Đạo Tâm Bửu Giám 道 心 寶 鑑 - 7 / 9 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)

Hai câu này đã nói lên thời kỳ gần cùng cuối của triều nhà Nguyễn thật vô cùng nguy-ngập: chính-sự đang chịu cảnh lệ-nô của Pháp, đã lợi-dụng danh-nghĩa truyền-giáo vào Việt-Nam rồi biết bao biến-cố xảy đến.
Để đánh dấu những biến cố đó, sĩ-phu Việt-Nam có ghi lại đôi câu đối như trên. Ý-nghĩa như sau:
Câu 1- Nói rằng một con sông (Hương-giang) chia thành hai nước: bên kia bờ là theo chế độ của triều-
đình Huế (Việt-Nam), nhưng chịu sự bảo-hộ của Pháp; còn bờ bên này là dưới sự thống-trị của Quan Toàn quyền Pháp. Hai chánh sách, hai chế-độ khác hẳn nhau khó nói được nên lời (thuyết là nói)

Câu 2- Bốn tháng mà thay đổi đến ba Vua, đó là điềm chẳng lành (Tường là điềm lành, như cát tường)

Ba Vua đó là:
- Một là vua KIẾN PHÚC, ông này ở ngôi được 6 tháng và mất ngày mồng 7 tháng 4 Giáp-Thân (1.884 ) trong một trường hợp vô cùng thê-thảm.

- Sau đó em Ngài là Vua HÀM-NGHI lên thay tức là Chánh-Mông, húy là Ưng-Lịch khi đó mới 12 tuổi. Những phong-trào kháng Pháp nổi lên dữ-dội, Vua Hàm-Nghi lưu vong, kế bị bắt và bị lưu đày.

- Pháp thấy khó bề dụ được Vua Hàm-Nghi trở về, nên lập Vua ĐỒNG-KHÁNH lên thay vào ngày 6 tháng 8 năm Giáp-Thân. Tính ra vừa tròn 4 tháng mà có đến 3 vị vua thay phiên nhau kế vị, dầu trong sự miễn-cưỡng bất bình.

Việc này cũng làm đau khổ cho dân không ít, đi kèm theo sự thán-oán, cả dân-chúng đều ngán-ngẫm bởi bao ách thống-trị lên đầu rồi. Thậm chí đến mỗi lời nói ra hầu như là một sự nguyền-rũa cho cái xã-hội oái-oăm vô cùng đau thương tang-tóc.

Một hôm có người đàn bà trên đường di chợ về, ngồi nghỉ chân trước dinh huyện thở-than rằng:
“Ngẫm xem thế sự mà rầu,
“Ở giữa Đồng-Khánh hai đầu Hàm-Nghi.”

Nghe thấy vậy, lính vào báo với quan, quan cho đòi người đàn bà vào hỏi, tại sao lại dám phạm thượng? Bà nói rằng tôi có phạm-thượng chi đâu! Ấy là tôi than-thở về việc bán buôn ế-ẩm đấy mà. Quan bảo phải đọc lại câu lúc nãy là thế nào cho nghe; Bà đọc ngay:
“ Bán buôn lỗ vốn mà rầu,
“ Ở giữa đòn gánh, hai đầu đôi ky.”

Ngần ấy chuyện dân gian cũng đủ thấy nước nhà lâm vào cảnh loạn-ly, tan tác; dân tình đồ thán trước cảnh nước mất nhà tan.

Nhìn chung cuộc-diện chánh-trị lúc bấy giờ tại Huế thì bị khủng-hoảng, mỗi giờ phút một nặng-nề thêm .Ai cũng thấy rõ thế nước chông chênh; sự mất còn chỉ là thời gian. Trong các quan chia làm hai phe:

- Phe chủ chiến, điển hình có hai ông là: Nguyễn-văn-Tường và Tôn-Thất-Thuyết là những bậc trung-thành với vua, với nước.

- Còn lại hầu hết đều đứng về phe chủ hòa (đó là một thái độ bất lực) mà hầu hết đều là những tay buôn dân, bán nước, tham-quan ô-lại mà thời nào cũng có. Nghĩ kỹ lại chúng ta cũng không nên trách cứ làm gì, nếu không có những bầy kênh-kênh, quà quạ thì xác thú chết trên rừng lấy ai mà tiêu thụ, để đó kẻo bị thúi rừng thì sao?

Vì lẽ đó không-khí ngày càng căng thẳng hơn. Trong lúc hai vị này chuẩn-bị tấn công vào đồn Mang-Cá của Pháp để tiêu diệt quân Pháp đang nắm chủ-quyền..

Do đó, mà hai câu đối trên vừa tỏ sự ta thán, xót-xa, cũng vừa là hình thức chơi chữ một cách tài tình; đề cập đến hai nhân-vật quan-trọng là TƯỜNG và THUYẾT, hai chữ này đặt ở cuối câu đối.

Hai vị này là linh-hồn của cuộc kháng-chiến chống pháp, đứng hẳn về phe chủ chiến:
Nguyên vào thời Vua Hàm-Nghi, Việt-Nam ta chịu nạn đô-hộ của Pháp hết sức nặng-nề. Hai vị Tướng tài này hết lòng phò vua giúp nước, giải ách lệ-nô; vừa lo chống trả giặc ngoài là chánh-sách đô-hộ của Pháp, vừa lo diệt thù trong là bọn tham quan ô-lại, nịnh thần, tham quyền cố-vị, chực chờ buôn dân bán nước.
Bởi lẽ trước nguy cơ của dân tộc, Ông Tôn-Thất-Thuyết thi-hành trước kế hoạch, nên đang đêm cho nổ súng lịnh tổng phản công. Thế loạn nổi lên, thế yếu sức cô nên đành bỏ chạy và phò Vua Hàm-Nghi đi trốn. Riêng ông Tôn-Thất-Thuyết sau đó chạy sang Trung-Hoa mong cầu viện với nhà Thanh, nhưng không thành, ông bị bịnh và mất nơi đây.

Thật ra, trong thế loạn, ông đã nửa chừng đành bỏ cuộc, xuôi tay nhắm mắt vào năm 1912, ông Thuyết tạ thế tại Thiên-quan được ông Lý-Can-Nguyên bấy giờ chấp chánh Bắc-kinh, xót thương người tiết liệt, cho xây một ngôi mộ rất to và lập bia đề là:
 “Nguyễn-Phúc-Thuyết ngự tiền thân vương chi mộ”.

Tôn-Thất-Thuyết là người thuộc Hoàng-phái nhà Nguyễn. Nhân-sĩ ở Quảng-Đông có đôi câu đối viếng ông để khắc ghi một tài danh yêu nước của đất Tượng-Quận .
 “Thù chung bất cọng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng-Quận.
 “Hộ-giá biệt tầm tĩnh địa thiên niên tàn cốt ký Long-Châu”
 (Việt-Nam xưa gọi là Tượng-Quận là vì nước ta thuở ấy sản xuất nhiều voi)

Nhờ vậy mà lịch-sử Việt-Nam được dày thêm trang anh-hùng tuấn kiệt, làm vẻ-vang một đất nứớc đẹp giàu.

20 - TAM HỘI LẬP QUYỀN
Giải nghĩa: Trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn có dạy phân ra Ba quyền rõ-rệt; từ trên đến dưới là:
- Hội-Thánh,
- Thượng-Hội,
- Hội Nhơn-Sanh

Lời bàn: Nhất là luật-pháp của nền Đại-Đạo quá tế-vi cho nên khó mong thấu lý; buổi Đạo mới phôi thai, nhiều cuộc phá Đạo cũng làm điêu-đứng trong đạo tràng, khiến cho các Đấng cầm giềng mối Đạo như Đức Quyền Giáo-Tông cũng phải nhiều suy nghĩ, phân tâm; nhứt là vụ ông Nguyễn-Phan-Long làm “chủ-toạ Hội Vạn-linh” vào ngày 19-5- Quí-Dậu (1933) mục-đích truất phế Đức Quyền Giáo-Tông và làm nhục Đức Hộ-Pháp, tổ-chức tại Tòa-Thánh Tây-Ninh. Ông Nguyễn-Phan-Long là người ngoại Đạo đã qui-tụ các Chi-phái Hậu-Giang cùng một số chức sắc Tòa-Thánh dẫn 500 người của chi-phái về mở “Hội Vạn-linh”, ngụy tạo ra cuộc hội, có chánh-quyền Pháp yểm trợ, có võ-trang vào tại chỗ canh gát trong hội.

Mối loạn này do các ông Lê-Bá-Trang và Ông Nguyễn-Ngọc-Tương dựa vào thế-lực của chính-quyền Pháp đem số đông người về Tòa-Thánh “trích-điểm Đức Quyền Giáo-Tông có hành-động không xứng đáng là Anh Cả của Toàn Đạo nữa” .Đây là vấn-đề ngụy-tạo “Hội Vạn-linh”. Trong buổi họp này có một vị tên Diệp-Văn Kỳ là người ngoại Đạo mà cũng bất-bình, nên đứng ra xin đặt câu hỏi :
- Quyền Hội Vạn-linh là gì? Có phải là quyền gồm cả ba cơ-quan yếu trọng là: Thượng Hội, Hội-Thánh và Hội Nhơn-Sanh không?
- Ngày hội hôm nay có phải là ngày “Hội Vạn-linh” không?

Tôi xin nói rõ thế nào là Thượng-Hội, Hội-Thánh và Hội Nhơn-Sanh …

Kế tiếp Ông Diệp-văn-Kỳ nói rằng:
- Thưa quí Ngài: trong các Hội phàm-tục của chúng tôi, mà mỗi khi đến kỳ đại-hội muốn giải-quyết điều chi cho đắc thế, cũng cần có trước một số hội-viên tối thiểu, tiếng tục kêu là “quorum” thay; huống chi “đem Giáo-Tông ra xử”, là một việc theo cái dốt của tôi, chẳng bao giờ thấy trong lịch-sử Tôn-giáo, mà làm khinh-suất như vậy, chẳng phạm đến sự tôn-nghiêm quí Đạo ư? Tôi tưởng làm như thế, chẳng những là sái với chơn-luật của Đạo, mà lại đối với thường-thức của người phàm như tôi, cũng chưa được hợp lý”…

Lịch-sử của nhân-loại xưa nay không thiếu những chuyện “cười ra nước mắt” ấy.

Dù là việc Đạo nhưng khi Chí-Tôn lập giáo cũng đã tiên-đoán những việc tranh-giành không sao tránh khỏi, nên chi Ngài phân-quyền rõ-rệt, gọi là BA HỘI LẬP QUYỀN.

Đức Quyền Giáo-Tông giải-thích như sau:
“Theo chánh-thể của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì có ba hội đã định quyền hành đặc biệt :

A - Thứ nhứt là HỘI NHƠN-SANH
Trong Hội Nhơn-sanh thì chánh Phối-Sư phái Thượng làm Chủ-trưởng.

Hội-viên từ Lễ-sanh đổ xuống, Chánh-trị-sự, Phó-trị-sự, Thông-sự và người phái-viên thay mặt cho nhơn-sanh.
Trong Nội-luật Hội Nhơn-sanh của ba Chánh Phối-sư lập ra có chỉ rõ thức-lệ.

Ấy vậy, từ hàng Tín-đồ cùng Đồng-nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Đạo rồi đệ lên Hội-Thánh phán-đoán.
Vạn-vật cũng có ảnh-hưởng trong Hội Nhơn-sanh vì người là Chúa của vạn-vật.

Xét kỹ, thì Thầy công-bình không xiết kể và lo việc hóa sanh không ngằn, không tận

B - Thứ nhì là HỘI-THÁNH
Trong Hội-Thánh thì có Thái Chánh-Phối-Sư làm chủ-trưởng.

Hội viên thì từ Giáo-hữu, Giáo-Sư và Phối-Sư thiệt-thọ có trách-nhiệm hành-chánh đặc biệt.
Trong Nội-luật Hội-Thánh của ba Chánh-Phối-Sư lập ra có chỉ rõ thức-lệ.

Hội-Thánh có quyền xem xét các việc của hội Nhơn-Sanh dâng lên và các việc hành-chánh trong Đạo rồi đệ lên Thượng-Hội.

C - Thứ ba là THƯỢNG-HỘI
Thượng-Hội thì cũng có Nội-luật chỉ rõ thức lệ Trong Thượng-Hội thì Giáo-Tông làm chủ-trưởng .

Hội viên thì có:
- Thượng-Phẩm.
- Thượng-Sanh
- Ba vị Chưởng-Pháp.
- Ba vị Đầu-sư Nam phái.
- Đầu-sư Nữ-phái.

Không cần nhắc chi Chư Hiền-hữu lưỡng-phái cũng hiểu rằng mấy vị Đại Thiên-phong kể trên đây có hành-chánh phận-sự lớn lao của mình thì mới đặng vào Thượng-Hội.

Thượng-Hội để giúp cho Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp điều-đình cả nền Đạo lớn-lao của Thầy.

Thượng-Hội có quyền xem xét các điều nghị-luận của Hội-Thánh và Hội Nhơn-Sanh rồi hoặc đệ lên cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp phê-chuẩn hay là trả lại cho Hội-Thánh định đoạt lại .

Ba Hội (Thượng-Hội, Hội-Thánh và Hội Nhơn-sanh) toàn nhập lại theo hệ thức rành-rẽ thì gọi là QUYỀN VẠN LINH chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn-linh, tổ chức gì theo ý riêng của mình rồi muốn đem ai lên làm Chủ-trưởng, tổ chức gì cũng được. Như vậy thì có luật-lệ gì đâu?
Mà không luật lệ thì không phải Đạo.
Trên Ba Hội thì có Giáo-Tông và Hộ-Pháp.

Giáo-Tông làm Chủ-Trưởng Cửu-Trùng-Đài thì lo việc Chánh-Trị-Đạo, có Chưởng-Pháp và Đầu-Sư ở trung-gian giúp sức điều hành các luật lệ truyền xuống cho ba Chánh-Phối-Sư nắm trọn quyền hành-chánh.

Giáo-Tông có quyền định-đoạt trong việc Chánh-trị của Đạo.
Hộ-Pháp thì lo giữ luật lệ của Đạo cho khỏi saí Thiên-điều vì luật lệ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay thì thế cho thiên-điều.

Hộ-Pháp có quyền đặc biệt về Ân xá cũng hư Giáo-Tông có quyền chánh trị vậy.

Hộ-PhápChưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài có Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh và Thập-Nhị Thời quân giúp sức.

Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí Tôn.
Tệ-huynh có thọ lịnh chỉ rõ phương-diện Chánh thể của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ của Thầy khai trong buổi hạ nguơn chuyển thế đây y như trên đó.

Xin Chư Đạo-hữu nhớ và lo phận sự đừng trái Luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn Luật Đạo của Thầy thì là món binh khí diệt tà quyền giả mị đó.

Tệ huynh xin nhắc lại lời tuyên ngôn của Đại-Từ Phụ hồi buổi ban sơ:

Thầy có nói “Thầy lập Đại-Đạo kỳ này là lập một cái trường công quả, nếu các con đi ngoài đường công quả ấy thì không trong mong gì về cùng Thầy đặng”.

Trường Công quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô-hình là các Đấng thiêng-liêng (Thần, Thánh,Tiên, Phật) cũng lập công quả trong buổi chuyển thế này. Các Đấng thiêng-liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô-vi,

- Còn các việc hữu hình tại thế là các việc phải có thi hài như chúng ta bây giờ đây mới đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm, rồi có các Đấng thiêng liêng ám trợ.” (Tiểu sử Đức Quyền Giáo-Tông .Trg 112)

21 - NHU NHƯỢC TRƯỜNG TỒN XỈ CƯƠNG TẮC CHIẾT
Giải nghĩa: Lưỡi, có giữ được sự mềm dẽo nên mới lâu bền; răng, cứng quá nên thường bị gãy trước. Cũng như người người có được sự khiêm-tốn thì sẽ có được tình yêu-mến của mọi người lâu dài, còn cứng quá sẽ dễ bị mất lòng, ấy là phương châm hành xử trong đời vậy.

Lời bàn: Lời ngụ-ngôn của chúng ta thật dồi-dào ý-nghĩa, muốn nói rằng cái lưỡi trong miệng chúng ta thật mềm dẽo nên không bao giờ gãy, còn răng cứng như vậy mà bị gãy luôn; đó là một bằng chứng cụ-thể mà không thể nào không chấp-nhận được.

Cách sống của con người cũng như thế; cho nên đạo, đời phân-biệt nhau cũng do đó; vì vậy mà trong cuộc sống khi bị những “cú xốc” đớn đau thì người ta tìm đến Đạo để làm nguồn an-ủi. Nhưng liệu có được an-ủi hay không?

Người xưa đã để lại cho những bài học luân-lý thật đơn-giản, nhưng cũng thật là ý-nhị vô-cùng. Chắc tất cả trong chúng ta cũng còn nhớ bài học về “Cái lưỡi”.

Một phú-ông, một hôm dặn người đầu bếp rằng:
- Người hãy lựa thịt heo thứ nào thật ngon làm bữa ăn hôm nay cho ta.
Món ăn hôm nay là cái lưỡi, người chủ gật đầu khen ngon.

Hôm sau, người chủ lại kêu đầu bếp bảo:
- Ngươi hãy lựa một thứ thật dở làm bữa cho ta.

Người đầu bếp vẫn mua về cái lưỡi.
Phú-ông kêu hỏi lý-do: Sao hôm qua thức ngon là cái lưỡi mà hôm nay thức ăn dở ngươi cũng vẫn đem về cái lưỡi?

Người đầu bếp trả lời rằng:
Thưa ông, phàm mọi việc ở đời có sự chê khen là chính do cái lưỡi phát-ngôn ra mà thôi. Chứ sự thật chính nó không ngon mà cũng không dở, cho nên con mua cái lưỡi vậy.

Như thế sự lập ngôn chính là khởi ở cái lưỡi, từ đó phát ra lời nói. Do vậy một người đạo-đức phải biết đến tinh-thần “Giữ Đạo” của nền Đạo như thế nào.

Trên tinh-thần đạo-pháp khó nhứt là người giữ Đạo, tức là từ khi mới Nhập-môn cho đến khi có được một sự hiểu biết thuần-thục cũng giống như một người mới khởi học vỡ lòng mà nhìn lên chương-trình trung-học, đại-học, vẫn là con đường dài. Nhưng, con đường thiên-lý đều khởi bằng những bước chân đầu tiên. Vậy thì, chúng ta hãy đặt bước chân đầu tiên lên công việc của người “Giữ Đạo”.

Đây là lời dạy Đạo của Đức Quyền Giáo-Tông trong tập “Phương Châm Hành Đạo” Và trọng yếu là vấn đề “Giữ Đạo”. Ngài nói:
“Kỳ Hạ-nguơn này là buổi hiệp Tam giáo làm một, hầu đem về căn bổn cho hiệp lẽ tuần hoàn; Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế lại dùng huyền-diệu Tiên-gia giáng cơ giáo Đạo, thế thì chúng ta lấy làm hữu duyên, hữu phước mới sanh nhằm đời Đạo mở; muôn năm ngàn kiếp mới có một lần như vậy, nếu chẳng thành tâm tu niệm thì rất uổng cho cơ hội này lắm đó.

Nhập-môn cầu Đạo là để làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, lập công bồi đức, cứu độ nhơn sanh; chớ không phải vào Đạo để cậy lấy phần đông, rồi kết phe lập đảng mà ỷ thế hiếp cô cùng là xui mưu làm loạn. Kẻ vào Đạo chỉ mưu việc quấy như vậy là muốn gây rối cho nền Đạo tức là kẻ nghịch Đạo đó.

Muốn “Giữ Đạo” cho tròn bổn phận, người nhập-môn rồi phải do theo “Tân Luật” lại cần phải “làm lành lánh dữ” và “trau giồi hạnh đức”.

1 - Làm lành lánh dữ :
Có người thuở nay không làm điều chi bất nhơn thất đức, cứ một lòng ăn thật ở ngay; như vậy có đủ gọi là “làm lành lánh dữ” không?
- Không đâu!

Người ấy chỉ có biết lánh dữ mà thôi, nghĩa là chỉ có biết giữ mực công-bình của nhân-loại vậy thôi; chớ chưa có chi gọi là làm lành .

Muốn trọn hai chữ “làm lành” phải cứu nhơn độ thế. Kinh Phật dạy Cứu nhơn độ thế mà không giải rành là sao, thành ra nhiều vị tu-hành không để ý đến, chỉ biết có một phép Từ-bi thanh tịnh là gốc.

Sao gọi là cứu nhơn độ thế?
Cứu nhơn độ thế là cứu-cấp những người đang hồi khốn cùng, hoạn-nạn; ai đói mình cho ăn, ai khát mình cho uống, ai đau mình giúp thuốc, ai thác mình thí hòm, ai lạc nẻo mình chỉ đường, ai buồn rầu mình an-ủi, ai kiện thưa tranh chấp mình kiếm chước giải hòa; bắc cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí kinh-điển, thiên-thơ cho mọi người coi theo hầu cải tà qui chánh,…

Vậy mới gọi là cứu nhơn độ thế, song chẳng nên bất cập mà cũng đừng cho thái-quá. Bất cập là khi nào mình giúp cho người không trọn, có trước không sau, làm cho người sau rồi cũng phải khốn-cùng, hoạn-nạn như trước vậy .

Thái-quá là đụng ai giúp nấy, không xét coi kẻ ấy đáng giúp hay chăng? Vì ở đời lắm người giả dối, quanh năm chỉ ỷ lại người nhơn-thiện mà no cơm ấm áo; giúp-đỡ cho những kẻ ấy là giúp cho họ dễ bề làm biếng, tiện thế ở không, tức là chưởng ác cho họ vậy ..

Vả lại cứu nhơn độ thế, phải tùy duyên tùy sức mới đặng: giàu cứu độ theo phận giàu, nghèo cứu độ theo phận nghèo.

Theo lời giải trước kia; Cứu nhơn độ thế có nhiều cách: có của thí của, không của thí công, của công ví đặng thiệt lòng, cân lại cũng đồng âm chất.”

2 - Trau-giồi đức hạnh
Người giữ Đạo không những gọi làm lành lánh dữ là đủ, lại còn phải trau giồi đức hạnh thì nhơn cách mới hoàn-toàn.

Đức hạnh là điều cần nhứt của bậc tu hành. Thành Tiên, thành Phật cũng nhờ đức-hạnh, vì thuở nay chưa từng nghe có Tiên Phật nào mà không hoàn toàn đức hạnh:
- Thái Thượng khuyên lập Đức,
- Khổng Thánh dạy tu thân.

Lập đức, tu thân là căn bổn của Tôn-giáo. Muốn vẹn bề đức hạnh ngoài ra Đạo Tam cang, ngũ thường ta lại cần phải giữ sao cho đặng khiêm-nhượng, nhẫn-nại, thuận-hòa, kiên-tâm, thanh liêm, thì mới gọi là khắc-kỷ, mới gấm ghé đặng phẩm Thần Tiên vậy”.

Thi văn dạy Đạo
Thường xem khí số biết Thiên-cơ,
Hết kiếp trần-ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá-tước gánh đồ thơ.

22 - VÔ MA KHẢO BẤT THÀNH ĐẠI-ĐẠO
Giải nghĩa: Ma là một sự chướng ngại, thường làm cản trở công việc, ma là cây gai. Còn một thứ nữa gọi ma là những hình bóng chập chờn, khi ẩn khi hiện, loại này cũng đôi khi làm quấy rầy cho người ở cõi hữu hình không ít, có thứ nguy hiểm hơn gọi đó là quỉ, hay nói chung là ma quỉ; nói rõ ra thì phần cao trọng là Phật, trái lại là ma. Thường, một công việc làm có những trở ngại gọi đó là một sự thử thách. Chính sự thử thách, người phải có đủ sức phấn-đấu mới vượt qua được; vượt qua được là thành-công. Việc Đạo pháp nếu không thắng được các điều trở ngại ấy thì không thành việc lớn.

Lời bàn: Những công-án của Phật-giáo có kể lại rằng; khi một người phát tâm tu hành thì quỉ khóc đến ba ngày. Vì sao? Bởi người không tu tức là bạn đồng-hành với chúng, bây giờ đi tu là tách ra khỏi bầy bọn với chúng nó rồi. Người Tu sẽ có ngày thành Phật, tức là ánh-sáng khi bừng lên sẽ xua đi bóng tối, ma quỉ sẽ bị triệt, nên nó phải khóc là vậy.

“Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo” mà! Với chúng-sanh thì tìm hiểu, thử xem chân giả thề nào hầu trao trọn niềm tin cho Đạo-pháp.

Do vậy, mà buổi ban đầu Đức Thượng-Đế vẫn để cho chúng-sanh thử bằng mọi cách. Trước hết có một vị Yết-ma (bên Phật-giáo) không tin rằng có Thượng-Đế đến với nhân-loại như vầy. Ông viết sẵn bài thơ dấu trong tuí áo, đến hầu đàn; bài thơ như sau:
Ấm-ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên, Phật xuống phàm gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa được thơ đây mới Ngọc-Hoàng!

Thừa lúc âý trong đàn nội có Đức Chí-Tôn giáng, Ngài liền hoạ lại ngay:
Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng.
Đời cùng Tiên Phật xuống phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật TA đây ĐẤNG NGỌC-HOÀNG.

Thế là các vị ấy chỉ còn biết lạy mà xin nhập-môn làm Môn-Đệ của Ông Thầy Trời. Những vụ tương tự như vậy cũng đôi khi xảy ra, Thầy làm thoả mãn tính hiếu kỳ của nhơn-sanh trong thời tiền klhai Đại-Đạo.
Một hôm có một nhà chính khách, cũng viết một bài thơ tương tự: . .

THI
Cao-Đài Tiên-Trưởng hỡi Ông ơi !
Linh-hiển sao không cứu giống-nòi?
Trăm họ điêu linh thân cá chậu .
Muôn dân đồ-thán phận gà lồng .
Coi mòi diệt chủng càng đau dạ .
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng .
Ách nước nạn dân chừng thế âý,
Ngồi mà tu niệm có yên không?

Đức Chí-Tôn cũng thể lòng tha-thiết, cũng giáng đàn họa lại ngay:
Cơ Trời khó tỏ hỡi con ơi !
Nghiệp quả trả vay của giống nòi.
Bởi mến mồi ngon cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy chịu chim lồng.
Trời ban Đại-Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn quả ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không.

Đó mới là thử-thách của người, nhỏ thôi.

Rồi đây là một cơ hội mà Chí-Tôn cho “quỉ khảo” dữ-dội nữa: Đúng vào đêm Khai-Đạo ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (19-11-1926) tại Từ-Lâm-Tự (Gò-Kén Tây-Ninh), thật là một ngày Đại-Hội tưng bừng náo nhiệt; có đủ cả chính khách Pháp, Nam đến dự đông-đảo, dù Chí-Tôn đã dặn kỹ phải trấn đàn, nhưng vì sơ-suất nên có sự thiếu sót mà “quỉ lộng”, đang giữa đàn nội mà quỉ nhập vào một vị Chức-sắc xưng là Tề-Thiên, nắm tay một vị Nữ khác xưng là Quan-Âm, nhảy múa trong đàn nội. Thật là một sự loạn hàng thất thứ, làm mất đi niềm tin trước hàng vạn người. Sau đó, tiếp theo cũng là một sự mất-mát không nhỏ …

Ngay đêm ấy, Đức Chí-Tôn giáng dạy:
“Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho “những kẻ vô phước bị ngã vì bận thử-thách này” (thử thất của Tam trấn).

“Các con chớ nên phiền-hà: chuyện Thánh-Thất xảy ra, ấy cũng là một bước trắc-trở trong đường Đạo của Thầy, Thầy còn phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi Thiên-cơ vậy. Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Đạo, vì vậy mà nhiều chuyện xảy ra đều do nơi tâm-chí của nhiều đứa, Thầy hằng dùng tâm-chí của các con mà bố mọi điều thiết-yếu trong việc Đạo-đức.

“Sự xảy ra nơi Thánh-Thất, tuy là nơi mối Đạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra, vì Tâm trung chánh đáng thì là làm cốt cho Tiên Thánh; còn tâm chí vạy-tà là chỗ của tà-quái xung nhập. Chi chi cứ tưởng có Thầy giúp mà lập xong nền Đạo cho các con là đủ, Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà; các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới; đừng gấp quá mà cũng đừng thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.” (TNI/65)

Các đàn kế tiếp, Thầy cũng an-ủi:
“Các con ! Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường Tà-quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con.

“Các con thiết-nghĩ ra lẽ nào?
“Đó là bước Đạo, Đó là Thiên cơ, các con hiều sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm-biện về việc ấy, Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng-nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút.

“Môn-Đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ Đạo-y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Đạo gập-ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán Đạo.

“Các con hiểu Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định chạy sao cho khỏi?
“Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
“Từ khai Thiên lập điạ, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ-hạnh, mấy lần lao-lý, mấy lúc vang mày, nuôi-nấng các con hầu lập nền Đạo; cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải-tà qui-chánh.
“Mấy lần vun đắp nền Đạo, Thầy cũng đều bị các con mà hư giềng Đạo cả .
“Thầy buồn đó các con.” (TN I /66)

CHƯƠNG VI

HUẤN NGÔN LẬP CHÍ NHƯ THẾ NÀO?
Thánh-nhân cũng đã có nhận định rằng trong xã hội có ba hạng người:
- Không dạy mà biết, nếu không Thánh thì còn gì?
- Dạy rồi mới biết nếu không Hiền còn gọi là gì?
- Dù cho có dạy mà cũng không biết được, không phải ngu thì còn gọi là gì?

Như thế đối với người “dạy rồi mới biết” thì những lời của Thánh-nhân như huấn-ngôn, đạo-đức ngôn, chơn-chất-ngôn rất cần thiết cho vấn đề lập chí lắm vậy.

Trong việc lập chí điều cần yếu là sự kiên nhẫn..
Hãy nghe Đức Quyền Giáo-Tông là Anh Cả của nhơn-sanh nói về đức kiên-nhẫn ấy:

“Có người thuở nay thường mang tiếng “làm chi không nên việc”. Bất câu làm việc gì, lúc ban đầu thì hô-hào sốt-sắng, rồi không bao lâu lại thối chí, ngã lòng, thành ra cuộc “bán đồ nhi phế”, ấy là tại không hay chịu cực và chẳng biết kiên tâm, bền lòng.

“Việc thế mà còn vậy, hà huống là việc tu-hành khổ hạnh? Cho nên bực tu-hành cần phải biết kiên-tâm trì chí hơn người ở thế mới nên cho: khó-khăn phải ráng, cực nhọc phải cam thì mới mong giữ tròn bổn phận.

“Nghĩ coi, muốn làm quan cần phải sôi kinh nấu sử, khuya sớm nhọc-nhằn từ mười năm sắp lên mới đặng, hà huống là muốn đạt phẩm-vị Thần Tiên thì bảo sao không phải cần lao khổ hạnh?
“Cho nên Ngạn-ngữ có câu “Chí công mài sắt chầy ngày nên kim”.
“Chư Đạo-hữu cần phải nhắc-nhở nhau về hạnh nầy cho lắm.” (Phương Châm Hành Đạo)

01 - TIÊN NGHĨA NHI HẬU LỢI ( I )
Giải nghĩa: Khi thể hiện một điều nghĩa hay là một nghĩa-cử tốt đẹp chắc-chắn sẽ có các điều lợi theo sau.

Lời bàn: Tuy nhiên phải định rõ, cái lợi này gồm hai phương diện:
1 - Một là bản thân người làm ra đòi hỏi cho có được việc lợi; sự việc này xã hội đã xảy ra nhiệu lắm rồi, gọi là trao đổi, chớ không lạm-dụng danh-từ làm nghĩa được.
2 - Hai là một cử chỉ tự nguyện, làm mà không cầu một sự đền đáp nào; nếu lợi là một con số rất lớn, vì cái lợi này là một phần thưởng thiêng liêng vô giá .

Nhưng quan-niệm về Nghĩa và Lợi xưa nay thường diễn ra dưới nhiều hình thức :

Đức Hộ-Pháp có thuyết rằng:
 “Nhắc lại Thầy Mạnh-Tử khi qua yết kiến vua nước Lương Ông Huệ-Vương hỏi Đức Mạnh-Tử. Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả-nhân có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng?

Thầy Mạnh-Tử đáp rằng:
Tôi chỉ biết nói đến Nhơn-Nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi.
Nếu trong nước mà dục vọng về sở lợi, thì đình-thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc; Thượng Hạ Đại-phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên-tử đã có dư muôn hộc lại muốn có thêm triệu hộc.

Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao-lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như trong nước biết chú-trọng Đạo Nhân-Nghĩa, thì toàn thể quốc-dân đều chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca.

Thầy Mạnh-Tử thuyết-minh đủ mọi điều lợi, hại rồi thì Vua Huệ-Vương mới chịu nạp dụng.

Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh được yếu thua, khôn còn dạy mất, con người trên mặt thế đều bôn- xu theo quyền lợi chẳng kể gì Nhân- nghĩa, đạo-đức, tinh-thần, nên mới có nạn chiến-tranh, tương-tàn đồng chủng, giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn ra nhiều tấn- tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu-thời mẫn -thế không thể nào ngưng được .

Chức Sắc trong Đạo đem hột giống Nhân-Nghĩa gieo khắp các nơi mà nhơn sanh không ưng nạp bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh-mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng Đạo Nhân-Nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng?.

Nhắc lại lời Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn dạy về chữ NHƠN:
NHƠN là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì NHƠN dân hóa quan.
Dân trí có NHƠN nhà nước trị,
Nước nhà NHƠN thiệt một cơ quan.

Ngày nào toàn thể quốc-dân Việt-Nam mà biết thực-hành hai chữ NHÂN-NGHĨA cho ra thiệt tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến-tranh sẽ trở nên đời thái-bình an-cư lạc nghiệp.” (TĐ I/ 15)

02 - TIÊN NGHĨA NHI HẬU LỢI (II)
Giải nghĩa: Nho-giáo khuyên người hãy làm việc Nghĩa trước đi, thì điều Lợi tất nhiên cũng sẽ đến.

Lời bàn: Nghĩa là người trong bốn đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

Lợi là đức của Trời, cũng là một trong bốn đức sánh cùng: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Thế nên người mà biết thi-hành việc Nghĩa cho chúng-sanh thì Trời sẽ ban phát điều Lợi cho toàn vạn-linh sanh-chúng.

Ngày xưa Thầy Mạnh-Tử đã xem đó là một việc tối yếu trong đời người, nó cũng quan-trọng so-sánh với bốn đức của Trời là: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh vậy. Về sau thì các bậc túc Nho mới thêm một đức nữa, là đức Tín thành ra Ngũ đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Thế nên, hai đức Nhân-Nghĩa là hai đức tính quan trọng trong Ngũ thường đặt ở hàng đầu trong vấn đề Nhơn đạo.

NHƠN gồm bộ nhân là người và chữ nhị là hai, tức là làm người phải biết nghĩ đến kẻ khác, ngoài bản thân mình ra là lòng vị tha đó vậy.

NGHĨA thì kết hợp bởi trên là chữ dương (là con dê), dưới là chữ ngã ngã là ta, tức nhiên chữ dương là chỉ sự hy-sinh, còn chữ ngã đặt dưới là chỉ tinh thần phụng-sự. Nhân-Nghĩa là tinh thần Hiến-dâng và Phụng-sự đó vậy.

Như thế người có Nhân thì không oán, có Nghĩa thì không bạc.
- Nhân-Nghĩa là đạo của Người.
- Cương nhu là đạo của Đất
- Âm dương là đạo của Trời.

Đức Khổng-Phu-Tử dạy phải làm Nhơn-đạo cho được hoàn-toàn thì mới có thể vi Hiền, vi Thánh, cho nên:
- Tu Nhơn thành Thần,
- Niệm Nhơn thành Thánh,
- Hành Nhơn thành Tiên,
- Đắc Nhơn thành Phật.

Thế nên, Nhơn-Nghĩa là đầu mối trong đạo làm người, thiếu hai đức tính này không thể sống chung với ai được hết.

Nếu đã làm người có Nhân thì tức nhiên có Nghĩa, nó là hình bóng luôn đi liền nhau, mà khi đã thực-hành điều Nghĩa ra rồi thì đương nhiên có Lợi. Cái Lợi mà không phải bằng sự tính toán, thủ-đoạn thì lợi ấy vô giá. Trong cuộc đời có nhiều cách làm việc Nghĩa. Phải kể trước nhất là Nghĩa-vụ.

Hỏi vậy, một thanh niên ra làm nghĩa vụ trong thời bình cũng như trong thời loạn, họ sẽ được hưởng lợi gì chớ? Trước mắt, xa gia đình, kẻ mong, người nhớ. Thời gian làm nghĩa-vụ cực khổ nhiều, sung-sướng ít. Tại sao cấp lãnh-đạo không thông-cảm nỗi khổ ấy sao, mà phải bắt nghĩa-vụ?.

Bởi tất cả đều nghĩ đến vấn đề “Tiên nghĩa nhi hậu lợi” vậy: thật sự cái lợi này to lớn vô cùng.

Đức Hộ-Pháp có để lời huấn dụ rằng:
 “Hôm nay đến giai-đoạn định quốc, Thầy sẽ ban cho các con một phận sự yếu-trọng mới mẻ, phận-sự này khó-khăn nguy hiểm hơn trước kia nhiều lần.

Muốn cho cả tinh-thần của chiến-sĩ Cao-Đài thống hợp lại làm một khối tinh-trung cứng rắn mạnh-mẽ để cứu-vãng tương lai của nước, tạo thành hạnh phúc chủng tộc của các con, nên Thầy làm một vị Giáo-chủ đây, tức là một vị Giáo-sư để giáo Đạo cho nòi giống Việt-Nam mà thôi; nhưng vì huyết-quản của Thầy đã xuất hiện trong nòi giống các con, nên phải làm cho xứng phận công-dân ấy, thì Thầy làm phận- sự thiêng-liêng mới xứng giá của nó.

Thầy đã ban cho lá Quốc-kỳ có bốn chữ “TẬN TRUNG BÁO QUỐC” Có lẽ miệng đời dị-nghị cho rằng bốn chữ đó làm không đúng gì hết, chỉ có hình thể mà thôi. Những tiếng dị-nghị ấy Thầy nói cho các con nhớ, duy có Bà Mẹ của Nhạc-Phi Bàn-Cử đề bốn chữ “Tận Trung báo quốc” mà Nhạc-Phi cứu nước Tống khỏi thất quốc.

Người của nước ta duy có hai Tướng:
1 - Một là Võ-Tánh,
2 - Hai là Ngô-Tùng-Châu

Hai vị ấy đã hy sinh tánh mạng khôi phục hoàng đồ cho Tổ quốc.

Thầy nói quả-quyết rằng: Các con coi bốn chữ âý nó sẽ thay đổi tinh thần nòi giống dân tộc nó sẽ giúp các con đắc lực và oai-quyền hơn nữa.” (ĐHP 9-1-Quí-Tỵ)

Tinh-thần của Lý-Thường-Kiệt đã đặt hết cái lòng “Tận trung báo quốc” vào bốn câu thơ sau đây, đời vẫn hằng ghi nhớ:
Nam-quốc san-hà Nam-Đế cư,
Tuyệt-nhiên định phận tại Thiên-thư.
Như hà nghịch-lỗ lai xâm-phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

03 - DĨ HÒA VI TIÊN
Giải nghĩa: Phải lấy CHỮ HÒA làm đầu mối trước hết.
Lời bàn: Đức Phật Quan Âm dạy “ Đạo quí là tại HÒA”

“Các em nghĩ thử mà coi, tạo thiên lập địa cũng bởi âm-dương hòa hiệp sanh hóa muôn loài, cũng bởi một chữ HÒA, đến đỗi như thân của người có tạng có phủ. Tạng phủ ấy nếu chẳng Hòa thì con người chẳng hề sống bao giờ. Kịp đến tâm hồn bất hòa thì thất tình lục dục đều phải khởi tranh ngôi với thần lương-tâm thì con người ấy duy có sanh-hoạt trong vòng vật dục chớ chẳng hề biết thiên lý là gì?
 “Các em thử nghĩ cái phẩm giá của kẻ ấy cao hèn là thế nào? Người chẳng có Hòa là thế đó
 “Còn trong gia đình chẳng hòa, thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán.
 “Còn trong luân lý chẳng Hòa, thì dân cư bất mục, nước chẳng Hòa thì sanh ly loạn.
 “Còn cả thế giới chẳng Hòa, thì nhơn-loại đấu tranh .“Vì vậy Thiếp khuyên các em “Dĩ Hòa vi tiên”  (TNII/86)

Đạo quí là chỗ biết Hòa, ngày nay Đạo Cao-Đài sẽ đem đến cho nhân-loại một nền Hòa-bình như đã từng hứa-hẹn. Hỏi tại sao phải chú-trọng đến như vậy?
- Bởi thế-giới cũng như nhân-loại đang bất hòa một cách trầm-trọng nên Thượng-Đế ban cho một huờn thuốc cứu tử cho linh-hồn.

Riêng Đức Quyền Giáo-Tông Lê-văn Trung, cũng ân-cần nhắc-nhở trong cuộc sống chung, muốn được Hòa tức nhiên phải thuận thảo cùng nhau nên gọi là thuận-hòa.

Thế nào là “THUẬN HÒA”?
Sách có câu “Địa lợi bất như nhơn Hòa” nghĩa là đất lợi chẳng bằng người hòa. Cho nên gia đình nào mà chẳng thuận-hòa, thì gia đình âý chẳng đặng yên ổn; chồng trách vợ, vợ hờn chồng, gia đạo không thành rồi ra lắm điều cắn đắng.

Thân tộc nào mà chẳng thuận hòa tức là thân tộc ấy mất niềm tương hảo, rồi đối với nhau không những là không mật thiết, mà lại còn chống trả nhau, trách thiện nhau, nghịch lẫn nhau cho tương tàn cốt nhục .

Xã hội nào mà chẳng thuận hòa tức là xã hội âý phải đảo điên, rối rắm, chẳng chi là trật tự công bình, rồi mạnh đè yếu, trí hiếp ngu, lê thứ phân vân, dân tình ly loạn.
Tôn giáo cũng như một gia đình, một thân tộc, một xã hội vậy .

Tôn-chỉ Đạo dầu cao-thượng đến đâu đi nữa, nếu người hành Đạo không được thuận hòa, nền đạo tức phải vì đó mà nghiêng đổ. Nền Đạo tỷ như nhơn thân, mỗi người hành đạo chẳng khác nào một phần trong thân thể ấy. Giác quan ,tạng phủ thảy đều ăn chịu nhau, nương cậy nhau cả, thì người cùng chung một Đạo cũng phải ăn chịu nhau, nương cậy nhau mới được.

Xét đến lẽ ấy rồi, người đồng đạo phải biết thương yêu nhau, cư xử cùng nhau cho hết dạ thuận hoà: trên dạy dưới tuân lời, dưới khuyên trên vui dạ: mỗi việc chi trong đạo đều chung trí nhau tính bàn rồi mới nên cử sự, thì bề thi thố đã không sơ sót mà tình đồng Đạo càng thêm mật thiết; như vậy mới tránh khỏi “cái hại chia phe lập đảng”, mới không lỗi câu “đồng Đạo tương phân”.

Tóm lại đã gọi là đồng Đạo, phải bỏ hết những thù hiềm ngày trước mà liên lạc nhau, ỷ-y nhau, đồng tâm hiệp lực vụ một chữ HÒA mà lo điều công ích cho nhơn sanh, thì Thiên đạo mới chóng hoằng khai, sanh chúng sau này mới gội nhuần ân huệ.” (Phương Châm Hành Đạo / trang 7)
Thi văn dạy Đạo
Tuỳ duyên, tùy phận đãi cùng đời,
Đừng ráng tranh-giành phải mỏn hơi.
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.

04 - PHÙ DUNG NHƯ DIỆN LIỄU NHƯ MY
Giải nghĩa: Thơ của Bạch Cư-Dị có câu này để ca tụng nét đẹp của người con gái; vẻ mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu.

Lời bàn: Xưa nay vẻ đẹp của người con gái thường ví như Hoa phù dung, nhưng đặc biệt thì “Hoa phù-dung sớm nở tối tàn”, tức là nói đến một hương sắc chóng phai tàn.

Phù-dung là tên một thứ cây loại thảo, có hoa đẹp, cao chừng một thước rưỡi đến hai thước, lá to, hoa đỏ hồng hoặc trắng vàng. Sớm mai nở tươi thắm, chiều tối lại tàn đi.

Kiếp hoa phù-dung là nói đến sự bạc-mệnh của người con gái, quá mỏng manh và nhiều gian-truân. Nhưng hỏi tại sao Trời sinh người con gái ra làm chi để chịu bạc-mệnh như vậy?

Bởi ta chỉ chạy theo bóng sắc thì khi bóng sắc tàn tạ với thời gian rồi sinh nuối tiếc. Còn nếu ta biết quí trọng tinh-thần, thì bóng sắc dẫu có tàn theo năm tháng chẳng qua đó là định luật ngàn đời thì có gì đâu phải thở than, tuyệt-vọng; há nam nhân tài trí không tàn, không chết sao. Nếu ta chỉ thương vay khóc mướn thật là một chuyện vô ích, chi bằng ta cứ lo tu đi, đó là định luật; gẫm lại trời sinh ra giới nữ là một ưu-đãi rồi, đã tự-nhiên được cái sắc, bây giờ ta tạo thêm cái hương đi, có phải được toàn cả hai không? Bởi ngày xưa giới nữ chỉ có mỗi một việc là lo làm đẹp, rồi khi hết đẹp lại than dài thở vắn, thật trong trời đất này không gì vô-lý bằng; thi-nhân họ trau-tria nét bút, vẽ-vời hương thơ cho mượt-mà, duyên-dáng, rồi người người cứ lấy đó mà ngẩn-ngẩn ngơ-ngơ, sầu hận, không thực-tế chút nào hết, giống như cung trăng và chú cuội!

Bởi là định-luật, là lý đương nhiên rồi “Hoa nở để rồi tàn, trăng tròn rồi lại khuyết, bèo hợp lại rồi tan”.

Một Đấng Nữ Tiên trong Diêu-Trì-Cung có nói đến điều ấy trong những ngày tiền khai Đại-Đạo, rằng:
 “Em chào ba Anh và Đại Tỷ,
Hèn lâu Em không chuyện vãng cùng ba Anh và Đại Tỷ. Em xin ba Anh coi lại thế đời dường nào? Cái “bông Phù-Dung sớm còn tối mất”, còn hơn một kiếp con người, vì nó sống ngắn-ngủi dường ấy; nhưng mà buổi sáng nó còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui ngó lại dầu sống trăm tuổi cũng chưa được một điều đắc chí, chết là hết, cái đời tạm này sách Phật gọi là “khổ hải”.
Em xin Ba Anh coi sự trường sanh của mình là trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi, Em chỉ tiếc giùm đó thôi!
Đã vào đường chánh cứ do đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.” (Đạo-Sử ngày 27-1-1926)
Các Đấng Nữ Tiên có bảo rằng phải “coi sự trường sanh của mình là trọng”.
Vậy sự “trường sanh” là gì? Phải chăng là những nơi khác hơn cõi thế gian này, vì đây là cảnh tạm.

Theo như Đức Hộ-Pháp có cho biết về cuộc đời tạm này rằng:
Sao không nhìn sự thật “Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự sống chết của kiếp con người, mang thi-hài bóng dáng này là giả, Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt, cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng dáng?”

Bà Đoàn-Thị-Điểm viết Nữ Trung Tùng Phận, có câu:
Hễ xấu phận thì nhơ phận thiếp,
Còn đẹp hình nhác kiếp Phù-Dung

Nếu như người con gái sợ “kiếp phù-dung” thì xin tìm đến lời của Bát-Nương Diêu-Trì-Cung, daỵ rằng:
Thuyền từ đã xa dòng biển khổ,
Nương Chí-linh tế-độ nhơn-gian.
Tẻ vui lánh tục tìm nhàn,
Lợi danh là mộng mơ-màng Huỳnh-lương.

Lòng thương ví như dường hà-hải,
Đem dung-nghi làm giải trừ mê.
Nước Nam thảm khổ ê-chề,
Đem thân mày liễu tô về giang-san.

Niềm ân-aí đã tràn sông Lệ,
Nết xa-hoa đã để miệng đời.
Cung Hằng mang tiếng hổ ngươi,
Vì thân chưa phải nên người độ dân.

Ôm-ấp phải lấy phần nhi-nữ,
Cử Công-khanh đoán thử bao người?
Xem người ví biết hổ-ngươi,
Rèn tâm tiết-liệt cho đời nêu gương.

Đừng quen theo sách lạ thường,
Đạo không nên Đạo, đời nương bóng đời.
Hỡi ai có thấu ai ơi?

Chú thích:
* Ba Anh đây là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh là ba Đấng đầu công trong nền Đại-Đạo (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang).
* Đại Tỷ là Hiền nội của ông Cao-Quỳnh Cư, tức là Bà Nguyễn Hương-Hiếu (sau được thiên phong là Nữ Đầu-sư)
* Thời tiền khai Đại-Đạo, Diêu-Trì-Cung được lịnh Chí-Tôn cho đến thế này dùng thi văn để hướng dẫn ba ông vào con đường Đại-Đạo .
* Đấng Nữ Tiên đến trước nhất là Thất Nương Vương thị Lễ; kế đến là Bát-nương, rồi đến Lục-nương …

05 - ĐƠN KỴ BÌNH MAN
Giải nghĩa: Sử-ký của Việt-Nam còn ca tụng chí-khí cương quyết của tướng chỉ một mình một ngựa mà bình được giặc Man .

Vào đời Trần có giặc Mán ở Đà-giang. Trịnh Giác Mật làm phản, vua Trần sai Trần Nhật Duật đi đánh, đem quân đến sông Đà, gặp có sứ của giặc tới Dinh, nói rằng : nếu Chúa công chỉ một mình sang nói chuyện thì Mật hàng ngay, Nhật-Duật liền ra đi, bộ-hạ cố cản lại .Duật nói rằng: không lo gì, nếu hắn dám làm hại ta, thì triều đình còn tướng khác. Khi tới Dinh giặc, giặc vây tròn mấy vòng, giáo mác chỉa mũi vào trong .Nhật-Duật thẳng vào tới nơi; nguyên Nhật-Duật vẫn thạo tiếng Man, lại quen phong tục của Man, người Man thấy thế vừa kinh vừa mừng, tức nhiên trong ngày đó Mật đem cả gia-thuộc đầu hàng, theo Nhật-Duật về kinh thành, Vì thế có câu “Đơn kỵ bình Man”.

Lời bàn: Bởi giòng máu Việt-Nam vốn là tinh-thần bất-khuất từ tiền-nhân đến giờ, mà sự phản-phúc cũng tự lâu đời rồi đã có .Phải chăng Thượng-Đế khi gieo giống gai thì cũng có thứ để trừ gai được vậy. Xưa thế nào nay cũng thế ấy.

Trong nền Đại-Đạo này vào khoảng năm Quí-Dậu (1933) có sự phá Đạo cũng từ trong nội bộ cố tình chia phe phân phái, muốn đánh đổ Đức Quyền Giáo-Tông Lê-văn-Trung, đồng thời cũng truất-phế Đức Hộ-Pháp do ông Nguyễn phan-Long bày ra “Hội Vạn Linh” qui tụ hàng ngàn người của các chi phái từ Hậu-giang về Tòa-Thánh làm áp lực. Họ trích-điểm Đức Quyền Giáo Tông không xứng-đáng làm Anh Cả của nhơn-sanh nữa .

Bởi nhóm người này toàn bộ theo Pháp và nghe lời xúi-giục của số người phản Đạo, muốn gây rối và phá Đạo (Ông Nguyễn-Phan-Long là nhà chánh-trị đời, chưa biết Đạo) được bầu làm chủ toạ trong buổi Hội này.

Cuộc họp định kéo dài ba ngày, nhưng vào buổi chiều ngày đầu tiên là lúc 16giờ ngày 19-5-Quí-Dậu (1933) là sau một ngày dài mà chưa giải-quyết được gì, chỉ cải nhau vấn-đề loanh- quanh và có lập vi-bằng được 36 trang đánh máy, vin vào cớ đó mới nói là có đủ “Tam thập lục động địa giới” về phá Đạo .

Cũng vào thời điểm này, có Bà Phối-Sư Hương-Lự (Bà là mẹ của Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang) đi vào Đền-Thánh, vô Cung-Đạo đảnh lễ Đức Chí-Tôn, rồi trở ra chỗ bàn “chủ-toạ Hội vạn-linh”; bà hỏi ông Nguyễn-Phan-Long rằng:
- Ai chủ tọa Hội này?

Nguyễn -Phan-Long đứng dậy khoanh tay đáp :
- Dạ thưa : Tôi.

Bà Phối-Sư hỏi :
- Sao ông làm chủ toạ Hội-nghị trong Đền-Thánh mà mặc đồ không theo sắc phục của Đạo, là thế nào? (Ông mặc quần sọt, áo sơ-mi ngắn tay).Ông Nguyễn-Phan-Long đáp

- Thưa Bà, Tôi là nhà báo đến đây tham-dự Hội, vì không có ai xứng đáng nên toàn hội đồng bầu cử tôi làm Nghị-Trưởng Hội Vạn-linh này.

Bà dậm cẳng kêu Trời :
- Trời đất ơi! Đức Chí-Tôn ơi! Ngó xuống mà coi Quỉ Vương về đây phá Đạo nè!

Tiếng kêu của Bà thấu đến chín từng Thiên, làm náo động cả Hội-trường khiến cho đám quỉ xác ma hồn kinh tâm vỡ mật; liền tuyên bố bế mạt Hội-nghị cùng ngày .

Điều này chứng tỏ rằng chỉ một mình Bà mới giải tán được một cuộc Hội phi lý như thế

Tuy không làm gì được, nhưng khi một việc làm có chủ mưu phá rối thì sự mất mát bao giờ cũng ở về phía bị động không nhỏ vậy .Nhưng cái hay của người đạo-đức lúc nào cũng tâm niệm lời dạy của Thầy Trời là “Bất thiên tả, bất thiên hữu, bất bạo động” .Nhờ vậy mà mọi việc được đắc thành .
Thi văn dạy Đạo
Dối ai đâu dễ dối cùng Trời,
Biết Đạo răn mình cũng hết hơi.
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.

06 - TẠI GIA HỮU QUÂN TỬ MÔN NGOẠI HỮU QUÂN TỬ ĐÁO
TẠI GIA HỮU TIỂU NHÂN MÔN NGOẠI
HỮU TIỂU NHÂN ĐÁO      
Giải nghĩa: Trong nhà có người quân tử, thì ngoài cửa có khách quân tử đến.
Trong nhà có kẻ tiểu nhân, thì ngoài cửa cũng có khách tiểu nhân chờ.
Lời bàn: Đây cũng là luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mà ra vậy. Việt-Nam không thiếu những câu tương-tự như thế, tức nhiên loại nào tìm theo loại ấy. Phương ngôn Tây có câu: “ Dis moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es” (anh hãy nói cho tôi biết anh chơi với ai tôi sẽ biết anh là người thế nào)

Cuộc đời của mình, chính do mình đào tạo. Nói chung, giờ phút nào người đạo-đức cũng tìm đến người đạo-đức; kẻ kém trí ít lời họ cũng tìm đến với nhau, tất nhiên cũng phải có cái “đồng” thì mới hợp nhau được; loài vật cũng vậy: ngựa tìm đến ngựa, trâu tìm đến trâu (ngưu tầm ngưu, mã tầm mã) là như thế!

Nay là buổi Thượng-nguơn lập đời Thánh-Đức, Thầy đã chọn giống dân Việt-Nam này, hẳn đã được một sự “chọn mặt gởi vàng” để gieo truyền mối Đạo.

Nay được Đức Chí-Tôn mở Đạo, là một nền Chánh-giáo, tất nhiên Người cũng ung-đúc những bậc tài nhân, nghĩa là “Thầy dùng lương-sanh mà cứu vớt quần-sanh”.

Đức Hộ-Pháp có thuyết giảng rằng:
 “Hội-Thánh tức là đám lương-sanh của Thầy tom góp lại làm một. Cả lương sanh ấy, Thầy đã dùng quyền thiêng-liêng dạy-dỗ, trước ung-đúc nơi lòng một khiếu từ-bi cho tâm địa có tình “aí vật ưu sanh” theo Thánh-đức háo-sanh của Thầy, dùng làm lợi khí phàm tục để độ rỗi người phàm tục.

Những lương-sanh ấy phải thế nào hội hiệp lại nhau làm một, mà làm ra xác thân phàm của Thầy, thì Thầy mới có hình thể trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này, hầu tránh cho khỏi hạ trần như mấy kỳ trước vậy. Thầy mới dùng Huyền-diệu cơ bút dạy-dỗ mỗi người, đặng tỏ ra rõ-ràng có quả nhiên Thầy trước mắt; để Đức-tin vào lòng mỗi lương-sanh ấy rằng Thầy thật là Chí-Tôn, Chúa cả càn khôn thế giới, cầm cân công bình thiêng liêng thưởng phạt, quyết-đoán rằng Thầy đủ quyền bảo-hộ cho con cái của Thầy, dầu đương sanh tiền hay buổi chung qui cũng có Thầy trước mắt, công thưởng tội trừng, tu thì thành, dữ thì đoạ; chỉ có Niết-bàn, Địa-ngục đôi đàng, đặng dẫn bước đường đời không lầm lạc. Hứa rằng lập ngôi nơi Bạch-Ngọc-Kinh, khai đường vào Cực-Lạc Thế giới và đóng chặt cửa Phong-đô đặng tận độ chúng sanh, vớt chín mưới hai ức nguyên-nhân trở về cựu vị.

Các lời hứa ấy, nếu chẳng phải của Thầy thì chưa một vị Phật nào dám gọi mình đủ quyền mà làm đặng!
Cả lương-sanh Thầy lựa chọn so-sánh quyền Chí-Tôn của Thầy và cân lời hứa ấy mà nhìn quả thật là Thầy, để Đức-tin mạnh-mẽ mà trông cậy nơi Thầy.

Cái Đức-tin ấy nó tràn khắp trong nhơn-sanh mà gây ra một khối lớn tủa khắp cả hoàn-cầu sưả đời cải dữ .Cải dữ đặng thì phải tu, tu thì phải thành; mà nếu cơ thành chánh-qủa chẳng để trước mắt người thì khó mà làm cho nhơn-sanh mến yêu mùi Đạo; nên buộc Thầy phải lập Chánh-thể, xây nền Đạo tại đời cho cả chúng-sanh đều nhìn-nhận vì cớ hiển-nhiên giục lòng lo tu niệm.” (Diễn văn ĐHP 14-2-Mậu-Thìn)

Hơn nữa, ngày nay cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi các cung, các Điện đều tình-nguyện đến thế-gian này để giáo-hóa nhơn-sanh lập đời Thánh-Đức.

Cả Diêu-Trì-Cung không ngừng việc phổ-độ, Bà Bát-Nương với nhiệm-vụ “Khơi đuốc Đạo đầu”, đã để lời cùng các bậc tiền khai Đại-Đạo rằng.
…“Em phụng lịnh Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đến ban phước lành cho tất cả quí Anh cùng tất cả các Bạn Hiệp Thiên-Đài và để đôi lời cùng các Bạn, cứ vững tâm lo tròn nhiệm-vụ của mình là phải Bác-ái, từ-tâm, công-bình, Chánh-trực, hằng ngày gieo mối cảm tình với đồng-chủng.

Các Bạn chớ tưởng nền Đại-Đạo ở hoài trong khuôn-khổ chật hẹp này đâu, nó phải lướt qua bốn biển năm châu, chừng ấy nơi nào cũng có các Bạn, nếu vắng mặt các Bạn thì nơi ấy không thành Đạo được.
Vậy thì chẳng nơi nào mà chẳng có chơn của Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài!

Còn nói về quyền-hành, tuy không mà có, tưởng nhỏ mà to, cả luật lệ nắm trong tay, cân Công-bình nằm trên vai, đố ai chạy đường nào cho khỏi....

Nhưng thương thì hay gần-gũi khuyên-răn, có lời chi nặng-nề xin các Bạn miễn nghị và vui lòng đàm-luận thì mấy em lấy làm may-mắn lắm!

Cuộc Hội-Yến đến đây long-trọng, Các Chị nơi Diêu-Trì-Cung đều sửa-soạn trang-hoàng, hô-hào nô-nức đặng đến phó Hội. Các Chị đồng để lời cảm ơn-đức của các Anh và các Bạn…
THI
Hạc trắng bay về Hội hướng Tây,
Cùng nhau hạnh-hưởng cuộc vui-vầy.
Đạo phòng mỹ-ý toan truyền-bá,
Kết nghĩa gồm thâu trọng Đạo Thầy.

07 - SANH KÝ TỬ QUI
Giải nghĩa: “Tiên-nho gọi chúng ta là khách trần, gọi thế-gian này là quán tục tức nhiên ta là khách, trần là quán, nó hay-ho làm sao đâu! Không lấy tỷ thí gì minh-bạch chơn-chánh hơn tỷ thí đó”. Lời nhận định của Đức Hộ-Pháp như thế; vì vậy con người đến thế-gian này khi sống thì ở đây, đến khi thác là lúc trở về; nên nói “Sống ở thác về”.

Trở về đâu?
Lời bàn: Ngài dạy tiếp “Ta hãy thử nghĩ; cả toàn cơ-quan huyền-diệu vô biên Đức Chí-Tôn đào tạo trong càn-khôn vũ-trụ và vạn-vật hữu hình, chúng ta có thể quan sát trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật thiên-nhiên tương-đối mà ra. Ấy vậy: hễ có khuôn luật tương-đối tức nhiên nó phải có đối cảnh. Bởi khuôn luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh; tức nhiên có hình thì có bóng, vô bóng tức nhiên vô hình.

Chúng ta thử nghĩ luật tương đối, chúng ta lấy điều đơn-sơ quan-sát, chúng ta ngó thấy sống trong giấc ngủ và chúng ta sống trong giấc thức:
- Ngủ là sống với vạn-linh
- Thức là sống với vạn-vật

Chúng ta quan-sát được hai đối cảnh, sánh với khuôn luật càn khôn kia cũng vậy không có gì khác; có cảnh sống cũng có cảnh chết, sống chúng ta thế nào, chết chúng ta thế ấy .
- Sống, chúng ta là khách của quán tục này,
- Chết, là trở về nguồn cội; tức nhiên nhập trong cảnh thiêng liêng hằng sống chớ không có chi lạ.

…Ấy vậy, thức ngủ là trong khuôn luật sống chết, có cái sống phải có cái chết. Hành-tàng sống chúng ta thể nào thì buổi chết chúng ta cũng hiện tướng ra nguyên vẹn, không điều gì lạ hết”.

Tại sao phải bày ra cuộc trần sinh có sống, chết để làm gì? Có vô-ích không? Có nên bỏ đi không?
- Khi con người còn hơi thở, gọi đó là sống; vì có ngũ-quan biết cảm-giác xúc-động đi đứng làm cho con người có cái sống thực-tế, theo con mắt thấy của người hằng ngày.

- Khi con người không còn cử-động được nữa, gọi là Chết, ấy là nó phải chịu luật tiến-hóa của tạo đoan, phải thay cũ đổi mới để cho xác thân này trở nên đẹp-đẽ đặng phù hợp với linh quang sáng suốt của Đức Chí-Tôn ban cho nơi mặt thế này, để thay thế cho Ngài đặng bảo vệ cơ sanh hóa của Ngài cho được tồn-tại. Nhưng mỗi lần thay đổi hoặc luân-chuyển là làm cho trình độ nó cao hơn, tốt đẹp hơn.

Như vậy, luật thay đổi hay luật luân-hồi rất có ích cho cơ sanh-hóa của Tạo-đoan, vì mỗi lần thay đổi hoặc luân-chuyển là mỗi lần tiến-hóa cao hơn .Nên luận về Bí-pháp thì không có gì là mất hay chết cả. Bởi trong cái chết có ảnh hưởng cho cái sống và trong cái mất nó có ảnh hưởng cho caí còn .

Vậy cho nên cái xác thân này phải chịu luật thay đổi mà ta quen gọi là CHẾT đó. Nó không phải là mất mà nó còn mãi mãi với vạn-vật .Do đó trên thuyền Bác-nhã có câu :
“Vạn hữu viết vô: nhục thể thổ sanh hoàn tại thổ.
“Thiên niên tự hữu: linh hồn thiên tứ phản hồi thiên.”

(Nghĩa là: Tất cả mọi việc có hình dáng rồi có ngày cũng bị hủy diệt, như xác thân ta đây ăn của đất phải có ngày trả lại cho đất; ấy là chết)

Trời đất mới bền lâu: thì linh-hồn này do trời ban cho, đến khi mà gọi là chết đó nó sẽ về trời.

Kinh có câu :
Hồn Trời hóa trở về thiên cảnh,
Xác đất sanh đến lịnh phục hồi.

08 - THIÊN HẠ NHẤT GIA
Giải nghĩa: Người Á-Đông ta quan-niệm rằng Trời là thiên thượng, người là thiên hạ; tức nhiên Ông trời trên là cha, ông trời dưới là con.

Lời bàn: Nếu như vậy con có quyền thừa-hưởng gia-tài của ông cha để lại; gia-tài đó là gì? nếu cha giàu thì hưởng sự nghiệp giàu, cha nghèo thì hưởng sự-nghiệp nghèo đó là lý đương nhiên .

Trong vấn-đề tu-hành cũng vậy, cũng có thứ bậc:
Giả sử người:
- Tu Nhơn thành nhơn,
- Tu Thánh thành Thánh,
- Tu Phật thành Phật,

Hôm nay, Đạo trời khai mở, tức nhiên người tu theo Đạo Trời sẽ được đắc ngôi Trời là vậy, điều này ta có phạm thượng không? -KHÔNG!

Trời đã là Cha, cả càn-khôn thế-giới này là con cái của Ngài, thì cả thế-giới chúng ta có phải là tình anh em với nhau không? Do vậy mà tinh-thần của Đạo Cao-Đài là đi đến Đại-Đồng: nhất là Đại-Đồng huynh đệ, nhất là phải đi đến tình anh em một nhà, là vậy.

Đức Hộ-Pháp cũng cho biết rằng:
“Cái trường Càn khôn tạo hóa vốn của Đức Chí Tôn lập, đặng dạy các đẳng linh-hồn thêm học thức, học đặng biết; đặng biết mình trước đã, sau mới mong tìm-tỏi biết người, tấn-hóa cùng cơ thể luân hồi, rộng học thức nhờ bởi chịu nhọc nhằn đau thảm. Ngày nào đặng linh-thiêng tột bực, thì hiểu cùng cặn-kẻ mối huyền vi .Cả tinh thần đúng bậc trí tri, thì mới đoạt đặng phương hằng sống. Nếu chẳng phải là điều viễn-vọng, nay trời là chi, sau ta cũng là chi? Tu cho nên Bác-ái, Từ bi, tạo thế khác có khi ta chủ-tể.

Cái không trung vô ngằn kia biết bao nhiêu cho cùng tận. Hễ Trời ngày nay đã làm đặng điều gì thì sau ta cũng có khi làm đặng vậy, gia nghiệp của mỗi con người nơi thiêng-liêng có sẵn gọi là cảnh-giới cá-nhân, nếu mình biết lo sự nghiệp nhỏ là phương khai thế giới .

Mặt luật thiêng-liêng vẫn vậy, coi tuồng đời nào có thấy sửa bao nhiêu, sanh tử tử sanh, hư hư hoại hoại, cái cơ tạo vẫn xây vần .Người này tạo rồi chết qua, kẻ khác hóa thêm rồi cũng chết, chỉ học nghì tạo-hóa mà các đẳng linh-hồn dễ biết bao căn kiếp tại thế này, tạo hữu-hình đặng thông hoá phép vô-vi, lấy gia-nghiệp đặng tri cơ thế giới. Hỏi ai đã tránh khỏi cái quyền năng vô tận của luật pháp ấy chăng? Không phải tạo cho mình dùng, thì cũng hóa dùm cho kẻ khác. Theo mà học hoài lấy kiểu vở của Hoá công; dầu cho đến tận thế phép không dời đổi.

Đã biết hữu-hình thì hữu-hoại, mà con người lầm-lũi cứ làm hoài, làm cho đến đỗi liệt gối mòn tay, mà làm hoài chẳng mỏi. Làm chưa hết của mình mà còn lo toan-tính giựt-giành của kẻ khác, chất chứa đồ làm ấy cho nhiều, nào tiền bạc, nào cửa nhà, nào ruộng sâu trâu cả; làm cho đã thèm các vật”…

Nhưng muốn được cái thế-giới này cả “thiên-hạ nhứt gia” thì xưa nay là trách-nhiệm của Nam-nhi đã hẳn, nhưng nhân-loại còn một điều thiếu sót quá ư trầm-trọng, đó là họ đã lãng quên người Nữ-phái .

Đối với Việt-Nam chúng ta ảnh-hưởng Tàu cả nghìn năm nên rập khuôn của Tàu, xem nhẹ nữ-phái, không cho Nữ-phái đi học, không được tiếp xúc với đời, không góp bàn tay xây dựng; hỏi vậy có phải đây là một sự thiệt-thòi, mất-mát lớn cho tài-nguyên quốc-gia không.

Nay, loài người hẳn đã ý-thức cái vai-trò trọng-yếu của người đàn-bà đứng trong gia-đình cũng như trong xã-hội là thế nào; nhưng còn thiếu một việc là “đức hạnh” cho nên Nữ-phái Cao-Đài đã được quyền thiêng-liêng lưu-ý trước nhứt. Bởi Việt-nam là “chủ của Vạn-quốc” mà người đàn bà đứng vai-trò là “nội-tướng” mà không có “tinh-thần một nội tướng” thì liệu có đảm-đương cái gánh đạo đời tương đắc này không? .Vì vậy, Bà Bát-nương có để lời nhắc-nhở:

… “Những việc đã xảy ra đều do phần số của Nữ phái, mà nếu em nói thiệt Hiền-tỷ đã không cố-gắng dìu dẫn thì mấy em Nữ-phái đã xa Đạo cả thảy.
Hiền-Tỷ ngó lại coi phía Nữ-phái đã mấy ai biết phận đâu, vì đó mà nữ-phái luôn gánh thảm sầu (Bởi thiếu nữ-anh-tài để giúp). Bà Bát-Nương giải thích:

- Nữ anh-tài thì không thiếu, nhưng thiếu kẻ có “đức” đó thôi . Không chi đâu, rồi đây Lại-viện Nữ-phái sẽ được tiến-triển, điều cốt yếu là các Nữ Khâm-châu, Đầu-tộc phải biết rõ phận-sự của họ.

Mấy em ráng lo tròn phận-sự đa! Mấy em nên biết rằng: Có may duyên mới gặp đặng Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Phải chứ, làm Đạo đã không sung-sướng mà còn bị khảo-đảo tinh-thần thì bảo sao chẳng buồn được …Cười.

Làm Đạo có khổ mới có công, công do khổ hạnh thì mới xứng với cõi Hư-vô như Phật Quan-Âm buổi nọ, có bị đời bạc-đãi mới đắc vị được. Còn như những bậc Chúa, Phi thì họ được hưởng gì không? Có nâu sồng mới biết cơm là ngọc, rồi đây các nhà triệu-phú phải đứng nhìn chị em mình mà nhỏ nước miếng đó?

Hiền-Tỷ có muốn thi không?
Gót ngọc Đài-vân còn rõ dấu,
Hương đưa chẳng chút bợn nhơ sầu.
May duyên gặp được người tri-kỷ,
Nhớ buổi xa nhau đổ lụy châu.

Lụy châu đổ thương người lữ-thứ,
Chốn phồn-hoa vẫn giữ thanh-bần.
Chẳng vì gót ngọc phân-vân,
Mảng lo cho kẻ thế trần lâm-nguy.

Thương đồng chủng lâm-ly giọt ngọc,
Luống vì đời phải nhọc thân mai.
Tuyết sương bũa giá đâu nài,
Vì đâu sanh-chúng ra ngoài phòng khuê.

Mong sớm tối mau về chung cõi,
Chốn Bồng-Lai học hỏi Diêu-Trì.
Mảng vì chút phận Nữ-nhi,
Phải đem thân liễu sánh bì cùng Nam.

Giữ cho khỏi thân phàm ô-trược,
Làm gương soi dẫn bước quần-thoa.
Đem thân làm món chung hòa,
Đỡ nâng bốn cõi sơn-hà cũng tay,

Chớ khá để râu mày khi mặt,
Mà cũng đừng khe-khắt tâm trung.
TAM TÙNG, TỨ ĐỨC bồi vun,
Rạng danh gái Việt qui phùng vạn bang.
                                                                                               ( 9-10-Canh-Dần -1950)

09 - CHÂU HOÀN HỢP PHỐ
Giải nghĩa: (Châu là hột châu, loại đá quí; hoàn là trở về; Hợp-phố là tên đất thuộc về quận Giao-Chỉ của Việt-Nam ta ngày xưa vào đời Hậu hán).Nơi đây có nhiều hạt châu .Nước ta bấy giờ là thuộc-điạ của Tàu, nhân thời ấy quan lại Tàu bắt dân ta phải tìm hạt châu để dâng lên cho họ, chế-độ hà-khắc quá, cho nên những người làm nghề lấy hạt châu bỏ đi nơi khác để tránh đi sự khổ cực.

Về sau, khi quan Mạnh-Thường làm Thái-Thú, sửa bỏ lệ cũ đi, thì những người làm nghề lấy hạt châu mới trở lại quê làng, nên từ đó mới có câu “Châu hoàn Hợp-Phố”.

Nghĩa bóng: ý nói sự đoàn tụ, hay là nói đến một sự việc lẽ ra đã mất đi, nhưng bây giờ lại trở lại kiếm lại được.

Lời bàn: Nhìn lại đất nước Việt-Nam ta đã ngàn năm nô-lệ Tàu, trăm năm nô-lệ Tây, bao nhiêu năm nội chiến dằng-dai, xem như “hột châu tự-do” đã mất hẳn trong lòng dân Việt-nam tự lâu rồi. Nay, Đức Chí-Tôn đã đến mở cho dân tộc này một mối Đạo mầu quý gía cũng gọi là “châu hoàn hợp phố” đó vậy.

Hãy nghe lời Đức Chí-Tôn đã nói với một người Pháp khi hầu đàn bằng tiếng Pháp được dịch ra rằng:

“Đấng chủ tể toàn năng:
Có lẽ vợ chồng con lấy làm kỳ lạ mà thấy Thầy đến như thế này. Các con có biết chăng, hiện nay vì thế gian rất hung bạo nên thời-kỳ tận diệt đã gần kề. Nhân loại tàn sát lẫn nhau bởi không biết dùng khoa học vào việc phải, nên nó mới biến thành chia rẽ và chiến tranh.

Thánh Đạo của Chúa cứu thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.

Phải có một giáo lý mới mẻ đủ khả-năng kềm chế nhân-loại trong sự thương xót chúng sanh.

Chỉ có xứ Việt-Nam còn duy trì được sự tôn sùng Tổ-Phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày được tạo lập đến giờ.
Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi.” (TN I/131)

Như vậy, kể từ nay đất Việt-Nam này sẽ được một chủ-quyền thật sự không còn làm nô-lệ cho bất cứ một nước nào nữa tức là “hột châu Tự-Do” đã đưa dân tộc Việt-Nam lên làm Chúa .

Thật vậy, nhờ quyền-năng của Tôn-giáo nên đất nước Việt-Nam này mới được nên danh Thánh-Địa trong toàn cầu này, mới được chủ quyền đứng trong vạn quốc .

Theo như lời tiên- tri của Thầy.
“Một nước nhỏ-nhoi trong vạn-quốc,
“Ngày sau làm CHỦ mơí là kỳ ”.

Tức nhiên ta “đi trên con đường tìm kiếm triết-lý một nền Tôn-giáo, cả nhân-loại đến học làm Chúa toàn cả gia-đình:
- Được làm Chủ một tiểu gia-đình, tức là một vị Hiền tại thế rồi,
- Được làm Chủ một trung gia-đình là quốc gia, là một vị Thánh-nhân,
- Được làm Chủ một số quốc gia hiệp lại như Hiệp-Chủng-quốc tại Mỹ-Châu như Washington, La Fayette chẳng hạn, là một vị Tiên,
- Được làm Chủ tối đại gia-đình, tức nhiên làm Chủ cả toàn tâm-lý thiên hạ, một nền Tôn-giáo là một vị Phật .
Thể pháp của Đạo Cao-Đài có khuôn-khổ tập cho nhơn-loại đi đến mục đích trong luật-pháp của nền Chánh-giáo .

Kế đây, Bần-Đạo xin thuyết về Bí-pháp:
Vả chăng, Chí-Tôn sanh chúng ta ra làm người, cho chúng ta nhứt điểm linh-quang tạo hình ảnh mỗi cá-nhân. Ngài định phận-sự tối-trọng-yếu của Ngài và cầu chúng ta thật-hành cho ra thiệt tướng; nghĩa là làm thế nào đặng làm Chúa vạn-vật hữu vi cho Ngài.

Hễ giao phận-sự thì buộc phải đảm-nhiệm luật pháp cũng như sai ai thế hình ảnh cho mình đến nơi nào, làm phận sự gì, cần đưa chương-trình đặng thi- thố ra sao cho thành đạt.

Trong chương trình có phương-pháp, hành-vi, tức nhiên luật-pháp của Đức Chí-Tôn muốn buộc loài người, đoạt đức làm Chúa vạn-vật, định phép vô-hình tức nhiên định Thiên-điều .

Thiên-điều là luật, còn pháp là quyền-năng thưởng phạt Nhơn quả.”

10 - THƯỢNG BẤT KHẢ THƯỢNG HẠ BẤT KHẢ HẠ
CHỈ NGHI TẠI HẠ BẤT KHẢ TẠI THƯỢNG
Giải nghĩa: Câu trên đây là một lối chơi chữ của người xưa; có nghĩa đen như vầy.
Câu 1: Trên mà chẳng phải trên, dưới mà chẳng phải dưới.
Câu 2: Chỉ nên ở dưới, không thể ở trên

(Hỏi đây là chữ gì? Câu chuyện này của ông Lê-Quí Đôn, ông này vốn là một Thần-đồng, nhưng phải tánh tự kiêu, ngạo mạn. Nơi chỗ ngồi của ông có dán câu: “Thiên-hạ nghĩ nhứt tự lai vấn” nghĩa-là ai có việc gì không hiểu thì đến hỏi nơi đây) Vì lẽ đó nên người chung quanh không mấy được thiện-cảm với thái-độ ấy, nên tìm cách ngoắc-ngoéo với ông gọi là “ trả thù”.

Một hôm, ông cùng vài tiểu đồng đi vãng chùa, thì có một chú tiểu đến trước mặt trịnh-trọng cầm tờ giấy có mấy dòng chữ trên, nói rằng có người hỏi đó là chữ gì nhưng nhà chùa không biết, nay nhờ ông dạy cho .Đột-ngột, ông sinh ra lúng túng, thì một chú tiểu-đồng khác đến thưa rằng: Thưa ông có phải đó là CHỮ NHỨT không ạ!.

Nhân chuyện này, người ta hay chế-giễu: học hay mà chữ NHỨT cũng không biết:
Lời bàn: Trên mặt chữ, thì tất cả các chữ trên đây đều có nét Nhất đặt ở trên hoặc ở dưới của chữ, như chữ thượng là trên mà nét nhứt lại đặt ở dưới;
Chữ hạ là dưới mà nét nhứt lại đặt ở trên.
Chắc hẳn Thánh-nhân khi đặt ra chữ viết sẽ không lầm, ngụ ý dạy cho con người sống trong xã-hội phải biết khiêm-nhường, từ-tốn, dù rằng là bậc trên nhưng tỏ ra khiêm hạ. Vì rằng biết bao kẻ ở bậc dưới mà thích đứng vị trên, hai hình ảnh tương phản nhau như thế (đó là ý câu 1)

Câu 2 thì chữ chỉ là dừng, nghỉ, chữ nghi là nên, thích ứng, thì nét nhứt đều đặt ở dưới .Hai chữ Bất là chẳng và chữ khả là có thể, thì nét nhứt đặt ở trên. Ngụ ý của Thánh-nhân hẳn sâu-xa lắm vậy, “quân-tử tánh như thủy”, tức nhiên sống ở đời phải tập tánh như nước đó là đức tánh của người quân-tử, người đạo-đức .Nhắc lại lời của Đức Chí-Tôn đã dạy về đức khiêm-nhượng rằng:

“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ-Tát, hai phẩm chót của Tiên Phật Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao, tối trọng; còn Thầy thì KHIÊM-NHƯỢNG là thế nào?
 “Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười.
 “Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm-nhượng sao cho bằng Thầy.” (TNI/ 43)

Đức Quyền Giáo-Tông dạy phải khiêm-nhượng như thế nào?
 “Sao gọi là khiêm nhượng?

Khiêm-nhượng là hạ mình để nhượng người, tặng người trên mình vậy. Đấng Chí-Tôn có dạy rằng “Hạnh khiêm nhượng là hạnh yêu dấu của Thầy …
Các con phải cho khiêm-nhượng mới mong độ rỗi thiên hạ đặng”.

Kẻ tài sơ mà biết khiêm nhượng, người bác-học mới vui dạ dắt-dìu; người bác-học mà biết khiêm-nhượng thì kẻ tài sơ mới đem lòng mến phục. Nên biết rằng dầu mình tài cao trí sáng đến bực nào đi nữa, cũng có người khác giỏi hơn mình .Vả lại, nếu đem cái sức học hữu-hạn của mình mà so-sánh với biển Thánh mênh-mông, rừng Nhu thăm-thẳm thì có thấm-tháp vào đâu mà mong tự đắc. Vì vậy mà Thánh-hiền xưa có nói “Học chừng nào càng thấy mình dốt chừng nấy”.

Thánh-hiền xưa thì vậy, còn người đời nay, phần nhiều hễ mở miệng ra thì khoe mình tài giỏi, không đợi ai khen, cái tánh tự-kiêu ấy làm cho lòng dạ tối tăm, có mắt mà không biết thấy, có trí mà không biết suy; vì vậy nên hễ việc chi của mình làm, lời chi của mình thốt đều cho là phải cả, rồi hiêu- hiêu tự đắc, xem người như không có, ai nói cũng không nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung .

Kẻ tự-kiêu là ngu-xuẩn thì không quan-hệ chi, vì đã là ngu-xuẩn thì không ai thèm phục; cho nên kẻ ấy không làm hại đến ai, chỉ có làm trò cho thiên-hạ cười vậy thôi .

Đến như kẻ tự-kiêu mà tài giỏi, thì rất nên nguy hiểm, vì kẻ ấy đủ tài lực chuyên-chế cả hạng người tinh- thần yếu ớt, rồi một mình làm quấy kéo cả bọn quấy theo; một mình nghĩ sai hại cả một đoàn sai cả. Có câu rằng “Thiên đạo ố dinh nhi ích khiêm” nghĩa là: Đạo trời ghét đầy mà thêm vơi, nghĩa là ghét kẻ tự-kiêu mà giúp cho người khiêm nhượng .
Quí-hóa thay sự khiêm-nhượng!” (Phương Châm Hành Đạo /trang 6 )

Thật ra danh Thần-đồng Lê-Quí-Đôn xưa chẳng ai mà không biết, ngay từ khi năm, ba tuổi ông đã tỏ ra thông-minh khác thường.

Người là con của ông Lê-Phú-Thứ, cha cũng là bậc tài giỏi. Ngày kia vào một buổi chiều trong lúc cậu bé đang tắm sông, trần-truồng vui đùa với bọn trẻ thì có một cụ già từ xa đến, hỏi trong đám trẻ rằng :
- Các cháu ở đây có biết nhà ông Lê-Phú-Thứ ở nơi nào không?

Cậu bé Lê-Quí-Đôn vốn tinh-nghịch, biết là bạn của Cha mình tìm đến thăm, liền bước lên bờ đứng dang hai tay hai chân mà nói rằng:
- Ông có biết tôi đứng hình chữ gì không, ông nói đúng tôi sẽ chỉ nhà cho.
Cụ già vừa bực mình vì sự ngỗ-ngáo của cậu bé, nhưng cũng buộc miệng đáp:
- Thì ra là mày đứng hình chữ Đại chứ còn gì phải hỏi!

Lê-Quí-Đôn vỗ tay cười đắc chí, nói:
- Ông xem, người ta cởi truồng thế này, là chữ Thái chớ sao chữ đại được

Bởi chữ đại là lớn chỉ về vật- chất, mà thái cũng là lớn nhưng chỉ về tinh thần (như thông thái) nhưng chữ thái có một chấm ở phía dưới…vì cậu bé cởi truồng!

Tối đến, cậu bé ra chào khách, ông khách nhận ra đây là cậu bé tinh-nghịch ban chiều, liền đem câu chuyện thuật lại cho cha cậu nghe, ông Phú-Thứ kêu cậu bé ra xin lỗi và định trách phạt cho khách vui lòng, nhưng ông khách nói:

- Sự tinh-nghịch của trẻ con cũng có lý-do của nó; chứng-tỏ sự thông-minh phát tiết ra ngoài, hãy khoan để tôi thử tài, nếu không trả lời được hãy phạt cũng không muộn.

Thế rồi, ông khách ra đề tài là phải làm một bài thơ, lấy đề là “Rắn đầu biếng học”.

Tức nhiên đề tài này rất hạn-chế là Thể thơ Đường luật (bài thơ có tám câu, mỗi câu bảy chữ), làm thế nào mỗi câu trong đó có tên một thứ rắn và thời-gian thật khẩn-trương.

Lê-Quí-Đôn không ngần-ngại đọc ngay:
THI
Chẳng phải liu-điu vẫn giống nhà.
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chẳng qua lời lếu-láo,
Rằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay châu lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Như vậy thì Lê-Quí-Đôn đã làm được “bài phạt” rồi; đúng như “giám-khảo” đòi hỏi, mỗi câu đều có tên một thứ rắn, không sai chút nào, mà cũng trở thành một bài thơ bất hủ!

Về tài trí của ông thật là thông-minh trác-tuyệt; có một hôm Lê-Quí-Đôn đến chơi nhà của ông Tham biện, thấy trên bàn có một cuốn sổ thâu thuế, ông đọc qua suốt rồi để lại chỗ cũ. Thời gian sau, nhà ông này bị cháy đi, có điều là ông Biện không biết tiền thuế của ai đã thu rồi, của ai chưa thu, không nhớ hết. Ông tỏ ra lo-lắng; đem chuyện này nói với Lê-Quí-Đôn, Ông thần-đồng bảo, đem giấy viết ra đây tôi đọc lại cho mà ghi, tôi còn nhớ .Quả nhiên, về sau ông tham-biện nhờ đó mà thu đầy đủ cả.

Bên cạnh tài hay, trí giỏi ấy người ta cũng chưa quên cái tánh ngạo-mạn của ông, hình như họ chờ cơ hội tốt là sẵn-sàng ra tay “trả đũa” liền .

Ngày đau buồn nhất của Ông là ngày cha chết, có một cụ già đến cúng điếu, xưng là bạn thân của ông Lê-Phú-Thứ từ xa đến, muốn viếng đôi câu đối, nhưng mắt kém nhờ Lê-Quí-Đôn viết hộ .Bấy giờ, Lê-Quí-Đôn đã sẵn-sàng nghiên bút, chỉ còn chờ ông khách đọc lên, nhưng quái ác, ông chỉ đọc có mỗi một chữ “chi” rồi ông ngưng hẳn; Lê-Quí-Đôn chờ lâu, sốt ruột mới thưa rằng:

- Thưa cụ, chữ “chi ” nào ạ?
Ông khách thừa dịp ôm mặt khóc nức-nở và than-trách đến não lòng:
- Anh ơi là anh ơi! Anh Phú-Thứ ơi! Sao Anh nỡ vội ra đi sớm thế, Anh mạng bạc vô-phúc mất đi, không kịp ở lại mà dạy cho con Anh còn khờ dại, đậu Bãng-Nhãn Thám-khoa làm gì, mỗi một chữ “chi” là chưng mà cũng không biết viết, Anh ơi là Anh ơi!

Thế rồi, ông lau nước mắt, rồi đọc tiếp:
Chi chi tam thập niên dư xích huyện Hồng châu kim thượng tại
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa, lưu thủy tử hà chi?

Giải nghĩa:
Câu 1 : Cách đây hơn ba mươi năm, Xích-huyện Hồng-châu nay còn đó
Câu 2 : Xa ngoài mấy dặm, đào hoa lưu thủy Bác vội về đâu?
Cái hay của đôi cấu đối này là ý tứ thật chỉnh, khởi đầu là chữ “chi”, kết là chữ “tại”
Qua câu 2 thì chữ đầu là chữ “tại” kết là chữ “chi” nó xoay vòng thật là khít-khao, êm-ái.
Nhưng không hay bằng “nước mắt” của cụ già làm cháy lòng một thần-đồng xuất thế!
Thật không còn một hình phạt nào cay-đắng cho bằng tiếng khóc này!

11 - TRẦN SINH CHI KHÁCH
Giải nghĩa: Con người đến với thế-giới này như người khách trong cõi đời, xem đây như là quán trọ .Nếu biết mình là khách, còn kia là lữ-quán thì có chi mà mê, mà luyến cuộc đời trăm năm có nghĩa gì đâu!

Lời bàn: Thật thế, Đức Chí-Tôn cũng dạy như vậy, nhưng nếu ta lắng lòng mà nghĩ-nghị thì quả nhiên cũng như vậy có khác gì đâu. Nhiều lần đi du-lịch xa, rồi ngày về cũng nhiều người lưu-luyến, bịn-rịn, khóc-lóc, không muốn rời .Rời cái nơi cảnh đẹp ấy cũng như sợ phải rời cái chốn trần gian này vậy.

Thánh-ngôn có dạy rằng:
“Thầy, các con,
Cõi trần là chi?
Khách trần là sao?
Sao gọi khách?

“Trần là cõi khổ, để đoạ bậc Tiên Thánh có lầm lỗi .Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn-linh là luân hồi, nên kẻ bị đoạ trần gọi là khách trần.” (TNII /3)

Như vậy làm người khách trong cõi trần-ai này hẳn có nhiều hạng, bởi chúng ta thấy có kẻ đến thế này; người thì sung-sướng, thư-thả vui chơi, tinh thần thoải-mái; người thì vất-vả suốt ngày, chạy ăn, chạy mặc, tất-tả mà không đủ nuôi thân .Hỏi vậy có phải là một sự bất công hay không?

Mặt điạ-cầy có đến 2.700 triệu nhân sinh ở thời điểm nhân số của 50 năm về trước. Như vậy thì sự tử sanh, sanh tử cứ xoay vần, nhưng chung qui thì chỉ có Năm hạng khách trần mà thôi.

Hãy nghe Đức Hộ-Pháp nói về năm hạng khách trần ấy.

1 - Một hạng thứ nhứt là hạng trái chủ, tức nhiên là hạng thiếu nợ:
Hạng thiếu nợ là gì? Là những người gây ra nhơn quả nhiều, luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn-linh. Dáng vẻ họ cùng khổ lắm, họ lo đêm lo ngày chạy tần chạy tảo rất sợ thiếu nợ, họ hà-tiện lắm, nhiều khi gặp được tình liên-hữu với chơn-linh nào mà họ gọi là chủ trái đến. Lạ-lùng thay! đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai mà nếu họ gặp người chủ trái ấy, dục họ thương yêu, kính mến, chiều chuộng; bao nhiêu cũng đem dâng cho người ấy. Nếu chủ trái ấy đầu kiếp một lượt thì may duyên cho họ trả, nếu rủi người chủ trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ
Ấy là một phương-pháp mà các chơn-linh hãi-hùng hơn hết .

2 - Hạng chủ nợ: Có tính cách đặc biệt là họ không lo sợ gì, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc mình có món nợ chúng sẽ trả, họ không lo gì cho họ cả, thả lình-bình du hí du thực không biết gì ráo, ngơ ngơ ngẩn ngẩn không động tới ai mà cũng không làm nên cho ai, mà khi nào chúng ta thuyết Đạo với họ thì họ biết xu-hướng, chịu nghe, tưởng cái huyền-linh này sẽ giúp mình đắc lợi gì. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, tánh chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng mình. Trong mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà ai nói nghe vừa bụng thì móc ra đưa hết rồi lại mắng người ta .

3 - Hạng du học: Bình thường cái gì họ cũng muốn hết, ham đọc sách vở kinh- luân nhưng đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết. Hạng du học thì nhiều, mà lạ-lùng thay phần nhiều không tín-ngưỡng, học cao đến đâu nếu đem đạo-đức tinh-thần mà nói họ không biết gì hết, cứ cái chơn-lý họ tìm mãi mà thôi, chính mình họ cũng không biết họ là ai; nhưng cũng là hạng tự-tôn tự-đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là mình khôn hơn thiên hạ nên làm cao, làm cách hơn ai. Gương mặt lúc nào cũng ngước lên người ta gọi là mấy cậu “trịch bồ lương”mà thứ đó lại nhiều hơn hết.

4 - Hạng ta bà: Nếu có thì chúng ta thâý liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống cái chết họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa, hoặc lên núi, một mình một cõi, chịu thanh tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên non lên núi .Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ bơ, dọng chuông gõ mõ ,rồi nam mô lên nam mô xuống. Hạng ta-bà du hí này sống trong cõi trần nếu không vừa bụng thì thối lui về tức là chết .

5 - Hạng thiên mạng: Đây là hạng người không biết tầm lấy cái sống riêng cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên-hạ; không biết tôn trọng hình hài của mình,chỉ tôn-trọng thiên-hạ .Bởi vì hạng thiên-mạng cốt-yếu tìm cả năng lực chỉ đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh-thần, ấy là một phương-pháp giải cứu cho đời và bảo trọng nuôi nấng thiên-hạ đó. Tánh chất như LụcTổ Huệ-Năng bất động, bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự thì họ ngơ ngơ ngửng ngửng như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu họ là ba trợn ba nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho thiêng liêng, vâng mạng lịnh Đức Chí-Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Đạo thâu con cái của Chí-Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn .

Nếu ta có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ đợi thời mà thôi..” (ĐHP thuyết 15-1-Mậu-Tý 1948)

Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo là cơ-hội người Nữ phái được mở ra một sinh lộ tức nhiên người Nữ được hưởng sự bình-đẳng, bình-quyền; người Nữ được tu-hành và làm Thiên-mạng để giải nghiệp tiền-khiên cho chính mình và cho Cửu-huyền Thất-Tổ.

Bà Bát-Nương luôn có điều nhắc-nhở Nữ-phái:
..... “Từ xưa đến nay, phận của Nữ-phái là “khuê-môn bất-xuất”, giữ cho đúng Tam tùng cùng Tứ đức, những việc đó các em cũng đã học nhiều rồi, duy lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này Nữ-phái lại phải gánh thêm một phần trách nhiệm nữa là giáo-hóa đàn Em Nữ-phái đi cho kịp cùng Nam-phái. Các Em có biết do đâu mà được vậy chăng?
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  9 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét