Đạo Tâm Bửu Giám 道 心 寶 鑑 - 3 / 9 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)

Trên dưới ráp lại thành chữ THỦ chữ thủ nghĩa là ban sơ, ban đầu, khởi thủy, tức là đầu mối của càn khôn vũ trụ. Kế là bộ Tẩu tẩu nghĩa là chạy, nên kêu là “pháp luân thường chuyển”. Chính nghĩa của hai chữ ĐẠI-ĐẠO

Nhưng nếu nói về căn bản của chữ Đạo phải nói đến chữ Mục bởi chữ mục thêm một phết bên trái ấy là tượng trưng cho ánh sáng lóe lên từ mắt. Mục là con mắt nhìn ra ngoài, mắt có nhìn, tâm mới đủ sức
nhận định. Mắt cũng chính là Tâm của người, bởi Dịch nói Ly vi mục hay ly vi hỏa, cho nên bất cứ về phương diện nào cũng có duyên khởi từ tâm.Tây-phương có câu “con mắt là cửa sổ của linh-hồn”

Khi còn là bào thai, con mắt trái cũng được hình tượng có trước nhất. Ngày nay trong nền Đại-Đạo lấy biểu tượng Thiên-Nhãn thờ Thầy cũng không ngoài cái lý “thiên nhất sanh thủy, địa lục thành chi ” là vậy!

Nhưng mắt trời tượng trưng chữ mục mà con người muốn đạt được ánh sáng thần diệu phải thường xuyên nhìn vào “Thiên-nhãn” ấy để nhận “Thần” thì người mới được “Nhãn” gọi là huệ nhãn, thần nhãn, tâm nhãn... là vậy. Bởi sự luyện nhãn ấy là để cho mắt nhìn chăm chú vào một điểm, điểm để mắt dừng lại như vách núi tượng chữ CẤN cấn là núi, cho nên chữ mục họp với chữ cấn thành ra chữ NHÃN . Xưa, Đạo Tiên nói là “cửu niên diện bích” cũng không ngoài nghĩa ấy! Nay Cao-Đài Đại-Đạo, cúng Tứ thời tức là luyện Thiên-nhãn.

19 - TAM NHÂN HÀNH TẮC TỔN NHỨT NHÂN
NHỨT NHÂN HÀNH TẮC ĐẮC KỲ HỮU

Giải nghĩa: ba người đi thì mất một người, một người đi thì được bạn của nó.
Lời bàn: dịch-lý của Quẻ Tổn nói rằng: “Ba người đi thì mất một người” thử hỏi ba người ấy là ai? và một người đi thì được bạn, bạn là người nào?

Trong con người ta đây mỗi mỗi đều có các yếu-tố cấu tạo nên một thân hình đều giống nhau, đạo-học gọi là TAM THỂ XÁC THÂN, ấy là:
1 - Xác thân thứ nhứt là hình hài xác thịt do cha mẹ sanh ra, xác thịt chúng ta sống đây do trái tim.
2 - Xác thân thứ nhì là chơn-thần, tức là trí khôn sáng của con người do Đức Phật-Mẫu ban cho, chơn-thần sống do nơi huệ-quang khiếu.
3 - Xác thân thứ ba là chơn-linh hay linh-hồn do Đức Chí-Tôn ban cho. Chúng ta sống do nơi càn-khôn vũ-trụ. Vì cớ cho nên linh-hồn chúng ta tương liên mãi mãi với càn khôn vũ-trụ mà thôi, không thể thúc phược mãi trong xác thịt được .
Thầy cắt nghĩa (TNI /29- Ngày 8-6-Bính-Dần dl 17-7-1926)

“Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân: Một phàm gọi là corporel Còn một thiêng-liêng gọi là spirituel. Mà cái thiêng-liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà có thể không thấy đặng.

“Cái xác vô hình huyền-diệu thiêng-liêng ấy do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành.
 “Nó nhẹ-nhàng hơn không-khí.

“Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập Còn khi đắc Đạo mà có Tinh Khí không có Thần thì không nhập mà hằng sống đặng.
 “Còn có Thần không có Tinh Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân.
 “Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng .
 “Nó vẫn là chất tức hiệp với không- khí Tiên thiên, mà trong khí Tiên thiên thì hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh-tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí mà ra khỏi ngoài Càn khôn đặng.
 “Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên Phật đặng.
 “Phải có một thân phàm tinh-khiết mới xuất chơn thần tinh-khiết.
 “Nếu như các con còn ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng.
 “Như rủi bị huờn, thì đến khi đắc Đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật-chất tiếp điển (bon conducteur d’électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bực nhơn Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
 “Vì vậy, Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện Đạo”.

Thật ra, con người trong cõi trần này lấy theo triết lý mà nói thì có hai phần đặc biệt :
 “Một phần vô hình tức là chơn linh hay linh hồn là cái tinh thần huyền bí do Đức Chí-Tôn mà được xuất hiện.

Phần bán hữu hình ấy là phần chí linh, chí thiện mà ta gọi là chơn thần hay giác hồn đó là cái xác thân thiêng-liêng .

Phần hữu hình nó vẫn là cơ quan riêng biệt, nó được nuôi sống bằng vật chất khí. Vật-chất-khí mới vận chuyển để nuôi sống thể hài qua lục phủ ngũ tạng mà điển hình là trái tim có cuộc sống .

Ấy vậy, khi trái tim trong con người ngừng đập thì con người chết. Người chết là xác thân hữu hình hữu họai này phải bị tiêu hủy và phải chịu chôn xuống lòng đất chấm dứt một kiếp sanh nơi cõi thế này.

Thánh-nhân mới nói rằng “Ba người đi thì mất một người” tức nhiên ba cái xác thân này cùng đến thế nương nhau để cùng học hỏi và tiến hóa. Đến khi điển lực trong người đã hết thì gọi là tử, tức là đã mãn một nhiệm kỳ rồi!

Bấy giờ chỉ còn lại hai xác thân mà thôi, tức nhiên còn lại Chơn thần (trí não) và Chơn linh (linh hồn).

Tuy là còn hai xác thân nhưng chỉ có một duy chủ đó là chơn thần.
Nếu người biết tu thì khi chết Chơn-thần tinh khiết sẽ xuất ra một lượt với Chơn linh trong sạch. Kinh nói rằng:
“Kêu Chơn thần vịn níu Chơn linh,
“Năng lai năng khứ khinh khinh,
“Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây”.

Đó là những chơn hồn được nhẹ nhàng siêu thóat nên Chơn thần hiệp với Chơn linh cùng bay về cõi hằng sống.

Nếu người không tu-hành, không giữ trai giới, thì xác thân nặng nề, chơn thần bị ảnh hưởng trược điển. Khi xác thân này chết thì chơn thần không thể rứt rời ra được mà cứ mãi bị lôi kéo theo, chờ đến khi xương tàn cốt rũ. Tôn gíáo coi đó là sự đọa là vậy. Tất nhiên chơn thần phải theo luôn với xác thân xuống lòng đất bởi bảy dây oan nghiệt buộc ràng.

Nhận thấy, nay là hạ nguơn mạt kiếp, nhân lọai đã lợt đi nhiều vẻ Thánh tâm nên bị trần tục khảo, khiến cho mất đi sự thương-yêu mà chiến tranh xảy ra liên miên bất tận. Hầu như chiến-tranh từ trong mỗi tâm hồn của con người, lóang ra gia đình, xã hội và toàn thế giới, không giờ phút nào được gọi là an bình hay hạnh phúc .

Vì lẽ đó Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo, tìm phương cứu vớt, đó là Đại ân xá kỳ ba cũng là cách an ủi những tâm hồn chưa đủ điều kiện để siêu thóat.

Thánh ngôn dạy: “Kẻ nào trai giới mười ngày đổ lên được thọ truyền bửu pháp” tức là khi thoát xác được cắt bảy dây oan nghiệt cho được nhẹ-nhàng để thăng về Thượng giới.

Như vậy “Tam nhân hành” chính là tam thể xác thân con người là TINH, KHÍ, THẦN đó vậy.
TU là làm cho Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tức nhiên hiệpTam-bửu gọi là Đắc Đạo .

TU theo Đạo Cao-Đài là Phụng-sự :
“Cơ-quan Phụng-sự ấy Đức Chí-Tôn biểu chúng ta dâng cả Thi hài, Trí não, Tâm hồn đặng làm cơ quan phụng-sự cho nhân-lọai, bảo-tồn khuôn luật tạo đoan vững chắc tức nhiên dắt chúng ta đi trên con đường Chánh-Đạo đó vậy”.

Trong “Tam thể xác thân” Đức Thượng-Phẩm có dạy các vị Hiệp-Thiên-Đài qua lời vấn đáp :

Hỏi: Khi thoát xác mà chơn-linh nào phạm tội lại càng đau-đớn hơn nhiều vì lằn âm-điển của đất luôn luôn lôi kéo, có phải vì “loi d’actraction” không?

Đáp: Phải đó, vì cớ mà bị luân-hồi chuyển kiếp đó Để Bần-Đạo cho một bài thi nói về thể thứ nhứt và một bài thi nói về thể thứ nhì, các em nên đọc đi đọc lại có ích lắm

THI
Bản chất vốn sanh bởi địa-hoàn,
Âm dương nhờ đó mới thành căn.
Nhựa-nhành do bởi con vi-tố,
Máu huyết nảy sanh vật hữu thân.
Nhờ hưởng khí trời nên được sống,
Nương theo vị đất đặng hằng sanh.
Kiếp sanh bao thuở đà tiền định,
Vi-tố đến hồi trở lại căn.

Nguyên-lai bổn chất vốn trung bình,
Lục dục thất tình vẫn vẹn thinh.
Phật-Mẫu ban cho nên đức tánh,
Chí-Tôn trau sửa được thành hình.
Ruộng cày sáu mẫu lo vun quén,
Nhà ở bảy căn gắng vẹn gìn.
Trở lại ngôi xưa nhờ khéo dưỡng,
Yêu-thương Phật-Mẫu tạo nên hình.

Đó, các Em coi thì đủ rõ đệ nhứt xác thân và đệ nhị xác thân là gì rồi!
(Trích :Tam thể xác thân của Đức Cao-Thượng-Phẩm)

20 - HOÀNH SƠN NHẤT ĐÁI VẠN ĐẠI DUNG THÂN 
Giải nghĩa: Núi Hoành-Sơn một dãy làm nơi ở yên được muôn đời. (Đây là câu sám của Đức Trạng Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm, đoán vận mệnh cho Nguyễn Hoàng)

Lời bàn: Hoành-Sơn là tên dãy núi ở giữa tỉnh Quảng-bình và Hà-tĩnh, có cửa ải gọi là Hoành-Sơn-Quan. Trong thời Đoàn-Quốc Công Nguyễn-Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương, đương lúc ở trong tình thế nguy ngập vì sợ không thóat khỏi tay Trịnh-Kiểm, thân-mẫu của Người vốn dòng họ Phạm đã được tôn là Thánh-Mẫu, nguyên quán ở làng Phạm-xá thuộc huyện Tứ-Kỳ với ông Trạng-Trình là chỗ đồng hương, nên thường bí-mật sai người về làng nhờ ông chỉ giúp cho con trai Bà một đường sống. Sứ-giả đặt gói bạc nén ở trước mặt ông, rồi bái lạy lia-lịa.

Ông thấy sứ-giả năn nỉ mãi nhưng không nói gì, ông hiểu ý đứng phắt dậy, cũng không nói gì, tay cầm chiếc gậy thủng-thỉnh ra lối vườn sau là nơi có hơn mười tảng đá xanh xếp thành một dãy núi giả (hòn non bộ) quanh-co, trước núi lúc ấy có đàn kiến đương men theo những tảng đá leo lên. Ông ngắm-nghía một lát rồi mỉm cười đọc một câu:

“Hoành-sơn nhất đái vạn đại dung thân” Nghĩa là một dãy Hoành-sơn có thể ở yên được muôn đời.

Sứ-giả hiểu ý trở về thụât lại với Nguyễn-Hoàng. Hoàng bèn xin về trấn thủ Quảng-Nam, đến nay hùng cứ cả một vùng đó.

Đó là câu chuyện Nguyễn-Hoàng hỏi ý-kiến Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm về tương lai của mình – chủ nhân Bạch-Vân-am đã cho biết sự việc trong lời sấm trên.

Quả nhiên, Nguyễn-Hoàng nhờ chị ruột năn-nỉ với anh rễ là Trịnh-Kiểm xin được vào trấn ở Thuận-hóa. Nhờ đó họ Nguyễn được cơ hội xây dựng sự nghiệp lâu dài, đúng y như lời dạy .

Họ Trịnh liên tiếp mấy đời giữ ngôi báu ở đất Bắc.

Nay, uy-danh của Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm càng sáng chói trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Với bậc tài danh như Đức Trạng-Trình đã được đứng vào hàng Tam-Thánh là một Thiên-sứ, cùng với nhà Đại văn-hào Victor-Hugo và nhà Đại-cách-mạng Trung-hoa Tôn-Dật-Tiên đã ký Đệ tam Thiên-nhơn Hòa-ước hứa sẽ thực thi hai điều BÁC-ÁI, CÔNG-BÌNH cho nhân lọai .

Vào thời-kỳ của Đạo Cao-Đài khởi khai ngày 15-10-Bính-Dần (1926) cũng chính thời điểm của Hội-Thánh Ngọai-Giáo ra đời để truyền bá giáo-lý của Đại-Đạo khắp toàn cầu, thì Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm là Chưởng-giáo của Hội-Thánh Ngọai-Giáo, Thánh-danh Ngài là Thanh-Sơn Chơn-Nhơn (lần đầu mối Đạo được đặt tại Kiêm-biên Tông-đạo tức là nước Kampuchia láng giềng)

Ngài có giáng cơ bày tỏ :
 “Chư Thiên-phong đủ hiểu rằng: mạng số Việt Nam nó liên-quan cùng kiếp sanh của Bần-Đạo là thế nào".
Ngài cho thi :
Hoành-sơn phân nước trót đôi lần,
Khí-số bấy chừ dứt Nguyễn-quân.
Lời sấm đoán văn khi thật quả,
Tiên-tri toán số gẫm không lầm.
An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,
Bảo quốc vui nhờ Đức Thánh-nhân.
Suy thạnh nước nhà do trị lọan,
Cũng như Đông mãn tới hồi xuân.
                                                           (Giáng tại Kiêm-biên 13-8-Bính-Thân 1956)

“Thanh-Sơn Đạo-sĩ ,
 “Bần-đạo chào Hộ-Pháp, Bảo-Đạo, và chư Hiền nam nữ,
 “Thắm thóat nền Đại-đạo khai nơi Tần-quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí-Tôn sai Hộ-Pháp đến để gieo hột Thánh-cốc. Từ ấy đến nay thì các tay chấp chánh Đạo-quyền nơi này không tô bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy là chỗ ham quyền trọng vị. Các chức sắc Thiên-phong lãnh thiên-mạng nơi mình không làm xong phận. Ngôi thì ham, quyền thì muốn, mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ vưng Thiên-mạng đến để làm gì chứ?

“Họ phải cho xứng phận là Anh, là Thầy để gần gũi nhơn-sanh, chia việc đau, an-ủi điều khổ. Hôm nay Hộ-Pháp đã đến thì cả Chức-sắc Thiên-phong  phải ráng thiệt hành quyền của mình; hư thì bỏ, nên thì để, rửa-ráy Thánh-thể Đức Chí-Tôn cho nên hình.
 “ Vậy khá liệu lấy!”

Tại sao Đức Thanh- Sơn-Đạo lại dùng tiếng “Hoành-Sơn” trong thi?
Bởi Tòa-Thánh Cao-Đài là hình dạng của 7 chữ SƠN nên đây cũng là thất sơn xoay quanh gọi là một dãy:
- Đền-Thánh nằm theo hướng Đông Tây, trước là Hiệp-Thiên-Đài hai bên có lầu chuông, lầu trống là hai nét ngoài của chữ Sơn hiệp với đỉnh của Nghinh Phong-Đài tạo thành chữ SƠN (thứ nhứt)
- Lầu chuông lầu trống và đỉnh Bát-quái-đài hiệp thành chữ SƠN (thứ nhì)
- Tháp Đức Quyền Giáo-Tông ở giữa sau Bát-Quái đài và Đông-lang Tây-lang hiệp thành chữ SƠN (thứ ba).
- Chiều dài Tòa-Thánh làm nét giữa hiệp với Đông lang Tây lang tạo thành chữ SƠN (thứ tư)
- Ba tháp: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh ở mặt tiền Tòa-Thánh tạo thành chữ SƠN (thứ năm)
- Đứng từ bên nữ nhìn qua, thì nhìn thấy ba đỉnh: Hiệp-thiên-đài, Cửu-Trùng-đài, Bát-quái-đài hiệp thành chữ SƠN (thứ sáu)
- Đứng từ bên nam nhìn lại, thì cũng tương tự thấy ba đỉnh: Hiệp-thiên-đài,Cửu-Trùng-đài, Bát-quái-đài hiệp thành chữ SƠN (thứ bảy).

Như vậy Đền-Thánh có dạng bảy chữ SƠN như đã nêu trên nên gọi là Thất-Sơn hiệp với câu “hoành-sơn nhất đái vạn đại dung thân”.

Phải chăng lời tiên-tri ấy là muốn ám chỉ đất Tây-Ninh Thánh-Địa là nơi bình an cho người tu hành được yên ổn để sớm kệ chiều kinh hầu mới mong  “sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh” là vậy!

Như thế, khi nhìn lại dãy đất Việt-Nam đã có thể pháp, thì ở đây ngôi Đền-Thánh đã có Bí-pháp và ngược lại. Do đó:
Nếu Châu-Đốc có Thất-Sơn làm thể-pháp, tượng con số 7, thì Đền-Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh là Bí pháp, tức nhiên Cửu-Trùng-Thiên là con số 9. Dịch nói “Sơn tiền điểm long mạch” là đây.

Lại nữa Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm giáng cơ có nói:
 “Chư Thiên-phong đủ hiểu rằng: mạng số Việt Nam nó liên-quan cùng kiếp sanh của Bần-Đạo là thế nào!” Phải chăng như lời đoán của Ngài: “Phụ nguyên chính thống đi về. Tả phù hữu trì cây cỏ làm binh”.

21 - HỮU DUYÊN ĐẮC NGỘ VÔ DUYÊN VẠN KIẾP BẤT TƯƠNG PHÙNG

Giải nghĩa: trong cuộc đời nếu đã là có duyên với nhau thì dễ gặp-gỡ nhau dù hoàn cảnh nào, còn nếu không có duyên với nhau thì có tìm kiếm cũng không gặp được.

Lời bàn: Ca dao Việt-Nam có câu:
“Hữu duyên thiên-lý năng tương ngộ,
“Vô duyên đối diện bất tương phùng.”

Vậy thì duyên là gì? Phải chăng là đã có sự ước hứa với nhau từ xa xưa trong tiền kiếp hoặc vô lượng kiếp. Nếu đã có sự ước hẹn thì trong kiếp hiện tại này họ tìm đến với nhau hoặc cơ hội hoặc ngẫu nhiên cũng gặp gỡ, còn nếu không có sự ràng buộc thì dù ở bên cạnh cũng không hề vương-vấn.

Chính cái chỗ “duyên” đó là cơ thử-thách làm chao-đảo cuộc đời này rất nhiều. Đôi khi nó xuất hiện như một sự trêu nhữ của hoá công.

Câu này xưa nay là chỉ nói đến tình cảm trai gái để gầy nên tình-cảm lứa đôi, nên thường nói rằng “Một duyên, hai nợ, ba tình”.

Chữ “hữu duyên” hoặc “vô duyên” luôn là đề tài được hiểu qua nhiều khía cạnh khác nhau.

Nay, câu này có tính cách rộng rãi hơn là chỉ bàn về Đạo pháp, tức nhiên là nếu kẻ có căn-duyên thì mới gặp được mối Đạo Chánh-truyền để do theo đó mà tu hành mới đặng thóat tục, thóat kiếp luân hồi sanh sanh, tử tử. Còn nếu không căn duyên thì dầu ở trước mắt cũng không hạnh hưởng được phước duyên ấy.

Kinh Di-Lạc cũng nói “Bá thiên vạn kiếp nan tao-ngộ” tức nhiên các Đấng cũng cho biết là có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn kiếp sanh của con người mà chưa có lần nào được “duyên gặp Đạo” như buổi nay, như thời-kỳ này.

Như vậy cái duyên ngộ Đạo trong buổi Cao-Đài Đại-Đạo này thì thế nào?

Đức Hộ-Pháp nói “Chí-Tôn hứa với loài người: Ngài sẽ đến gieo nền Chơn-đạo dạy-dỗ với sự chơn-thật cho con cái của Ngài dựa theo chơn-lý, dùng lý-trí đặng tìm-tàng hiểu biết tận-tường chơn-lý ấy.

... Chí-Tôn đến đặng hiệp con cái lại một nhà của Ngài. Trong Thánh-ngôn Ngài còn quả-quyết đó, Ngài đến tạo ra Tân-Thế-giới làm cho nhơn-loại Đại-đồng. Nếu sự tìm-tàng sắp đặt không đặng kết liễu thì Đức Chí Tôn sẽ thất hứa với con cái của Ngài mà chớ! Bần-Đạo dám chắc rằng: Ngài không bao giờ thất hứa, vì đã được 99 điều rồi Ngài đã thật-hành vẹn hứa, không lẽ còn một điều mà Ngài làm không đặng.”

Phương-pháp của Ngài là “phải lấy hiền sửa dữ kia. Chí-Tôn cốt-yếu nắm quyền ấy để sửa đời. Ngưyên-do Ngài nói đến đặng tạo Tân-Thế-giới là vậy. Ngài đã hứa và Ngài sẽ trọn hứa cùng con cái của Ngài”.

Bằng chứng hiển nhiên là Đạo Trời khai mở tại Tây-Ninh mà một số lớn người Tây-Ninh không Đạo, còn có những kẻ nơi nghìn trùng xa mà được sự mặc khải của Đấng huyền-linh. Trong khi tìm đến với Đạo thì còn nhiều sự thử-thách.

Đạo Trời nay đã đến thời kỳ thanh lọc của Thượng-Đế cũng là cơ chuyển thế mở “Đại-Long-Hoa để tuyển phong Phật-vị” mục-đích là lấy Thánh bỏ phàm cũng giống như học-trò mỗi cuối năm đều có thi chuyển cấp, cuộc thi được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau gọi là khảo thí, khảo duợt để định giá trị tài-năng trình độ, phân lọai thứ bậc; thì người tu buổi này cũng vậy, cũng phải chịu sự khảo thí, khảo duợt vậy. Thế nên người tu lắm phen phải chịu sự khảo-đảo.

Sự khảo Đạo đó được bà Thất-Nương Diêu-Trì-Cung giải-thích khi được cầu hỏi; Bà nói:
 “Em tỏ sơ mỗi khi trong mình mấy anh có điều chi khác hoặc đau lạ kỳ hơn kẻ khác, xin mấy anh không nên phiền muộn, ấy là các Đấng chuyển đấy đa !

“Sửa tâm luyện tánh, tắm sạch phách hồn cho tinh chuyên, trong mấy điều sửa đó, phải chịu hành xác chút đỉnh: ấy là phận sự của kẻ chỉ giáo; còn phải chịu cho vị Giám-khảo hỏi nữa nghe!

“Trong ban khảo hạch lại chia ra làm hai ban khác nhau: một ban khảo thí tinh-thần, một ban khảo thí vật-chất.

"Phải biết phân biệt, hai ban này có lộn Quỉ-Vương nữa đa, vì Đức Chí-Tôn cho lộn chúng nó (xin Cô giải nghĩa giùm khảo về tinh-thần và khảo về vật-chất)?

"- Khảo về tinh-thần là làm cho trí não mờ-mệt, biếng nhác, hay quên, quạo-quọ, bị kẻ khác sỉ-nhục tên tuổi mình.

"- Khảo về xác thịt thì đau té, có khi phải chịu chúng dọi đầu, gia-đình lộn xộn xào-xáo chẳng yên. Đó là Em kể sơ qua, phải dễ đâu!

“Hữu duyên đắc ngộ, vô duyên muôn kiếp bất tương phùng”.
"Biết Đạo-mầu, dầu nhà triệu phú muốn nài đổi cũng chẳng thèm; thanh thì bần, trược thì phú. Có phân cây mới tốt, mà phân vẫn là chất trược.
 “Phép này dễ học hơn hết.!
 “Hễ mỗi lần xác phách muốn làm điều chi thì mấy anh tự hỏi coi điều này Ông Trời làm đặng chăng?”

Bà Đoàn đã nói trong Nữ Trung Tùng Phận, rằng:
 “Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp-nhơ” là vậy !

Thi văn dạy Đạo:
Hạc mây nhẹ túi gánh phong ba,
Biết hết Thần Tiên phải phế nhà.
Đặng cảnh Bồng-Lai xưa ít khách,
Nhẫn ngờ Lục-động bước ta-bà.

22 - CHÍ TÔN ĐẠI XÁ NHỨT TRƯỜNG QUI NGUYÊN
Giải nghĩa: nay là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng gọi là đại-ân-xá lần ba của Đức Thượng-Đế, cho nền Đạo Cao-Đài còn gọi là 3ìeme Amnistie de Dieu en Orient. Chí-Tôn ân-xá tội tình đem cả con cái về hiệp một cùng Ngài.

Lời bàn: thử hỏi vậy từ xưa tới giờ có cuộc ân xá nào không? Tất nhiên là có; tuy nhiên những lần trước nhân-lọai không được hưởng hạnh-phúc như lần này.

Cứ mỗi nguơn-hội, Đức Chí-Tôn với lòng từ-bi tha-thiết, thương con cái của Người không nỡ để chìm đắm nơi sông mê bể khổ, nên cứ mỗi nguơn hội Đức Chí-Tôn đều có mở một kỳ Phổ-Độ để cứu vớt chúng-sanh và cứu vớt nguyên-linh tức là nguyên-nhân đã xuống trần đặng đem trở về ngôi vị cũ.

Như thế thì mỗi kỳ phổ-độ đều có mở một cuộc ân xá, mở cửa dễ-dàng cho các đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị.

Chỉ trong hai tiếng Phổ-Độ cũng đủ cho thấy rõ ý-nghĩa ấy: phổ là phô-trương, bày tỏ ra cho mọi người đều biết, còn độ là độ rỗi, cứu vớt sanh chúng khỏi chốn u-ám, tối-tăm sa đọa để đem về cảnh thanh nhàn hạnh-phúc.

Vì thế nên mỗi nguơn hội đều có mở một kỳ phổ-độ tức là một kỳ ân-xá.
Về Thượng-nguơn tam chuyển mở Nhứt-kỳ Phổ-Độ.
Qua Trung-nguơn thì mở Nhị-kỳ Phổ-Độ.
Nay hạ nguơn tam chuyển thì mở Tam-kỳ Phổ-Độ.
Như vậy thì mỗi kỳ phổ-độ đều có mở một cuộc ân-xá; nhưng tại sao trong Tam-kỳ Phổ-Độ lại gọi là Đại-ân-xá? Tức là một cuộc Ân-xá lớn .

- Bởi vì nay Đức Chí-Tôn mở Đạo kỳ ba này còn cho Kinh tận độ người sống và độ luôn cả linh-hồn người chết.

Đức Chí-Tôn còn mở rộng cửa cho các đẳng linh-hồn dầu cho nguyên-nhân, hóa-nhân hay quỉ-nhân cũng đều được cứu độ hết.

Để thiệt thi cuộc ân-xá này, Đức chí-Tôn có ban cho các môn Bí-pháp: Tắm Thánh, giải oan, phép hôn-phối và cắt bảy dây oan nghiệt cùng phép Độ thăng cho hàng Chức-sắc Nam cũng như Nữ.

Để thực thi cuộc Đại-ân-xá này Đức Chí-Tôn còn dạy Đức Hộ-Pháp tạo Bác-nhã-thuyền và sắp đặt nghi-lễ chèo thuyền (chèo hầu và chèo đưa).

Với lòng từ-bi vô-biên, vô lượng Đức Chí-Tôn còn cho đóng cửa Địa-ngục và bãi bỏ hết những khổ hình đã đặt để từ xưa đến giờ nơi cửa Thập điện Diêm cung để cho các chơn hồn kể từ nay chiếu luật vay trả ở tại mặt thế này cho đến khi nào sạch hết oan khiên thì sẽ đặng ân-thưởng.

Đức Chí-Tôn còn quyết “Khai cơ tận-độ Cửu-tuyền diệt vong” Nghĩa là đối với nhân-lọai kể từ ngày hôm nay tức nhiên từ ngày mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cho mãi mãi tới tận thế cái Địa-ngục dưới kia đã bị tiêu-diệt rồi, Thập điện Diêm cung đến rước người nó đã bị vong-phế rồi, người không còn sa xuống cửa địa-ngục, không còn chịu dưới quyền cửa Thập Điện Diêm cung, cái đó là trọng hệ hơn hết.

Đức Hộ-Pháp cũng cho biết tiếp:
“Mỗi nguơn niên, theo ta hiểu biết cái đại nghiệp của càn khôn vũ-trụ với triết lý nhà Phật, thì cả tinh-thần lẫn vật-chất của vạn linh đều thay đổi mới. Theo cái triết-lý ấy thì ngày nay là ngày các chơn hồn đặng quyền Chí-Tôn ân-xá nếu không nói rằng hưởng được một sự tấn-hóa đặc ân hơn nữa! Bần-Đạo không cần nói, buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, Đức Chí-Tôn Ngài đến để hai chữ Ân-xá thì chúng ta đóan hiểu rằng:

“Ngài đã đến rồi!” và Ngài biết con cái của Ngài đã chịu khổ nhiều rồi, đã có nhiều phương-pháp giải khổ của Ngài đến giao nơi mặt địa cầu này. Từ thử đến giờ cái thống khổ tâm hồn nhơn lọai bao nhiêu thì Ngài thống khổ bấy nhiêu, Ngài đến đem Long-Hoa-Hội cốt để bảo-thủ hai chữ Ân-xá. Trong bao nhiêu đó, chúng ta cũng đủ thấy lòng thương-yêu vô tận của Ngài thế nào.

Bần-Đạo nói thật thời buổi này chúng ta không tìm phương giải thóat cho Cửu-huyền Thất Tổ thì không thời buổi nào có năng lực độ rỗi Cửu-huyền thất tổ của mình cho đặng, không có buổi nào đặng hạnh-phúc làm đặng như vậy.

Bởi thế nên toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn có lòng yêu ái nồng-nàn hoài vọng gịot máu mảnh thân mình giờ phút này là giờ phút nên để trọn tâm thanh tịnh đặng cầu-nguyện siêu thóat cho Cửu-huyền Thất Tổ.

Bần-đạo dám nói giờ phút này, mấy người không có thể không nhỏng-nhẻo với Đức Chí-Tôn được. Ngài sẵn-sàng để hai chữ Ân-xá thì mấy người xin cái gì thì Ổng cũng cho cái nấy”.

Bấy nhiêu đó đã chỉ rõ những quyết định trong cuộc Đại-Ân-xá của Chí-Tôn thật là trọng đại.

Vì trong nhứt kỳ và nhị kỳ phổ-độ, Đức Chí-Tôn có cho Ân-xá đến một mức nào chớ không có mở rộng hoát cửa ra như kỳ Đại-Ân-Xá này.

Trong hai kỳ trước mở cơ phổ-độ để cứu vớt và độ rỗi các chơn linh hoặc các chơn hồn biết thức tỉnh quay về nẻo chánh ,chớ không phải như trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn đã ban cho nhân-lọai một đặc ân chưa từng có.

Thật ra nhân-lọai rất may-mắn gặp thời kỳ này được Đức Chí-Tôn chan rưới hồng-ân bằng cách truyền cho bí pháp giải oan để rửa sạch hết tội tiền khiên.

Người mới nhập môn vào Đạo Cao-Đài khi lập minh-thệ thì được hưởng đặc ân là thọ phép giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước. Phép này cũng là một đại-ân-xá những tội trước, nhưng từ ngày nhập môn về sau thì phải ráng giữ đừng gây nên tội mới cho đến ngày chết, tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại- Từ-Phụ) thì được nhẹ-nhàng rất nhiều rồi.

Ngoài bí pháp giải oan này Đức Chí-Tôn còn ban cho pháp Tắm Thánh, pháp làm hôn-phối và đặc biệt nhứt là phép xác và phép độ thăng.

Người tín hữu Cao-Đài nào giữ đặng mười ngày chay mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là được hưởng phép xác, là được cắt bảy dây oan nghiệt nên được xuất ra nhẹ-nhàng để về cõi thiêng-liêng hằng sống.

Còn phép độ thăng là để giúp cho linh hồn những Chức-sắc được nhập vào Bát-quái-đài dễ-dàng hơn.

Tóm lại, với hằng bao ân huệ ấy xác định rõ trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn đã cho “đóng địa-ngục mở tầng thiên”. Các đẳng chơn hồn tùng nơi chơn pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một khi xuất lìa khỏi xác thì được pháp của Lục Nương Diêu-Trì-Cung và Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn đưa phướn linh dẫn đường đi, khỏi sợ lạc đường vào Bích-du-cung và Tam thập lục động của Quỉ-vương để đi thẳng về với Chí-Tôn và Phật-Mẫu.

Thật ra, cuộc Đại-Ân-xá này với mục-đích độ tận chúng sanh về cả hai phương diện: độ sanh và độ tử.

Trong lúc còn sanh tiền tại thế, thì dùng đủ mọi phương diện để độ rỗi và dìu dẫn cả con cái Đức Chí-Tôn được sống cho nên Đạo và khi chết rồi có đủ kinh tận độ linh hồn cùng ban những bí pháp để rửa tội và đưa linh hồn đi đến nơi đến chốn.

Ai là người hữu duyên hữu phước được sanh vào thời kỳ này khá sớm mau thức tỉnh quày đầu hướng thiện về cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để được hưởng hồng-ân của Đức Chí-Tôn trong muôn ngàn năm một thuở, nếu để lỡ trễ kỳ Đại-ân-xá này không biết mấy muôn ngàn kiếp nữa mới đặng hưởng một lần.

Theo giáo-lý Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì lần ân-xá này Đức Chí-Tôn không những ân-xá cho tất cả nhân sanh dưới mặt đất này mà mà còn ân-xá cho tất cả các thú cầm nữa.

Vì vậy trong ngôi Đền-Thánh có tạc hình bốn lọai thú linh là Long, Lân, Qui, Phụng, các lọai cầm thú này được tạc dưới hình thức trang-trí, mỹ thuật, nhưng cũng là được phép chầu Chí-Tôn trước, rồi những lọai thú nào biết hồi đầu hướng thiện sẽ đựơc một trong bốn lọai thú đại- diện đó dẫn vào Bạch-ngọc-Kinh. Chính nó cũng được dự trong bản Đệ Tam thiên-nhơn Hòa-ước mà Tam Thánh đã đưa tay ký cùng Đức Chí-Tôn là quyền sống của vạn linh được bảo vệ trong tình Bác-ái và Công-bình qua hình ảnh của lông chim (tượng trưng cho thượng cầm) trên tay của Đức Victor-Hugo. Và loài hạ thú (bút lông thỏ hay lông mèo) trên tay của Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm còn đó.

CHƯƠNG III:

THIỆN HÀNH THIỆN GIÁO LÀ GÌ?

Khi người đã chính mình có làm được việc thiện rồi mới dạy lại cho người khác làm việc thiện, cùng nhau mà làm việc thiện; sự thiện ấy mới có giá trị.

Thế nên, khi một Chức sắc Cao-Đài ra đi hành đạo ở địa-phương tùy theo phẩm cấp mà sinh hoạt trong phạm vi rộng hẹp khác nhau.

Ví như :
- Bàn Trị Sự thì coi từ Hương-Đạo, Phận-Đạo, xem như là làng, xã, thôn,ấp đạo.
- Lễ-Sanh, thì chức vụ là Đầu-Tộc xem xét trong một Quận-đạo
- Giáo-Hữu thì chức vụ là Khâm-Châu xem trong một Tỉnh-đạo

Việc hành Đạo ấy gọi là suất-sư có nghĩa là Chức-sắc vừa đi giáo-đạo mà cũng vừa là gương mẫu cho nhân sanh noi theo mà bắt chước từ hành vi cử chỉ hạnh đức, xem trò mà đoán Thầy, xem Thầy mà đánh giá nền Đạo. Bởi khi đã thọ Thiên ân thì vị Chức sắc ấy đã qua nhiều trường lớp huấn-luyện để làm hành trang phổ độ luôn nhớ hoài lời Thầy dặn rằng:
“Đạo là quí, của quí chẳng bán nài; các con đừng thối chí”

Bởi :
“Hàng phẩm nhơn tước của các con nó trùng với hàng phẩm Thiên-tước của các con. Ngôi thứ Thầy đã sắp sẵn, các con ráng đọat thủ địa vị của mình. Trước qua sau tới liệu mà tu hành. Thầy khuyên các con một điều là: đừng tưởng lầm tước phẩm Thiên-Đạo Thầy đem cho ai cũng đặng. Cửa Bạch-Ngọc-Kinh chẳng phải ai vô cũng đặng. Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên-thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều”

Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn có cho thi, vào khoảng năm 1937 như vầy:
Chừng nào Chi Pháp đã ra đi,
Ấy lúc Đạo Trời gặp vận suy.
Chức-sắc chuộng quyền hơn chuộng Đạo,
Nhơn-sanh lo cốt chẳng lo bì.
Mão cao dễ rớt nên thành nhác,
Cổ ngắn khó kêu phải hóa lì.
Khảo thí lọc lừa trường hắc bạch,
Chung tâm hiệp sức thoát cơn nguy.

Lưu-ý: Hiệp-Thiên-Đài có ba chi: Pháp, Đạo, Thế.

Mỗi chi như vậy có bốn vị Thời-Quân, mang chữ: Bảo, Hiến, Khai, Tiếp; Ví như về chi Pháp thì: Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai-Pháp, Tiếp-Pháp, mà trong số các Vị Thời-Quân chi Pháp thì Ngài Hiến-Pháp qui thiên sau cùng (ra đi) năm (1976)

01 -  SỞ QUỐC VÔ DĨ VI BẢO
DUY THIỆN DĨ VI BẢO      
Giải nghĩa: Sách nước Sở nói rằng: nước Sở không có gì làm của báu, duy có tâm Thiện làm của báu mà thôi.

Lời bàn: Nếu nay ta ngồi đây mà nói chuyện Tần, Sở, Hán, Đường, thì có phải vô tình ta làm một con người vong bổn hay không? Chả lẽ Việt-Nam này không có một điều gì nói lên chí-khí, tinh-thần siêu việt của dân-tộc được hay sao?

Vậy thì xin mạo muội dùng chữ “Sở quốc” là vốn của nước Sở, bây giờ ta nói “Sở quốc” là vốn của nước ta, há không được sao?

Tức nhiên nước Việt-nam ta duy có tâm thiện làm của báu, chắc cũng là một niềm tự hào cho dân tộc Rồng Tiên vậy!.

Bởi chính đất nước này là một quốc gia Thiên định. Việt-Nam là một Thái-cực-đồ trọn vẹn có đủ Âm dương nhị khí, họp thành Tam tài, Tứ tượng, Bát quái, Ngũ hành. Nhìn lên thì ngọn Thất-Sơn dưới có Cửu-long-giang chín khúc, chấm đậm nét hùng vĩ là điểm sau cùng của lượn sóng Hoàng-Hà phát nguyên từ Tây-Tạng, khởi xuất từ rặng Hy-Mã-Lạp-sơn (Hymalaya) cao vút, ngàn năm không người tới tạo nên linh khí cho Việt-nam, đã có địa linh tất nhiên sẽ tạo nên nhân kiệt ấy cũng là một điều dĩ-nhiên!

Hơn nữa, ngày nay Đức Chí-Tôn đã mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cho đất nước này để làm khởi điểm đưa nhân-lọai đến Đại-Đồng, không phải là không có sự lựa chọn của Thượng-Đế hay sao?

Chính Đấng ấy đã nói :
 “Chỉ có xứ Việt-Nam còn duy trì được sự tôn-sùng Tổ-phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ-thuộc từ ngày được tạo lập đến giờ. Nơi xứ này dân tình rất thuần hậu và ôn-hòa, Thầy đến cũng như Chúa Cứu-thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền bá chơn Đạo trên toàn cầu.

“Người sống trên thế gian này, dầu thuộc giống dân nào cũng chỉ có một Cha chung mà thôi, ấy là Trời đang chế-ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẻ nhau vì sự bất đồng Đạo-lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian này.

“Con để chơn vào con đường đưa đến cảnh an-nhàn hưởng những chuỗi ngày hạnh-phúc nơi cõi Niết-bàn. Con ráng tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy, để theo đuổi đến mức cuối cùng." (TNI/ 134)

Bấy nhiêu cũng đủ thấy Đấng Thượng-Đế đã “chọn mặt gởi vàng” rồi! .

Duy có chữ THIỆN phải như thế nào đây?
Ngoài cái nghĩa Thiện là Hiền lành ra, còn có nghĩa là phụng-sự, là hy-sinh nữa. Bởi chữ Thiện được cấu tạo trên là chữ Dương là con dê, là một trong ba con vật chịu hy-sinh để cúng tế trời đất, quỉ thần ngày xưa (trâu, dê, heo gọi là Tam sanh) tức là khi làm được việc lành thì tay múa miệng reo (dưới cùng là chữ khẩu khẩu là miệng).

Dân Việt-Nam là một dân-tộc đầy đủ tinh-thần hy-sinh, bất-khuất, đã chịu đựng biết bao thời kỳ nô-lệ, đã rèn đúc thành một tâm hồn rắn chắc; đức hy-sinh, kiên-nhẫn và thiện chí có thừa với một tâm hồn đạo-đức cao độ.

Cái báu vật đã thọ hưởng từ đời ông cha ta để lại biết bao đời, hôm nay đàn con cháu sẽ đời đời truyền nối cái tinh-thần cao-khiết ấy.

Mới ngày nào dân tình còn rên xiết cho cái cảnh qua phân.
Đây sông Gianh ! Đây biên cương thống khổ !
Đây sa-trường ! Đây nấm mộ trời Nam !
Đây dòng sông, dòng máu Việt còn loang,
Đây cổ độ xương tàn xưa chất đống
Sông còn đây hận phân ly nòi giống,
Máu còn đây, cơn ác mộng tương tàn,
Và còn đây hồn dân Việt thác oan,
Bao thế-kỷ chưa tan niềm uất-hận !”

Còn nay, thì con cháu các Ngài cũng có quyền hãnh-diện về anh-hùng Quốc-Tổ. Đây là bài Văn-Tế “Hồn thiêng sông núi” của Soạn-giả:
Lần dở trang sử cũ,
Đốt nén Tâm-hương hầu ngưỡng vọng Quốc-hồn.
Qua ngàn năm phơi trải tấm lòng son,
Ơn quốc thổ ngàn thu công rỡ rỡ,
Dầu vua, quan, công, hầu, khanh, tể,
Tấm lòng TRUNG còn truyền để muôn đời
Hận bao người nhục chí chuyển dời,
Mãn xu-nịnh, gian-hùng cũng khuynh-nguy điên-đảo. .
Thương bấy chí anh-hùng cao-ngạo
Thề đương đầu với nghịch bạo không nao.
Xem cái chết tợ hồng mao trước gió.
Hồn núi sông tự nghìn thu gắn bó.
Khí Thiêng-liêng mở ngõ giống hùng-anh.
Thương bấy chí anh-hùng cao-ngạo
Giống Việt-Thường đầy chí-khí liệt-oanh
Trừ thô-bạo ý thành luôn dũng liệt .
Nay ĐẠI-ĐẠO hoằng khai cõi Việt.
Xoá thù-hiềm nêu chí liệt bao dung.
Ngưỡng Ân thiêng Quốc-thổ kiêu hùng.
Khắc trong dạ lòng thành NGƯỠNG VỌNG:
Nguyện nối chí Anh-phong truyền thống,
Hầu điểm tô giòng-giống Tiên-Rồng .
ĐẠO cứu ĐỜI nêu câu : BÁC-ÁI ĐẠI-ĐỒNG,
ĐỜI nương ĐẠO mới rõ quyền CÔNG-CHÁNH.
Chí-Tôn dạy: không thương đừng ghét lẫn,
Hãy Thương Thương mới rõ sức nhiệm-mầu,
ĐẠO TRỜI sáng chói năm châu !

02 - THIÊN-HẠ MẠC NHU-NHƯỢC Ư THỦY
Giải nghĩa: trong thiên hạ không có cái gì mềm mại như nước; nhưng sức công phá các cái cứng mạnh thì không gì thắng được nước. Yếu mà thắng mạnh, mềm mà thắng cứng. Thiên-hạ không ai không hiểu nhưng không ai làm được. Thánh-nhân coi đó nói rằng:

Chịu được sự dơ bẩn trong nước thế gọi là Chủ xã tắc, chịu được sự bất tường trong nước gọi là Vua thiên hạ.

Lời bàn: lời của Đức Lão-Tử viết về Đạo-Đức Kinh thật chí-lý, dẫu cho đến vô cùng lý này vẫn đúng, vẫn làm phương châm hành xử cho người trị quốc, trị dân, hành đạo và là phương châm của người để trị TÂM.

Nếu nói đến ngôi cao cả không ai không nhìn đến ngôi Thượng-Đế, mà sự thân thương thì chưa ai bằng Thượng-Đế. Thánh-nhân được gọi là Thánh-nhân là nhờ biết noi theo đức Trời, người muốn hiệp với Trời chỉ duy nhứt học ở Thượng-Đế làm gương. Hỏi vậy quyền-uy của Ông Trời có không?

Đức Thượng-Đế nói:
“Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu-diệt nó đặng, nhưng mà phép CÔNG-BÌNH THIÊNG-LIÊNG chẳng phải nên vậy!”

Để rồi Thầy chỉ thể hiện nét Yêu-Thương, mà rằng:
“Các con ôi ! Thầy hỏi vậy chớ mỗi phen độ rỗi cho đặng các con, các con có biết Thầy chịu khổ-não dường nào chăng?

“Quyền hành Chí-Tôn của Thầy, các con nếu hiểu thấu thì các con sẽ thấy nó là một hình phạt rất nặng-nề, chẳng khác nào như gông với tróng.

“Thầy lập nhơn lọai là giòng-giống các con, chỉ tưởng rằng ban đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thế-giới càn-khôn, đặng làm cho rõ Thánh-chất mạnh-mẽ hơn phàm chất, nào dè còn lại đặng chẳng đủ một phần triệu Đấng, thì thế nào Thầy không đau lòng cho đặng? Thầy chưa bao giờ biết hình phạt các con bao giờ. Từ khai thiên Thầy đã sanh ra các con, sự yêu mến của một ông cha nhân-từ thế quá lẽ làm cho đến đỗi các con khinh khi, phản-nghịch lại cũng như Kim-Quan-sứ là A-tu-la, Thánh-giáo gọi là Lucifer phản-nghịch, náo động Thiên-cung. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn-nàn trách cứ Thầy thay!

“Các con ôi ! Đã gọi là Đấng câm cân, lẽ CÔNG-BÌNH THIÊNG-LIÊNG đâu mà Thầy đặng phép tư vị, Thầy lấy lẽ công-bình thì tức nhiên phải chiếu theo Thiên-điều, mà chiếu theo thiên-điều thì là con cái Thầy tức là các con phải chịu trầm luân đời đời kiếp kiếp. Các con phải ngồi nơi địa vị Thầy thì các con thế nào.

“Mỗi phen Thầy đau thảm khóc-lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí-tôn xuống lập Đạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẽ, xua đuổi, bắt buộc đến nỗi phải chịu cho các con giết chết.

“Ôi, thảm thay ! Thảm thay ! Các mối Đạo Thầy đã liều thân lập thành đều vào tay Chúa Quỉ hết, nó mê họăc các con. Nhiều bậc Thiên Tiên còn đọa; huống lựa là các chơn thần khác của Thầy đương nắn đúc thế nào thóat khỏi. Thầy đã chẳng trách phạt Kim-Quan-sứ lẽ nào lại trách phạt các con, song hình phạt của Thiên-điều, dầu chính mình Thầy cũng khó tránh. Các con tự lập hình phạt cho các con, cũng như Thiên-điều mà Thần, Thánh, Tiên, Phật lập thành đó vậy. Thầy đã cho kẻ thù Thầy đặng hưởng ân-điển của Thầy lẽ nào truất bỏ phần của các con, song tại các con từ chối, đáng thương mà cũng đáng ghét.

“Mỗi phen Thầy đến lập Đạo thì phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con làm tội lỗi bao nhiêu, oan nghịêt bấy nhiêu Thầy đều lãnh hết. Các con đặng thong-dong rỗi-rảnh chẳng lo tu đức mà sửa mình, lại còn cả gan trước mặt Thần, Thánh, Tiên, Phật gây thêm tội-lỗi nữa, thật là đáng giận.

“Thầy chẳng biết bây giờ đây Thầy phải bỏ Đạo, liều đọa với các con hay là đợi cho Đạo bỏ Thầy đó các con.

“Cắt ruột ai lại không đau ! Nếu Thầy không cầu khẩn Thái-Bạch đình hình phạt lại cho tới ngày lập thành Toà-Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con, phải sợ mạng lịnh Thái-Bạch.
“Thầy nhắc cho các con một phen nữa !” (TNI / 109)

Thi văn dạy Đạo
Hạnh tu đã chịu lắm cay chua,
Đạo Thế cho xong mới đến Chùa.
Trăm nết mình đây còn phải đổi,
Lựa là xử thế luống tranh đua.
03 - THƯỢNG PHẨM CHI NHƠN BẤT GIÁO NHI THIỆN
TRUNG-PHẨM CHI NHƠN GIÁO NHI HẬU THIỆN
HẠ-PHẨM CHI NHƠN GIÁO DIỆC BẤT THIỆN
BẤT GIÁO NHI THIỆN PHI THÁNH NHI HÀ?
GIÁO NHI HẬU THIỆN PHI HIỀN NHI HÀ?
GIÁO DIỆC BẤT THIỆN PHI NGU NHI HÀ?
?
?
?

Giải nghĩa: Ông Thiệu-Khang-Tiết nói, trong đời này chia làm ba hạng:
- Bậc thượng-phẩm không dạy mà được THIỆN
- Bậc trung-phẩm có dạy rồi mới được THIỆN
- Bậc hạ-phẩm dù có dạy cũng không THIỆN
- Không dạy mà Thiện nếu không là THÁNH thì còn gì?
- Dạy rồi mới được Thiện nếu không HIỀN thì còn là gì?
- Kẻ có dạy mà cũng không Thiện, gọi NGU chớ còn gì?

Lời bàn: cái trí hóa của người đời có cao, có thấp, không đều nhau, vì vậy Đức Thượng-Đế mới mở ra nhiều mối Đạo khắp nơi trên địa-cầu này để tùy theo trình độ mỗi hàng phẩm mà dẫn dắt lên con đường cao thượng hơn.

Bởi Đạo Cao-Đài, Đức Chí-Tôn có phân rõ ba bậc phẩm là: nguyên nhân, hóa-nhân, quỉ-nhân.
- Nguyên-nhân là khi khai thiên rồi đã có chơn linh người,
- Hóa-nhân là từ cầm thú đã tiến hóa lên người,
- Quỉ nhân là do từ hai phẩm trên bị tội mà đày vào quỉ vị.

Như thế, nay đã qua hai thời kỳ mở Đạo cũng vì số nguyên nhân ấy mà Đức Chí-Tôn đã cho xuống thế 100 ức để độ dẫn nhơn-sanh mà còn làm tội lỗi hơn chúng sanh nữa, nhưng trong hai lần ấy chỉ độ về được có 8 ức nguyên nhân (nhứt kỳ độ 6 ức + nhị kỳ độ 2 ức) còn lại 92 ức nguyên-nhân đang còn chơi vơi trên biển trần, lần này Chí-Tôn lo cứu vớt.

Đức Hộ-Pháp có nói:
 “Vậy thì Đại-Từ-Phụ đến khai Tam-Kỳ Phổ-Độ có đem theo một gia nghiệp Thiêng-liêng xuống thế, rồi nắm tay các Lương-sanh mà dắt đến một nơi vinh-diệu lại bảo rằng:

“Các con phải leo cho thấu trên chót Đài Cao này cùng Thầy đặng xem toàn thể của địa hoàn, ngó cho chường, suy cho quyết, rồi chung tâm hiệp trí cùng Thầy lo liệu bề chuyển thế”

Đại-Từ-Phụ còn giao nơi tay chúng ta những phần thưởng hữu hình và quyền lực Thiêng-liêng của Thầy đã sẵn-sàng dành để mà nhủ rằng:
 “Của cải này đủ thế lực cám-dỗ nhơn-sanh qui hồi bổn thiện. Thừa tánh tham của phù du thế tục, các con trao phẩm vị Thiêng-liêng. Do tâm dữ tranh quyền lộc công danh, các con đổi Chí-linh bổn thiện. Cơ-quan cứu khổ chúng sanh cũng do nơi đó”

“Chúng ta phải tưởng tượng lại coi Ngũ chi Đại Đạo là: Phật-giáo, Tiên-Giáo, Thánh-giáo, Thần-giáo và Nho-giáo bấy chừ chẳng khác nào như Ngũ mã tranh Tiên, còn Thầy đến bảo ta làm chủ khảo.

Ông chủ khảo không phải là Mã-Ôn thế nào làm chủ khảo, nên chúng ta không tùng một Đạo-giáo nào, mà hành chánh-pháp của Chí-Tôn, chỉ nắm chặt chủ quyền ngồi phán đóan, đặng nâng cao giá-trị của Phật pháp hợp chơn-truyền, mới vẹn tiếng chấn hưng Phật Đạo.

Dầu hồi buổi chưa tu, chúng ta đã chán thấy sự hay dở của Ngũ-chi Đại-Đạo là thế nào và cũng thấu rõ lẽ chánh tà của kẻ cầm quyền hành Đạo. Chẳng cần để luận những chi Tả-đạo bàn môn, dầu chánh-pháp chơn truyền, mà đời chế giảm sửa đương cũng đã thành phàm giáo.

Ta đã lãnh vai làm chủ khảo thì buộc:
- Mắt của ta phải xét cho chánh,
- Miệng ta phải nói cho chánh,
- Thân ta phải làm cho chánh,
- Trí ta phải định cho chánh,
- Tâm ta phải giữ cho chánh;

Có như vậy thì mới đủ quyền hành cầm cân Công-bình thiêng-liêng thưởng phạt, hiệp tâm lý đặng qui nguyên phục nhứt” (Diễn văn ĐHP 15-8-Quí-Dậu)

Thi văn của Đức Lý ban cho thuở tiền khai Đại-Đạo, như vầy:
Hiếm sầu bi,
Cuộc thế mị,
Ham phú-quí.
Nhiều phen đổ lụy ngậm hờn
Trăm cay ai để gieo đờn tri-âm
Ruột gan bầm …

Tại nơi chít mát bóng tùng
Trần-hoàn vì nỗi đau lòng hồng-nhan.
Chức-Nữ khóc thầm biệt Ngưu-Lang
Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.
Tri hoan rượu chén cờ bàn
Cảm cơn hội-hiệp mơ-màng lúc ly
Nghe giọng Tỳ …

Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn
Chạnh cơn thất thổ với ly hương
Chim lià đảnh Hạc bay ngơ-ngáo.
Chiếc Nhạn kêu thu đến bến Tương

04 - THỦY THIỆN LỢI VẠN VẬT NHI BẤT TRANH
SỬ CHÚNG NHÂN CHI SỞ Ố CỐ CƠ Ư ĐẠO    

Giải nghĩa: Đức Lão-Tử viết Đạo-Đức-Kinh có luận chương này: Nứơc là một vật khéo làm lợi cho người và muôn vật mà không có tính tranh giành, ở cái chỗ mà mọi người đều không thích, cho nên gần được với Đạo.

Lời bàn: Lấy cái tính nhu-thuận, khiêm-tốn, nhún-nhường đối lại với cái tính cương-cường, sắc cạnh thì yếu thắng được mạnh, ít thắng được nhiều, dễ thắng được khó, nhỏ thắng lớn, mềm thắng cứng; nên người quân-tử xem đó mà giữ được ngôi chính đính của mình.

Đạo cũng vậy, chỉ lấy hai điều trọng yếu:
1 - Luật là lấy Thương-yêu làm Luật,
2 - Pháp là lấy Công chánh làm Quyền

Chính Đức Chí-Tôn đến, Ngài phải chịu hạ mình, khiêm-tốn là thế nào cốt để tận độ chúng sanh thoát khỏi chốn mê đồ.

Thầy dạy:
“Các con nghe! Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên-Ông và Bồ tát là hai phẩm chót cùa Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao, tối trọng; còn Thầy thì khiêm nhường là thế nào ! Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-Đệ cho Thầy là nhỏ …Cười!

“Hạnh khiêm-nhượng là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm-nhượng sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói buổi lập Thánh-đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi đâu đến nhọc công Thầy.
“Ấy vậy, các con ráng độ kẻ có tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.” (TN I /121)

Chính cái đức mềm mỏng của nước mà con người thể hiện bằng sự Thương-yêu, cái đức nhún-nhường mà ngày nay trong cửa Đạo Cao-Đài đã thành CHƠN LUẬT.

Chơn luật hay vấn-đề đoạt Đạo là luật chơn-chánh và cần-yếu nhất là sự Thương-yêu:
Chơn luật thể hiện ở hai điều kiện LUẬT và QUYỀN:
1 - Luật Thương-yêu: Ngài định luật cho chúng ta là luật Thương-yêu; không phải thương-yêu nhân-loại mà thôi, mà phải thương-yêu toàn cả vạn-linh nữa.
2 - Về Quyền: Ngài chỉ định là quyền Công Chánh.

Đó là nội dung của bản Hòa-ước kỳ ba với Đức Chí-Tôn mà nhân loại phải thực thi đó vậy.
Từ thử, ta chưa thấy cái Hòa-ước nào đơn-sơ như thế ấy, mà nó oai quyền làm sao! Bởi từ khi có loài người đến giờ LUẬT THƯƠNG-YÊU không xa rời trong tâm tưởng của con người. Hỏi cha mẹ trong gia-đình trị con cái bằng bộ luật nào, nếu không phải luật Thương-yêu?

Nếu không nhờ luật Thương-yêu thì Đức Phật Thích-Ca không lập giáo được, cho chí đến các tôn-giáo trên hoàn cầu cũng vậy.

Đạo Cao-Đài thành hình, thành tướng như ngày nay cũng do luật thương-yêu mà ra.

Một khi đã thành hình trong luật thương yêu rồi thì không có quyền năng nào tàn phá nó đặng.

Nó nên hình bởi sự Thương-yêu, trưởng thành trong sự Thương-yêu, bởi hình chất của thương-yêu; hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng-kiện, nó sẽ là Chúa cả thù hận và quyền-năng thù hận không hề xâm lấn nó được.

Thế nhưng loài người chưa nắm được đầu mối của sự Thương-yêu nên lòng già vẫn thường héo-hắt, thở-than:
Thi văn dạy Đạo
Cao-Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch-Ngọc Hùynh-Kim cũng chẳng màng.
Chìu lụy đòi phen xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy.
Thầy còn dạy rằng:
“Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ-nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con trách phạt; cử chỉ các con khá lập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì là gần ngôi Tiên Phật đó!” (TN I /49)

05 - CHUNG THÂN HÀNH THIỆN THIỆN DO BẤT TÚC
NHỨT NHỰT HÀNH ÁC ÁC TỰ HỮU DƯ
Giải nghĩa: Suốt đời lo làm điều thiện, mà vẫn thấy chưa đủ. Một ngày làm điều ác, ác tự có dư.

Lời bàn: Hỏi vì sao? Bởi việc thiện chúng ta làm như nước thấm đầu non, còn việc ác như lửa cháy rừng.

Thế nào được gọi là việc thiện? thế nào gọi là việc ác?
- Việc thiện là đem điều lành đến cho mọi người, ấy là điều hay, hạnh phúc.
- Còn việc ác là điều làm cho người đau khổ, thống tâm, ray-rứt trong lòng.

Người làm Đạo là người tu-hành chỉ biết đem cái ân đến cho người, chớ không phải đợi người làm ân cho mình, cái ân chính là điều thiện vậy.

Thế nên:
 “Thuyết Đại-Đồng trong thế-giới buổi này, Chí Tôn lập Đạo Cao-Đài cốt yếu để làm cho loài người biết mình do một nguyên căn linh họat sản xuất chung nhau, biết nhìn nhau là anh em đồng một nguyên căn mà đến. Từ cổ chí kim các Tôn-giáo tìm đủ mọi phương diện làm cho loài người thức tỉnh tinh-thần, biết nhìn nhau là cốt nhục.

Hại thay! loài người chẳng biết nhìn chơn lý của Đạo, những luống mơ hồ nên Chí-Tôn buộc lòng phải đến tạo nền Đạo Cao-Đài chủ trương cho loài người biết yêu mến kỉnh trọng nhau, nhìn nhau là một, đặng tạo cho loài người một đại nghiệp, hiệp cùng nhau một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh thần, một căn bản, qui tựu cho toàn các sắc dân, hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt ngọt chia bùi, bảo-tồn nhau cho qua sự khảo-đảo đau đớn nơi khổ cảnh này từ trước.

Luận xét đến các nước ở Âu-châu, ở Á-châu, đồng tìm chánh sách vạch triết lý ấy và đương họat động loài người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng nhơn sanh chia nền chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi cố ý tìm cách thống nhứt cả loài người làm một trong đường sanh họat mà thôi, ấy là nước Mỹ đang thi thố hiện thời; còn nước Nga lại chia phân tài sản, dung-hòa tâm lý tạo cho loài người một phẩm-giá; một quyền lực đồng nhau. Phương pháp ấy khó đọat thành nguyện vọng.

Chúng ta sẽ thấy những cái tư-tưởng rẻ-rúng ấy sẽ chẳng còn hiệu lực cao siêu trong thời gian ngắn ngủi sau đây, vì cái quyền lực muốn hiệp tâm lý cần phải yêu ái, kính trọng nhau, tôn-trọng sanh mạng cho nhau, chia buồn rầu khổ não, nhìn một Đạo với nhau, lấy tình cốt nhục đối đãi với nhau thì mới đầm ấm cả đại gia đình xã hội, tức là toàn cầu thiên hạ vậy.

Muốn đọat cho được mục đích ấy, duy lấy đạo-đức tinh-thần, mới kính nhau, hòa nhau.

Nhưng nếu muốn nhìn nhau là một ruột thịt, mà thấy nhà bạn mình có của nhiều lại ganh ghét, đứa này giành của đứa kia hỏi vậy có hòa không? Nếu còn giành nhau vì sự ăn, sự ở, sự mặc, sang giàu cao trọng thì không thể nào đi đến Đại-Đồng tâm lý được.” ( ĐHP thuyết đạo 14-6- Đinh-Hợi 1947)

Ngày nay, những bậc hằng tâm, hằng sản đã hết lòng đem rải sự Thương-yêu đến mọi người đang gặp cảnh đau thương như:bão lụt, động đất, thiên tai, dường như không một thứ gì là không có giữa thời buổi này. Dù gan sắt đá cỡ nào chắc-chắn cũng không thể làm ngơ trước nỗi thống tâm của nhân-loại đang rên xiết. Tâm Bác-ái của người đang rộng mở, dường như họ muốn chia xẻ từ chén cơm, miếng cá; từ giọt máu, đường tim... Dù làm như vậy mà chẳng bao giờ thấy đủ.

Ngược lại cũng có kẻ dại khờ, một phút say cuồng, loạn trí mà đang tay làm một việc thiếu suy nghĩ, thì họa nạn lại dư. Nhưng nếu những nhà chính-trị lớn của thế-giới mà lòng còn vương mối hận thù, hành động không suy nghĩ, say mùi thuốc súng, nổi máu “chiến tranh” thì họa-hoạn tai ương cho nhân-loại hỏi còn dư biết mấy. Hỏi do đâu? Bởi đâu? Vì Đâu?

Hỡi những dân-tộc giàu mạnh! Hỡi những quốc gia được gọi là siêu-cường mà lòng hãy còn nhiều tham vọng,hãy tự soi lại mình có xứng đáng siêu-cường chưa?

- Xin lỗi các Ngài, xin lỗi Quí quốc: Tôi xin nói rằng các Ngài chưa “siêu”, chưa “mạnh” chút nào cả. Bởi trước mắt, các Ngài chỉ có “ỷ mạnh hiếp yếu” mà thôi. Bởi các Ngài thừa tiền bạc, lắm vũ-khí xua quân đi đánh xứ người, làm cho nhà tan cửa nát, rồi quí vị kêu gọi các nước anh em đến cứu nạn, cứu thương, cứu đói để tỏ ra là “Nhân-đạo”. Thật là một “hí trường!”mà thôi! Các Ngài nhớ chăng câu “Máu chảy ruột mềm”?

06 - THIỆN SỰ TU THAM ÁC SỰ MẠC LẠC
KIẾN THIỆN NHƯ KHÁT VĂN ÁC NHƯ LUNG
VI THIỆN TỐI LẠC ĐẠO LÝ TỐI ĐẠI      
Giải nghĩa:
- Nên ham thích điều thiện, chớ ham làm điều ác.
- Thấy điều thiện như khát-khao, nghe điều ác như tai điếc. Làm việc thiện lòng thấy vui-vẻ, bởi hợp với điều đạo-lý to lớn.

Lời bàn: Tâm-hồn đạo-đức thật sự chỉ biết có mỗi một việc là vun đắp nền NHÂN, dựng xây điều NGHĨA, đó là ham làm việc thiện, như khát-khao, bởi nó hợp với đạo-lý của trời đất mà con người hữu-hạnh mới được dự vào. Trái lại, mọi việc ác cần tránh xa.

Lại nữa triết-lý sống của Đạo Cao-Đài ngày nay là chủ-trương NHÂN-NGHĨA, lấy Nhân-nghĩa làm đầu mối cho Đạo làm người đó là Nhân-luân chi đạo. Cho nên khi luận đến Thiện Ác cũng là luận về Nhân-Nghĩa được vậy. Mà căn bản của nhân-nghĩa là Thương-yêu.

Đức Hộ-Pháp có nói:
 “Xem xét cho đúng lý thì Đức Chí-Tôn đến lập nền Quốc-Đạo làm cơ quan chuyển thế cứu mạng loài người. Toàn Đạo Nam Nữ lãnh một cái trách nhiệm trọng hệ dường ấy mà không có đủ tinh thần nghị-lực làm tròn nhiệm vụ; chư đạo-hữu làm chứng cái điều ấy, nếu một ngày kia nên hình tướng của Đạo thì quả nhiên như vậy. Bần-Đạo chẳng hề nói đã làm nên cho Đạo cho đời.

“Năm 1939 bằng chứng đem đến là giặc toàn cầu đều sôi nổi, lời tiên-tri chẳng đi sai. Nước Việt-Nam là Thánh-Địa của Chí-Tôn mà tránh không khỏi cái nạn ta thán, hồi họp, sợ-sệt.

“Mãi đến ngày 27-7-1941 Bần-Đạo bị đồ lưu nơi hải-ngoại, chính mình làm đầu Thánh-Thể mà tự nghĩ, xét làm không tròn phận sự đối với đời với Đạo, trong tâm có nuôi hám vọng là vui chịu bắt lưu-đày để gánh khổ cho nước nhà thóat đọa. Dường như đắc kế nên cái thú hưởng lạc của Bần-Đạo không thể tả được, chịu có một người mà cả nước được hưởng.

“Không dè, Đạo Cao-Đài có cái tương lai gánh cả Nhơn-quả của toàn nhơn-lọai trên mặt địa cầu này, chẳng riêng một nước Việt-Nam mà thôi, cũng không phải riêng cho một nòi giống mình hưởng; chúng ta con cái của Chí-Tôn mà bị đồ-lưu tức là tội của loài người chưa trả đó.

“Cả thảy đều thấy bởi Thiên-cơ, nhưng được hạnh phúc cho kẻ nào đi đến THIÊN-THAI KIẾN DIỆN, nhận định trước sự hạn định chẳng phải giấc chiêm bao mơ-mộng, ôn lại cả hành tàng của loài người trên mặt địa cầu này; hạn định chưa dứt, tức còn phải trả đến chừng nào hột giống lành của Chí-Tôn mọc lên đã thành cội Hòa-Bình tâm lý đơm bông sanh trái nơi đất Việt-Nam này, mà khắp địa cầu toàn nhơn lọai được hưởng hạnh-phúc, bằng chẳng thì do tội tình này mà phải một phen thống khổ hơn nữa. Thỏang không đủ can-đảm, cương-quyết thiệt dụng quyền-năng của Ngài thì dầu cho Chức-sắc Thiên-phong, chức việc, đạo-hữu cho đến mấy con nhỏ cũng vậy, cái họa tương lai không thể tránh, thì không lấy gì làm lạ; hết giặc- giã đao-binh đến bịnh chướng sát hại ..Đã từng chịu phong ba bão-tố, bị chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây tức là Chí-Tôn dành để lại một giống lành để làm căn-bản cho cội hạnh-phúc hòa-bình, Đại-đồng thế-giới, thì sự ưu-ái nhau rất nồng nàn hơn tình cốt nhục.

“Ngày nay cả toàn cầu thiên hạ đã chịu thống khổ nên hằng xem chúng mình là giống lành thiêng-liêng Chí-Tôn đã lựa chọn .Nhận-định là mầm chồi hạnh-phúc chung thì khối Thương-yêu vô tận này bằng ngòi viết không thể tả được

“Ảnh-hưởng cao trọng tuyệt-đối của sự THƯƠNG-YÊU là đó !” (ĐHP.thuyết đạo 24-6-Đinh-Hợi 1947)

Làm việc thiện là làm gì?
- Đó chẳng qua là mỗi người thể hiện đức thương yêu mà thôi.

“Chúng ta đã ngó thấy chán-chường, thiên-hạ đã nói “Tìm Hòa-bình” mà trong ấy luật thương-yêu không có hiện-diện, không có kết liễu hình tướng được, thì họ chỉ mò trăng trong đáy biển mà thôi.
 “Cái luật Thương-yêu nó làm mực thước cho chúng ta đặng định quyền công chánh:
 “Trong một gia đình, nếu vợ không công chánh với chồng, chồng không công chánh với vợ, thì gia-đình không thể gì hòa đặng.
 “Vua không công chánh với tôi, tôi không công chánh với vua; không lấy tâm não làm mực thước, thì trong nước không có Hòa đặng.
 “Nhơn-loại, cả toàn thể không có công chánh đối đãi với nhau, thì nhôn-loại ly-loạn mãi thôi, chẳng hề khi nào hưởng được cái hạnh phúc Hòa-bình.
 “Ấy vậy, khuôn luật của Đức Chí-tôn để trong cửa Đạo là cái Luật Thương-yêu và quyền-hành Công-chánh.
 “Giờ phút nào biết lợi dụng mặt luật và quyền năng ấy mới đem cái HẠNH-PHÚC HÒA-BÌNH cho nhân-loại tương lai tới đây. Bằng chẳng vậy, thì cái nạn tương-tàn, tương-sát vẫn tiếp tục mà thôi.” (ĐHP 14-7-Quí-Tỵ)
Thi văn dạy Đạo
Tương nghe Trời Phật chí công bình,
Đến cận rõ coi thật hiển linh.
Oan khúc nỗi đời thôi chán-ngán,
Tư bề nào biết cậy ai binh.
07 - HÀNH THIỆN CHI NHÂN NHƯ XUÂN VIÊN CHI THẢO
BẤT KIẾN KỲ TRƯỞNG NHẬT HỮU SỞ TĂNG
HÀNH ÁC CHI NHÂN NHƯ MA ĐAO CHI THẠCH
BẤT KIẾN KỲ TỔN NHẬT HỮU SỞ KHUY
Giải nghĩa:
Câu 1, là nói người làm lành như vườn cỏ mùa Xuân, không thấy lớn mà càng ngày càng tăng trưởng.

Câu 2 là nói người làm ác giống như cục đá mài dao, tuy không thấy hao mòn mà càng ngày càng khuyết.
Lời bàn: Qua hai hình ảnh trên, Thánh-nhân đem ví với việc hành thiện cũng như việc hành ác của người đời :
- Với cỏ xuân trong vườn, dù ta nhìn ngắm mỗi ngày nhưng sự tăng trưởng đó chúng ta cũng không nhìn được rõ nét, bởi nó lớn lúc nào cũng không hay biết; đó là hình ảnh của người làm việc thiện.
- Còn cục đá mài dao, người thợ mộc mài mỗi ngày cũng không thấy sự mòn hao đáng kể mà lâu ngày xem lại thì sâu khuyết hẳn đi. Người làm điều ác cũng như thế đó, tức là làm tổn hại đến đức bình-sinh của con người lắm.

Gẫm cuộc đời người như giấc chiêm-bao, mới thấy đó rồi liền mất đó, nếu biết hành thiện thì sẽ thư thả trong lòng, an nhiên, tự tọai, không lo-âu, sợ hãi một điều gì.

Nghĩ lại giống dân Việt-Nam mình cũng thọ được cái tư-tưởng Đạo-lý cao siêu, hiếu hòa, không hiếu chiến, với một bản năng tự vệ để được sống còn chớ không mưu đồ làm giặc hay gây chiến-tranh với các nước khác. Bởi sự ảnh-hưởng của Nho-giáo đã ăn sâu vào tiềm thức rồi, câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” đã thấm nhuần trong dòng máu anh-phong này!

Đức Hộ-Pháp đã xác nhận điều ấy:
 “Nòi giống Việt-Nam chịu ảnh-hưởng của văn-hóa Nho-phong 4.000 năm đã để cho chúng ta hai câu đích đáng, nếu chúng ta biết dùng từ thử thì nước Việt-Nam không có cảnh tượng ngày nay.

Lấy NHƠN-NGHĨA đối với bạo tàn, lấy tâm ưu-ái trả thù hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí Thánh mới làm đặng. Bần-Đạo làm đặng, đặng chi? Đặng nêu cao tinh-thần của Đạo Cao-Đài này lên như Chí-Tôn muốn.

Lẽ ra đem hung bạo trừ hung bạo theo thường tình thì mới vui lòng, thỏa mãn tâm phàm của Phạm-Công-Tắc thì ắt là vui mừng lắm chớ ! Nhưng Hộ-Pháp vì biết hại cho tương lai nước nhà, nền Quốc-Đạo, cầm cây huệ kiếm đưa ra, lấy tâm yêu ái đối lại với óan ghét, cốt yếu làm cho nhơn lọai làm chứng rằng chơn-truyền của Đạo Cao-Đài là huờn thuốc Phục sinh Hòa-bình cho nhân-loại.Quốc dân Việt-Nam làm đặng thì toàn cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ-kiếm ấy đặng thì họ cứu nước họ đặng, cũng như Vịêt-Nam đã cứu nước Việt-Nam vậy.

Chúng ta thử ôn lại đã có 23 năm hành đạo, chúng ta đã chịu bao nhiêu khổ hạnh để bảo thủ con cái của Chí-Tôn. Ngày nay, cái kết-quả này có đáng giá trừ với sự khổ hạnh 23 năm ấy chăng?

Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng, từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có nền Tôn-giáo nào được mau chóng như nền Tôn-giáo của Chí-Tôn đến tạo nơi xứ Việt-Nam của chúng ta. Chúng ta ôn thử trong buổi kết liễu sau chót cuối cùng trong hai năm nay, ta thấy gì?.

Nếu chúng ta có đủ tinh-thần tìm hiểu Thánh-ý của Chí-Tôn trong 23 năm, để cho chủng tộc Việt-Nam chịu đau khổ, chịu trong cảnh tương-tàn, tương-sát, thống-khổ, cảnh tượng nguy-ngập, có nghĩa gì?

Ấy là Đức Chí-Tôn xây chuyển cho con cái của Ngài thấy rằng: hung-bạo ở thế-gian không phải năng lực độc-đóan mà thắng được và trị thế được.

Cường-lực! Ôi cường-lực! Đối với thế-gian này, nếu có phương chước, có bí-pháp, thì duy lấy Nhơn-đức trị nó mà thôi ! Hung-bạo của đời này không lấy hung-bạo trị đặng, duy lấy đạo-đức tinh-thần trị mới đặng. Trong hai năm, quốc vận thống khổ do duyên cớ gì?

Do lấy hung-bạo trị hung-bạo ! Lấy hung-bạo chẳng trừ đặng năng lực hung-bạo, vì hiện giờ sự hung-bạo của thế-gian vô đối. Ấy là Chí-Tôn cho quốc dân Việt-Nam một bài học đích-đáng đủ bằng cớ trước mắt để suy đời. Ngài để kinh-nghiệm hai năm rồi, Ngài lấy năng-lực đạo-đức tinh-thần để cho thiên-hạ thấy.
 “Đạo-đức tinh-thần mới có thể đem hạnh-phúc đến cho nhân-lọai mà thôi!
Thi văn dạy Đạo
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Đường tu ví bẵng không lo trước,
Đền Điện Lương-Vương phải cháy tiêu.
08 - BÌNH SANH HÀNH THIỆN THIÊN GIA PHÚC
NHƯỢC THỊ NGU- NGOAN THỤ HỌA ƯƠNG
THIỆN ÁC ĐÁO ĐẦU CHUNG HỮU BÁO
CAO PHI VIỄN TẨU GIẢ NAN TÀNG

Giải nghĩa: lúc bình thường nếu biết làm điều thiện thì sẽ được phúc báu đến cho gia đình. Còn những sự ngoan ngạnh thách-thức sẽ gánh lấy tai ương. Ở đời dù làm việc thiện hay việc ác cũng đều có sự trả lại, gọi là báo ứng không sai.

Lời bàn: Ngày nay nhân-loại được nhìn kỳ-quan của thế-giới là Vạn-Lý Trường Thành, đồng thời cũng thấy được hình ảnh của vị Vua Tần-Thủy-Hoàng đang đứng trên đòn cân thiện ác đó!

Hãy xem một dây thung trên tay, một tay kéo dài ra, một tay giữ chặt; đọan tay kia buông ra, sức đàn hồi của dây thung sẽ trả trở lại, độ mạnh hay yếu tùy sức kéo của bàn tay. Việc làm hằng ngày cũng vậy: nếu làm lành sẽ có điều lành đến, làm việc ác sẽ có điều ác đến, không sai chạy, đó là qui luật tự nhiên, dù muốn trốn tránh đường nào cũng không khỏi, xưa nay thường nói là: lưới Trời tuy thưa mà không lọt mảy lông nào “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” là vậy.

Câu này hiện nay nhân-lọai sẽ được chứng minh bằng khoa-học hết sức tự nhiên, như máy camara chẳng hạn dùng để kiểm-soát hàng-hóa ở các siêu thị, kiểm sóat trên các trục giao thông để thay cho người khỏi phải canh giữ mà thấy rõ mọi việc. Việc này Đạo học gọi là “Minh-kính-đài” cũng không chênh lệch mấy ! Vậy sự tìm hiểu này có ích lợi gì?

Điều dễ thấy trước mắt là không còn nhìn Đạo-học là một sự mê-tín dị đoan, tất cả việc làm của chúng ta phải thận-trọng, dù chỗ không người cũng phải xem như có nhiều tai mắt đang nhìn mà phải thận trọng, không nên phán-đóan vội mà sai lầm ! Vì lẽ Tôn-giáo mới ra đời chỉ rõ điều hơn lẽ thiệt; có thơ rằng:
THI
Những là khổ cực chịu cơ đời,
Hạnh-phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
Đường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi.
Thóat tục ví ai tìm nẻo chánh,
Bến mê lướt sóng đến ven trời.

Ngày nay, Đạo Cao-Đài khai mở tại Việt-Nam là một điều ân phước cho dân-tộc, cho nòi giống, vì chính con dân Việt-Nam được nghe lời giáng dạy của thiêng-liêng, phân rõ chánh tà, biện minh thiện ác.

Hơn nữa, Đức Hộ-Pháp là người thay thân cho Chí-Tôn đã để lại không biết bao nhiêu lời giáng dạy; Ngài nói rằng:
“Đối với chúng ta, Bần-Đạo xin các Đấng thiêng liêng dạy-dỗ và nam nữ cũng trụ cả đức-tin nơi Ngài mà hiểu Đạo. Bần-Đạo dám chắc cả thế gian này muốn mau chóng để mỗi con cái của Ngài đều đọat kiếp hết, thấy hết lực-lượng vô biên vô tận mà lại không thể có ai làm được.

“Hại thay ! Đến giờ, con cái của Ngài không biết mình ở đâu? Làm gì?
“Đấng Chí-Tôn tạo ra vạn-vật chỉ xin có một điều là THƯƠNG-YÊU với nhau, đặng qui toàn con cái của Ngài cố gắng lập Đại-gia-đình làm một. Có con mắt mà thiếu Đức-tin không cố gắng có trễ hay chăng?

“Hiển-nhiên trước mắt mà chúng ta nếu khiếm công phu lo Đạo, một ngày kia về Ngọc-Hư-cung chúng ta có chối tội được chăng? Mà dầu có chối đi nữa cũng không biết vì lẽ gì mà chối, rất khiếm tài đức.

“ĐỨC là chìa khóa mở đại nghịêp thiêng-liêng, hữu hình hay vô-vi cũng vậy.
Lấy Đức làm nền tảng THƯƠNG-YÊU. Cái kho Thương-yêu có tài đức mới mong-mỏi đặng. Kho vô tận ấy hiển-nhiên trước mặt, thì kẻ nào đi trái con đường ấy chẳng hề lập nghiệp cho vững được. Chí-Tôn nhủ rằng:

“Các con muốn đọat cái đại-nghiệp thiêng-liêng của các con ,duy tu lập ĐứcYêu ái Đức thân sinh, hai tiếng đó hầu qui tụ cả đại nghiệp của mình, từ thuở, bao lần triết-lý các tôn-giáo đều dạy TU và ĐỨC thì ngôi-vị đã sẵn, không hề kẻ làm tội ác kia tranh giành đặng.

“Ấy đó, Bần-Đạo xin nhắn-nhủ toàn Đạo trụ cả khối tinh-thần cứ mài-miệt Đức-tin cho vững, thỏang có thất-bại Bần-Đạo lãnh cả tội-tình cho.

“Tin thì nghiệm xem ra thế nào, tin quả-quyết như Bần-Đạo đã tin, chúng ta đồng tiến nữa, bao nhiêu năng lực cá nhân góp tăng trăm ngàn nhiệt độ tổng số lại thì không có lực-lượng nào ngăn cản được.

“CHÍ-TÔN hứa với chúng ta đủ điều, thì không hề thất hứa bao giờ, duy tại chúng ta còn khiếm Đức-tin nên sự đọat thành hy-vọng của chúng ta còn chậm trễ đến ngày nay, mau hay chậm cũng tại chúng ta: muốn tin hay không tin mà thôi.

“Vậy Bần-Đạo xin khuyên toàn Đạo cố gắng trụ Đức-tin thêm nữa. Cần phải TU LẬP ĐỨC làm căn-bản, thì ắt hẳn đọat nguyện hiển-nhiên. Cái sự nghiệp của Trời và Người muốn làm chủ nó mà hưởng, thì chỉ có TU và LẬP ĐỨC.” (ĐHP 14-7-Đinh-Hợi 1947)
Thi văn dạy Đạo
Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người THIỆN phải ngừa đức háo-sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
THƯƠNNG-YÊU hết cả chúng sanh thành.

09 - CHÚNG SANH SỞ TẠO CHƯ ÁC NGHIỆP
GIAI DO VÔ THỈ THAM SÂN SI
Giải nghĩa: bao nhiêu tội lỗi do ác-nghiệp của chúng sanh tạo ra đều do tánh tham-lam, tánh sân giận cùng sự si-mê; mà tánh tham-lam khởi đầu trước hết. Tham-lam sanh ra sân giận, sân giận hóa ra mê-muội, mê-muội rồi không còn phân biệt nên hư ấy là lúc si mê vậy. Mà THAM, SÂN, SI được gọi là Tam Độc tức là ba mối nguy hại trong đời.

Lời bàn: chính ba điều độc hại này làm cho xã hội đảo điên, nó là đầu mối của chiến tranh, thù hiềm, làm cho lọan lạc; dầu ở xã hội cũng không tránh khỏi. Biết được nguyên-do đó mỗi người tự diệt đi, tự trừ nó; bởi THAM là muốn lấy của người làm của mình. Nếu thực hiện được ý-định ấy là kẻ trộm hoặc là kẻ cướp của giết người, đọat thâu tài-sản của người khác, lòng tham dục nếu không dừng lại rất là nguy-hiểm.

Nếu sự tham muốn không thực hiện được thì sinh ra GIẬN (tức là sân giận), dần dần ngông cuồng, còn gọi là SI cuồng là vậy.

Tục-ngữ Việt-Nam có câu “chơi dao có ngày đứt tay” có nghĩa rằng việc làm nào cũng có ngày bị phát hiện; trộm cướp cũng có ngày bị bắt, tù tội, bị sa lưới pháp luật. Đối với Đạo-pháp đó là giới cấm thứ nhì trong năm điều cấm răn (nhì bất du đạo).

Lý-do ngăn cấm Thầy có dạy:
 “Ôi ! THẦY sanh các con thì phải ỵêu trọng các con chẳng cùng, mà Thầy cho các con đến thế-giới này với một Thánh-thể thiêng-liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám-dỗ mê-luyến hồng trần ăn cho phải bị đọa, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi.

LỢI, Thầy cũng đã dành cho các con chung hưởng cùng nhau, mà cũng vì Tham đứa chứa nhiều, đứa chịu đói.

QUYỀN, Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần Thánh, Tiên ,Phật, hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn Thánh-chất yêu sanh của Thầy mà Quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn-sanh trong vòng tôi mọi.

Ôi! thảm thay, cái thất vọng của Thầy nên ghê gớm. Các con có hiểu vì sao mà cả nhơn-sanh GIAN-THAM chăng?
Thì cũng muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó, vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo, nắm chặt quyền cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế này lánh khỏi.

Muốn cho đặng quyền hành ấy thì làm thế nào?
Dùng hết mưu chước qủi quyệt, thâu đọat cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà ĐỜI trở nên trường hỗn độn, tranh tranh, đấu đấu, giựt giựt, giành giành, gây nên mối lọan, nhơn-lọai nghịch lẫn nhau giúp cho phép tà quyền mạnh hơn yếu thiệt, mất phép Công-bình thiêng-liêng tạo-hóa, cái trường thảm khổ của thế gian này do nơi đó mà ra.

Vậy GIAN THAM đã nhập vào lòng, thì lòng hết đạo-đức.
THAM-GIAN nhập vào nhà, thì nhà không chánh-giáo,
THAM-GIAN đã nhập vào nước, thì nước hết chơn trị,
THAM-GIAN đã lộng toàn thế-giới, thì thế-giới hết Thánh, Thần.

Thầy không cần nói sự GIAN THAM có thể giục các con lỗi Đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi. Ấy GIAN-THAM LÀ TRỌNG TỘI." (TN II /63)
Thi văn dạy Đạo
Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết thờ Trời.

10 - THIỆN HỮU THIỆN BÁO ÁC HỮU ÁC BÁO
NHƯỢC HOÀN BẤT BÁO THÌ THẦN VỊ ĐÁO

Giải nghĩa: Người biết làm lành sẽ hưởng được điều lành, trái lại làm điều ác sẽ gặp điều ác. Nếu mà chưa thấy sự báo ứng là chưa đúng thời kỳ vay trả, duy chỉ đến sớm hoặc đến muộn mà thôi.

Lời bàn: trong nguơn hội cuối cùng này nhân nào quả nấy phải trả cho xong. Ca-dao Việt-Nam có câu:
Ngày xưa trả báo thì chầy,
Ngày nay trả báo một giây nhãn-tiền

Nhưng Thánh-ngôn thì rằng:
Biến-chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Đời đem thử gan anh-tuấn,
Cửa Đạo mới ra mặt Thánh-hiền.
Đau khổ ráng gìn NHƠN-NGHĨA vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non sông Việt-chủng ngày êm lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập quyền.

Bởi lẽ, tất cả đều nằm trong luật vay trả của nhân lọai mà thôi. Đức Hộ-Pháp có thuyết về Lụât Nhân Quả như sau:
 “Hôm nay, Bần-Đạo giảng về Luật Nhân Quả vay trả của nhân-lọai trong thời-kỳ hạ-nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng-nguơn Thánh-Đức.

Các con ráng ẩn-nhẫn để Ông Trời hát từ màn cho các con coi; các con trông cho đời mau tới, tới chừng tới các con khóc mẹ, khóc cha luôn.

Bần-Đạo nói thật cái quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn một nháy mắt không còn một sanh mạng nơi quả địa cầu này, không cần một tích-tắc đồng hồ, những nhân nào quả ấy trả cho rồi đặng lập đời Thánh-đức mà thôi.

Một ngày kia Trung-Cộng và Căm-bốt (Cambodge) chết không còn một con đỏ, bởi vì Cambodge nghe lời xúi giục của người ta thành ra phải chết hết.

Các con biết sau này sắc tộc, sắc tộc đánh nhau; Tôn giáo, Tôn giáo đánh nhau. Đài-loan từ Hồng-Kông tản cư qua Việt-Nam trước, bởi vậy người hành ác mà mình theo họ, mình ôm eo ếch họ rồi họ trật chân, sút tay, họ té chết thì mình cũng chết theo họ mà thôi, thành ra người Miên (Campuchia) còn có bao nhiêu giống bên Việt-Nam đó thôi, các con ráng thương giùm họ.

Nói về Trung-Cộng là đứa con cưng của Đức Chí Tôn, nên Đức Chí-Tôn mới cho Lão-Tử, Khổng-Tử và Mạnh-Tử giáng trần dạy Đạo: làm lành lánh dữ, nhưng hiện nay Trung-Cộng theo cái thế sắc thủ đắc nguyên tử, sức mạnh là trên hết, tất cả mộng làm bá chủ hoàn cầu

Các con nhớ rằng: dữ tận hiền thăng, mạnh thua yếu được, nhu-nhược trường tồn “xỉ cương tắc chiết” nhơn-lọai trả quả với nhau, các con chịu cái nạn chung, trả từ đời Hồng-bàng đến giờ. Tổ-phụ ta khi xưa cũng ác tâm lắm, ỷ mạnh hiếp yếu, diệt chủng những nước yếu hèn nên phải chịu LỤÂT NHƠN-QUẢ ngày nay.

Bần-Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết món nợ tiền khiên mà Tổ-tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô-lệ nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong. Các con để tâm suy nghĩ; ngó thấy ở dưới thế-gian này ai mạnh cho bằng Tần-Thủy-Hoàng, Thành-Cát Tư Hãn? Có ai mưu sĩ cho bằng Tào-Tháo?

Còn Đức Thích-Ca, Đức Chúa Jésus-Christ không có một tấc thép trong tay để bảo vệ lấy thân mà làm bá chủ hoàn cầu mới là lạ cho chớ!

Hành ác trả ác, hành thiện trả lại thiện mà thôi, “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (tuy lưới Trời lồng lộng mà chẳng lọt một mảy lông) không bao giờ sai chạy.

Bần-Đạo nói ra đây các con ráng mà nhớ: các con đừng có mộng làm giàu cho mắc công; các con bây giờ sống trên nắp thùng nổ của bom nguyên tử, dù muốn dù không các con phải chịu ăn bom nguyên-tử mà thôi, các con muốn trốn bom nguyên-tử phải chun trong đám đậu nành mà trốn chớ không trốn đâu khỏi hết.

Sau này nước Việt-Nam còn sống nhiều nhờ biết chay lạt tu-hành, còn các nước khác chỉ còn sống lưa thưa mà thôi vì họ hành ác chạy đua võ-trang giết người hàng lọat, nên Đức Chí-Tôn mới phạt họ.

Năm ngàn năm trở lại đây, biết bao nhiêu Đấng xuống trần dạy Đạo, khuyên nhủ cho người ta biết làm lành lánh dữ, nhưng tánh nào tật nấy, dữ cũng vẫn dữ mà thôi. Họ không có hiền bảo người ta hiền làm sao cho được?

Trước khi dạy người, ta phải hiền trước để làm gương mẫu; hiền lành trước đi thì người khác mới noi theo, nên Đức Chí-Tôn mở Đạo lấy THƯƠNG-YÊU làm gốc: CÔNG-BÌNH, BÁC-ÁI.

Ngày nào cả nhân-lọai trên mặt địa cầu này biết nhìn-nhận Đức Chí-Tôn là Đấng Cha chung thời ngày ấy mới được Hòa-bình vĩnh-cữu.

Tóm lại ai hành ác mặc họ, Tín đồ Cao-Đài ráng lo tu, chay lạt, đi cúng hằng ngày, phải nhiều thời, nhiều pháp, nhiều kinh, cầu xin Đức Chí-Tôn giảm tội cho họ. Nếu họ biết ăn-năn hối cải mà làm lành lánh dữ, bằng không phải trả giá rất đắc.” (ĐHP thuyết đạo 15-6-Mậu-Tý 1948)

11 - VƯƠNG NHƠN CHI ÁC
BÁN CÚ PHI NGÔN TỔN BÌNH SANH CHI ĐỨC

Giải nghĩa: Cái ác tâm của con người dù ở bậc phẩm nào, mà nửa lời nói thiếu đạo đức cũng làm tổn hại đến đức bình sanh vậy.

Lời bàn: Sở dĩ muốn không để tổn hại đến đức bình sanh của con người nên Thượng-Đế mới giáng trần lập Đạo. Như vậy mục đích của Đạo mở ra để dạy người làm lành lánh dữ, cải ác tùng lương, đồng thời cũng để thanh lọc Thánh phàm cho nên người đạo đức, vì thế những cơ khảo đảo chính là cuộc thi mà Thượng-Đế đã sắp bày; ví như nước có nhiều vẩn đục phải đánh phèn để giữ lại nước trong.

Nay trong nền Đại-Đạo, buổi ban đầu Đức Chí-Tôn cũng sắp sẵn các Đấng đủ quyền năng để điều-hành mối đạo. Như Đức Lý Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Anh Cả về vô-vi, còn là quyền Nhứt trấn Oai Nghiêm; kế đến Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt chỉ đứng về phần hữu hình mà thôi.
Thế nên Đức Lý có dạy Ngày 5-12-Ất-Sửu 1926.

“Thượng-Trung-Nhựt, nay Lão đã nhượng nửa quyền hành cho đó, là cố ý để mắt coi Hiền-hữu đáng phận cùng chăng? Lão đã hạ mình bỏ quyền Nhứt-Trấn lãnh việc Giáo-Tông mà lập vị cho đoàn em bước đến, Lão đã lắm phen thấy điều khó-khăn, mắc-mỏ của phần tử ấy nên ra tay giục lọan đặng phân rõ chánh tà hầu giúp phương cho Hội-Thánh trừ khử.

Lão để mắt coi cái công-bình phàm của chư Hiền-hữu giữa Toà Tam-gíao là dường nào, Lão lại còn thấy công-bình thịêng-liêng mà để phương cho mỗi phạm nhân cải lỗi lấy mình, ấy là thể lòng Từ-bi của Chí-Tôn, bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy. Chư Hiền-hữu đừng tưởng lầm rằng:
 “Vì Đạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng đời ấy là lời tiên-ngôn của Lão đã hứa quyết”.
Hiền-hữu làm thế nào cho vừa trách nhiệm thì làm cho Lão xem thử?”.

… Đức Quyền Gíao-Tông nói:
 “Bởi Thiên-cơ tiền định cho nên nền Đạo phải chịu truân chuyên cả năm rồi. Cũng một phương khảo đảo làm cho chúng ta phải tự tâm mà xét lỗi của mình Tôi hằng nói:

Nội trong nền Đạo từ lớn chí nhỏ ai cũng có lỗi, ai cũng có sai lầm, vì lòng nôn nóng lo cho Đạo không thành lập, sợ để trò cười nơi thế.

Từ bảy năm rồi, chúng ta đây như một đám học sinh, từ thuở nay bị trò đời dìu dắt, vùi trong cuộc vinh-huê phú-quí, ham mùi chung-đỉnh bã vinh-hoa, tranh tranh đấu đấu khoe tài trí, có biết Đạo là gì? Tu là chi?

Nhờ Đại-từ-Phụ thấy bầy con dại đang chui trong hang sâu vực thẵm, bị lượn sóng vô tình gần chụp lấp, Thầy ngồi Hùynh-Kim-Khuyết chẳng an nên lo phần thức tỉnh đám thơ ngây, lùa chúng ta vào trường học Đạo.

Bầy con hoang, xa cách bấy lâu mới đem về đặng. Bởi câu “Phụ mẫu ái tử” vô ngằn nên Cha khó dạy con ! Thầy mới giao cho Đức Lý Đại-Tiên dạy bảo mấy năm, vừa sửa tánh hoang-tàn táo-bạo chút ít; kế tới kỳ thi chấm công quả, Đức Lý Đại-Tiên sắp từ bực cho có đẳng cấp mà dạy thêm, ngõ hầu nhập trường Cao-đẳng, chớ nào có một ai trong sạch lập thành Chí-Thánh.
Công lao của Ngài đáng mấy với lũ con hoang của Thầy!

Tội cấu-kết muôn năm uế-trược đầy mình, mới tắm ít gáo làm sao sạch đặng. Công-trình Từ-Phụ như thế mà cũng chưa vừa làng xa mã.

Than ôi ! Có kẻ trốn trường bỏ học (nhập môn rồi không thờ, không hành Đạo) lắm người tính làm reo (grève) phá Đạo, chuyên-quyền tự lập dỗ-dành những người tâm thành đức vẹn theo mình đặng tôn mình là một Tôn-Sư tại thế. Tội-tình biết mấy !

Xa Thầy tách bạn, theo tình mới, bỏ nghĩa xưa, là người phi nghĩa, VƯƠNG NHƠN CHI ÁC BÁN CÚ PHI NGÔN TỔN BÌNH SANH CHI ĐỨC.

Biết như vậy, chớ tôi vừa thức tỉnh nghĩ lại ai cũng còn mang nặng xác phàm sao cho khỏi lầm lạc, nên tôi cũng cất đầu lạy xin anh em, chị em dứt tánh phàm, rèn lòng nhẫn-nại khỏa lấp các việc tình tệ xưa nay trở lại Toà-Thánh, thìn lòng học Đạo ngõ hầu trở về cùng Đại-Từ-Phụ kẻo người trông đợi.

Tôi cũng phát nguỵện cùng Ngọc-Hư nghiêng vai gánh vác tội chung của chúng ta hết, dầu tôi phải chuyển thế đời đời làm công-quả đặng chuộc tội cho cả thảy con cái của Thầy thì tôi cũng cam lòng chịu, miễn cho cả thảy về cùng Thầy thì tôi cũng phỉ nguyện ở chốn này độ chúng.”
Lòng trông Đạo-hữu thứ dung,
Hiệp nhau lo Đạo hưởng chung phước Trời.
                                                           (Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-Nhựt)

Thật Ngài rất xứng-đáng nhận lãnh sứ-mạng Quyền Giáo-Tông của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trong cơ chuyển thế và cứu thế này .

Dù buổi tiền khai Đại-Đạo mà Chí-Tôn đã ân-cần trao gánh Đạo cho Người qua vần thơ:
THI
Một trời, một đất, một nhà riêng,
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên-thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên.

12 - THIÊN KINH VẠN ĐIỂN BẤT VỊ NHI GIÁO NHÂN NHẤT NGÔN THIỆN         
Giải nghĩa: trong đời dù cho tạo ra ngàn kinh muôn trùng sách sử đi nữa cũng không bằng dạy cho nhân-sanh một lời lành.

Lời bàn: Tại sao lại có câu nói quyết đóan như vậy?
Bởi trong chữ NGÔN là lời nói đó đã hàm súc một ý-nghĩa hết sức sâu sắc.
- Thứ nhứt chữ ngôn có 7 nét tượng cho phần dương trên gương mặt của người là: 2 tai, 2 mắt, 2 mũi và 1 miệng, cộng chung là 7 khiếu (khiếu là lỗ) nên gọi là thất khiếu sanh quang đó vậy. Chính thất khiếu dương này nó điều hành bộ não chúng ta, khi phát ra lời nói nó có ảnh hưởng rất lớn trong đời: thành hay bại; cho dù có đọc muôn ngàn sách mà phát ngôn sai lầm cũng gây nên lỗi lớn vậy.

Thế nên trong kỳ ba này vấn đề Lập ngôn là một điều thiết yếu của Tam-lập là: lậpđức, lập công, lập ngôn.

- Thứ hai là khi nói phát ra âm-thanh, âm-thanh sẽ vang trong vũ-trụ có ảnh hưởng rất lớn trong địa cầu. Nay nhơn lọai đau thương nhiều, chiến-tranh nhiều, lọan lạc nhiều hầu hết đều do hậu-quả của âm-thanh phức tạp, hỗn lọan, thiếu đạo-đức mà ra.

Ca dao Việt-Nam chỉ dạy một câu hết sức đơn giản rằng:
Lời nói không mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Trong thiên hạ qua nhiều đời kiếp đã để nơi thế-gian này một kho tàng vô giá về sách vở nào văn chương, khoa học, triết học; nào sinh ngữ, cổ ngữ; trong Hàn-lâm-viện của Mỹ có đến hai ngàn triệu quyển sách, nếu mỗi ngày đọc một quyển thì phải đầu thai đến ba kiếp như vậy đọc cũng không hết ! Nếu nói thế thì chúng ta không cần đọc sách

Như thế lại càng không đúng, vì nhân-lọai đã để lại một túi khôn vô cùng tận này cho mọi người thừa hưởng, mà không biết hưởng thì có sống cũng nhiều thiếu sót.

Thế nên phải có một tinh-thần đạo-đức thực sự thì việc đọc sách để làm giàu kiến thức, kiến văn mới được gọi là toàn.
Thánh-nhân ta đã có một tầm thấy siêu việt, dạy rằng “Tiên học lễ, hậu học văn”
Từ thử đến giờ khuôn luật ấy vẫn một mà thôi.
Thử hỏi Đức Chí-Tôn mở nền Đại-Đạo này Ngài đem nền chơn giáo để trong tay Thánh-Thể của Chí-Tôn là Ngài muốn gì?

Thật sự Ngài chỉ muốn dạy điều LÀNH ,rồi đem gieo giống lành từ đời này đến muôn đời khác mà tượng trưng 3.000 Giáo-Hữu 教友 là hiện thân của người Lành đó .Có Hiền lành mới mong đọat phẩm Thần,Thánh Tiên, Phật tại thế này được. Giáo-Hữu là gì? Là dạy bạn. Bởi con số ba ngàn tức là tượng trưng cho ba ngàn thế-giới, cũng là người đọat được ba ngàn công quả với Đức Chí Tôn; chớ nào phải cân đai áo mão suông mà thôi. Ba ngàn công-quả là phải có đủ tinh-thần.
- Hiền-nhân vô kỷ, tức nhiên bậc Hiền thì quên mình lo cho người (tượng số 0)
- Thần-nhân vô công, tức nhiên bậc Thần thì không tính công (tượng số 0)
- Thánh-nhân vô danh, tức nhiên bậc Thánh không ham danh (tượng số 0)

Nhìn chung thì cả thảy có đến 3 con số không (000) nếu đặt con số 3 ở trước sẽ là 3.000, nói lý là ba ngàn công quả là vậy. Nào phải đâu đã làm công-quả mà còn ghi, còn đếm. Công-quả của người tu chỉ có thiêng liêng mới thấy rõ mà thôi. Muốn biết được đủ hay không phải cân thần, chỉ có Hộ-Pháp làm được việc này.

Nền chơn giáo của Thầy rồi đây sẽ đạt một khối lành vô đối mà thế gian đương mơ mộng, đương khao-khát đặng hưởng lấy nó. Hưởng cho đặng nó, đặng bảo vệ sanh mạng của mình. Nếu khối lành không hiện tượng được thì sự hung bạo của nhân-lọai sẽ xô đẩy họ đi đến con đường tận dịêt mà chớ!

Bởi khối lành này rồi đây sẽ làm huờn thuốc Phục sanh để cứu nhân-lọai. Nhưng nếu nhân-lọai không biết theo con đường hành thịên mà hành ác thì hậu quả kia còn đó, hai trận thế-chiến kia còn đó

Đức Hộ-Pháp có nói:
“Biết rằng Thánh-Thể của Chí-Tôn là nền Đạo Cao-Đài có sứ mạng thiêng-liêng đến thế này để cứu độ toàn nhơn sanh đang lầm-than khổ-sở vì nạn đao binh. Chí-Tôn than:

“Nếu Đạo trễ một ngày là hại cho nhơn-sanh không biết chừng nào” .

Buổi ấy, đương thái-bình yên lặng, tưởng đâu Chí Tôn nói vậy là giục thúc cho mình đọat đến chơn-giáo, chẳng dè năm năm sau toàn cầu thọ nạn, có lẽ trước mắt toàn Đạo nam nữ đều thấy, Bần-Đạo tưởng chắc từ chưa có loài người đến giờ chưa có trận chiến-tranh nào giết hại nhân-lọai thảm khốc dường ấy.

Hại thay! loài người bạc nhược, thiếu Đức-tin mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với ĐỨC CHÍ-TÔN.

Bần-Đạo rất ưu-tư khổ sở về tinh-thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn sanh cứ tiếp diễn trong nước nhà của chúng ta mãi, nếu lấy theo trí độ tinh thần của chúng ta; tưởng sự tàn sát khốc liệt đổ máu chủng tộc ta lâm nạn nồi da xáo thịt thì do tội tình của quốc dân thất tín, thất phận đối với Đức Chí-Tôn.

Ngày mai Bần-Đạo sẽ đem tiếng chuông cảnh tỉnh Bạch-Ngọc-Chung của Đức Chí-Tôn đến tại Sài-thành đặng thức tỉnh đôi bên cho họ nhìn nhận, ngoài ra tình thâm giao, họ lại còn tình cốt nhục; có một tinh thần tạo ra một đại-nghiệp trong Cao-Đài.

Bần-Đạo xin thú thật rằng: Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn đừng tưởng Đạo Cao-Đài là riêng của mình, có thể nói rằng chúng ta đi một con đường chí thiện, tâm lý nhơn sanh, hoạt bát tinh thần, chúng ta đi một con đường yêu thương nhau, đồng chung sớt khổ cho nhau, ấy là cái đại nghiệp này nó sẽ làm cái bửu vật nâng đỡ tinh thần của toàn thế giới Đại-đồng (Liberté de Conscience)
Cả hai điều ấy hợp thành là Quốc-Đạo.” (29-6-Đinh-hợi 1947)

Thi văn dạy Đạo
Kinh sách cha ông để lại đâu?
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn-mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu!

13 - NHÚT NHỰT BẤT NIỆM THIỆN CHƯ ÁC GIAI TỰ KHỞI
Giải nghĩa: một ngày mà không biết tâm niệm điều thiện thì nhiều việc ác nhân đó mà khởi lên .

Lời bàn: tâm con người là mảnh đất tốt để gieo giống. Nếu chúng ta không tranh thủ thời gian để cấy giống Bồ-Đề, giống Đạo-đức cho nó tốt tươi thì e rằng cỏ dại cũng mọc đầy.

Thế nên giữa buổi vật chất lên cao lấn át tinh-thần, khiến cho nhân-tâm xáo trộn; ngũ thường bị khô cạn, mà để cho thất tình dấy lên.

Bà Thanh-Tâm Tài-Nữ là một Đấng Nữ Tiên, buổi tiền khai Đại-Đạo có giáng cơ nói rằng:

“Đạo mở rộng, giống Đạo gieo đã trót hai Thu mà người thiệt vì Đạo chẳng có bao nhiêu, thế nên hồi chưa mở rộng nền Đạo, Đức Thích-Ca dòm vào thế cuộc mà than rằng:

“Lộ vô nhơn hành, điền vô nhơn canh
“Đạo vô nhơn thức ta hồ tận chúng sanh.

Hèn chi, chỉ một tiếng “Ta hồ” là than ôi đã tỏ sự đau đớn và chán chường đến độ nào, nên Đức Thích-Ca có nói rằng: nước mắt của chúng sanh nếu góp lại còn nhiều hơn bốn biển.

Nay Ngài lại than “đường đi có nhiều người, mà không ai là người phải đường đi dập dìu thiên hạ mà toàn là quỉ xác ma hồn, Tâm giả dối, hạnh hung bạo, mật chứa đầy tà khí thế nào gọi là người?”

Còn “Điền vô nhơn canh” là sao?
 “Bởi ruộng đây là tỷ với TÂM, tâm không ai giồi trau .Đạo nơi tâm, thì tâm ví như ĐIỀN, có Điền mà chẳng có cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hạt thì ruộng tất phải bỏ hoang ; bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú ; người mà có tâm như vậy ra thế nào?!.

“Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ mà không làm, thế thì phải diệt tận chơn linh.” (TNII/53)

Bấy nhiêu đó cũng thấy rằng, người vốn sẵn Tâm thiện, bởi Phật nói “nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” tức là mỗi người trong chúng sanh đều có tánh Phật. Duy Đạo Cao-Đài xác nhận rõ-ràng hơn, trong bài kinh Tắm Thánh có câu:
Con người đứng phẩm tối linh,
Nửa người, nửa Phật nơi mình anh nhi.
Đại-Từ-Phụ từ bi tạo-hóa,
Tượng mảnh thân giống cả càn-khôn.
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

Thế nên, lời người xưa nói rằng: Phật cũng đây mà Ma cũng đây!
Thật vậy, nghĩ suy điều thiện, tư-tưởng điều thiện, ấy là Phật, gây sự sầu bi cho kẻ khác là điều bất thiện, là ma chướng.

Vậy nên trong ta có hai người: một là Phật, hai là Ma, vì vậy Thánh-nhân mới nói là Tâm-Điền (ĐIỀN là ruộng) Phân-tích chữ có đến hai chữ Vương nằm theo hai chiều thuận nghịch, chứng tỏ rằng có hai Ông Vua; ấy là một ông vua vật-chất và một ông vua tinh-thần ngự trị nhưng vẫn luôn tranh chấp nhau, nhất định phải có một thắng, một thua.

Với người tu hành chân chính nhất định phải là ông vua tinh thần ngự trị mới được, nên tâm dễ có cơ hội phát khởi, tức là hướng tâm-tư về với đại ngã, là Thượng-Đế, nghĩa là hòa nhập với vũ-trụ, nên thầy có nói:

“Thầy là các con, các con tức là Thầy” tức là đi dần đến chỗ hiệp nhứt; cho nên nếu Tâm không giữ vững được thì chỉ làm chỗ cho sâu bọ rắn rít mà thôi.

Kinh Phật-Mẫu có câu :
“Phục nguyên-nhơn huờn tồn Phật tánh,
“Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.”

Ngày nay mở Đạo là Chí-Tôn đem Phật tánh lại cho các bậc nguyên-nhân; nguyên-nhân là các chơn hồn Chí-Tôn sai xuống làm bạn đặng độ rỗi chúng sanh.

Thi văn dạy Đạo
Chánh tâm thân mới vẹn đường tu,
Phải sánh đời nay tỷ Hữu-Ngu,
Thanh tịnh thân vào thanh tịnh điện,
Chẳng quen đỉnh núi thấy cao mù.

14 - VẬT DĨ ÁC TIỂU NHI VI CHI VẬT DĨ THIỆN TIỂU NHI BẤT VI
Giải nghĩa: Đây là lời của vua Chiêu-Liệt nhà Hán dặn Hậu Chủ rằng: chớ có thấy một điều ác nhỏ mà làm, cũng như chớ có thấy một điều thiện nhỏ mà không làm.

Lời bàn: Hãy xem, một diêm quẹt kia bao lớn mà nó có thể thiêu rụi cả thành phố? Ngày nay những lọai siêu-vi-trùng thường phát khởi những chứng bịnh chết người và trở thành căn bịnh của thế-kỷ, nó bao lớn?

Ca-dao Việt-Nam ví-von rằng:
 “Anh ơi ! Con ong kia nó bao lớn mà nó hút nụ trái bầu, trái bầu eo?”

Quả thật vậy, trong cuộc đời này chưa có thể nói việc nào nhỏ, việc nào lớn. Vật nào hữu ích, vật nào vô ích và cũng khó mà phân biệt chánh tà nữa!

Bởi Thầy đã có dạy:
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đóan sao ra?
Sao ra Tiên Phật người trần tục,
Trần tục muốn tìm hãy đến Ta.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  9 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét