 Chỉ có việc tu hành, trau tâm sửa tánh, lập đức bồi công, thì  mới có thể vượt đẳng cấp tiến hóa, sớm trở về cùng Đức Chí Tôn. Đặc biệt trong thời Đại Ân Xá kỳ ba nầy, Đức Chí Tôn cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Đức Chí Tôn đặng.

A4 . Đầu thai và Chuyển kiếp :
1) Sự giáng trần của các Nguyên nhơn :
Một điểm Nguyên hồn do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại hồn  của Ngài, chưa phải là một Nguyên nhơn, vì chưa có xác thân thiêng liêng (chơn thần). Điểm Nguyên hồn nầy phải

được Đức Phật Mẫu thâu nhận, rồi Phật Mẫu dùng 2 nguyên khí Âm quang và Dương quang tạo ra cho nó một Xác thân thiêng liêng, bao bọc Nguyên hồn thì  mới trở thành một Nguyên nhơn nơi cõi thiêng liêng.

Như thế, một Nguyên nhơn nơi cõi thiêng liêng phải có 2 thể : Linh hồn và Chơn thần (Xác thân thiêng liêng).

Khi Nguyên nhơn được lịnh giáng sanh xuống cõi trần, Nguyên nhơn được hướng dẫn đi xuống, qua các từng Trời thấp dần. Ở  mỗi cõi, Nguyên nhơn dùng tinh khí của cõi đó làm một lớp bao bọc thêm bên ngoài Chơn thần để Chơn thần nặng hơn thì  mới đi tiếp xuống các cõi thấp hơn được.

Khi đến cõi trần, Nguyên nhơn sẽ đến với một bà mẹ đang mang thai và chờ đợi ở đó. Sự đến của Nguyên  nhơn  với bà mẹ theo luật hấp dẫn  Đồng Khí tương cầu, nghĩa là bà mẹ đạo đức thì mới hấp dẫn được các Chơn linh đạo đức.

Khi bà mẹ vừa sanh hài nhi lọt khỏi lòng mẹ, Linh hồn và Chơn thần của Nguyên nhơn liền nhập vào thể xác hài nhi, làm cho hài nhi rung động mạnh, phát ra tiếng khóc và bắt đầu  hít thở không khí. Chơn thần sẽ làm khuôn viên định hình hài cho đứa bé, và cùng lớn lên với hình hài ấy, còn Linh hồn thì tạo sự sống cho hài nhi, và những hiểu biết để hài nhi bảo tồn sự sống.

2) Chuyển kiếp đầu thai :
Một người nơi cõi trần, khi Thể xác chết thì Linh hồn và Chơn thần xuất ra, rời bỏ Thể xác, đi trở về cõi thiêng liêng, nơi đây, Linh hồn và Chơn thần được xem xét tội phước và định phận.

Nếu được cho chuyển kiếp đầu thai trở lại cõi trần  thì diễn tiến như sau :
Trước hết, các vị Phật nơi từng Trời Tạo Hóa Thiên như : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, vv . . . lãnh nhiệm vụ nơi Đức Phật Mẫu, dùng Chơn thần cũ của người đó làm chất liệu để nắn đúc ra một Chơn thần mới với hình ảnh tốt đẹp hay xấu xí tùy theo nghiệp lực của Chơn thần cũ và trình độ tiến hóa của Linh hồn. Nếu Linh hồn đã tiến hóa cao thì hình ảnh của Chơn thần tốt đẹp, trái lại, nếu Linh hồn kém tiến hóa thì hình ảnh của Chơn thần thô kệch xấu xí.

Chúng ta lưu ý rằng, Chơn linh hay Linh hồn chỉ là một Điểm Linh quang nên không thay đổi, còn Chơn thần thì có hình ảnh thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của Linh hồn.

Linh hồn và Chơn thần mới được đưa xuống cõi trần, đến với một bà mẹ đang mang thai theo luật hấp dẫn đồng khí tương cầu. Khi hài nhi vừa được sanh ra khỏi lòng mẹ, Linh hồn và Chơn thần mới liền nhập vào thể xác hài nhi qua cái cửa Nê Huờn Cung, nơi mỏ ác, làm cho thể xác của hài nhi rung động, bật ra tiếng khóc, bắt đầu  hít thở không khí, và cũng bắt đầu  một kiếp sống  mới nơi cõi trần . Kể từ đó, Thể xác, Chơn thần và Linh hồn đứa bé có đời sống độc lập đối với bà mẹ và lớn lên dưới sự  điều khiển của Linh hồn.

Trong Thuyết đạo, Đức Phạm Hộ Pháp giảng về Bí Pháp, có nói :
“ Con dương trùng (tinh trùng) của cha nhập vô ôm khít với âm trùng (noãn châu) của mẹ, dương trùng của cha tạo biến hình hài xương cốt chúng ta, còn âm trùng của mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy. Hai con vi trùng ấy ôm khít lại với nhau thành tượng biến hình hài.

Hai cái tinh trùng hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh trùng đơn sơ, khi nhập vào, 2 con làm thành một.

Buổi tượng hình chúng ta thì Chơn thần của chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của chúng ta. Nó vơ vẩn hoặc là quanh theo bà mẹ, ở dựa bên, nhứt là bà mẹ đi nơi nào, nó

đều theo nơi đó. Chơn thần theo người mẹ có chửa. Nếu người mẹ có đạo đức, dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến thiệt hại. Bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà mẹ,  Chơn thần ấy  mới nhập vô ảnh hài đó, làm khuôn viên cho ảnh hài đó.”

“Ngộ nghĩnh thay, nếu chúng ta ngó thấy tinh thần chúng ta đầy đủ đạo đức chừng nào thì Chơn thần ảnh hài càng ngày càng đẹp, càng tăng tiến.”

Một vấn đề đặt ra là khi đứa bé lớn lên, tại sao nó không nhớ được các việc trong tiền kiếp của nó ?

Việc ghi nhớ các việc đã qua trong kiếp sống là do nơi trí não thuộc về Chơn thần.
Như đã trình bày ở trên, chư Phật nơi Tạo Hóa Thiên dùng cái “Chơn thần cũ” nắn đúc lại thành cái “Chơn thần  mới”, rồi phủ lên đó một tấm màn bí mật che lấp hết các ký ức cũ. Các ký ức cũ vẫn còn đầy đủ, không bao giờ mất, rút vào trong bộ nhớ ở trong Chơn thần, nhưng bị che kín bởi một màn bí mật, làm cho đứa bé không thể nhớ được tiền kiếp của nó. “Chơn thần mới” chỉ là biến tướng của “Chơn thần cũ” do phép huyền diệu của Đức Phật Mẫu tạo ra để che giấu những sự việc trong tiền kiếp, đồng thời định ra hình ảnh  mới cho thể xác trong kiếp sống  mới cho thích hợp với trình độ tiến hóa của Linh hồn.

Khi đứa bé trưởng thành, nếu biết cách công phu tu luyện thì có thể mở được tấm màn bí mật nói trên, sẽ biết rõ tiền kiếp của mình. Được như thế gọi là đạt được trí huệ, lúc đó thì trình độ đạo đức tiến hóa rất cao,  tức nhiên đắc đạo tại thế.

A5 . Địa vị của con người trong vũ trụ :
Thượng Đế đã tạo ra con người với một hình ảnh tốt đẹp thiêng liêng. Cho nên,  mỗi một con người nơi cõi trần  nầy đều là một Tiểu Thượng Đế.

Trời có gì thì con người đều có nấy. Trời là Đại Vũ trụ thì người là Tiểu Vũ trụ, Trời là Đại Thiên Địa thì người là Tiểu Thiên Địa, Trời là Đại Hồn thì người là Tiểu Hồn, Trời là Đại Linh quang thì người là Tiểu Linh quang. Cho nên, con người đứng vào hàng Tam Tài cùng với Trời Đất.

Địa vị của con người rất quan trọng trong vũ trụ. Nếu vũ trụ không có con người thì vũ trụ không hoàn toàn, bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu của Thiên Địa Nhơn (Tam Tài), nếu thiếu một yếu tố thì sự hòa điệu không còn.

Tam Tài là gốc của muôn vật. Trời sanh ra, Đất nuôi dưỡng, Người làm nên. Một Nhất Nguyên sinh thành là Trời, là Thượng Đế, nhưng Tam Tài đồng nhất thể. Như thế đủ thấy địa vị con người trong CKVT rất là trọng đại, rất là cao cả.

“ Khai Thiên Địa là Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một Chơn thần mà biến ra CKTG và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.

Có Thầy rồi  mới có các con, có các con rồi  mới có chư Thần Thánh Tiên Phật. “ (TNHT. I. 52)
“ Bởi vậy một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong CKTG. Nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con.” (TNHT. I. 31)

Con người cần phải biết rõ địa vị quan trọng và cao cả của mình trong CKVT, để xây dựng một đời sống cao thượng xứng đáng với phẩm vị mình, thuận tùng Thiên lý để được tiến hóa nhanh.
- Phái Triết học Duy Vật hoàn toàn phủ nhận Thượng Đế và Linh hồn.
- Phật giáo xem Thượng Đế chỉ là một vị Phạm Thiên, có địa vị thấp kém hơn Phật, và Phật giáo (Tiểu Thừa) phủ nhận Linh hồn, nhưng lại đưa ra quan niệm về Thần thức.
- Các tôn giáo khác như : Đạo Bà-La-Môn, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Nho giáo, Lão giáo, Thần đạo, Thông Thiên Học, vv . . . đều nhìn nhận sự hiện hữu của Thượng Đế và nhìn nhận  mỗi  người đều có một Linh hồn.

Dù có phủ nhận hay nhìn nhận Thượng Đế, dù có hủy báng Thượng Đế thì Thượng Đế vẫn là Chơn lý tuyệt đối, tối thượng, hằng hữu, bất biến, là nguyên lý độc nhất tạo dựng CKVT và vạn vật, là Đấng Chí Tôn tối cao tối đại, toàn tri toàn năng, toàn thiện toàn mỹ.
*  Thượng Đế là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh, là Đấng sáng tạo ra CKVT và vạn vật, nên gọi Ngài là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.
*  Thượng Đế là chủ của chư Thần Thánh Tiên Phật. Ngài là vị Phật lớn nhứt trong các vị Phật, là vị Tiên lớn nhứt trong các vị Tiên, là vị Thánh lớn nhứt trong các vị Thánh, … nên gọi Ngài là Đấng Đại Thiên Tôn.
*  Thượng Đế là CHA của toàn thể vạn linh, tức là Cha của Bát hồn : Phật hồn, Tiên hồn, Thánh hồn, Thần hồn, Nhơn hồn,  Thú cầm hồn, Thảo mộc hồn và Kim thạch hồn.

Do đó vạn linh gọi Thượng Đế là Đại Từ Phụ. Còn Đức Phật Mẫu là MẸ của chơn thần vạn linh sanh chúng, nên gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu.
* Thượng Đế là Chơn lý tối thượng vì “Khí Hư Vô sanh ra    MỘT  Thầy”.  Chỉ    một Thượng Đế, chỉ có một ngôi

Thái Cực, nên gọi là tuyệt đối.
Do đó, trong CKVT nầy, không ai lớn hơn Thượng Đế, tất cả đều do Thượng Đế hóa sanh, nên Thượng Đế là Đấng tối thượng, hay tối cao tối đại.

CKVT có thể bị tiêu diệt, nhưng Thượng Đế thì bất diệt, hằng hữu, bất biến vì Thượng Đế sinh ra ngay khi diệt, nên cũng là không sinh không diệt, tức là bất biến. CKVT chịu luật thành trụ hoại diệt, và khi vũ trụ bị diệt thì Thượng Đế sẽ tái tạo một CKVT mới tiến hóa và tốt đẹp hơn. Nói là CKVT bị diệt chớ thực sự nó không tiêu mất, mà Đấng Thượng Đế chỉ biến đổi hình thể của nó để thích hợp với sự tiến hóa mới.

Toàn tri là biết tất cả, biết đến cùng tận, đủ các phương diện. Toàn năng là làm được tất cả, và làm giỏi hơn tất cả. Nếu chỉ biết thiện mà không biết ác thì còn có chỗ chưa biết, tức là chưa toàn tri. Nếu chỉ làm Phật mà không thể làm Ma thì cũng có chỗ chưa làm được, nên chưa toàn năng.

Thượng Đế là Đấng toàn tri toàn năng nghĩa là biết tất cả và làm được tất cả, từ  đại ác tới đại thiện, từ tối trược cho tới tối thanh, từ  Quỉ ma đến Tiên Phật, và Thượng Đế sử dụng cái toàn tri toàn năng nầy để thúc đẩy cơ tiến hóa của Càn khôn trong minh triết tối cao của Ngài để trở thành là Đấng Đại Từ Bi, bởi vì cái nào hữu ích cho tiến hóa là thiện, là từ bi; còn cái nào ngăn cản sự tiến hóa thì cái đó là ác, là xấu xa.

Con người là một Tiểu Thượng Đế :
Con người là một chiết linh của Thượng Đế, là một Tiểu Linh quang của khối Đại Linh quang. Như vậy, con người chính là một Tiểu Thượng Đế, hay nói nôm na, mỗi người chúng ta là một  Ông Trời Con. Thượng Đế cho chúng ta xuống  cõi  trần  nầy là để nương theo xác thân phàm mà học hỏi    tiến hóa. Nếu chúng ta tiến hóa nhanh,  tức  là thi  đậu sớm thì sẽ trở về sớm; còn nếu chúng ta tiến hóa chậm, hoặc thoái hóa, tức là chúng ta thi rớt, phải học lại để thi lại, thì phải trở về chậm.

Như thế, con người là một Linh tử  trong CKVT, có một đời sống miên viễn bất tận, luôn luôn thay đổi để tiến hóa, tức là chuyển luân qua các cõi giới để học hỏi đủ các thứ bài học mà tiến hóa, và mức tiến hóa cuối cùng là trở thành Thượng Đế để hòa nhập vào Thượng Đế.

Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu :
Toàn cả chúng sanh đều là con cái của Chí Tôn và Phật Mẫu, nên gọi hai Đấng ấy là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu.

Đức Chí Tôn có triều chánh uy nghi, nên khi chầu lễ Đức Chí Tôn, chúng ta phải mặc phẩm phục áo mão như chốn triều đình.

Còn đối với Đức Phật Mẫu là Bà Mẹ thiêng liêng, nên tất cả con cái, dù phẩm tước lớn nhỏ thế nào, cũng đều là con của Mẹ, nên chỉ đến với Mẹ với tư cách là một đứa con mà thôi. Do đó, khi vào chầu lễ Đức Phật Mẫu, tất cả Chức sắc Nam Nữ đều không mặc phẩm phục, chỉ mặc một cái áo dài trắng bình thường, vì ai cũng như ai, đều là con của Phật Mẫu, và chúng ta thấy có một sự bình đẳng hoàn toàn.

Sự bình đẳng giữa Nam và Nữ :
Trong Đạo Cao Đài, sự bình đẳng giữa Nam và Nữ được thể hiện rất rõ rệt mà không có một nền tôn giáo nào từ trước tới nay có được.

Đối với Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện, hễ Nam phái có phẩm tước nào thì Nữ phái cũng có phẩm tước đó, quyền hạn ngang bằng nhau. Chức sắc Nữ phái chỉ điều hành tín đồ Nữ  phái; Chức sắc Nam phái thì điều hành  tín  đồ

Nam phái. Quyền hành Nam Nữ riêng biệt, không xen lấn nhau.

“Bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ. Nam biết thành Tiên Phật, chớ Nữ lại không sao ? Thầy đã nói : Bạch Ngọc Kinh có cả Nam lẫn Nữ, mà phần nhiều Nữ  lấn quyền thế hơn Nam nhiều.” (Lời Thánh Ngôn nầy trích trong Pháp Chánh Truyền)

A7 .  Thiên Đàng và Địa Ngục -
Cõi  Âm  Quang :
- Thiên đàng hay Thiên đường là cõi Trời, cõi có đầy đủ các sự tốt đẹp và an lạc, hạnh phúc, nơi đó con người sống vui vẻ đời đời, không có sự chết, không có sự lo âu phiền não, nên cũng gọi cõi đó là cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Đây là cõi để cho các Linh hồn mà trong kiếp sống nơi cõi trần  đã lập được nhiều công đức, trở về nơi đó để an nghỉ và vui hưởng.

Cõi TLHS có rất nhiều từng lớp từ thấp lên cao, càng lên cao thì càng thanh nhẹ và tốt đẹp.

Trong cõi TLHS, bên dưới là Cửu Trùng Thiên gồm 9 từng Trời dành cho Cửu phẩm Thần Tiên, tiếp lên trên là từng Trời thứ 10 : Hư Vô Thiên, từng Trời thứ 11 : Hội Nguơn Thiên, từng Trời thứ 12 : Hỗn Nguơn Thiên. Ba từng Trời nầy gọi chung là cõi Phật, cõi Niết Bàn, nơi đó có Cực Lạc Thế Giới mà thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Phật A-Di-Đà làm Giáo chủ. Lên cao tiếp tục, ta có Tam thập lục Thiên, tức là 36 từng Trời và cao nhất là Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. (Xem chi tiết trong phần Vũ trụ quan nối tiếp phía sau).

- Địa Ngục là nhà ngục ở dưới đất để giam giữ  và trừng phạt các tội hồn. (Tội hồn là những Linh hồn của những

người mà trong kiếp sanh nơi cõi trần  đã phạm nhiều tội ác). Nơi cõi Địa ngục có những hình phạt rất ghê gớm, đọc trong Kinh Sám Hối thì rõ.

Nhưng hễ có thưởng thì phải có phạt, luật công bình định vậy. Hễ có cõi Thiên đường thì phải có cõi Địa ngục. Thiên đường và Địa ngục là thể hiện sự thưởng phạt công bình trong Luật Nhân Quả.

Có công đức thiện lành thì được thưởng bằng những phẩm vị cao trọng nơi cõi Thiên đường, còn tội lỗi gian ác thì bị phạt đày nơi cõi Địa ngục. Thiên đường và Địa ngục là 2 đối trọng cần thiết trong cán cân công bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn và cũng là những lực cần thiết để thúc đẩy sự Tiến hóa trong CKVT.

Nhưng từ khi mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn đại khai Ân Xá, Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa ngục, không cho hành phạt các tội hồn, lại mở rộng cửa Trời để đón tiếp những người đầy đủ công đức đắc đạo trở về.

Đối với các tội hồn thì Đức Chí Tôn lập ra cõi Âm Quang ở giữa Thiên đường và Địa ngục để đưa các tội hồn đến cõi Âm Quang học đạo, định tâm tĩnh trí xét mình, nhìn lại những hành động sai trái lỗi lầm của mình trong lúc sống nơi cõi trần  mà ăn năn sám hối.

Nơi cõi Âm Quang có các Đấng Phật Tiên đến đây để giáo hóa, an ủi các tội hồn, giảng giải cho biết rõ 2 đường thiện ác,  chánh tà. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát lãnh phần giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương Diêu Trì Cung lãnh phần giáo hóa các Nữ tội hồn. Ở cõi Âm Quang chỉ có giáo hóa chớ không có trừng phạt, khác hẳn cõi Địa ngục trước đây, vì hưởng được thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

Thất Nương DTC giảng giải về cõi Âm Quang như sau:
“ Em nên nói rõ Âm Quang là gì trước đã, rồi thì mấy chị  mới hiểu đặng. (Em là tiếng tự xưng của Thất Nương).

Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi là Trường Đình của chư hồn giải thể hay nhập thể. Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là “Tịnh Tâm Xá”, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình coi trong kiếp sanh có bao nhiêu phước tội. Vậy nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm Quang.

Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.

Ôi ! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà,  mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy. Đó là mấy đạo hữu tín đồ bị thất thệ. Em trông thấy bắt đau lòng, phái Nữ lại là phần đông hơn hết.” (TNHT. II. 91-92)
“ Nơi Diêu Trì Cung còn có cõi Âm Quang riêng biệt gọi là Phong Đô, đặng giáo hóa các chơn hồn đã bị lạc nẻo trên đường trần.” (Bát Nương giáng cơ trong Luật Tam Thể)
“ Thưa cùng mấy chị, Em xin nhắc nhở điều nầy : (Em là tiếng tự xưng của Thất Nương DTC).

Ngày Hội Ngọc Hư đặng lo tiếp pháp của Tây phương Cực Lạc, Em đã đặng nghe thấy những lời của Địa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng : Ngài là Phật, nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ, nơi Âm Quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần. Em lại nghe Người ước  rằng : Chớ  chi có một Đấng

Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong linh của Phong Đô thoát kiếp.

Em  mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó. Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm Quang hãm tội.” (TNHT. II. 91)

Nói tóm lại, khi Đức Chí Tôn Thượng Đế khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) thì Đức Chí Tôn Đại Khai Ân Xá, cho đóng cửa Địa ngục, giải phóng hết các tội hồn nơi đó, cho đi đầu kiếp nơi cõi trần  để trả quả, đồng thời Đức Chí Tôn cho mở riêng một cõi giữa Thiên đường và Địa ngục, gọi là cõi Âm Quang, thuộc DTC để cho các Linh hồn tội lỗi đến đó định tâm định trí, xét nét lỗi lầm của mình, mà ăn năn sám hối, cầu xin Đức Chí Tôn độ rỗi. Nơi đây chỉ có giáo hóa chớ không có hình phạt, để các chơn hồn giác ngộ, thấy rõ chánh tà, thiện ác.

Nơi cõi Âm Quang có Đức Địa Tạng Vương Bồ tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn. Các chơn hồn nào biết ăn năn sám hối tội tình, biết được lẽ thiện ác, chánh tà thì được cho đi đầu kiếp để trả cho xong nghiệp quả và lo tu hành để lập công trừ tội.

A8 . Quan niệm đúng đắn về cuộc sống :
Một con người nơi cõi thiêng liêng có một Điểm Linh quang gọi là Chơn linh hay Linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho và một Xác thân thiêng liêng gọi là Chơn thần, do Đức  Phật Mẫu tạo thành.

Do đó, nguồn gốc căn bản của con người là ở nơi cõi thiêng liêng, và cõi thiêng liêng nầy mới chính là cõi sống chơn thật của con người.

Khi con người được phép đầu thai xuống cõi trần thì có thêm một xác thân phàm do cha mẹ phàm trần tạo ra để có một đời sống nơi cõi phàm trần.

Như vậy, cuộc sống toàn thể của một con người trong CKVT gồm có 2 giai đoạn  nối tiếp luân phiên nhau mãi với nhau cho đến bất tận :
- Thời gian đầu, con người sống nơi cõi thiêng liêng được an nhàn tự tại, tiêu diêu cực lạc. Nhưng vì nhu cầu học hỏi và tiến hóa, người đó làm một chuyến du học xuống cõi phàm trần.
- Người đó sẽ được cha mẹ phàm trần tạo ra một xác thân phàm để được sống nơi cõi phàm trần mà học hỏi, làm việc, chứng nghiệm, tiến hóa.

Nơi cõi phàm trần, các nền tôn giáo là những trường Đại học đạo đức, cõi đời là Trường thi công quả, giải khổ và thoát khổ là đề tài luận án của Phật Tiên.

Khi xác phàm đã già nua, không hoạt động được nữa, đến lúc sắp hư hoại thì người đó (Chơn thần và Linh hồn) rời bỏ xác phàm, trở về cõi thiêng liêng là nơi quê cũ, chấm dứt một chuyến đi du học xa đầy hấp dẫn.
- Linh hồn và Chơn thần trở về, đến trình diện với 2 Đấng CHA MẸ thiêng liêng, để báo cáo thành quả đạt được trong chuyến du học, trình ra những cấp bằng đạt được. Đức Chí Tôn sẽ khen thưởng bằng cách ban cho những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương  xứng.

Còn nếu Linh hồn và Chơn thần thi rớt, không đạt được bằng cấp nào, lại còn mắc phải nhiều món nợ nơi cõi trần  thì Linh hồn và Chơn thần được lưu lại cõi thiêng liêng một thời gian để quán xét, suy nghiệm những việc thất bại đã qua,  rút kinh nghiệm, để rồi được trở xuống cõi trần một chuyến du học nữa,  học lại các bài học, thi cho đậu, và lo trả cho xong các món nợ đã vay trong chuyến trước.

Như vậy, đời sống của con người nơi cõi thiêng liêng  mới thật là đời sống chánh thức, thiệt thọ và vĩnh viễn, còn đời sống nơi cõi trần  chỉ là một giai đoạn  ngắn (để du học,  công tác) trong toàn thể một cuộc sống bất tận của con người.

Đó  mới thật là một quan niệm đúng đắn duy nhứt về cuộc sống của con người trong CKVT, vì nó đứng trên cái nhìn toàn diện, sinh động và rốt ráo.

· Đời sống nơi cõi thiêng liêng là để nghỉ ngơi, an hưởng, hay để suy nghĩ, và sắp đặt kế hoạch cho một chuyến công tác hay du học  mới sắp tới.

· Đời sống nơi cõi phàm trần là để học hỏi, làm việc, kinh nghiệm, thử thách và tiến hóa.
Tại sao con người cần phải xuống cõi phàm trần nầy để học hỏi và tiến hóa ? Không thể ở cõi thiêng liêng học hỏi và tiến hóa được sao ?

Bởi vì nơi cõi trần nầy có đủ các bài học từ trược đến thanh, từ ác đến thiện, từ tà mị gian dối đến chánh trực chơn thật, con người sẽ được học đầy đủ và chiêm nghiệm. Vả lại, nơi cõi trần,  khí ô trược có đến 2 phần, còn khí thanh khiết chỉ có 1 phần, nên xu hướng vật chất mạnh gấp đôi xu hướng tinh thần, mà nếu con người biết đè nén lòng vật dục để lo phụng sự  nhơn sanh thì sẽ đoạt được công quả rất lớn, nhứt định sẽ được tiến hóa vượt bực mau chóng.

Do đó, đời sống của con người nơi cõi phàm trần có 4 mục đích chánh yếu sau đây :
1 . Học hỏi : Học sao cho thông hiểu tất cả những gì mà Đức Chí Tôn đã bày ra nơi cõi trần  để làm nấc thang tiến hóa cho các đẳng chơn hồn.

2 . Lập Công quả : Nhìn thấy các bạn đồng sanh đang sống lạc hướng, lặn ngụp trong sông mê bể khổ, chìm đắm trong chốn danh lợi quyền, mãi miết đi trên đường vật dục, thì ta phải làm thế nào để giúp cho các bạn ấy thức tỉnh và giác ngộ, hiểu biết như ta, để trở lại con đường chơn chánh, đi đúng mục tiêu tiến hóa. Ta phải đem hết khả năng của mình ra để giúp đỡ  và dẫn dắt họ.

3 . Trả nợ : Nếu trong các kỳ du học trước, ta đã gây ra nhiều nợ nần oan trái, thì trong kỳ du học nầy, nhứt định ta phải lo trả cho xong các món nợ cũ dù phải đau khổ hy sinh.

4 . Không gây  nợ  mới : Kinh nghiệm về sự trả nợ rất đau khổ, ta không nên gây ra thêm một món nợ oan nghiệt nào hết. Các điều răn cấm, các giới luật tôn giáo là những rào chắn rất hiệu quả để ngăn chận ta không gây thêm nợ.

Thực hiện được 4 điều trên đây, thì chuyến du học nầy chắc chắn đạt được thành công mỹ mãn. Hai Đấng CHA MẸ thiêng liêng chắc sẽ rất hài lòng và các bạn thiêng liêng sẽ đón tiếp ngày trở về của ta thật vinh hiển huy hoàng.

A9 . Phần kết :
Nhơn sanh quan của Đạo Cao Đài đã giải quyết được các điểm chánh yếu mà từ xưa tới nay, các phái Triết học Duy Tâm và Duy Vật đã tốn nhiều thời giờ và giấy mực bàn cãi rất nhiều mà chưa đạt được một kết luận dứt khoát hợp lý  nào thỏa mãn được các phái.

*  Về nguồn gốc của loài người, con người từ đâu tới ?
Người nguyên thủy (Thủy tổ loài người) là các Hóa nhân do loài vượn cao cấp (vượn-người) tiến hóa mà thành.

Cái nguồn gốc nầy không có gì để làm cho chúng ta xấu hổ, vì mọi vật  từ  cõi thiêng liêng đến cõi phàm  trần  đều nằm trong Luật Tiến Hóa của Thượng Đế. Chính Đức Phật Thích Ca mà ai ai cũng đều sùng bái, chỉ là một Hóa nhân, nhờ công phu tu luyện mà thành Phật. Đức Phật có thuật lại, tiền thân của Ngài trong nhiều kiếp là loài cầm thú.

Hóa nhân xuất hiện trước, lần lần đông đảo rồi thì Thượng Đế mới cho một số Nguyên nhân đầu kiếp xuống trần, do các Nữ Hóa nhân sanh ra, để khai hóa các Hóa nhân.

Nguyên nhân là những người được Đức Thượng Đế và Đức Phật Mẫu tạo ra từ lúc Khai Thiên, được Đức Chí Tôn cho đầu kiếp xuống trần, ngoài nhiệm vụ khai hóa các Hóa nhân, Nguyên nhân còn phải lo học hỏi và tiến hóa.

*  Con người có Linh hồn không ?
Điều nầy không còn gì để nghi ngờ nữa, bởi vì khoa Thông Linh Học hiện nay trên thế giới  đã chứng minh sự hiện hữu của Linh hồn trong  mỗi con người.

Hiện tượng xây cơ ma trong giới bình dân cũng chứng tỏ được người chết không phải là hết, mà Linh hồn người chết vẫn tồn tại, nên có thể nói chuyện được với người sống qua trung gian của cây cơ.

Trong Đạo Cao Đài, hiện tượng Cơ Bút chứng tỏ rằng có Đấng Thượng Đế, có các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, có thế giới  vô hình rất huyền diệu mà trí não phàm tục  của con người không thể hiểu thấu được.

Con người có 3 thể : Thể xác (hữu hình), Linh hồn (vô hình) và thể thứ ba là Chơn thần (bán hữu hình) làm trung gian cho Thể xác và Linh hồn.

Đấng Thượng Đế đã dạy cho chúng ta biết rõ về thể thứ 3 nầy. Đây là điểm rất mới trong Giáo lý của Đạo Cao Đài, nhờ đó có thể giải rõ các hiện tượng của con người từ vật chất đến tinh thần, từ hữu hình qua vô hình.

Con người nơi cõi thiêng liêng (vô hình) chỉ có 2 thể :  Linh hồn và Chơn thần (Xác thân thiêng liêng).

*  Con người khi chết đi về đâu ?
Khi Thể xác (Xác thân phàm) chết, xác thân nầy sẽ thúi rã và lâu ngày sẽ trở thành đất, còn Chơn thần và Linh hồn sẽ xuất ra khỏi thể xác để đi về cõi thiêng liêng, đến trình diện với hai Đấng Phụ Mẫu thiêng liêng là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Đức Chí Tôn xem xét các việc phước đức và tội tình mà Linh hồn và Chơn thần đã gây ra trong kiếp sống nơi cõi trần  để khen thưởng hay bắt đi đầu kiếp trở lại mà trả quả.

Chừng nào Linh hồn và Chơn thần làm được những việc hoàn toàn tốt đẹp nơi cõi trần, xứng đáng là một Tiểu Thượng Đế thì khi trở về, Đức Chí Tôn sẽ khen thưởng xứng đáng và được hội hiệp cùng Đức Chí Tôn.

Con người là một Linh tử trong CKVT, có một đời sống miên viễn bất tận. Đời sống nầy bao gồm 2 giai đoạn nối tiếp luân phiên nhau mãi mãi đến vô cùng :
- Đời sống nơi cõi thiêng liêng để nghỉ ngơi, an hưởng và suy nghiệm.
- Đời sống nơi cõi phàm trần là để học hỏi, lập công quả, tu luyện, để được tiến hóa nhanh.

Như thế thì mục đích của đời sống con người là để học hỏi và tiến hóa, tiến hóa mãi không ngừng, để cho Càn khôn cùng tiến hóa mãi mãi như các sự vận chuyển của các tinh cầu trong CKVT.

VIII . Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài :

Quan niệm về Vũ trụ của Đạo Cao Đài giải đáp một cách minh bạch các vấn đề về vũ trụ sau đây :
- Sự hình thành của vũ trụ hiện hữu như thế nào ?
- Vũ trụ hiện hữu có giới hạn không ?  Gồm có bao nhiêu ngôi sao ?
- Vũ trụ có vô thỉ vô chung không ?
- Những khám phá của khoa học ngày nay có phù hạp với Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài không ?
- Địa vị của Quả Địa cầu của nhơn loại chúng ta trong CKVT.

Đó là những vấn đề then chốt về Vũ trụ mà Triết lý Cao Đài sẽ đề cập đến với nhiều mới lạ chưa từng thấy.

Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài thì Vũ trụ hiện hữu của chúng ta có 2 phần :
-  Phần Hữu hình thấy được.
- Phần Vô hình không thấy được.

* Phần HỮU HÌNH của VŨ TRỤ :
1 . Sự Hình thành Vũ trụ :
Sự hình hành Vũ trụ theo Triết lý của Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn giảng dạy, tóm gọn trong 2 đoạn Thánh Ngôn sau đây :

TNHT. II. 62 : “ Thầy đã nói với các con rằng : Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng,  mới lập ra Càn khôn Thế giới .

Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh.”

TNHT. I. 32 : “ Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.”

Trong sách Đại Thừa Chơn Giáo, phần Vũ trụ, Đức Chí Tôn giảng dạy như sau :
“ Trước khi chưa định Ngôi Thái Cực, thì trong khoảng không gian ấy còn đương mịt mịt mờ mờ với khí Hông Mông, vì đó là thời kỳ Hỗn Nguyên vậy.

Không gian ấy là Vô Cực.
Trong Vô Cực ấy lại có một cái Nguyên Lý thiên nhiên tuyệt diệu tuyệt huyền, rồi lại có thêm một cái Nguyên Khí tự nhiên nữa. Lý với Khí ấy, tức là Âm với Dương trong buổi Hồng Mông thời đại.

Lý Khí ấy lần lần ngưng kết với nhau mà đông tụ lâu đời nhiều kiếp,  mới thành ra một khối Tinh Quang rất đầy đủ các sự tốt đẹp. Chừng đúng ngày giờ, khối ấy nổ tung ra một tiếng vang lừng dữ dội phi thường, làm rúng động cả không gian, bèn có một khối Đại Linh Quang từ trong tiếng nổ ấy văng ra lăn lộn quây quần giữa chốn không trung, bắn tủa hào quang rất chiếu diệu rạng ngời, trùng trùng điệp điệp, rực rỡ chói lòa khắp cả mọi nơi.

Ấy chính là ngôi Chúa Tể của Càn khôn Vũ trụ đã được biến hóa ra vậy.
Vũ trụ từ đây  mới bắt đầu  có Ngôi Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn quyền hành thống chưởng cả CKVT và lấy cơ thể Âm Dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gom tụ  Khí Hư Vô, đặng hóa sanh muôn loài vạn vật.

Máy Âm Dương ấy cứ vần vần xoay chuyển, không ngưng nghỉ một giờ khắc nào, để dưỡng dục chúng sanh, bảo tồn Thiên Địa.

Khắp trong Vũ trụ, biết bao là quả Linh cầu, có quả trược, có quả thanh, có bực cao bực thấp, có cái sáng cái tối, thảy thảy đều tuân theo máy Thiên Cơ mà tuần tự chuyển luân xoay chạy : Cái lại cái qua, cái lên cái xuống, không bao giờ ngưng nghỉ đặng.

Linh cầu nào cao thanh khinh phù thì vượt qua mấy cõi khác mà lên ngất trên thượng từng không khí.

Vậy, quả Địa Cầu của các con đây, tuy là một quả Địa Cầu vật chất hữu hình trọng trược, song cũng còn thuộc bực khá, chớ dưới nữa lại có lắm quả Địa Cầu còn trọng trược hơn nữa. Những quả Địa Cầu như thế thì nặng trầm chìm tột dưới đáy sâu của Vũ trụ, nên rất tối tăm mờ mịt, âm khí nặng nề, thảm sầu buồn bã gớm ghê !”

Qua các bài Thánh Ngôn vừa trích bên trên, chúng ta rút được các điểm sau đây :

a) . Hư Vô chi Khí : (Khí Hư Vô)
Thời nguyên thủy, cả không gian có một chất khí Hồng Mông Hỗn Độn, mờ mờ mịt mịt, hiện hữu mà không biết được nguồn gốc có từ hồi nào và do đâu. Khí đó được gọi là Hư Vô chi Khí hay Khí Hư  Vô.

Khí Hư Vô còn được gọi bằng nhiều danh từ khác nữa : Khí Hồng Mông, Khí Vô Vi, Khí Tiên Thiên, Khí Hạo nhiên.

Phật giáo gọi Khí Hư Vô là Chơn Như.
Lão giáo gọi khí ấy là Đạo.
Nho giáo gọi khí ấy là Vô Cực.

b) . Thái Cực :
Khí Hư Vô  lần lần  ngưng kết, đông tụ lại với nhau lâu đời nhiều kiếp, chừng đúng ngày giờ thì nổ ra một tiếng lớn rúng động cả không gian, sanh ra một khối Đại Linh Quang phát ra hào quang chiếu diệu.

Khối Đại Linh Quang ấy được gọi là Thái Cực, là Đại Hồn của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, tuyệt diệu tuyệt huyền, biến hóa vô cùng, nắm trọn quyền hành tạo hóa.

Vũ trụ từ  đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực, tuyệt đối, duy nhất.

c) . Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái :
Ngôi Thái Cực lấy cơ thể của mình mà phân định ra Lưỡng Nghi : Nghi Âm và Nghi Dương, cũng gọi là Khí Dương quang và Khí Âm quang. Đó là 2 khối năng lượng vĩ đại vô cùng tận mang 2 tánh chất đối nghịch nhau, nhưng lại có ái lực với nhau.

Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản Khí Dương quang, còn Khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, vì lúc bấy giờ chỉ có một mình Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế được hóa sanh ra mà thôi. Ngài liền hóa thân ra Đức Phật Mẫu và giao cho Đức Phật Mẫu chưởng quản Khí Âm quang.

Vũ trụ từ đây mới có 2 Khí Dương quang và Âm quang do 2 Đấng đầu tiên chưởng quản là Đức Thượng Đế và Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu chỉ là một hóa thân của Đức Thượng Đế.

Trong công cuộc sáng tạo ra CKVT, Đấng Thượng Đế làm tới đâu và cần người chưởng quản thì Ngài dùng quyền pháp vô biên của Ngài mà hóa thân ra người ấy để làm nhiệm vụ do Ngài sắp đặt.

Hai Khí Dương quang và Âm quang xoay chuyển không ngừng, đun đẩy cho rộng lớn thêm ra mãi để tạo thành Tứ Tượng. Tứ Tượng là 4 tượng : Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.

Tứ Tượng tiếp tục xoay chuyển, càng rộng ra thì tốc độ xoay chuyển càng lớn, tạo thành Bát Quái gồm : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát Quái tiếp tục xoay chuyển, càng rộng thêm ra, tốc độ quay càng lúc càng lớn, để rồi đun đẩy va chạm nha, phát sanh nhiệt độ rất lớn, hàng tỷ độ, tạo nên một áp suất vô cùng lớn, phát ra tiếng nổ dữ dội, bắn phá ra chung quanh các quả cầu lửa bay khắp không gian, quay cuồng dữ dội, tạo ra các Mặt Trời.

d) . Mặt Trời - Địa Cầu - Mặt Trăng :
Các quả cầu lửa gọi là các Mặt Trời tiếp tục cháy sáng và quay tròn dữ dội, rồi bắn phá ra các quả cầu lửa nhỏ hơn, quay quanh Mặt Trời, để rồi nguội dần, tạo thành các Địa cầu. Các Địa cầu nầy là những Hành tinh của Mặt Trời.

Có những Địa cầu lớn, lúc chưa nguội, lại quay nhanh, văng ra các quả cầu nhỏ hơn nữa, rất mau nguội lạnh, tạo thành các Vệ tinh hay còn gọi là Mặt Trăng, quay chung quanh Địa cầu.

Tóm lại :
-  Các Mặt Trăng quay quanh Địa cầu, tức là Vệ tinh quay quanh Hành tinh.
-  Hệ thống Địa cầu và Mặt Trăng (Hành tinh và Vệ tinh) cùng quay chung quanh Mặt Trời.
-  Hệ thống gồm Mặt Trời, các Địa cầu, các Mặt trăng được gọi là Thái Dương Hệ. Các Thái Dương Hệ đều quay quanh một Tâm điểm, gọi là Tâm của Vũ trụ.

Theo Khoa Học Thiên Văn, Thái Dương Hệ của chúng ta gồm có 9 Hành tinh quay chung quanh Mặt Trời. (Khi Hành tinh quay thì nó vẫn mang theo các Vệ tinh quay theo.)

Sau đây là thứ tự và khoảng cách của Hành tinh với Mặt Trời từ gần đến xa :
(Khoảng cách từ Mặt Trời đến Địa cầu của chúng ta là 150 triệu Kilômét, được dùng làm đơn vị Thiên văn, viết tắt đvtv, để đo khoảng cách  các Hành tinh khác với Mặt Trời : 1 đvtv = 150 triệu Km)

 TT  Hành tinh Khoảng cách Độ lớn Khối lượng Số đến Mặt Trời đường kính riêng Vệ tinh
1 - Thủy tinh                0, 39 đvtv        4878  Km                    5,4                   0
2 - Kim tinh                 0, 72    -          12104 Km                   5,2                   0
3 - Trái đất                  1, 00     -         12756 Km                   5,5                   1
4 - Hỏa tinh                 1, 52     -         6787  Km                    4,0                   2
5 - Mộc tinh                5, 20    -          142984 Km                 1,3                   16
6 - Thổ tinh                  9, 55    -          120536 Km                 0,7                   22
7 - Thiên tinh               19,21    -         51118  Km                  1,2                   15
8 - Hải tinh                  30,10    -         49528  Km                  1,6                   8
9 - Diêm tinh                39,40    -         2284  Km                    2,0                   1

2 . Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế :
Trong khoảng không gian bao la vô cùng tận, có rất nhiều vũ trụ được hình thành, mà Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ là một phần tử.

Vũ trụ nầy được tượng trưng bằng Trái Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh, mà Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã dạy Ngài Giáo Sư Thái Bính Thanh làm, trong bài Thánh Ngôn sau đây :

TNHT. I. 45 : “ Bính ! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không ? Cười . . . Một trái như Trái Đất tròn quay, hiểu không ?  Bề  kính  tâm  3 thước 3 tấc,

nghe con, lớn quá, mà phải vậy  mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn khôn ấy.

Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu, ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.

Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước . Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ 2 cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu  cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu  chăng ?

Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại CKTG đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại Hội, nghe à !”

Theo bài Thánh Ngôn trên đây, Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có 2 phần : Phần Vô hình và phần Hữu hình.

- Phần Vô hình gồm : Tam thập lục Thiên (36 từng Trời) và Tứ Đại Bộ Châu (4 Bộ Châu lớn) ở không không trên thượng từng không khí. (Xem chi tiết nơi phần sau)
- Phần Hữu hình gồm : Thất  thập nhị Địa (72 quả Địa cầu) và Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới), tổng cộng là 3072 ngôi sao. (Bởi vì khi chúng ta nhìn lên bầu trời thấy các Hành tinh, Vệ tinh và các thế giới đều là những ngôi sao)

Địa cầu mà nhơn loại chúng ta đang ở là Địa cầu số 68 trong Thất thập nhị Địa.

Mặt khác, các nhà Thiên Văn học trên Thế giới  đã dùng các Viễn Vọng kính, Kính Thiên văn quang phổ, . . . đã tìm thấy được hàng tỷ ngôi sao ở  trong  nhiều  dãy  Thiên  hà.

Vậy, Vũ truï của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ có 3072 ngôi sao thì quả là rất bé nhỏ so với những gì mà khoa Thiên Văn khám phá được.

Như thế thì bên ngoài Vũ trụ của chúng ta còn có biết bao Vũ trụ khác, có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn Vũ trụ của chúng ta.

3 . Vũ trụ có Vô thỉ Vô chung không ?
Vô thỉ hay Vô thủy là không có chỗ bắt đầu, tức là không có nguồn gốc. Vô chung là không có chỗ tận cùng.

Vũ trụ là một thực thể nên cũng phải nằm trong Định luật Sanh Tử, tức là : Thành, Trụ, Hoại, Không, giống y như các thực thể khác. Hễ có Sanh ra ắt phải có lúc Tử, để rồi sau đó được tái tạo tức Sanh ra trở lại, rồi sau một thời gian thì bị hủy diệt, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường tiến hóa vô cùng tận. Nhưng trong khoảng thời gian từ lúc Sanh ra cho đến lúc bị Hủy diệt, lâu hay mau là tùy theo thực thể.

Đối với một Vũ trụ thì khoảng thời gian ấy rất dài, có thể đến hằng tỷ năm, khó có thể tưởng tượng nổi, nên  mới có nhiều người cho rằng Vũ trụ nầy là Vô thỉ Vô chung.

Thật ra, như trong phần trình bày trên, Vũ trụ có khởi đầu, và mức khởi đầu đó là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức là Thái Cực, bởi vì chính Đấng Thượng Đế ấy đã tạo hóa ra CKVT và vạn vật hiện hữu.
Lại hỏi : Ai sanh ra Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế ?
Đáp : Khí Hư Vô sanh ra Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đến đây, sự tìm hiểu của chúng ta phải dừng lại, bởi vì nếu tiếp tục hỏi nữa thì  không còn cách nào giải đáp được.
Chúng ta, cả Vũ trụ của chúng ta đang trên đường tiến hóa, tiến hóa mãi cho đến    tận    biên,  chớ  không  phải chúng ta đi trên con đường tròn, không có điểm đầu tiên và điểm cuối cùng, vì đi trên vòng tròn thì không phải là tiến hóa, mà chỉ là sự biến hóa theo một chu kỳ nhứt định.
Sự khác nhau là ở chỗ Tiến hóa chớ không phải Biến hóa.

*  SỰ HỦY DIỆT VŨ TRỤ :

Trong Vũ trụ, ánh sáng phát ra từ các Mặt Trời do các phản ứng nhiệt hạch của vật chất trong Mặt Trời bức xạ ra ngoài. Ánh sáng nầy sưởi ấm các Hành tinh, được các Hành tinh và Vệ tinh chung quanh hấp thụ, tạo ra các phản ứng sinh hóa duy trì sự sống.

Sự phát ánh sáng liên tục của Mặt Trời làm khối lượng Mặt Trời giảm dần theo thời gian, đến lúc nào đó, hàng tỷ năm sau, Mặt Trời cũng phải tắt. Nhiệt độ trong Thái Dương Hệ sẽ giảm xuống rất nhanh, đến Không độ tuyệt đối (O o K) tức là 273 độ dưới Không độ bách phân. (O o K =  - 273 o C)

Các Thái Dương Hệ khác cũng ở trường hợp tương  tự, sẽ lần lần tắt hẳn. Cả bầu Vũ trụ chìm trong cảnh vô cùng tối tăm và lạnh lẽo, nhiệt độ hạ xuống rất nhanh, tất cả sinh vật đều chết hết, và vật chất đông lại thành những khối cứng.

Đó là một cuộc Đại Tận Thế của Vũ trụ. Nó nằm trong Định luật tự nhiên, hễ có sanh ra thì ắt phải có lúc bị hủy diệt.

Sau khi nó bị hủy diệt thì nó lại bắt đầu  hình thành một Vũ trụ  mới, đó là sự tái tạo Vũ trụ.

Đời sống của một Vũ trụ rất lâu dài, kể từ lúc nó được hình thành cho đến khi nó bị hủy diệt, kéo dài đến hàng tỷ năm, trong lúc đó, đời sống của một đời người nơi cõi trần lấy  100 năm làm kỳ hạn thì  chẳng đáng kể gì.

*  SỰ TÁI TAÏO VŨ TRỤ :

Khi các Mặt Trời của Vũ trụ tắt hẳn, nhiệt độ hạ xuống đến Không độ tuyệt đối hay thấp hơn nữa, làm cho trường hấp dẫn vạn vật giữa các hệ thống vật chất tăng lên gấp nhiều lần, làm chúng hút nhau rất mạnh.

Các Vệ tịnh bị hút rơi vào Hành tinh, các Hành tinh bị hút mạnh rơi vào Mặt Trời, các Mặt Trời đã tắt bị hút mạnh rơi vào Tâm Vũ trụ. Càng đến gần, lực hút trở nên rất mạnh, làm cho vận tốc rơi càng lúc càng tăng, lớn đến mức khủng khiếp, bằng vận tốc của ánh sáng (300 ngàn cây số trong 1 giây). Các Hệ thống va chạm vào nhau vô cùng mãnh liệt, tạo ra một sức nóng khủng khiếp, nhiệt độ tại trung tâm vũ trụ lên đến hằng tỷ độ, mọi thứ vật chất đều bốc thành hơi tức là biến thành chất khí, chúng quay cuồng hỗn độn, tạo ra một áp suất vô cùng lớn, đến một lúc nào đó thì gây ra tiếng nổ ghê gớm, làm bắn phá từ trung tâm vũ trụ ra chung quanh  những quả cầu lửa to lớn, để tạo thành các Mặt Trời mới. Các Mặt Trời  mới lại tiếp tục bắn phá ra chung quanh, tạo ra các Hành tinh mới quay quanh Mặt Trời mới. Các Hành tinh lớn lại bắn phá ra tạo nên các Vệ tinh quay quanh Hành tinh.

Thế là một Vũ trụ mới được thành hình và bắt đầu  hoạt động trong một vận hội tiến hóa mới, với một đời sống  mới.

Các Vệ tinh có kích thước nhỏ nên nguội trước, kế đó là các Hành tinh nguội dần, vật chất bên ngoài đông tụ lại thành lớp vỏ cứng bao bọc hành tinh. Khi nhiệt độ hạ xuống đến mức thích hợp, hơi nước bao quanh hành tinh tạo ra các trận mưa dữ dội, nước rơi xuống thành sông ngòi và chảy vào những chỗ trũng thấp tạo thành biển.

Trên Hành tinh Địa cầu, khi có nước và ánh sáng Mặt Trời rọi đến thì xuất hiện sự sống, các sinh vật bắt đầu nảy sanh. Đầu tiên là các sinh vật đơn giản chỉ có một tế bào xuất hiện trong nước, lần lần tiến hóa lên cấp cao hơn và phức tạp hơn, theo Định luật Tiến hóa của Vũ trụ : Vật chất Kim thạch

tiến hóa lên loài Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú cầm tiến hóa lên nhơn loại. Rồi loài người lo tu hành, giúp người giúp đời, thì  lần lần tiến hóa lên các phẩm Thần Thánh Tiên Phật.

Tóm lại, Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài quan niệm rằng Vũ trụ không phải là Vô thỉ, vì nó có khởi đầu. Điểm khởi đầu đó là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, vì Đấng ấy đã tạo dựng ra CKVT và vạn vật.

Vũ trụ cũng không phải là Vô chung (không có mức cuối cùng), vì Vũ trụ có lúc  tự hủy diệt và mức cuối cùng của nó là cuộc Đại Tận Thế, để rồi sau đó lại khởi đầu hình thành một Vũ trụ mới tiến hóa hơn, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường Tiến hóa vô cùng tận.

4 . Các Vũ trụ khác :
Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta đang ở đây chỉ gồm có 3072 ngôi sao. Bên ngoài Vũ trụ nầy cón có rất nhiều Vũ trụ khác nữa, đang biến chuyển không ngừng trong khoảng không gian bao la vô cùng rộng lớn.

Những Vũ trụ chung quanh, có những Vũ trụ to lớn hơn, có những Vũ trụ nhỏ bé hơn, có những Vũ trụ đang hoạt động như của chúng ta, có những Vũ trụ đang trong thời kỳ hủy diệt, cũng có những Vũ trụ đang trong thời kỳ tái tạo.

Tất cả những Vũ trụ nầy như là những tế bào trong vô lượng tế bào trong một Siêu Đại Vũ trụ vô tận vô biên, không thể hiểu biết được.

Mỗi Vũ trụ đều có một Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế tạo ra và ngự trị, cầm quyền vô vi, vận hành và tiến hóa không bao giờ ngừng nghỉ.

5 . Giải thích Vũ trụ quan của
 Đạo Cao Đài theo Khoa học Nguyên tử :

a). Quang tử - Âm điện tử -  Dương điện tử :
Quang tưû, tên khoa học gọi là Photon, là hạt ánh sáng. Hạt nầy không có khối lượng, truyền đi theo dạng sóng (gọi là sóng ánh sáng) với vận tốc rất nhanh : 300 ngàn cây số trong một giây (300.000 Km/giây)

Thái Cực là một khối năng lượng vĩ đại dưới dạng ánh sáng, gồm vô số Quang tử. Các Quang tử nầy được Thái Cực bắn ra chung quanh thành những tia sáng. Trong một lúc nào đó, các tia sáng kết hợp thành từng bó sóng ánh sáng, để rồi kết hợp và ngưng tụ lại, biến đổi năng lượng ánh sáng thành khối lượng vật chất, dưới dạng các hạt có mang điện tích : Điện tích Âm và điện tích Dương.

Sự ngưng kết để biến đổi năng lượng ánh sáng (biểu thị bằng chữ E : Énergie) thành vật chất có khối lượng là m (Masse), với vận tốc ánh sáng là C = 300.000 Km/giây, theo công thức của nhà Bác học Einstein : E   =   m C2

Âm Điện tử : Hạt vật chất nhỏ có mang điện tích âm được gọi là Âm Điện tử, tên khoa học là Électron, viết tắt là e, có khối lượng và điện tích đo được là :

Khối lượng  =    0,9. 10 -27   gram.
Điện tích     =  - 1,6. 10 -19   coulomb.

Dương Điện tử : Hạt vật chất có mang điện tích dương gọi là Dương Điện tử, tên khoa học là Proton, viết tắt là p, có khối lượng và điện tích đo được là :
Khối lượng  =  1840 lần khối lượng của e.
Điện tích     =   + 1,6 . 10 -19  coulomb.

Như vậy, từ Quang tử  Photon, đã tạo ra được 2 loại vật chất có dạng hạt : Électron và Proton mang điện tích Âm và điện tích Dương, có trị số ngang bằng nhau, nhưng khác dấu.

Chúng ta so sánh thì thấy rằng :
- Thái Cực là một khối Quang tử (Photon) vĩ đại.
- Lưỡng Nghi Âm quang và Dương quang là 2 khối Âm Điện tử (Électron) và Dương Điện tử (Proton).

Đấng Thượng Đế phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi chính là sự ngưng kết của các bó sóng ánh sáng, biến năng lượng ánh sáng thành vật chất là Âm Điện tử và Dương Điện tử.

b) . Trung hòa tử  và Nguyên tử Khinh khí :
Âm Điện tử và Dương Điện tử đã thành hình rồi thì chúng kết hợp với nhau do sức hút của điện âm và điện dương theo 2 trường họp : Tĩnh và Động, để tạo ra 2 loại vật chất  mới là : Trung hòa tử  (Neutron, viết tắt là n) và Nguyên tử Khinh khí (Hydrogène, ký hiệu là H) theo 2 phương trình  :
- Kết hợp theo dạng tĩnh :
1 Électron + 1 Proton 1 Neutron
            e        +       p              n
Trung hòa tử (Neutron) là hạt không mang điện.
- Kết hợp theo dạng động :

Dương Điện tử nặng và to lớn hơn Âm Điện tử rất nhiều nên nó làm cái Nhân bên trong, còn Âm Điện tử  nhẹ mình nên quay tròn chung quanh Nhân, tạo thành một Nguyên tử  Khinh Khí  Hydrogène  H :

Đến giai đoạn nầy, ta có 4 loại hạt vật chất : 2 hạt cơ bản là Âm Điện tử (e) và Dương Điện tử (p), và 2 loại hạt mới là Trung hòa tử (n) và Nguyên tử Khinh khí (H).

Đây chính là Tứ Tượng do Lưỡng Nghi tạo ra :
.  Électron                    (e)  là Thái Âm.
.  Proton                      (p)   là Thái Dương.
.  Neuton                     (n)  là Thiếu Dương.
.  Hydrogène                (H)  là Thiếu Âm.

c) .  8 Nguyên tử đầu tiên :
Ba loại hạt nhỏ (vi tử) : e, p, n  luôn luôn xoay chuyển để tiếp tục kết hợp với nhau, lần lượt từ  ít đến nhiều, để tạo thành 8 Nguyên tử đầu tiên đứng đầu Bảng Phân loại Tuần hoàn các Nguyên tố.  

Các Proton (p) và Neutron (n) nặng hơn Électron (e) rất nhiều nên làm Nhân nguyên tử, còn Électron (e) thì nhẹ nên quay chung quanh Nhân. Hễ trong Nhân có bao nhiêu Proton  p  thì bên ngoài cũng phải có bấy nhiêu Électron  e  để cho điện tích của Nguyên tử  luôn luôn được trung hòa. Số Neutron  n  trong Nhân thì có số lượng tăng dần.

8 Nguyên tử đầu tiên được tạo thành, đánh số thứ tự từ 0 đến 7, có tên, ký hiệu và cơ cấu sau đây :

0.      Hélium,    ký hiệu He,  gồm có : 2e  2p  2n
1.      Lithium,         -   Li       -     3e  3p  4n
2.      Bérylium,      -   Be     -     4e  4p  5n
3.      Bohr,              -   B      -     5e  5p  6n
4.      Carbone,        -  C      -     6e  6p  6n
5.      Nitrogène,     -   N      -     7e  7p  7n
6.      Oxygène,       -   O      -    8e   8p  8n
7.      Fluor,             -   F       -     9e  9p  10n

Xem như thế, 8 Nguyên tử được tạo thành đầu tiên chính là Bát Quái, do Tứ Tượng biến sanh, và được so sánh như sau :

             CHẤN CÀN ĐOÀI LY TỐN KHẢM CẤN KHÔN
        He           Li         Be        B        C        N        O         F

Càn có tính thuần Dương, đối chiếu với nguyên tử Lithium (Li) có tính dương điện mạnh nhứt.

Khôn có tính thuần Âm, nên đối chiếu với nguyên tử Fluor (F) có tính âm điện mạnh nhứt.

d)  Các Nguyên tử khác trong
Bảng Phân loại  Tuần hoàn :
Sau khi đã tạo thành 8 Nguyên tử đầu tiên, các vi tử    e, p, n  tiếp tục kết hợp với nhau với số lượng càng lúc càng nhiều, càng lúc càng phức tạp để tạo thành một loạt các nguyên tử to lớn hơn, có tính chất đại cương gần giống như tính chất của 8 nguyên tử đầu tiên, tạo thành 8 nhóm nguyên tử, đánh số từ 0 đến 7, kể ra sau đây :

Tên nhóm :                0       1       2       3       4       5       6      7

8 nguyên tử đầu :    He       Li      Be     B      C      N      O     F

               Ne    Na    Mg    Al     Si   P       S     Cl

               Ar     K      Ca    Ga   Ge  As     Se   Br

               Kr        Rb   Sr   In      Sn   Sb   Te    I

              Xe     Cs    Ba   Tl   Pb   Bi      Po    At

                                . . . . . . . . . vv . . . . . . . . .  . . . . . . . . . . . . .

$Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra được 105 loại nguyên tử khác nhau nằm trong 8 nhóm kể trên. Ngoài ra,  mỗi nhóm còn có một nhóm phụ mà các nguyên tử có cấu tạo phức tạp, không tiện kể ra đây.

$Số 105 loại nguyên tử nầy kết hợp lại với nhau, tùy theo chất, để tạo thành các Đơn chất, và các Hợp chất, từ đơn giản đến phức tạp. Các Đơn chất và các Hợp chất tạo thành hệ thống vật chất trong CKVT với muôn hình muôn vẻ với muôn màu sắc  phong phú khác nhau.

Tám nguyên tử được hình thành đầu tiên ấy tương ứng với Bát Quái, vận chuyển và biến hóa vô cùng để tạo thành CKVT và vạn vật.

e)  Sự hình thành Vũ trụ :
Thái Cực là trung tâm của Vũ trụ. Thái Cực phát ra các tia sáng mang theo Quang tử truyền đi rất xa, với vận tốc 300.000 Km/giây. Đến một lúc nào đó, các Quang tử ngưng kết tạo thành các Âm điện tử. Nơi đó là giới hạn của Vũ trụ, và các Âm điện tử được tạo ra càng lúc càng nhiều, làm thành như những đám mây vĩ đại, đó là Khí Âm quang.

Mặt khác, các Quang tử từ Thái Cực phát ra cũng ngưng kết thành các Dương điện tử (Proton), và các Dương điện tử  tạo thành những đám mây vĩ đại Dương điện tử. Đó là  Khí Dương quang.

Các Dương điện tử có khối  lượng  rất  lớn  so  với  Âm điện tử, nên nó hút các Âm điện tử theo 2 lực : Lực hấp dẫn vạn vật và lực điện trường. Lúc ban đầu lực hút nầy không lớn lắm vì khoảng cách còn xa, nhưng khi khoảng cách càng gần thì lực hút trở nên rất mạnh (vì lực hút tỉ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách). Các Âm điện tử bị hút thật mạnh vào tâm vũ trụ, va chạm mãnh liệt với các Dương điện tử trong một trạng thái xoay chuyển cực kỳ mãnh liệt, một mặt kết hợp để tạo ra các phân tử  đơn chất và hợp chất, một mặt tạo ra sức nóng dữ dội càng lúc càng tăng, dần dần nhiệt độ lên tới hàng tỷ độ, sanh ra một áp suất cực lớn, gây ra một vụ nổ ghê gớm, xoay tròn bắn phá ra các quả cầu lửa lớn làm thành Mặt Trời.

Các khối cầu lửa lớn nầy tiếp tục quay tròn, bắn phá ra các quả cầu lửa nhỏ hơn tạo thành các Hành tinh. Các Hành tinh lớn lại tiếp tục bắn phá để tạo thành các Vệ tinh.

Vệ tinh và Hành tinh nguội dần, tạo ra lớp vỏ bao bọc bên ngoài. Khi nguội đến một nhiệt độ thích hợp thì lớp nước bao phủ Hành tinh tạo thành các đám mưa rơi xuống chảy thành sông và biển.

Khi đã có nước và ánh sáng Mặt Trời, sinh vật bắt đầu  xuất hiện, từ đơn giản lần lần đến phức tạp. Loài rong rêu xuất hiện trước nhứt, tiến hóa dần thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa thành Thú cầm, và sau cùng bực Thú cầm cao cấp tiến hóa thành Nhơn loại.

6.  Địa vị của Địa cầu chúng ta trong CKVT :
Vũ trụ Hữu hình gồm có : Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới ) và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu).
Tam thiên Thế giới thanh nhẹ hơn Thất thập nhị Địa, nên chiếm phần trên của Vũ trụ,Thất thập nhị Địa trọng trược hơn nên ở phần dưới của Vũ trụ.

Trong Tam thiên Thế giới cũng như trong Thất thập nhị Địa, các quả tinh cầu thanh nhẹ thì ở bên trên, các quả nặng trược thì ở bên dưới. Càng lên cao thì càng thanh nhẹ trong sáng, và càng xuống thấp thì càng nặng trược tối tăm.

Các Địa cầu trong dãy Thất thập nhị Địa được đánh số từ 1 đến 72, số 1 thì thanh nhẹ nhứt và số 72 thì nặng trược nhứt. Điạ cầu của nhơn loại chúng ta là Địa cầu số 68.

Phía dưới Địa cầu 68 của chúng ta có 4 quả Địa cầu : 69, 70, 71, và 72  rất trọng trược, chìm đắm trong cảnh tối tăm nên được gọi là U Minh Địa. Trình độ tiến hóa của 4 Địa cầu nầy còn rất kém so với Địa cầu 68 của chúng ta.

Nhưng trình dộ tiến hóa của Địa cầu 68 lại kém xa so với Địa cầu 67. Càng đi lên thì càng tiến hóa.
“ Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu 68 nầy, chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của  mỗi Địa cầu  càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1),  Tam thiên thế giới . . . ” (TNHT. I. 74)

Sự tiến hóa đi hết dãy Thất thập nhị Địa thì bước lên Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới), và cũng tiến hóa dần từ thấp lên cao.

Địa cầu 68 của chúng ta chỉ có 1 phần thanh, mà lại có 2 phần trược, nên Phật giáo gọi Địa cầu 68 là cõi Ta-bà, vì cõi nầy có nhiều ác trược, người tu phải nhẫn nhịn tối đa, nhưng nếu tu hành được thì rất mau đắc quả.

Trong Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Phật nói rằng : “Ở cõi Ta-bà nầy mà làm lành một ngày đêm, hơn làm lành một trăm năm nơi cõi của Phật A-Di-Đà. Tại sao vậy ? Vì cõi A-Di-Đà là vô vi tự nhiên, chứa đủ sự lành, không có một sự dữ nào dù nhỏ xíu như mảy lông sợi tóc.”

*  Phần VÔ HÌNH của VŨ TRỤ :

Như trong các phần vừa trình bày trên, Phần Hữu hình của Vũ trụ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có : Bên trên là Tam thiên thế giới và bên dưới là Thất thập nhị Địa. Tông cộng có tất cả 3072 ngôi sao.

Vũ trụ Hữu hình được tượng trưng bằng Trái Càn khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh.

Sự xoay chuyển của Tam thiên thế giới và Thất thập nhị Địa luôn luôn được đều hòa, không ngừng nghỉ, cái lên cái xuống, cái qua cái lại, không bao giờ va chạm nhau. Có được như thế là do sự điều khiển của các Đấng thiêng liêng vô hình.

Các tinh cầu và các quả Địa cầu luôn luôn được Đấng Thượng Đế ban cho Thần lực (tức là năng lượng thiêng liêng) vừa đủ để giúp cho sự chuyển động duy trì điều hòa, ổn định và không ngừng nghỉ.

Cũng giống như  một cái đồng hồ điện tử, cục pin nhỏ cung cấp năng lượng điện cho nó chạy đều hòa và không ngừng nghỉ. Nếu pin còn điện quá yếu hay hết điện thì năng lượng không đủ  cung cấp cho đồng hồ thì đồng hồ phải chạy chậm lại hay ngừng hẳn. Cho nên, nếu Đấng Thượng Đế cung cấp Thần lực cho các tinh cầu và các Địa cầu một cách không đều hòa và liên tục thì các quả cầu ấy sẽ chuyển động rối loạn hay ngừng quay, đó cũng là một cuộc Đại hủy diệt vậy.

Để điều khiển các sự vận chuyển của các tinh cầu và Địa cầu, cũng như điều khiển cuộc tiến hóa của cả Càn khôn, Đức Thượng Đế phải lập ra một guồng máy vô hình, gồm nhiều cơ quan là các từng Trời và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật để giúp tay cho Đức Thượng Đế.

Phần Vô hình của CKVT không thể thấy được mà chúng ta biết được là do Đức Thượng Đế giảng dạy qua Cơ bút, gồm có :
- Tam thập lục Thiên.
- Thập nhị Thiên và Cửu Trùng Thiên.
-  Tứ  Đại Bộ Châu.

1) Tam thập lục Thiên :
Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.

Ngôi Thái Cực ở tại Bạch Ngọc Kinh, nơi ấy là trung tâm của Càn khôn Vũ trụ. Thái Cực biến hóa ra Lưỡng Nghi : Âm quang và Dương quang. Thái Cực và Lưỡng Nghi hiệp lại thành 3 Ngôi Trời, gọi là Tam Thiên Vị, chiếm 3 từng Trời tại trung tâm của Vũ trụ.
Dưới Tam Thiên Vị là 33 từng Trời (Tam thập tam Thiên). Nhập chung lại thì đủ 36 từng Trời.
Nơi Tam thập lục Thiên là ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật.

2) Thập nhị Thiên - Cửu Trùng Thiên :
Thập nhị Thiên là 12 từng Trời.
Cửu Trùng Thiên là 9 từng Trời.
Cửu Trùng Thiên nằm trong Thập nhị Thiên.
Dưới Tam thập lục Thiên là Thập nhị Thiên.
Trong Thập nhị Thiên, bên trên có 3 từng Trời, kể ra :
-  Hỗn Nguơn Thiên, do Đức Phật Di-Lạc chưởng quản.
-  Hội Nguơn Thiên, cũng do Đức Phật Di-Lạc chưởng quản.
-  Hư Vô Thiên, do Đức Phật Nhiên Đăng chưởng quản.

Trong từng Trời Hư Vô Thiên có Ngọc Hư Cung, là nơi họp triều đình của Đức Chí Tôn, để điều hành toàn cả các hoạt động trong CKVT. Các Đấng Thần Thánh Tiên Phật họp Đại Hội để lập Thiên Điều cai quản Càn khôn.

Dưới 3 từng Trời nầy là Cửu Trùng Thiên, kể ra :
      - Tạo Hóa Thiên, do Đức Phật Mẫu chưởng quản.
      - Phi Tưởng Thiên, do Đức Từ Hàng Bồ Tát chưởng quản.
      - Hạo Nhiên Thiên, do Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và

Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản.
- Từng Trời thứ 6 : Kim Thiên,
- Từng Trời thứ 5 : Xích Thiên,
- Từng Trời thứ 4 : Huỳnh Thiên,
- Từng Trời thứ 3 :  Thanh Thiên,
- Từng Trời thứ 2  có Vườn Đào Tiên,
- Từng Trời thứ 1  có Vườn Ngạn Uyển.

Thập nhị Thiên là nơi làm việc của các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, điều hành tất cả các hoạt động của CKVT và sự tiến hóa của Vạn linh.

3) Tứ Đại Bộ Châu :
Có 2 Tứ Đại Bộ Châu : Trên và Dưới.
-  Tứ Đại Bộ Châu phía trên cai quản Tam thiên thế giới, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Thượng, gồm :
            . Bắc    Đại Bộ Châu
            . Đông Đại Bộ Châu
            . Nam  Đại Bộ Châu
            . Tây    Đại Bộ Châu.

-  Tứ Đại Bộ Châu bên dưới cai quản Thất thập nhị Địa, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Hạ, gồm :
. Bắc Cu Lư Châu
. Đông Thắng Thần Châu
. Nam Thiệm Bộ Châu
. Tây Ngưu Hóa Châu.

Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta ở trong Nam Thiệm Bộ Châu.

* Tổng Kết về Vũ Trụ Quan :
Vũ trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có 2 phần : Hữu Hình và Vô Hình.
Phần Vô hình rất quan trọng vì nó điều khiển toàn bộ các hoạt động của Phần Hữu hình.
Phần Vô hình ở tại vùng Trung tâm của Vũ trụ.
Phần Hữu hình nằm bên ngoài Phần Vô hình, và luôn luôn có chuyển động xoay tròn đều hòa và liên tục, không bao giờ ngừng nghỉ.

Phần Vô hình gồm : Tam thập lục Thiên (36 Từng Trời), Thập nhị Thiên (12 Từng Trời), và 2 Tứ Đại Bộ Châu Thượng và Hạ.

Phần Hữu hình gồm 3072 ngôi sao, chia ra : Tam thiên thế giới  (3000 Thế giới) ở bên trên và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu) ở bên dưới.

Trong khoảng không gian bao la không cùng tận, Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn là một khối cầu vĩ đại, trong đó có chứa 3072 ngôi sao.

Để có thể hình dung được các thành phần của Vũ trụ nầy, chúng ta tưởng tượng và so sánh với cái hột gà :
-  Cái ngòi ở giữa tròng đỏ hột gà là Trung tâm Vũ trụ.
-  Phần tròng đỏ hột gà là Phần Vô hình của Vũ trụ.
-  Phần tròng trắng hột gà là Phần Hữu hình của Vũtrụ.
-  Vỏ của hột gà là biên giới của Vũ trụ.

Sau đây là Bảng Tóm tắt cơ cấu thành phần của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn, kể từ Trung tâm Vũ trụ ra đến bên ngoài, biên của Vũ trụ

1 . TAM THẬP LỤC THIÊN
- Tam Thiên Vị
- 33 Từng Trời.

2 . THẬP NHỊ THIÊN
- Hỗn Nguơn Thiên
- Hội Nguơn Thiên
- Hư Vô Thiên
- Cửu Trùng Thiên
(9 Từng Trời)

3 . TỨ ĐẠI BỘ CHÂU THƯỢNG
Bắc Đông Nam Tây
Đại Đại Đại Đại
Bộ Bộ Bộ Bộ
Châu Châu Châu Châu

4. TAM THIÊN THẾ GIỚI

5. TỨ ĐẠI BỘ CHÂU HAÏ
Bắc Đông Nam Tây
Cu Thắng Thiệm Ngưu
Lư Thần Bộ Hóa
Châu Châu Châu Châu
6. THẤT THẬP NHỊ ĐỊA

CHUNG
  Home   1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét