Nhơn loại do thủy tổ A-đam và Ê-va sinh ra càng lúc
càng nhiều, và qua nhiều thế hệ, thì càng nhiễm
những ô trược của cõi trần, nên
say mê theo đường vật dục, xa lìa đạo đức, gây nhiều tội lỗi với ĐCT, nên Ngài
gây ra một cuộc Tận Thế với trận Đại
Hồng Thủy, tiêu diệt những kẻ hung ác, chỉ chừa lại gia đình Ông Nô-ê, con trai
và dâu, vì biết đạo đức, nhân nghĩa, công bình.
Vợ chồng Ông Nô-ê trở thành thủy tổ của loài người
sau nầy.
Từ gia đình Ông Nô-ê, loài người được sanh sản càng
lúc càng nhiều, qua nhiều thời kỳ, cũng dần dần tiêm nhiễm vật chất, xa đường
đạo đức. Đặc biệt loài người kiêu ngạo, toan
xây dựng Tháp Babel rất cao để đi vào nước Trời.
ĐCT giận dữ vì hành động quá lắm nầy, nên khiến cho
loài người chia ra nhiều thứ tiếng nói khác nhau, để sự bất đồng ngôn ngữ ấy mà
loài người chia rẽ, không xây được Tháp Babel.
Mỗi nhóm người với một thứ tiếng nói, phân tán đi
khắp các nơi để tìm đất sống, và sinh sôi nẩy nở càng lúc càng nhiều, tạo thành
nhiều dân tộc, ở khắp nơi trên địa cầu.
Dân tộc Do Thái là dân tộc được ĐCT chọn, đang bị
bắt làm nô lệ cho các vua Pha-ra-ôn của nước Ai Cập. ĐCT cảm thương nên sai Ông
Môi-se đến cứu dân tộc Do Thái thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dẫn dân Do
Thái đến lập quốc tại vùng đất tốt đẹp bên bờ biển Địa Trung Hải.
ĐCT qua trung gian của Ông Môi-se, dạy dân Do Thái
về đạo đức, luật lệ, lễ nghi thờ cúng ĐCT, và các điều Giới Răn, tạo thành Đạo
Do Thái cho dân tộc Do Thái. Ai tin và làm đúng theo đó thì được ĐCT rước lên
nước Trời hoàn toàn hạnh phúc; ai không tin và làm điều tội lỗi thì bị phạt xuống
Hỏa
ngục.
Đó là thời Thái cổ của nước Do Thái với nền tôn
giáo do Thánh Môi-se truyền bá là Do Thái giáo.
Nhưng loài người, kể cả dân Do Thái, lần lần sa ngã
vào vật dục, quên hết các điều răn dạy của ĐCT, gây biết bao tội lỗi. ĐCT không
nỡ giết chết hết, lại mở lòng thương, quyết định cho Ngôi Hai đầu thai xuống
trần, cứu chuộc tội lỗi loài người. Ngôi Hai giáng thế ấy là Đức Chúa Jésus
Christ.
Ngài khởi giảng tin lành, nhắc lại những điều răn
dạy của ĐCT mà Thánh Môi-se đã truyền lại.
Ngài mở ra kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, giảng đạo
trong 3 năm, thâu nhận 12 Thánh Tông đồ và rất nhiều người tin theo, rồi Ngài
vâng lịnh ĐCT, hiến mình trên Thập tự giá, chịu chết để lấy dòng máu thương yêu
trong trái tim thương yêu, chuộc tội cho loài người.
Ngài lấy cái chết của thể xác để cho nhơn loại
sống, nên linh hồn Ngài trở về ngự bên cạnh ĐCT.
4)
10 Điều Răn và các Nghĩa vụ :
Mười Điều Răn của Đạo Thiên Chúa, chính là 10 Điều
Răn mà ĐCT đã ghi trên 2 tấm bảng đá,
ban cho Thánh Môi-se trên núi Sinai để đem xuống dạy dân Do Thái :
- Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự.
- Không được lấy danh Thiên Chúa làm những việc
phàm tục.
- Dành ngày Chúa nhựt để thờ phụng Thiên Chúa.
- Thảo kính cha mẹ.
- Không được giết người.
- Không được Tà dâm.
- Không được gian tham, lấy của người khác.
- Không được làm chứng dối, che giấu sự gian dối.
- Không được ham muốn vợ hoặc chồng người.
- Không được ham muốn của cải trái lẽ.
Mười Điều Răn nói trên, quy lại 2 điều : Kính Chúa
và Yêu người.
Giáo Hội Thiên Chúa giáo qui định thêm 6 Điều Răn :
- Xem lễ ngày Chúa nhựt và các ngày lễ buộc.
- Kiêng việc xác ngày Chúa nhựt.
- Xưng tội
mỗi năm một lần.
- Chịu lễ mùa Phục sinh.
- Giữ chay những ngày qui định.
- Kiêng ăn thịt những ngày qui định.
Giáo Hội cũng qui định những nghĩa vụ cần thiết đối
với bản thân người tín đồ và đối với mọi người :
- Lấy điều thiện mà khuyên người.
- Hướng dẫn cho kẻ mê muội.
- Tha thứ cho kẻ khinh rẻ mình.
- Nhịn kẻ xúc phạm đến mình.
- Cầu nguyện cho người sống và người chết.
- Răn bảo kẻ có tội. - An ủi người lo âu.
- Cho kẻ đói ăn. - Cho kẻ khát uống.
- Cho kẻ rách mặc. - Cho khách ở nhờ.
- Cho người làm thuê. - Khiêm nhường.
- Chôn táng người chết. - Đoan chánh.
- Không hà tiện. - Siêng năng.
- Không tị hiềm. - Ăn uống điều độ.
- Thăm viếng người hoạn nạn.
Tóm lại, Giáo lý của Thiên Chúa giáo cho rằng, mọi
vật trong vũ trụ nầy đều do Thượng Đế tạo dựng và hóa sanh. Thượng Đế là Đấng
có quyền phép mầu nhiệm không thể đo lường, toàn năng, toàn tri, toàn thiện,
toàn mỹ.
Thượng Đế dùng bụi đất tạo nên hình hài thể xác của
con người rập theo hình ảnh của Thượng Đế, rồi Thượng Đế đặt vào thể xác ấy một
Linh hồn để thể xác ấy có sự sống.
Do đó, con người do Thượng Đế sáng tạo ra theo hình
ảnh của Ngài, nên rất được Thượng Đế trân trọng thương yêu. Ngài ban cho con
người trí khôn ngoan hơn vạn vật để thống trị vạn vật.
Khi thể xác con người chết đi thì thể xác ấy sẽ trở
về cát bụi vì nó do cát bụi tạo thành; còn Linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn và
trở về cõi Thiên đàng.
Vua loài Quỉ là Satan luôn luôn tìm cách cám dỗ con
người làm điều sái quấy, trái với lời răn dạy của Thượng Đế, để linh hồn con
người không được trở về Thiên đàng, bị phạt xuống Địa ngục mà làm tôi tớ cho
nó.
Tổ tiên loài người đã bị Quỉ Satan, trong lốt Rắn,
xúi dục ăn trái cấm, nên loài người mắc tội Tổ Tông truyền.
V . Các Phép Bí tích :
Bí tích là tất cả những gì thần thánh bí ẩn của
Thiên Chúa giáo, hoặc thuộc phạm vi Giáo lý, hoặc thuộc phạm vi Tế tự, thuộc
chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Jésus.
Phép Bí tích là những phép thuật mầu nhiệm mà khi
thi hành sẽ có những hiệu quả thiêng liêng mà ta không thể dùng trí phàm hay
mắt phàm mà có thể hiểu biết được.
Thiên Chúa giáo có tất cả 7 Phép Bí tích, chia ra 2
phần :
· Bí tích Trung tâm gồm 1 Bí tích : Bí tích Thánh
thể.
· Bí tích ngoại biên gồm 6 Bí tích, chia ra :
- 2 Bí tích
Khai tâm: . Bí tích Rửa
tội.
. Bí tích
Thêm sức.
- 2 Bí tích
Y dược: . Bí tích Giải
tội.
. Bí tích
Xức dầu.
- 2 Bí tích
Xã hội: . Bí tích
Truyền chức.
. Bí tích
Hôn phối.
1)
Bí tích Thánh thể :
Bí tích Thánh thể
còn được gọi là Bí Tích Mình Thánh Chúa,
là sự tái diễn việc Chúa Jésus đã hiến dâng thân thể cho sự cứu chuộc.
Bí tích Thánh thể dựa theo sự tích “Bữa tiệc cuối
cùng” của Đức Chúa Jésus với các môn đồ trong Lễ Vượt qua. Đức Chúa Jésus lấy
bánh và rượu nho cho các môn đệ, nói rằng : “ Các ngươi hãy nhận lấy, đây là
mình của ta, đây là máu của ta, máu của ta sẽ đổ xuống để chuộc tội cho loài
người.”
Theo Giáo lý của Thiên Chúa giáo, sự cứu chuộc của
Chúa vẫn tiếp tục trong mầu nhiệm của Bí
tích Thánh thể.
Bí tích Thánh thể là đỉnh cao, là nguồn mạch trong
đời sống tín ngưỡng của các tín đồ. Tất cả Bí tích khác, cũng như các hoạt động
phụng tự đều hướng vào Bí tích nầy.
Nghi lễ Phép Bí tích Thánh thể được cử hành trọng
thể tại Nhà Thờ, gọi là Thánh lễ Misa.
Trong việc cử hành Bí tích Thánh thể, quan trọng
nhứt là vị chủ
lễ (Giám Mục, Linh Mục) đọc
lời truyền phép Thánh thể theo qui định của Giáo Hội, để
Bánh làm bằng bột mì và Rượu làm bằng nho trở thành thịt Chúa và máu Chúa.
Tín đồ, sau khi đã Xưng tội và được Giải tội, thì
được chịu phép Thánh thể, tức là được ăn một miếng Bánh hay một phần chiếc Bánh
nhỏ đã được làm phép để Chúa sẽ ngự trong lòng họ, bởi vì Chúa có nói rằng : “
Ai ăn thịt ta và uống máu ta, sẽ ở trong ta và ta sẽ ở trong người ấy.”
Theo qui định của Giáo Hội, sau khi chịu phép Bí
tích Thánh thể (phép Mình Thánh) lần đầu, tín đồ phải chịu phép nầy mỗi năm ít
nhất một lần.
2)
Bí tích Rửa tội :
Bí tích Rửa tội để rửa sạch tội Tổ Tông và các thứ
tội khác, để trở thành tín đồ của Chúa,
thắng được vật dục, thoát khỏi quyền của Quỉ, được ân sủng của Đức Chúa Jésus.
Bí tích Rửa tội thực hiện dễ dàng với trẻ em của
những gia đình có đạo, nhưng đối với người lớn thì phải có chuẩn bị về mặt Tâm
lý và phải Sám hối về những tội lỗi đã qua.
Bí tích Rửa tội thực hiện rất đơn giản, dùng nước
Thánh dội lên đầu người chịu phép với câu nguyện bằng tiếng La tinh mà Chúa
Jésus truyền phải dùng : “Ego te baptizo in nomine Patris, et Filii, et
Spiritus Sancti.” (Ta rửa con , nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.)
Bí tích Rửa tội do các Linh Mục Chánh Xứ thực hiện.
3)
Bí tích Thêm sức :
Bí tích Thêm sức giúp cho tín đồ được ơn Chúa Thánh
Thần mà liên kết chặt chẽ với Giáo Hội,
vững lòng tin để đi sâu vào đời sống tín ngưỡng, như
trước đây, khi Đức Chúa
Jésus lên
Trời, các Thánh Tông đồ bơ vơ, Chúa Thánh Thần hiện xuống an ủi và ban sức mạnh
cho họ.
Bí tích Thêm sức chỉ làm cho người nào đã chịu Phép
Rửa tội (Thánh tẩy). Nghi lễ được tiến hành bằng việc bôi một thứ dầu thảo mộc
lên trán của người chịu phép Bí tích nầy, và đọc một đoạn kinh ngắn bằng tiếng
La tinh.
Bí tích Thêm sức do Giám Mục thực hiện trong Nhà
Thờ trong dịp Lễ Misa.
Tóm lại, 2 Bí tích Rửa tội (Thánh tẩy) và Thêm sức
:
- Đối với
Đức Chúa Jésus, Thánh tẩy ban ơn tái sinh, Thêm sức ban ơn cường tráng, ân sủng
sung mãn.
- Đối với cơ
thể siêu nhiên, Rửa tội thích nghi cơ thể đó để làm việc tư nhiều hơn, còn Thêm sức chuẩn bị cho tâm hồn
gánh việc công.
- Đối với
Giáo Hội, Thánh tẩy nhập hiệp tín đồ vào đại gia đình các Thánh, Thêm sức
khuếch trương gia đình đó ở trong và ở ngoài, trong phương diện nội trương và
ngoại trương.
4)
Bí tích Giải tội :
Bí tích Giải tội là để tha thứ tội lỗi đã mắc phải.
Người được giải tội phải tự xét về hành vi phạm tội của mình, đối chiếu các
Điều Giới Răn, rồi xưng tội với vị Linh Mục một cách thành khẩn.
Vị Linh Mục, với tư cách thay mặt Chúa, ngồi trong
Tòa Giải tội, luận xét tha tội, hoặc định ra những hình thức sửa chữa đền tội
bằng những việc làm nhân đức.
Luật của Giáo Hội qui định mỗi năm tín đồ phải xưng tội ít
nhất một lần.
5)
Bí tích Xức dầu :
Bí tích Xức dầu Thánh được thực hiện đối với bệnh
nhân lúc tịnh dưỡng hay trong cơn nguy ngập để xin Thiên Chúa nâng đỡ và cứu
vớt.
Các Giám Mục thực hiện phép chuyển dầu thực vật
thành dầu Thánh. Các Linh Mục thực hiện Bí tích xức dầu Thánh bằng việc dùng
dầu Thánh xức lên trán hoặc thân thể bệnh nhân, và đọc lời cầu nguyện theo qui
định.
Bí tích Giải tội để chữa bịnh linh hồn, tha tội và
tha hình phạt Hỏa ngục, đó là Bí tích điều trị. Nhưng khi bệnh nhân hết bịnh,
cơ thể cần tịnh dưỡng, thì Bí tích Xức dầu Thánh được thiết lập và được coi là
bổ túc Bí tích Giải tội.
Bí tích Xức dầu Thánh cũng dành cho người gần khuất
bóng, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời.
6)
Bí tích Truyền chức :
Bí tích Truyền chức được thực hiện với các tín đồ
trở thành Thùa Tác viên của Chúa : Giám
Mục, Linh Mục, Phó Tế, để thay mặt Chúa chăn dắt tín đồ.
Bí tích Truyền chức được thực hiện trong Lễ Tấn
phong, bằng cách người truyền chức đặt tay lên người được truyền chức và đọc
lời kinh cầu nguyện :
* Truyền chức Phó Tế : Giám Mục đặt tay lên vị Phó
Tế:
“Lạy Chúa, xin Chúa sai Chúa Thánh Thần xuống người
nầy để họ được 7 ơn Chúa kiên cường, hầu trung thành chu toàn nhiệm vụ.”
* Truyền chức Linh Mục : Giám Mục đặt tay lên vị
Linh Mục :
“ Lạy CHA toàn năng, xin CHA trao chức Linh Mục cho
tôi tớ Chúa đây, xin Chúa cải tân tâm hồn họ bằng Thánh Thần của Chúa, để họ
nhận lấy sứ mệnh có công bậc nhì, đã được chính Chúa ưng chuẩn.”
* Truyền chức Giám Mục :
“ Xin Chúa trao hết chức quyền cho Linh Mục của
Chúa, xin Chúa lấy dầu trên Trời Thánh hóa vị đã được trang sức đầy vẻ vinh
quang.”
Bí tích Truyền chức trao cho người thụ chức những
hiệu quả : được trao chức Thánh, sứ mệnh
Thánh và hưởng đầy ân sủng của Chúa.
7) Bí
tích Hôn phối :
Bí tích Hôn phối là sự nhìn nhận của Thiên Chúa đối
với đôi Tân hôn Nam Nữ đã chịu phép Rửa tội, để họ chung sống trọn đời với
nhau.
Bí tích Hôn phối Thánh hóa hôn nhân, Thánh hóa các
tác động phu thê trong tình thương yêu chơn thật.
Bí tích Hôn phối làm tăng cường tính duy nhất và
bền vững trong hôn nhân và quan hệ gia đình của tín đồ.
VI . Các Dòng Tu :
Trong Công giáo, bên cạnh các tổ chức mang tánh
cách hành chánh điều khiển các hoạt động của Giáo Hội, như đã trình bày ở các
phần trên, còn có tổ chức một hệ thống các Dòng Tu hoạt động rất mạnh.
Theo Giáo luật, Dòng Tu (L’Ordre des religieux) là
một tập thể tín đồ từ bỏ cuộc sống thế tục
để cống hiến trọn đời cho Đạo pháp, góp phần cùng
Giáo Hội cứu rỗi nhơn loại.
Khi chấp nhận hiến thân trọn đời cho Đạo, tín đồ phải lập
thệ :
- Thanh khiết, là giữ cuộc đời độc thân trọn vẹn.
- Thanh bần, là giữ cuộc đời trong sạch nghèo nàn.
- Vâng phục, là nghe lời bậc Bề trên dạy dỗ.
- Huynh đệ, là sống trong đại gia đình với tình anh
em.
a) Tổ chức các Dòng Tu :
Mỗi Dòng Tu có hiến chương riêng và qui chế hoạt động riêng. Hệ thống tổ
chức trong Dòng Tu thường có 3 cấp :
- Bề trên Dòng, còn gọi là Bề Trên Cả hay Bề Trên
Tổng Quyền.
- Tỉnh Dòng.
- Các Tu viện và các cơ sở hoạt động.
Mỗi Dòng Tu thường tổ chức Đại Hội định kỳ để tổng
kết và đánh giá tình hình hoạt động, đề ra chương trình, thay đổi nhơn sự lãnh
đạo.
b)
Phân loại các Dòng Tu :
Có 2 cách phân loại các Dòng Tu :
1) Phân loại theo Qui chế : 2 loại.
- Dòng Tu theo Qui chế Tòa Thánh, là những Dòng Tu
lớn, có từ lâu đời, mang tính chất quốc tế, đặt cơ quan Trung ương tại Tòa
Thánh La Mã, như các Dòng Tu: Bơ-noa, Đô-mi-ni-cô, Phăn-xi-cô, Dòng Chúa Cứu
thế, . . .
- Dòng tu theo Qui chế Giáo Phận, thuộc quyền điều
khiển trực tiếp của Giám Mục Giáo Phận. Một số Dòng Tu theo Qui chế Giáo Phận ở
VN như : Dòng Thánh Tâm ở Giáo Phận Huế, Dòng Giu-se ở Giáo
Phận Nha Trang, . . .
2)
Phân loại theo cách hoạt động : 2 loại.
- Dòng Tu Chiêm niệm (Contemplatif) chuyên chú vào
việc tụng kinh, trầm tư chiêm nghiệm (Thiền định) và tự lao động để sinh sống.
Những tu sĩ trong Dòng Chiêm niệm thường không ra ngoài hoạt động, chỉ ở trong
các nhà tu kín.
Một số Dòng
Tu Chiêm niệm như : Dòng Bơ-noa, Dòng Ca-mê-lô, . . .
- Dòng Tu hoạt động (Actif) chuyên chú về các hoạt
động xã hội dưới nhiều hình thức :
. Hình thức tôn giáo : như giảng dạy Giáo lý, Thần
học, Truyền giáo.
. Hình thức từ thiện : như Giáo dục, Y
tế, Cứu trợ.
Các Dòng nầy như : Dòng Tên, Dòng Đô-mi-ni-cô, . .
.
2)
Phân loại theo Giới tính : Nam và Nữ phái.
Phụ nữ Công
giáo chỉ được tham gia vào các Dòng Tu, không được huấn luyện để trở thành Linh
Mục, Giám Mục, lãnh đạo các cấp hành chánh của Giáo Hội. Đây cũng là một thiệt
thòi lớn cho Nữ phái Công giáo.
Các Dòng Tu chỉ gồm toàn là tu sĩ Nam phái, hoặc
gồm toàn Nữ phái, không có Dòng Tu nào vừa có Nam tu sĩ, vừa có Nữ tu sĩ.
Các tu sĩ
trong Dòng Tu được phân làm 2 bực : Các tu sĩ thường (Nam gọi là Frère :
Huynh, Nữ gọi là Soeur [Bà sơ] : Tỷ), và bên trên là các Linh Mục
bên Dòng Tu Nam phái, và Bà Bề Trên bên Dòng Tu Nữ phái.
Các Linh Mục Dòng được đào tạo như các Linh Mục bên
Giáo triều và có các hoạt động như Linh Mục Giáo triều, nhưng chỉ hoạt động
trong Dòng Tu mà thôi. Tuy nhiên, cũng có Dòng Tu không có Linh Mục, như Dòng
Tu La-san (Lasal).
3) Một số Dòng Tu Nam :
- Dòng BƠ-NOA (Ordre de Saint Benoit, viết tắt OSB)
Đây là Dòng Tu cổ nhất của Giáo Hội La Mã, do
Benoit de Nurci lập ra từ năm 529 ở Monte-Cassino (Italia). Dòng Benoit ra đời
đưa các tu sĩ sống độc thân vào cuộc sống tập thể trong các Tu Viện, mở đầu
thời kỳ Chủ nghĩa Tu Viện Thiên Chúa giáo.
Chủ đích của Dòng Bơ-noa là chiêm niệm, lao động
chân tay, nghiên cứu Thần học và Phụng vụ.
Vào thời Trung cổ, Dòng Bơ-noa có những đóng góp
quan trọng trong việc hướng dẫn dân chúng Âu Châu trồng trọt, chăn nuôi, chế
thuốc trị bịnh.
Y phục của Tu sĩ Dòng nầy là áo chùng đen, thắt
lựng da, ngoài phủ vải đen.
Dòng Bơ-noa truyền vào VN từ năm 1935, có các cơ sở
ở Đà Lạt và Huế.
- Dòng
ĐÔ-MI-NI-CÔ (Odre de Dominicains : OD) :
Dòng nầy còn gọi là Dòng Đa Minh do Dominique lập năm 1206 ở Toulouse nước
Pháp.
Chủ đích của Dòng là thuyết giảng, nên còn gọi là Dòng Thuyết giảng (Odre
des Prêcheurs hay Odre des Frères Prêcheurs), để khuyến tu kẻ ngoại đạo trong
các cuộc Thánh chiến chống Hồi giáo.
Y phục của các tu sĩ Dòng nầy là áo chùng trắng và khăn phủ ngoài cũng
trắng.
Dòng Đô-mi-ni-cô truyền vào VN vào thế kỷ 16 do các Giáo sĩ Dô-mi-ni-cô Tây Ban Nha. Họ giảng đạo và điều
khiển Địa Phận Bùi Chu, sau đó tách ra thành Địa Phận Thái Bình, Hải Phòng, Bắc
Ninh.
Năm 1930, có thêm các Giáo sĩ Dòng
Đô-mi-ni-cô vào truyền giáo đến Lạng sơn.
Năm 1954, Các Giáo sĩ Dòng nầy chuyển vào xây dựng các cơ sở ở miền Nam
VN.
- Dòng
PHĂN-XI-CÔ (Ordre des Franciscains : OF) :
Dòng Phăn-xi-cô do Francois lập năm 1209 tại Assises nước Italia, chủ
trương việc giảng thuyết chỉ được xem như là một trong những hoạt động từ
thiện, như chăm sóc người tàn tật, kẻ đau ốm cô độc.
Y phục của các Tu sĩ Dòng nầy giống như của Dòng Bơ-noa, nhưng màu dà, có thắt lưng, chân đi dép.
Dòng Phănxicô truyền vào VN với danh nghĩa là “Anh
em hèn mọn” (Odre des Frères Mineurs, viết tắt là OFM), lập cơ sở đầu tiên ở
Vinh, Thanh Hóa, sau đó là Nha Trang và Sàigòn.
- Dòng TÊN (Odre de Jésuites, viết
tắt là OJ) :
Dòng Tên tức là Dòng Jésus, do một người lính Thánh giá người Tây Ban Nha tên Igntis lập
ra năm 1584, để chống lại phong trào cải cách tôn giáo, đồng thời đáp ứng nhu
cầu truyền giáo ra nước ngoài của Giáo Hội. Dòng Tên đặt dưới sự điều khiển
trực tiếp của Đức Giáo Hoàng, được chọn lọc để tiếp nhận những người quí phái,
những nhà trí thức và khoa học. Thực tế, Dòng Tên là tuyến đầu phòng thủ của
Giáo Hội, có mặt khắp nơi trên thế giới, chi phối được nhiều chánh phủ của
nhiều nước. Năm 1759, Dòng Tên bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha; năm 1762, và năm
1820 Dòng Tên bị trục xuất khỏi nước Pháp.
Năm 1773, Giáo Hoàng Clê-măng giải tán Dòng Tên, và
đến năm 1841, Giáo Hoàng Piô VII mới cho
phục hồi lại.
Hiện nay, Dòng Tên có mặt tại 100 nước trên thế
giới với khoảng 30.000 Giáo sĩ.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Tên giống hệt như y phục của Linh Mục Giáo triều.
Giáo sĩ Dòng Tên vào VN rất sớm, vào thời Trịnh
Nguyễn phân tranh. Dòng Tên mất dần ảnh hưởng tại VN khi Đức Giáo Hoàng cho
phép Hội Thừa Sai Paris (MEF) được độc quyền truyền giáo tại VN.
Năm 1957, Tổng Thống Ngô đình Diệm mới cho Dòng Tên
trở lại hoạt động tại Miền Nam VN.
- Dòng KHỔ TU (Ordre de
Trappistes : OT) :
Dòng Khổ Tu còn gọi là Dòng Xi-tô vì được thành lập tại Citeaux nước Pháp vào năm
1098 bởi Robert de Mondesme và sau nầy được Benard củng cố và bổ sung.
Dòng Khổ Tu đề cao cuộc sống ép xác kham khổ, không
ăn thịt cá, đi chân đất, lao động chân tay, chuyên bề chiêm niệm.
Dòng Khổ Tu đào tạo được nhiều Giáo Sĩ cao cấp cho
Giáo Hội, là những bậc chơn tu. Riêng trong thế kỷ 17, đào tạo được 11 Hồng Y
và 75 Giám Mục.
Y phục của Dòng Khổ Tu là áo chùng trắng, thắt lưng
da, tấm vải phủ ngoài màu đen.
Tại VN, vào năm 1920, một Linh Mục người Pháp, dựa
trên qui chế Dòng Khổ Tu, lập ra tại Quảng Trị, tự coi là một nhánh của Dòng
Bơ-noa, sau nầy sáp nhập với các Giáo Sĩ
Dòng Khổ Tu từ Pháp sang, gọi là Dòng Phước Sơn.
Việc sáp nhập trên không được Bề Trên của Dòng Khổ
Tu tại Pháp hài lòng, nên họ đưa thêm một số Giáo Sĩ khác qua lập những cơ sở
khác như ở Mỹ Ca, Châu Sơn, Phước Lý, . . .
- Dòng CHÚA CỨU THẾ (Congrégation du Très Saint Redemptoriestes,
viết tắt là : CSR) :
Dòng Chúa Cứu Thế do Alphonse de Liguori lập ra ở Naples (Ý) vào thế kỷ 18
trong hoàn cảnh cuộc Cách mạng Tư sản ở các nước Âu Châu liên tiếp nổ ra. Dòng Chúa
Cứu Thế phát triển rất nhanh ở Châu Âu và truyền sang Bắc Mỹ.
Giáo sĩ Dòng nầy thường đi thuyết giảng Giáo lý và
đạo đức ở các Xứ đạo trong tuần làm phúc, và đi truyền đạo ở các vùng chưa có
Công giáo.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế có màu đen, cổ
trắng, thắt lưng vải, đeo tràng hạt.
Dòng nầy vào VN năm 1925, chủ yếu do các Giáo sĩ
người Canada, lập các cơ sở tập trung ở Sàigòn, Nha trang, Vĩnh Long, Đà Lạt.
- Dòng LA-SAN (Ordre des Lasaliens, viết tắt OL) :
Dòng Lasan do Jean Baptist de Lasal
lập ra, chuyên dạy học trò ở bậc Trung học, nên còn được gọi là Dòng Sư Huynh, tiếng
Pháp là : Ordre des Frères d’Écoles Chrétiennes, viết tắt : OFEC.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Lasan giống như Linh Mục
của Giáo Hội, có miếng vải trắng trước cổ.
Dòng Lasan vào VN qua các Giáo sĩ người Pháp. Trước
đây họ mở nhiều Trường Trung học dạy chương trình Pháp như trường Lasan Taberd
ở Sàigòn, trường Pellerin ở Huế, trường Pujinier ở Hà Nội.
- Dòng
BOSCO (Ordre de Salesiens, viết tắt OS)
:
Dòng Bosco do Don Bosco
lập ra ở nước Ý vào cuối thế kỷ 18. Chủ đích của Dòng là dạy nghề và dạy văn hóa cho thiếu
niên nghèo, thất học.
Dòng Bosco vào VN vào
khoảng năm 1940, lập cơ sở tại Gò Vấp
Sàigòn, sau phát triển lên Đà Lạt.
- Dòng GIOAN THIÊN CHÚA
(Ordre des Hospita-liers, viết tắt OH) :
Dòng nầy được lập ra từ
thế kỷ 14 với chủ đích chữa bịnh bằng Đức Tin vào Thiên Chúa và tình thương yêu chăm sóc
của thầy thuốc.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Gioan Thiên Chúa giống y
như Giáo sĩ Dòng Bơ-noa.
Dòng nầy vào VN năm 1938, do một nhóm tu sĩ người
Canada, lập ra những cơ sở đầu tiên ở Sài gòn và Hà Nội. Sau năm 1954,
các cơ sở ở HàNội dời vào Đà Nẳng và Biên Hòa.
4) Một số Dòng Tu Nữ :
- Dòng BƠ-NOA : Dòng Bơ-noa do Benoit lập ra từ thế kỷ thứ 5, thật tế nó
là Dòng Tu dành cho phụ nữ chuyên
về Chiêm niệm. Nữ tu Dòng Benoit có y phục giống như bên Nam phái, nhưng thêm
khăn đen và lúp che đầu.
Dòng Nữ tu Benoit sang VN vào năm 1935, do các Nữ
tu người Pháp, lập cơ sở đầu tiên tại Ban Mê Thuộc, sau chuyển về Thủ Đức.
- Dòng OISEAUX: tức Dòng Nữ Tu Thánh Augustine,
nhưng gọi theo tiếng Pháp là : Couvent des Oiseaux.
Chủ đích của Dòng Nữ Tu Oiseaux là giáo dục văn hóa
và nghề nghiệp cho phụ nữ trở thành những Nữ trí thức. Dòng Nữ Tu nầy sống
phóng khoáng, giao tiếp bình thường với người bên ngoài, nên y phục của họ cũng
bình thường, chỉ thêm cái khăn phủ đầu màu xám.
Dòng Oiseaux truyền sang VN từ năm 1950 do các Nữ
Tu người Pháp, có mở cơ sở là trường học tại Sàigòn.
- Dòng
PHAOLÔ :
Dòng Nữ Tu Phaolô được lập ra ở Pháp, hoạt động
theo gương của Thánh Phaolô, với nội dung chủ yếu là : Giáo dục, Y tế,
Xã hội.
Y phục của Dòng Nữ Tu nầy toàn màu trắng, lúp che
đầu cũng trắng (nên gọi là Bà Sơ trắng), đôi khi cũng mặc y phục đen, nhưng cái
lúp trên đầu vẫn giữ màu trắng.
Dòng Phaolô vào VN vào năm 1860, lập ra các Bệnh
viện, Trường học, Cô nhi viện, ở Sàigòn, Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Sau
năm 1954 thì dời vào miền Nam.
- Dòng BÁC ÁI
VINH SƠN :
Dòng Nữ Tu Bác Ái Vinh Sơn do Vincent lập ra tại
Paris nước Pháp vào thế kỷ 17 trong hoàn cảnh nước Pháp bị loạn lạc. Chủ đích
của Dòng là công tác cứu tế xã hội.
Y phục của các Nữ Tu Dòng nầy có màu xanh, lúp che
đầu cũng màu xanh, nên gọi là các Bà Sơ xanh.
Năm 1935, một số Nữ Tu Dòng Bác ái Vinh sơn đến lập
cơ sở tại Đà Lạt, Sàigòn, và phát triển ra các nơi khác như Nha Trang, Ban Mê
Thuộc.
- Dòng PHĂN-XI-CÔ :
Dòng Nữ Tu Phănxicô do Nữ Tu người Pháp lập ra từ
thế kỷ 18, chọn các hoạt động từ thiện và dạy học.
Y phục của Dòng nầy có màu tro, có lúp che đầu.
Dòng Nữ Tu Phănxicô lập cơ sở đầu tiên ở VN là Trại
Cùi Qui Nhơn vào năm 1930, sau đó có lập những cơ sở từ thiện khác ở
Sàigòn và Đà Lạt.
- Dòng ĐỨC BÀ :
Dòng Nữ Tu Đức Bà lập ra ở nước Pháp vào thế kỷ 18.
Chủ đích của Dòng là lo dạy học và công tác xã hội.
Y phục của các Nữ Tu Dòng nầy giống như Dòng
Phănxicô nhưng có tấm vải trắng phủ từ sau ra trước, có viền xanh, lúp đầu màu
trắng.
Dòng Đức Bà lập cơ sở đầu tiên ở Hà Nội, năm 1934.
Sau đó chuyển vào Nam lập ở ĐàLạt, Nha Trang, Phan Thiết.
- Dòng MẾN THÁNH GIÁ :
Dòng Nữ Tu Mến Thánh Giá do các Linh Mục Dòng Tên
lập ra cùng một thời kỳ với các tổ chức Thầy giảng, từ thế kỷ 17 và 18. Trong
thời kỳ đầu, các Nữ Tu sống đơn giản, chủ yếu là cầu nguyện, giúp việc dạy Giáo
lý và một số công việc khác của Giáo Hội.
Sau nầy, qua nhiều lần cải cách, hình thành các qui
chế chặt chẽ, có lời khấn, có trường học và trường tập.
VII . Hai Chi Phái lớn :
Thiên Chúa Giáo do Đức Chúa Jésus Christ lãnh lịnh
Đức Chúa Trời giáng trần mở đạo, để giáo hóa và cứu rỗi nhơn loại, và Đức Chúa
Jésus Christ là Giáo chủ của Thiên Chúa Giáo.
Đến thế kỷ 11, hàng giáo phẩm cao cấp của Thiên
Chúa Giáo, do bất đồng với Đức Giáo Hoàng, nên tách ra, lập Chính Thống giáo
tại thủ đô Constantinople ở Thổ Nhĩ Kỳ,
truyền bá vùng Đông Âu.
Đến thế kỷ 16, một Linh Mục tại nước Đức là Martin
Luther công bố 95 Luận Đeà cải cách
Thiên Chúa Giáo, đó là bước khởi đầu tách ra lập Đạo Tin Lành, truyền bá mạnh
mẽ tại Bắc Âu Châu, Bắc Mỹ, rồi lan ra khắp thế giới.
Như thế, Thiên Chúa giáo có 2 Chi Phái
lớn là :
- Chính Thống giáo (Orthodoxie)
- Đạo Tin
Lành (Protestantisme) và từ đó, Thiên Chúa giáo ở La Mã được gọi là Công giáo.
A . Chính Thống giáo :
Nguyên vào thế kỷ thứ 4, Hoàng đế La Mã là
Constantin (270-337) dời thủ đô từ La Mã (Rôma) đến Constantinople thuộc Thổ
Nhĩ Kỳ. Trước kia, thành phố ấy tên là Bizance, Hoàng đế Constantin xây dựng
làm thủ đô mới, đổi tên lại là
Constantinople (lấy tên của Hoàng đế đặt tên cho thủ đô mới). Do đó, tại thủ đô mới nầy, hình thành một Trung tâm Thiên Chúa Giáo
đứng thứ nhì sau La Mã.
Giáo hội tại Constantinople được gọi là Giáo hội
Đông, và Giáo hội tại La Mã được gọi là
Giáo hội Tây. Đức Giáo Hoàng ở tại La
Mã.
Hai Giáo hội
vẫn thông đồng chặt chẽ, và Giáo hội Đông vẫn tùng lịnh của Đức Giáo Hoàng ở Giáo
hội Tây. Nhưng dần dần, những mâu thuẩn bắt đầu
xảy ra, và Giáo Hội Đông nhận thấy Giáo Hoàng có nhiều hành vi can thiệp
vào thế tục quá đáng, nên bất mãn.
Sự việc nổ bùng ra vào năm 1054, giữa thế kỷ 11,
khi Đức Giáo Hoàng La Mã sai sứ giả đến Constantinople, đặt trên Bàn thờ Thánh
đường Santa Sophia Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng cắt đứt quan hệ với Giáo hội
Đông và phạt vạ Thượng Phụ Giáo Chủ của Giáo hội Đông.
Liền đó, Thượng Phụ Giáo Chủ Mi-ca-e của Giáo hội
Đông phản ứng quyết liệt bằng cách triệu tập Đại Hội Công Đồng Giáo hội Đông,
tuyên bố tuyệt giao với Giáo Hoàng và phạt vạ Giáo Hoàng La Mã.
Thế là kể từ đó, Giáo hội Đông thành lập Chính
Thống giáo. Dùng từ ngữ Chính Thống giáo là để tỏ rằng, tuy tách ra từ Giáo hội
La Mã, nhưng vẫn giữ được Chánh đạo chánh truyền, chớ không phải là Tà đạo hay
Lạc giáo mà Giáo Hội La Mã đã gán cho họ.
Do đó, tính bảo thủ là nguyên tắc đặc trưng nổi bật
của Chính Thống giáo. Giáo lý của Chính Thống giáo hầu hết đều giống với Công
giáo La Mã, chỉ có một số ít khác nhau :
1)
Về Thiên Chúa 3 Ngôi :
- Công giáo : Ngôi 1 là CHA, Ngôi 2 là CON, Ngôi 3
là THÁNH THẦN. Tuy 3 Ngôi nhưng đồng bản thể cùng Thiên Chúa. Ngôi 1 sanh Ngôi
2, Ngôi 1 và 2 sanh ra Ngôi 3.
- Chính Thống giáo : Ngôi 1 sanh ra Ngôi 2, Ngôi 2
sanh ra Ngôi 3.
2)
Thiên Chúa giáo tin vào vô nhiễm thai.
Chính Thống giáo không tin điều đó.
3)
Thiên Chúa giáo : Đức Giáo Hoàng không bao giờ sai lầm về Đức tin, tức là không sai lầm
khi ban bố một tín điều hay một Sắc lịnh của Giáo Hội.
Chính Thống giáo : Không tin vào tính chất không
sai lầm của Giáo Hoàng La Mã, chỉ thừa nhận tính chất không sai lầm của Giáo
Hội, chớ không phải người cầm đầu Giáo Hội.
4) Chính Thống giáo : Chỉ có Đức Chúa Jésus mới là Giáo chủ duy nhất; không chấp nhận nơi
chuộc tội.
5)
Chính Thống giáo không có một Trung tâm Giáo hội Thống nhứt như Công giáo La
Mã, mà nó gồm 15 Giáo hội Chính Thống độc lập, kể ra :
- Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ) - Nga
- Alexandrie (Ai Cập) - Grudi
- Antoiny (Syrie, Liban) - Serbie (Nam Tư)
- Bulgarie -
Roumanie
- Chypre - En-lát (Hy-Lạp)
- Albanie -
Ba Lan
- Tiệp Khắc -
Châu Mỹ
- Châu Đại Dương.
Phạm vi hoạt động của Chính Thống giáo là ở vùng
các nước Đông Âu.
Số tín đồ của Chính Thống giáo và của Đạo Tin Lành
được thống kê nơi Phần I trong bài nghiên cứu nầy.
B.
Đạo TIN LÀNH :
(Xem chi tiết nơi phần sau : Đạo Tin Lành)
* Ngoài 2 Chi Phái lớn của Thiên Chúa giáo kể trên, còn có nhiều Chi
phái nhỏ khác nẩy sanh từ Công giáo hay từ Chính Thống giáo hoặc từ Đạo Tin
Lành. Xin kể ra một số Chi phái nhỏ sau đây :
1 . Các Giáo hội Công giáo
Đông phương :
Đây là các Giáo hội theo nghi lễ Đông phương, gần
giống như các Giáo hội Chính Thống giáo ở Cận Đông, Đông Âu và Ấn Độ.
Từ thế kỷ 16, các Giáo hội Công giáo Đông phương
nầy đã thông hảo với Tòa Thánh La Mã.
Mặc dầu có ít tín đồ, chừng 14 triệu, nhưng sự hiện
diện của các Giáo hội nầy rất quí, vì nó chứng tỏ rằng 2 nền văn hóa Đông và
Tây, tuy khác nhau, nhưng vẫn có thể hòa hợp được.
2 . Các Giáo hội Nhất Thể giáo
(Églises Monophysites)
Các Giáo hội nầy chỉ tin nhận những điều có trước Công Đồng Chung Canxêđôni
năm 451, nên cũng gọi là Giáo hội tiền Canxêđôni.
Số tín đồ của Giáo hội nầy được chừng 18 triệu, bao gồm các tông phái Syri
Đông phương, Syri Tây phương, Syri Chính Thống ở Ấn Độ, Êtiopi, Acmêni.
3 . Anh giáo (Anh Quốc giáo) :
(Xem Đạo Tin Lành)
VIII . Công giáo tại Việt Nam :
Công giáo được truyền sang VN một cách có hệ thống và qui mô từ đầu thế kỷ
17 với các Thừa Sai Dòng Tên.
Trước đó, thế kỷ 16, từ khi con đường liên lạc giữ Tây Âu và Đông Á được trở
nên dễ dàng qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) năm 1498, và nhất là sau khi Bồ Đào Nha
thiết lập các căn cứ ở Ân Độ (1510), ở Mã Lai (1511) và ở Macao Trung quốc (1557), các tàu thuyền của Bồ Đào Nha đi
Trung quốc và Nhựt bổn ngày càng nhiều. Trong những chuyến đi như thế, các
thuyền tàu ấy thường ghé qua các hải cảng VN.
Các Linh Mục Dòng Phan Sinh, Đa Minh, hoặc Âu Tinh
đi theo làm mục vụ cho các thủy thủ trên tàu, chắc chắn đã có dịp tiếp xúc với
dân chúng VN, nhưng vì không hiểu tiếng VN nên các cuộc tiếp xúc nầy không đem
lại kết quả nào về phương diện truyền giáo.
Các Linh Mục ấy không lưu lại một chứng từ nào. Các
câu chuyện về công cuộc truyền giáo ở VN trước thế kỷ 17 đều do các nhà chép sử
của các Dòng Tu ghi lại vào khoảng năm sáu chục năm sau.
Sách “Khâm Định Việt Sử Thông giám Cương Mục” là
một bộ sử VN được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức, khi nói về một lệnh cấm Đạo
Gia Tô năm 1663 dưới triều vua Lê Huyền Tôn, có chú thích về Đạo Gia Tô như sau
:
“ Theo Dã Lục, vào khoảng tháng 3 năm Nguyên Hòa
thứ nhứt (1533) đời vua Lê Trang Tôn, có một thương nhân tên Inikhu đi đường
biển vào VN lén lút vào giảng Đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh, thuộc
huyện Nam Chấn và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy.”
Thời kỳ từ năm 1533 đến 1614, chủ yếu là các Giáo sĩ.
Dòng Phănxicô Bồ Đào Nha và Dòng Đa Minh Tây Ban
Nha, đi theo những thuyền buôn vào VN giảng đạo, nhưng do không quen phong thổ
và không thông thạo tiếng VN , nên việc truyền giáo không kết quả.
Thời kỳ từ năm 1614 đến 1645, các Giáo sĩ Dòng Tên
Bồ Đào Nha từ Macao (Trung quốc) vào VN hoạt động ở Đàng ngoài và cả Đàng
trong, có nhiều vị thông thạo tiếng Việt, lại hoạt động khôn khéo, đã lôi kéo
được 50.000 người VN theo Đạo và tạo được 40 Tu sĩ VN giúp việc truyền đạo.
Năm 1693, Nghệ An có 12 làng Công giáo toàn tòng.
Khi Công giáo phát triển đến mức khá lớn, các Giáo
sĩ Dòng Tên nghĩ đến việc cần phải có các Giám Mục phụ trách để thúc đẩy công
cuộc truyền đạo ở mức cao hơn và quản lý nền Đạo. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes,
giáo dân quen gọi là Cha Đắc-Lộ của Dòng Tên, có kinh nghiệm 30 năm hoạt động
vùng Viễn Đông, trong đó có 17 năm ở VN, thông hiểu tình hình VN và nói thông
thạo tiếng VN, đề cử 2 vị Linh Mục người Pháp tên là : Francois Pallu và
Lambert de la Motte, được Đức Giáo Hoàng phong làm Giám Mục phụ trách truyền
đạo ở Đông Dương.
Năm 1659, hai Địa Phận Công giáo đầu tiên được
thành lập, một ở Đàng trong và một ở Đàng ngoài, do 2 vị Giám Mục nầy cai quản.
Trong thời gian trở về nước Pháp, Giáo sĩ Alexandre
de Rhodes (người Pháp) bàn soạn lập kế hoạch vận động vua nước Pháp, giới quí
tộc Pháp và đề nghị Đức Giáo Hoàng lập Hội Thừa Sai Paris (Mission Étrangère de
Paris) để tổ chức việc truyền giáo tại Đông Dương cho kết quả hơn.
Năm 1644, Hội Thùa Sai Paris chính thức thành lập,
được Đức Giáo Hoàng giao cho nhiệm
vụ truyền giáo tại
Đông Dương, Trung quốc và Đông Nam Á.
Vì muốn mở mang nước Chúa, muốn được truyền đạo
nhanh chóng và độc quyền, các Giáo sĩ của Hội Thừa Sai Paris thường tham dự vào
các hoạt động chánh trị, tiếp tay cho nước Pháp bành trướng thế lực ở Đông
Dương.
Giám Mục Pigneu de Béhaine (Bá-Đa-Lộc) đã xây dựng
kế hoạch giúp Chúa Nguyễn Ánh khôi phục cơ đồ, đánh tan quân Tây Sơn, lập ra
nhà Nguyễn, lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long.
Về sau, các vị vua nhà Nguyễn nối tiếp vua Gia Long
cấm đạo Công giáo, thì các Giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris như : Giám Mục
Pellerin, Phó Giám Mục Lefèbvre, Giám Mục Puginier, là những người đã thông
hiểu tình hình VN, nên đã giúp quân đội Pháp rất hiệu quả, đánh chiếm nước VN
và dần dần biến nước VN thành thuộc địa của nước Pháp.
Nhờ những công trạng nầy, Hội Thùa Sai Paris được
Chánh quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương dành cho rất nhiều đặc quyền đặc lợi,
và được tự do truyền đạo trên thế mạnh của Chánh quyền.
Các vị Giám Mục người Pháp có uy quyền như một ông
vua trong Giáo hội Công giáo VN.
Đến năm 1933, sau hơn 400 năm truyền đạo Công giáo
tại VN, Tòa Thánh Vatican mới giao quyền
tự quản Giáo hội VN cho các Giáo sĩ VN và phong ông Nguyễn bá Tòng làm Giám
Mục, là người VN đầu tiên được phong vào phẩm nầy.
Năm 1960, Giáo phẩm VN được thiết lập, người Công
giáo VN được phong vào 3 cấp : Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục.
Đến năm 1976, Giáo hội Công giáo VN có thêm phẩm
Hồng Y, đó là Đức Hồng Y Trịnh
như Khuê ở
Giáo Phận
Hà Nội, được phong chức ngày 24-5-1976 tại La Mã.
Hiện nay, Giáo hội Công giáo VN có 3 Giáo Tỉnh,
tương ứng với 3 Miền Nam, Trung, Bắc,
gồm 25 Giáo Phận .
- Giáo Tỉnh Hà Nội : có 10 Giáo Phận (Địa Phận) kể
ra : Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Bùi Chu, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Phát Diệm, Lạng Sơn,
Thanh Hóa, Thái Bình.
Đứng đầu Giáo Tỉnh Hà Nội là Đức Tổng Giám Mục Phạm
đình Tụng, Phụ Tá là Giám Mục Lê đắc Trọng.
- Giáo Tỉnh Huế : Có 6 Giáo Phận : Huế, Qui Nhơn,
Đà Nẳng, Nha Trang, Kon Tum, Ban Mê Thuộc.
Đứng đầu Giáo Tỉnh Huế là Tổng Giám Mục Nguyễn
như Thể.
- Giáo Tỉnh Sài gòn : có 9 Giáo Phận : Sài gòn, Mỹ
Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết, Đà Lạt.
Đứng đầu Giáo Tỉnh Sài gòn là Giám Mục Huỳnh văn
Nghi, Phụ tá là Giám Mục Phạm văn Nẫm.
Theo thống kê năm 1995 :
. Tổng số Tổng Giám Mục và Giám Mục VN là 33 vị.
. Tổng số Linh Mục là 2023 vị.
. Tổng số Tu sĩ : 1051 Nam, 6375 Nữ.
. Tổng số Giáo dân : Giáo Tỉnh Hà Nội : 1.785.588
Giáo Tỉnh Huế : 656.645
Giáo Tỉnh Sàigòn :
2.204.372
Tổng cộng :
4.646.605 Giáo dân.
Giáo hội Công giáo VN lần lượt có 3 vị Hồng Y được
Tòa Thánh La Mã tấn phong :
* Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh như Khuê : sanh năm
1899 tại Hà Nội, thọ phong Linh Mục ngày 1-4-1933, Giám Mục Đại diện Tông Tòa
ngày 15-8-1950, Tổng Giám
Mục
Chính Tòa ngày 24-11-1960, thăng Hồng Y ngày
27-5-1976, và từ trần ngày 27-11-1978.
* Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh văn Căn : sanh năm
1921 tại Hà Nội, thọ phong Linh Mục ngày 3-12-1949, Giám Mục Phó ngày 2-6-1963,
Giám Mục Chính Tòa 27-11-1978, thăng Hồng Y ngày 30-6-1979, và từ trần ngày
18-5-1990.
* Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm đình Tụng : sanh năm
1919, thọ phong Linh Mục ngày 6-6-1949, Giám Mục ngày 15-8-1963, Tổng Giám Mục
Hà Nội ngày 23-4-1994, thăng Hồng Y ngày 26-11-1994.
Hiện nay, Đức Hồng Y Phạm đình Tụng đứng đầu Hội
Đồng Giám Mục Giáo hội Công giáo VN.
Đại Hội Hội
Đồng Giám Mục VN lần thứ 6 tại Hà Nội từ ngày 25 đến 29-9-1995, đã bầu ra Ban
Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục VN như sau :
Chủ tịch: Đức
Hồng Y Phạm đình Tụng.
Phó Chủ tịch: Giám
Mục Huỳnh văn Nghi.
Giám Mục Nguyễn
văn Hòa.
Tổng Thư Ký : Giám
Mục Nguyễn sơn Lâm.
Phó Tổng Thư Ký : Giám
Mục Lê đắc Trọng.
Giám Mục Trần thanh Chung
Giám Mục Phạm
minh Mẫn.
Ủy Ban Phụng tự : Giám Mục Lê phong
Thuận.
Ủy Ban Giáo dân : Giám
Mục Nguyễn văn Sang.
Ủy Ban Linh Mục, Tu sĩ, Chủng sinh :
Tổng G. Mục Nguyễn
như Thể.
IX .
Tiểu sử Đức Chúa Jésus Christ :
Đức Chúa Jésus là Giáo chủ của Thiên Chúa giáo. Đạo
Thiên Chúa là Thánh đạo trong Ngũ Chi Đại Đạo do Đức Jésus lập ra ở nước Do Thái, sau Đạo Phật ở Ấn Độ 544
năm.
Đức Chúa Jésus là Chơn linh của Đức Phật Christna, một vị Phật trong Tam
Thế Phật, giáng sanh để mở đạo Thánh nơi nước Do Thái, cứu độ các sắc dân ở Âu
Châu trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo trong ngày Vía Đức Chúa
Jésus 25-12-1948 và 25-12-1949, xin trích ra sau đây :
“ Có một
Đấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết danh đó : Brahma Phật, tức
nhiên là Tạo hóa; Nhị thế Civa Phật, tức Tấn hóa; Tam thế Christna Phật, tức
nhiên Bảo tồn; Đấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh vậy. Vì
cớ cho nên, Đức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy.
Ngài đã ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Độ, nhơn loại ký Hoà
Ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên điều, nhơn quả nhơn loại gớm
ghiết. Do nhơn quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay. Thánh giáo
gọi “ Tội Tổ Tông “. Chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài
đến giơ tay để ký Đệ Nhị Hòa Ước với Đức
Chí Tôn, chịu tội cho nhơn loại, ký Đệ Nhị Hòa Ước đặng dìu dắt chúng sanh trở
về Đấng Cha Lành của họ tức nhiên
là Đức Chí Tôn của chúng ta ngày nay đó vậy.
Đấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã
dẫy đầy, Ngài chỉ xuống mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn
loại, mà lại còn đem quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã
ký Đệ nhị Hòa ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào ? Do tay Ngài ký tờ
Hòa ước với
Chí Tôn, nên 2 tay của Ngài bị đóng đinh trên cây
Thập tự giá. Hai chân của Đấng ấy đã đi trước nhơn loại, dìu đường hằng sống
cho họ, rồi 2 chân của Đấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh giá. Còn trái
tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một
mũi kiếm vô tình đâm cạnh hông Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó cứu nhơn loại,
một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn
nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau đồng chủng.
Cho đến ngày nay, cả nhơn loại trên Địa cầu nầy
không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát
sắp diễn ra gần đây. Nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết thương yêu
nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương sát trên mặt Địa cầu nầy sẽ
không còn nữa.
Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế, có thể đưa
nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, vì nhơn loại không biết nghe, Đấng ấy đã
lấy máu thịt của mình làm con tế vật dâng hiến cho Đức Chí Tôn để cầu xin tha
tội cho nhơn loại.
Nhơn loại sẽ mất đức vì không nghe theo Đấng Cứu
thế. Đấng ấy đã bảo anh em phải yêu ái nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho
trọn vẹn kiếp sanh.
Trái ngược lại, Đệ nhị Hòa ước kia đã ký với Đức
Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa. Vì bội ước mà bảo nhơn loại không bị tội tình
mắc mỏ sao được.
Đêm nay, nhờ hiển Thánh anh linh của Đấng Cứu Thế,
Đấng ấy đã để lòng ưu ái vô tận, mong cứu vãn tình thế nguy ngập, lấy cả tình
ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.
Chúng ta để tâm cầu nguyện Ngài, để Ngài mở con mắt thiêng liêng cho chúng sanh đặng nhìn
thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội, đừng ngu dốt, lấy
tinh thần sáng suốt, bỏ cái Lục dục Thất tình đầy tội ác nầy.”
“ Cái chết của Đức Chúa Jésus Christ là gì ? Là Ngài đem xác Thánh quí
trọng dâng cho Đức Chí Tôn làm tế vật. Xác Thánh chết trên Thánh giá là tế lễ
đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cúng Đức Chí Tôn ngày nay đó vậy.
Vậy, Đức Chúa Jésus Christ đã làm con tế vật cho Đức Chí Tôn đặng cứu chuộc
tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân Âu Châu, nên danh thể Ngài để 2 chữ Cứu Thế chẳng
có chi là quá đáng !”
“ Ngài chết như thế ấy, nếu không phải con mắt
thiêng liêng oai quyền của Đức Chí Tôn
thì cái chết của Jésus Christ mai một mờ ám mà thôi, không có cái gì gọi là Chí
Thánh cả. Không phải vậy, Đức Chí Tôn
đã hứa, đã nhìn nhơn loại là con và chính mình Ngài đã ở trọn hiếu cùng hy sinh
tánh mạng của mình làm cho danh của Đức Chí Tôn cao trọng và làm cho nhơn loại
đặng hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn chan rưới, làm cho con cái của Đức Chí Tôn
biết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí Tôn.
Từ thử tới giờ, chưa có một Giáo chủ nào đã làm.
Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức Chí Tôn đã trọn.
Còn Đức Chí Tôn, nếu không phải giữ “ Nghĩa “ với
đứa con yêu dấu, con hiếu hạnh của Ngài, thì cái chết của Jésus Christ bất quá
như kẻ tù nhân chết mà thôi, có đâu lên
phẩm vị Giáo chủ, ngồi trên ngai thiêng liêng vô cùng quí báu trên mặt địa cầu
nầy gần 2000 năm.
Trong lúc Đức Chúa Jésus Christ làm con hiếu
hạnh có 3 năm thôi, mà Đức Chí Tôn trả lại cái danh dự sang
trọng cho Ngài đến 1949 năm là năm nay.”
Đức Chúa Jésus
giáng sanh trong một gia đình bần hàn nhưng rất đạo đức : Gia đình Bà
Maria và Ông Joseph.
Bà Maria trước đó là một Nữ tu trong Đền Thờ
Jérusalem, đến tuổi lấy chồng, luật Đền Thờ buộc các Nam tu sĩ trong Đền Thờ
phải có người đứng ra cưới, bởi vì căn cứ theo lời dạy của Thượng Đế với Ông
Adam và Bà Êve : “Unissez-vous et multipliez.” (Bây phải chung sống cùng nhau
đặng sanh sản ra nhiều nữa).
Lễ chọn chồng của Nữ tu Maria tổ chức theo luật của
Đền Thờ: Các vị Nam tu sĩ chưa có vợ,
mỗi người lựa một nhánh bông, cắm vào bình bông đặt trong Đền Thờ, sau 3
ngày, bông của người nào còn tươi tắn là duyên của người đó, phải cưới Maria.
Ông Joseph lúc đó đã 50 tuổi, cũng phải theo luật
lệ đó. Các vị Nam tu sĩ trẻ tuổi đã lựa
bông kỹ lưỡng với nhiều hy vọng và đã cắm vào bình hoa hết rồi. Còn Joseph nghĩ
mình đã già rồi, có vợ con làm chi nữa, nhưng luật Đền Thờ thì phải vâng, nhưng
làm cho có lệ. Ông lượm một nhánh bông huệ khô héo của ai bỏ dưới đất, đem cắm
đại vào bình. Nhưng kỳ lạ thay, loài hoa huệ, những bông nở tàn rồi thì rụng
đi, còn bông búp bắt nước sống lại, nở ra tươi tốt. Các thứ hoa khác trong bình
đều tàn rụi. Thế là Ông Joseph phải cưới Maria.
Luật Đền Thờ lại buộc 2 vợ chồng mới cưới phải ra ở ngoài, không được ở trong
Đền Thờ nữa. Vợ chồng Maria và Joseph dắt ra ngoài mướn nhà ở, lo
làm ăn sanh sống. Ông Joseph làm nghề thợ mộc, Bà Maria làm nghề vá may, đan
thêu, tạm sống qua ngày.
Bà Maria có thai con đầu lòng : Chúa Jésus. Bà được
Thiên Thần Gabriel báo mộng cho biết Bà sẽ sanh ra cho loài người một Đấng Cứu
Thế.
Đến Lễ Noel
hằng năm tổ chức long trọng nơi Đền Thờ Jérusalem, tuy bụng mang dạ chữa gần
ngày sanh nở, nhưng vì lòng mộ đạo, hai
vợ chồng Maria-Joseph
đều cố gắng đi đến Đền Thờ để
chầu lễ. Khi đến nơi, các quán trọ đều bị khách đi dự lễ mướn hết, tiết trời
lại quá lạnh lẽo, hai vợ chồng phải đến Bêlem, xin với một chủ trại cho tạm trú
đỡ trong chuồng chiên.
Đúng 12 giờ khuya đêm 24 tháng 12 dương lịch, Bà
Maria chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus. Chúa Hài đồng được quấn tả và được tạm
đặt vào máng cỏ cho đỡ lạnh nơi chuồng chiên trong hang đá.
Các nhà Tiên tri đã báo trước ngày Chúa giáng sanh
: Ngày nào sao chổi mọc là ngày đó Chúa giáng sanh, nên nhớ mà để ý tìm người.
Trong giờ Chúa giáng sanh, có nhiều huyền diệu xảy ra : Đám chăn chiên ngoài
đồng bỗng nghe giữa thinh không có tiếng nói của Thiên Thần : Có Chúa Cứu Thế
giáng sanh, hào quang tỏa sáng ngời.
Các người chăn chiên liền đi tìm và gặp Chúa Hài
đồng nằm trong máng cỏ, họ đảnh lễ Chúa trước tiên hơn hết.
Vua Hérode đang cai trị dân Do Thái, bỗng tiếp kiến
các Đạo sĩ từ phương Đông
tìm đến và hỏi rằng : “ Vua dân
Do Thái mới sanh ra hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy
ngôi sao của Ngài bên Trời Đông, nên tìm đến để đảnh lễ Ngài.”
Nghe vậy, vua Hérode
hoảng hốt và cả thành Jérusalem cũng náo động lên. Ông cho triệu tập các vị Thượng Tế và Ký Lục để hỏi
thì họ cho biết Chúa đã được sanh ra ở Bêlem xứ Juđê. Vua Hérode lo sợ sự hiện
diện của Chúa làm hại đến quyền lực của Ông, nên Ông tìm cách giết Chúa, nhưng Ông không biết
trẻ con nào là Chúa. Ông ra lịnh giết tất cả những đứa trẻ từ 2 tuổi trở xuống,
tính theo thời gian mà Ông đã hỏi nơi các Đạo sĩ.
Thiên Thần liền hiện ra báo mộng cho ông Joseph,
bảo : Hãy chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài
trốn qua Ai Cập và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại, vì
vua Hérode sắp lùng bắt hài nhi mà giết đi.
Sáu năm sau, vua Hérode chết. Thiên Thần lại đến báo mộng bảo Joseph : Hãy
chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài trở về Do Thái vì kẻ tìm hại hài nhi đã chết.
Ông Joseph đem gia đình về xứ Galilé ở thành Nazaret. Chúa Jésus được 6
tuổi. Cả gia đình sống rất bẩn chật. Ông Joseph tiếp tục làm nghề thợ mộc, Bà
Maria thì vá may. Chúa Jésus thường giúp mẹ đội
nước mướn ở bờ sông Jourdain.
Lúc Chúa Jésus được 12 tuổi, Ngài theo cha học
nghề thợ mộc. Khi đó, Ông Joseph lãnh
làm nhà cho một người trong xóm, tính toán thế nào mà khi cắt gỗ, mấy cây cột
đều cụt hết. Chủ nhà bắt đền.
Ông Joseph ngồi khóc ròng, vì nhà nghèo tiền đâu mà
đền. Chúa Jésus liền cầu nguyện, rồi cha nắm một đầu cột, con nắm một đầu cột
kéo dãn dài ra cho đủ thước tấc để bồi
thường cho chủ nhà. Việc làm liều đó, lạ lùng thay, cây cột gỗ lại dãn dài ra
như ý muốn.
Đó là Đấng Christ làm phép lạ lần đầu tiên lúc 12
tuổi.
Cũng trong năm đó, Chúa Jésus vô Đền Thờ Jérusalem.
Các vị Giáo sĩ trong Đền Thờ nghe danh Chúa là thần đồng liền xúm lại chất vấn.
Buổi đó, Đức Christna Phật giáng linh trên Chúa, nên Ngài đã ngồi giữa các vị
Giáo sĩ thuyết pháp say mê làm mọi người rất đổi kinh ngạc.
Từ đó, Chúa Jésus về nhà thì cũng như mọi người,
phụ làm thợ mộc với cha, hiếu hạnh với mẹ, hòa nhã với mọi người. Nhưng Ngài
cảm thấy khó khăn, Chúa Jésus bèn xin đi làm thuê bên ngoài, lấy tiền về phụ
với cha mẹ nuôi gia đình.
Thời gian dài trôi qua, đến năm Chúa Jésus được 30 tuổi, nghe Thánh
Jean Baptiste đang làm lễ Giải Oan tại bờ sông Jourdain, Chúa Jésus liền đi đến
đó. Khi nhìn thấy Chúa Jésus từ xa đi tới, Thánh Jean Baptiste biết đây là Chúa Cứu Thế, mới nói : “Từ sáng tới giờ, tôi chỉ chờ vị
nầy thôi.”
Đức Chúa đến thọ pháp Giải Oan nơi Thánh Jean. Khi
Thánh Jean hành pháp vừa xong, Đức Chúa Jésus từ dưới sông vừa bước lên bờ thì
trên không trung hiện ra hào quang sa xuống giữa đầu Chúa và có tiếng phán rằng
: “Nầy con yêu dấu của Ta ! Cả ân đức của Ta để cho ngươi đó.”
Sau đó, Chúa Jésus được khiến đi vào sa mạc để chịu
sự thử thách của Quỉ Satan. Suốt 40 ngày đêm, Chúa bị Quỉ vương cám dỗ đủ điều,
nhưng không dụ được Chúa. Quỉ vương đành khuất phục trước sự cao cả của Ngài.
Từ buổi đó, Đức Chúa Jésus là Chơn linh của Đấng
Christna Phật giáng hạ. Ngài bắt đầu truyền Đạo khắp nơi, thâu nhận 12 Tông đồ,
làm nhiều phép
lạ để cứu khổ nhơn sanh. Ngài xưng là con của Đức Chúa
Trời, tức là con của Thượng Đế và tôn vinh Đấng Thượng Đế cao cả.
Đức Chúa Jésus, với lòng thương yêu nhơn sanh một
cách nồng nàn, Ngài đã dạy dỗ các môn đồ lòng thương yêu, bác ái, hạnh bố thí,
sự chơn thật, khiêm nhượng, tự xét mình để sửa mình, các điều răn cấm, giữ tâm
thanh cao trong sạch, lời nói trọn lành, hành động chơn chánh, thờ kính Đức
Chúa Trời một cách hết lòng.
Bởi luật vô vi, không ai thoát khỏi ngày Phán Xét
cuối cùng, dù người đã chết hay người đang sống, cũng đều chịu sự thưởng phạt
đúng mức công bình.
Tất cả những điều giáo huấn của Đức Chúa Jésus tạo
thành một hệ thống Giáo lý cho nền Đạo Thánh
ở nước Do Thái, truyền bá mạnh mẽ sang Âu Châu. Uy
quyền của bọn vua quan phong kiến và bọn Giáo chủ Cai-phe bị lung lay, nên
chúng tìm cách giết Chúa Jésus.
Bọn chúng vu cáo Ngài mưu việc phản loạn, lại mua chuộc Yuda, một Tông đồ của Chúa,
phản lại Chúa. Yuda bị tiền bạc làm chóa mắt nên điềm chỉ cho bọn lính bắt Chúa
và Chúa bị chúng lên án tử hình, đóng
đinh trên Thập tự giá.
Đức Chúa Jésus đã biết trước việc đó, nhưng Ngài
không né tránh, mà cứ thể theo Thiên ý.
Cái chết của Ngài có ý nghĩa gì ?
Đó là đem xác Thánh quí trọng hiến dâng lên Đức
Thượng Đế, làm con tế vật hầu chuộc tội cho loài người. Việc làm nầy đồng thể
với việc dâng Tam bửu của tín đồ Cao Đài lên Đức Chí Tôn, nhưng lại tuyệt đối
cao trọng hơn.
Cái chết của Chúa Jésus để chuộc tội cho loài người
thật là cao cả, xứng đáng là Chúa Cứu Thế của nhơn loại.
Mười hai vị Thánh Tông đoà của Đức Chúa Jésus là :
1. Simôn, cũng gọi là Phêrô (Thánh Pierre).
2. Anhrê, em của Phêrô.
3. Yacôbê, con của Zêbêđê.
4. Yoan, em của Yacôbê.
5. Philip.
6. Barthêlêmy.
7. Thôma.
8. Mathiơ là người thâu thuế.
9. Yacôbê, con của Alphê.
10. Thađê.
11. Simôn nhiệt thành người Ca-na-an.
12. Yuđa Iscariốt (được thay bằng Matthya).
Chính Yuda đã bán Chúa để nhận tiền của bọn
Cai-phe đem về mua ruộng đất, nhưng liền
bị tai nạn té nhào, vỡ bụng lòi ruột chết thảm.
Mười một Tông đồ còn lại của Chúa đã cử Ông
Matthya thay thế Yuđa cho đủ số 12 Tông đồ như lúc đầu.
Đức Chúa Jésus Christ, tuy là Giáo chủ Thánh đạo,
nhưng Chơn linh Ngài là một vị Phật. Ngài lãnh lịnh Đức Chí Tôn mở Đạo Thánh
nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân ở Âu Châu.
Đức Chúa Jésus giáng sanh, dù do phàm thai hay do
Thánh thai, dù là con ruột của Ông Joseph thuộc dòng dõi vua David (tức là phàm
thai, Đức mẹ Maria không đồng trinh), hay là con nuôi của Ông Joseph, không
thuộc dòng dõi của vua David (tức là Thánh thai, Đức mẹ Maria đồng trinh), thì sự tôn thờ Chúa, không phải căn cứ vào
điều đó, mà căn cứ vào công đức và sự nghiệp của Chúa đối với nhơn loại. Chúa Jésus đã dạy dỗ nhơn loại nhiều điều hữu
ích và sau cùng dùng cái chết của mình trên cây Thập giá để chuộc tội cho loài
người và trả hiếu Thượng Đế. Đó mới là điều quan trọng. Nhơn loại mới tôn thờ Ngài, suy tôn Ngài là Đấng Cứu Thế.
Nếu nói rằng Đức Chúa Jésus giáng sanh bằng phàm
thai là hạ thấp giá trị của Chúa thì hoàn toàn không đúng, bởi vì nếu đúng như
vậy, thì Đức Phật Thích Ca hay Đức Khổng Tử đều giáng sanh bằng phàm thai thì
không đáng kính trọng hay sao ?
Các Đấng ấy là Giáo chủ tôn giáo, thuộc hàng Tiên,
hay Phật, thì không cần các môn đệ Thần Thánh hóa các Ngài, vì điều đó chỉ đem
lại sự mê tín cho các tín đồ, làm trở ngại bước đường tu tiến mà thôi.
Trong sự thờ phượng của Đạo Cao Đài, việc sắp xếp
Đức Chúa Jésus ngồi dưới Đức Đại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch không có nghĩa là Đức
Chúa Jésus nhỏ hơn Đức Lý Thái Bạch, mà đó chỉ là thứ tự trong Ngũ Chi Đại Đạo.
Bắt đầu từ Nhơn đạo với phẩm Giáo Tông, đối phẩm
với Thiên Tiên hay Phật vị, lên kế trên là Thần đạo (với Đức Khương Thượng Tử
Nha), kế trên nữa là Thánh đạo (với Đức
Chúa Jésus mà chơn linh là Đức Phật Christna), kế lên Tiên đạo (Đức Lý Thái
Bạch) và trên cùng là Phật đạo với Đức Phật Thích Ca.
Hằng năm, khi đến ngày Lễ Noel, 25-12 dương lịch,
là ngày giáng sanh của Đức Chúa Jésus, tại Tòa Thánh Tây Ninh và các Thánh Thất
địa phương đều có thiết Đại lễ cúng Vía Đức Chúa Jésus, Gia Tô Giáo chủ, có
Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức của Chúa đối với nhơn loại.
“Vâng
lịnh Vua Cha xuống thái bang,
Truyền ra Đạo Thánh rất gian nan.
Ba mươi năm lẽ chưa toàn vẹn,
Ngàn chín trăm dư thế muốn tàn.
Đắc lịnh Vua Cha truyền lập lại,
Vâng lời Kim Mẫu tá phàm gian.
Thuyết đàn vạn quốc nay mai sẽ,
Phổ độ Ngũ Châu, vạn sự toàn.“
(Bài thi do Đức Chúa Jésus giáng cơ)
Đạo Tin Lành
· Sự hình thành Đạo Tin
Lành :
Tiểu sử Martin Luther và Jean Calvin.
· Cải cách tôn giáo ở nước Anh :
Thành lập Anh giáo.
·So sánh Công giáo và Tin Lành.
· Các Hệ phái Tin Lành.
· Đạo Tin Lành ở VN.
Đạo Tin Lành, còn gọi là Tân giáo, là một tôn giáo
phát xuất từ Thiên Chúa giáo trong thời
kỳ cải cách Thiên Chúa giáo ở Âu Châu vào đầu thế kỷ 16.
Gọi Đạo Tin Lành là Protestantisme, nghĩa là Đạo
phản kháng với Thiên Chúa giáo; cũng gọi là Réformisme, nghĩa là Đạo cải cách.
Ở Việt Nam, gọi là Đạo Tin Lành vì lấy theo câu
Kinh Thánh : “ Hãy đem Tin Lành đi rao giảng khắp thế gian.”
Như vậy, Đạo Tin Lành là một Chi phái lớn của Thiên
Chúa giáo, được truyền bá mạnh mẽ ở các nước : Đức, Thụy sĩ, Anh, Mỹ, Canada.
Đạo Tin Lành truyền đến VN vào đầu thế kỷ 20, và số
tín đồ Tin Lành ở Việt Nam không được
đông đảo như Thiên Chúa giáo.
I . Sự hình thành Đạo Tin Lành :
Tiểu sử Martin Luther & Jean Calvin.
Đạo Tin Lành được xướng xuất đầu tiên ở nước Đức và đầu thế kỷ 16,
với vị lãnh tụ nổi tiếng là Ông
Martin Luther (1483-1546).
Ông Martin Luther sanh năm 1483 tại Saxon nước Đức
Năm 1501, Martin Luther được 18 tuổi, vào học Luật Khoa tại trường Đại học
Erfurt.
Năm 1505, Ông bỏ học, quyết định đi tu tại Dòng Tu
Augustine của Thiên Chúa giáo. Ông học ban Thần học tại Nhà Dòng, sau 2 năm
được thọ phong Linh Mục, và sau đó đậu được Tiến sĩ Thần học.
Năm 1508, Ông làm Giáo sư tại trường Đại học
Wittenberg. Martin Luther có tài hùng biện, có lý luận sắc bén, tư tưởng phong
phú, nên các bài giảng của Ông có sức thu hút mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn trong giới
sinh viên đại học và gây được sự chú ý đặc biệt trong giới trí thức.
Năm 1511, Martin Luther được Nhà Dòng cử sang Tòa
Thánh La Mã để giải quyết một số công việc quan trọng của Dòng Augustine.
Tại La Mã, Martin Luther tận mắt chứng kiến đời
sống xa hoa phàm tục của Giáo Hoàng và một số đông Giáo sĩ trong Hội Thánh. Ông
rất lấy làm bất mãn, và bắt đầu nhen
nhúm những tư tưởng cải cách tôn giáo để
tránh cho Giáo Hội khỏi qui phàm.
Năm 1514, Giáo Hoàng Léon X ra lịnh ban ra “ ƠN
TOÀN XÁ ” cho những ai dâng cúng nhiều tiền bạc cho Giáo Hội. Ơn Toàn Xaù được
gọi nôm na là Bùa Xá Tội, được phổ biến khắp các nơi có tín đồ đạo
Thiên Chúa, với
mục đích
không phải vì thiêng liêng, mà vì giải quyết tình
trạng thiếu tiền trầm trọng của Giáo Hội.
Ở nước Đức, các tu sĩ Dòng Saint Dominique đi bán
Bùa Xá Tội cho giáo dân với lời tuyên bố là : Ai mua Bùa Xá Tội nầy thì mọi tội
lỗi sẽ được xóa và mua càng nhiều thì khi chết càng được mau lên Thiên đàng.
Việc làm nầy đã gây ra nhiều bất mãn trong giới tín
đồ và Giáo sĩ của Giáo hội Công giáo ở nước Đức.
Ngày 31-10-1517, Ông Martin Luther công bố “ 95
Luận đeà” tại Nhà Thờ Wittenberg nước Đức với nội dung phê phán kịch liệt việc
lợi dụng danh Thánh để bốc lột giáo dân, lên án Giáo Hoàng và Giáo quyền La Mã.
Ấy là ngày khởi đầu việc phản kháng Giáo quyền La Mã và khởi đầu cuộc cải cách
Công giáo tại nước Đức.
Nhiều người dân trí thức của Đức lên tiếng ủng hộ
quan điểm của Ông Martin Luther chống lại Giáo Hội La Mã, nhưng các Linh Mục,
Giám Mục và các nhà Thần học Kinh viện thì kịch liệt phản đối Martin Luther.
Giáo Hoàng Léon X ở La Mã ra lịnh cho các vị Bề Trên của Dòng Augustine cố gắng
thuyết phục Martin Luther từ bỏ ý đồ
phản kháng và cải cách tôn giáo.
Năm 1518, trong Đại hội thường niên của Dòng
Augustine tại Heidelberg, Martin Luther cương quyết giữ vững lập trường của
mình và thách thức tranh luận với những ai chống lại quan điểm của Ông.
Năm 1519, tại Lepzich, Martin Luther tuyên bố phủ
nhận quyền lực của Giáo Hội La Mã, chỉ công nhận Đức Chúa Jésus và quyển Kinh
Thánh.
Năm 1520, khi tranh luận với các Đại biểu của Thần học Kinh viện, Martin Luther liên
tiếp cho xuất bản 3 tác phẩm :
- Tặng cho Quí tộc Đức
- Cuộc lưu đày ở Babilone
- Sự tự do cho tín đồ.
Ba tác phẩm nầy có nội
dung lên án Giáo quyền La Mã, nhất là quyền lực của Giáo Hoàng đã lấn lướt quyền lực của
các vua chúa thời đó, phê phán các nghi thức tín ngưỡng, và nêu ra toàn bộ quan
điểm cải cách tôn giáo của Ông.
Tháng 6 năm 1520, Giáo Hoàng ra Sắc lệnh phủ nhận
giáo thuyết của Martin Luther và ra lịnh tuyệt thông với Ông, nếu sau 60 ngày
mà Ông không chịu hối cải.
Martin Luther phản ứng lại bằng việc đem đốt Sắc
lệnh của Giáo Hoàng trước đông đảo dân chúng và sinh viên tại trường Đại học
Wittenberg. Ông nói : Mọi việc đã quyết định xong, đời tôi không bao giờ làm
hòa với La Mã.
Hoàng đế nước Đức là Charles V được Giáo Hoàng giao
cho quyền thi hành kỷ luật đối với Martin Luther, nhưng nhà vua ngần ngại. Giáo
Hoàng La Mã dùng sức ép, buộc vua Charles V triệu tập Hội nghị toàn quốc để xét
xử M. Luther.
Tại Hội nghị, Martin Luther vẫn bác bỏ Giáo quyền
La Mã và binh vực quan điểm của mình, nhưng Hội nghị vẫn quyết định đốt hết các
tác phẩm của Martin Luther và xử tử Ông bằng cách đưa lên dàn hỏa.
Vương Hầu Férédric xứ Saxon ủng hộ Ông, cứu Ông thoát chết, rồi đưa
về lánh nạn tại Wartburg. Tại đây, Martin Luther tiếp tục viết sách chống lại
Giáo Hoàng và dịch Kinh Thánh ra tiếng Đức để hỗ trợ cho công cuộc cải cách tôn
giáo của Ông. Những người ủng hộ Martin Luther được mang danh là Phái Phản
kháng (Protestantisme).
Năm 1532, trước sự lớn mạnh của phong trào, Hoàng
đế nước Đức phải nhượng bộ, ký
Hòa Ước Nuremberg
cho Phái Phản kháng (ngày nay gọi là Đạo Tin Lành) được tự do hoạt động.
Sau khi giành được thắng lợi, Martin Luther hoà dịu
với giới Quí tộc Đức để tầng lớp nầy ủng hộ, nâng đỡ và trợ giúp cho Đạo Tin
Lành phát triển.
Ngày 18-2-1546, Martin Luther mất tại Eisleben nước
Đức, thọ 63 tuổi.
Nước Thụy Sĩ là trung tâm thứ hai của cuộc cải cách
Thiên Chúa giáo, mà Jean Calvin (1509-1564) người Pháp là nhân vật xuất sắc.
Ông Jean Calvin sanh năm 1509 tại Noyon nước Pháp, lớn lên Ông
theo học Luật Khoa và Thần học tại Pháp bằng học bổng của Giáo hội, và trở
thành nhà Thần học rất xuất sắc sau Thánh Augustine.
Jean Calvin hưởng ứng phong trào cải cách của
Martin Luther ở Đức, nên năm 1528, Ông bị trục xuất khỏi nước Pháp, phải đến
sống tại xứ Bâle của nước Thụy Sĩ.
Năm 1536, Ông cho xuất bản tác phẩm Thần học nổi
tiếng là : “L’Institution Chrétienne” (Nền tảng Thần học Thiên Chúa giáo), hình
thành một giáo thuyết riêng.
Sau đó, Jean Calvin đến Genève để cùng với Ông
Farel lãnh đạo phong trào cải cách tôn giáo tại đó, với mục đích đánh đổ ách
cai trị của các Giáo sĩ Công giáo cũng như các chúa phong kiến Savoi ở Bắc
Italia.
Năm 1538, Jean Calvin và Farel bị đuổi khỏi Genève
trong tình hình chánh trị đang lộn xộn tại đó.
Năm 1541, dân chúng ở Genève kêu gọi Jean Calvin
trở lại với tư cách của người chiến thắng.
Tại Genève, Ông Jean Calvin bắt tay tổ chức lại
chánh quyền và giáo quyền, theo đó,
chánh quyền phải
phụ thuộc
vào giáo quyền. Ông cho thành lập trường đào tạo
Giáo sĩ tại Genève để đưa Giáo sĩ đi hoạt động ở trong các nước Pháp, Anh, Hà
Lan, gây thành một phong trào cải cách
rộng lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét