Đạo Tâm Bửu Giám 道 心 寶 鑑 - 2 / 9 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)

Nếu nhìn thẳng vào chữ Nhơn có hai nét là do âm dương hòa hợp; nét trái là chân âm, nét phải là chân dương, đây là chỉ cái âm dương của cha mẹ sinh ra, túc nhiên cha mẹ phàm thể này. Rồi cha mẹ phàm thể lại do âm dương của trời đất sanh ra cho nên chữ nhân họp với chữ nhị (là hai). Trong chữ nhị, tức là nét nhất trên chỉ trời, nét nhứt dưới chỉ đất gọi là thiên địa, nhân (), thì người đứng giữa họp thành chữ thiên . Như vậy chỉ có người mới được dự vào việc của trời đất mà
thôi. Người là một sản phẩm hoàn chỉnh nhất của Thượng-Đế nên phải biết:
- Trên thông thiên văn
- Dưới đạt địa lý
- Giữa quán nhân sự

Đức Hộ-Pháp có dạy rằng:
"Con người là một động vật ở nơi mặt địa cầu này. Chúng ta ngó thấy hiện hữu phải vận hành, phải xao động, bởi nó là động vật nó phải họat động, nếu không họat động là chết. Trong cơn họat động nó có hai phần đặc biệt:
1 - Hoạt động về thi hài xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta bây giờ đây, mỗi ngày chúng ta họat động mới có sống, bằng không họat động thì chết, luật tạo đoan quả nhiên vậy .

2 - Còn hoạt động nũa, họat động vô hình, chúng ta không thể thấy được mà chúng ta quả quyết có họat động về tinh thần, trí thức. Vì cớ, hai cái họat động của con người chia ra hai phần:
- Họat động về phần Đời,
- Họat động về phần Đạo.

Vì cái thi hài phàm tục này, nó là con vật, nó phải họat động theo con vật, họat động theo giác thể của nó, nó chưa biết họat động theo chơn linh. Thượng-Đế vẫn còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó, nếu để cho thân thể vi chủ tâm hồn của nó, nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi. Bởi vậy chúng ta ngó thấy hai phần đặc bịêt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần đời chúng ta, chúng ta phải chung sống cùng xã hội nhân quần, tức nhiên sống theo khuôn khổ quốc gia dân tộc ấy nên luật khuôn khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống theo kia chúng ta thấy chúng ta phải nhìn có một Đấng cầm quyền trị về phần tâm hồn, trí não chúng ta. Đấng ấy giờ phút này đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con cái của Ngài.

Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi, còn làm Cha nữa.

Chúng ta tưởng tượng lại, để tinh thần bình tỉnh suy xét từ thử đến giờ, coi các sắc dân nào trên mặt địa cầu này đặng hạnh phúc dường ấy chăng?

Hai ngàn năm về trước, Đức Khổng-Phu-Tử đến tạo Đạo, không đọat được thuyết quí báo cao trọng ấy cũng do nơi duyên cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa cầu này hết, không phải tình cờ mà Ngài đến. Ngài đến trong đời Chiến quốc, tức nhiên trong buổi ly lọan (không có buổi nào trên mặt địa cầu này chịu ly lọan bằng nước Trung-Hoa buổi nọ). Đời Chiến-Quốc Ngài đến trong buổi ly lọan, thiên hạ đương chiến đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh, không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt, Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì Đấng cầm cân thiêng-liêng nơi cõi Hư-linh hằng sống chẳng có hay sao? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus Christ cũng đến lập Đạo của Đức-Chí-Tôn như Ngài.

Trong buổi lọan ly, buổi mà La-Mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường, chiến đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là Chiến quốc vậy. Hai người đến không phải là tình cờ mà đến đâu. Cũng một thuyết với nhau, đem đạo lý cứu vãng nhân lọai, mỗi phen nhân lọai chịu thống khổ về tâm nảo dường nào thì có Đấng Từ-Bi độ tận, đưa tay ra cứu vớt họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ nhơn loại mãi mãi không bao giờ sơ sót hết, chúng ta quan sát tận tường thời buổi nào các vị Giáo-chủ đến giáo đạo đều có lý hết.

Nếu như không có Đấng cầm quyền năng trị tâm lý tinh thần nhân lọai thì chưa chắc có ai làm nổi. Cái thi hài của nhân lọai tức nhiên là thân thể còn tồn tại được để quyết định tương lai của nhân lọai, tức-nhiên hai lý thuyết Duy-tâm và Duy-vật.

Ngày giờ nào hai lý thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta ngó thấy cơ quan giải thóat đặng. Ngày giờ nào Người, Trời hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau, tức nhiên người trị thế, Trời trị hồn.

Hai Đấng cầm quyền thế gian này, cõi Hư-Linh hằng sống hiệp một với nhau là nhơn loại mới được hạnh phúc, tương lai mới được vững chắc và tồn tại. Bằng chẳng vậy con đường chiến đấu đặng sống của họ sẽ xô đẫy họ đến con đường tự diệt".

21 - THIÊN NHƠN TƯƠNG ĐỒNG
Giải nghĩa: Người cùng với Trời Đất .Người và Trời Đất cùng hợp.
Lời Bàn: Trời Đất là đại thiên địa, Đại vũ trụ.
Con người được đứng vào Tam tài là tiểu vũ-trụ.

Thế nên:
- Trời có tam bửu: Nhựt, Nguyệt, Tinh.
- Đất có tam bửu: Thủy, Hỏa, Phong.
- Người có tam bửu: Tinh, Khí, Thần.

Vì lẽ đó nên ở con người như một vũ-trụ thu hẹp:
- Ở thiên nhiên có đất, ở người là da thịt.
- Cây cỏ đối với người là lông tóc.
- Núi đá đối với người là xương.
- Hơi thở là gió, Máu là sông biển...

Vì vậy muốn biết trời, hãy biết người. Muốn biết người hãy biết mình. Bởi Người cũng đứng trong tam tài: Thiên địa nhơn.

Do vậy mà người phải thấu đáo được mọi lẽ, cái lý tam tài ấy cũng là tam bửu. Điều trước tiên nắm vững tam bửu là gì?

Trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay, người Tín hửu sùng thượng Đức Thượng-Đế bằng phép dâng tam bửu:
- Bông, tượng trưng xác thân (TINH)
- Rượu tượng trưng Trí-não (KHÍ)
- Trà tượng trưng tinh-thần hay Linh-hồn (THẦN)

Đức Hộ-Pháp nói:
"Trong một thời Cúng, Bần-Đạo đã căn dặn nhiều phen, trọng hệ hơn hết là khi dâng Tam-bửu."
Danh từ "Tam-bửu" mới nghe qua như đơn giản mà thật sự lý lẽ đã bao trùm khắp cả càn khôn vũ-trụ. Đó là một giai đọan hình thành một cách hoàn chỉnh nhất từ con vật tế vi cho đến con người và cã thế giới qua không gian cũng như thời gian vô tận.

- Trời có Tam-Bửu: Nhựt-Nguỵêt-Tinh, tức là sự hình thành nên các thiên-tượng: mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Khi đã có đủ tam bửu thì có sự phân hóa bởi âm dương mà thành ngũ-khí (vân, vũ, vụ, lôi, oanh) Mây, mưa, sương, sấm, sét.

- Đất có tam bửu: Thủy-hỏa-phong tức là ba yếu tố nước, lửa, gió này rất quan trọng để tác động nên lý ngũ-hành: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

- Người là một tác phẩm hoàn chỉnh nhất của Tạo-hóa do Trời đất nắn đúc nên hình do âm dương tương hiệp, thế mới hiệp đủ tam-bửu: Tinh -Khí-Thần và tạo thành ngũ tạng: Tâm, can, tỳ, phế, thận mà sống trong vũ-trụ này và khôn ngoan hơn hết trong vật lọai mới xứng đáng là bậc Thựơng-sanh.

Vì thế người Môn đệ của Đấng Chí-Tôn khi cởi bỏ xác trần về với Hư-vô được hiên ngang ngự trên phướn Thượng-Sanh mà về chầu Bạch-Ngọc. Chính đó là hình ảnh :Thiên-Địa-Nhân nên người mới được đứng vào hàng phẩm Tam-tài hãnh diện là bậc trí-huệ.

- Trí định Thiên-lương qui nhứt bổn.
- Huệ thông Đạo-pháp độ quần sanh.

Khi được Thiên-lương dẫn đường cho kiếp sống này, tức là làm Chủ được mình; khi tự mình làm Chủ được mình chính là làm chủ vũ trụ. Phật Thích-Ca nói: "Thắng một vạn quân không bằng tự thắng lấy mình".

Chính ngày nay Đức Thượng-Đế đến để mở con mắt thứ ba cho nhân lọai để tự biết mình và biết người tức là thờ thiên lương vậy.

Hôm nay Đạo trời đã đến lúc hoàn thành các giai đọan ấy:
- Giáo lý của Đại-đạo là tinh hoa của ba nền Tôn-giáo
- Mục đích của phổ-độ là đưa nhân-lọai đến đại đồng:
- Đại-Đồng Tôn giáo.
- Đại-đồng Dân tộc.
- Đại-đồng Thế giới.

Vai trò của Phật Di-Lạc ngày nay cầm quyền Chưởng giáo của kỳ ba phổ-độ này tuyên hứa với nhân sanh nếu biết "Tùng thị pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ tất đắc giải thoát luân-hồi, Đắc Lộ Đa La Tam diệu tam bồ đề thị chi chứng quả Cực-lạc Niết-Bàn".

Pháp điều Tam-Kỳ Phổ-Độ là gì?
- Chính là Tân-Luật và Pháp-Chánh-Truyền đó vậy

22 - CÔNG-BÌNH THIÊN-ĐẠO PHÉP HUYỀN CHÍ-TÔN
Giải nghĩa: Đấng Chí-Tôn tạo hóa rất mực công bình, không thiên vị ai

Lời bàn: Lời xưa nói rằng không vì người rét mà dẹp đi mùa đông. Do vậy, mà "Thiên cơ có lập ra Địa ngục với Thiên đàng, ấy là cảnh thăng và cảnh đọa hiển hiện đôi đường, Thiên đàng dành cho người đạo đức, Địa ngục vẫn chờ kẻ bạo tàn, tùy người chọn lấy".

Vào buổi tiền khai Đại-đạo, bấy giờ chỉ mới được manh nha xuất hiện ở giữa thời Pháp thuộc, họ luôn rình rập để bắt bớ, theo dõi các đàn cơ nơi có tụ họp đông đảo nếu không có giấy phép là điều lo lớn cho Đức Ngài Lê-văn Trung, vì Ngài đứng đầu mọi tổ chức được Đức Chí-Tôn giao phó. Cho nên các ông Ngô-văn-Chiêu, Nguyễn-văn-Hoài,Võ-văn-Sang... biết Lụât-pháp của chính quyền đô hộ hơn ai hết, dù được là chính thức làm Môn đệ đầu tiên nhưng các ông vẫn lánh xa các cưộc họp đông đảo. Trong tập Caodaisme, thanh-tra La Laurette đã nhắc đến các văn kiện lập qui-điều thời đó về vấn đề tín-ngưỡng dân gian:
- Điều 144 hình-luật, quyển 6, đọan 6 bắt nạn nhân phải chịu xử giảo.
- Nghị-định ngày 22-4-1873 cho phép truy-nã những Tín đồ.
- Đô-đốc La Font cho mật-thám trà trộn theo dõi các nơi đáng nghi-ngờ, thế nên Pháp cho thông-dịch viên Nguyễn-văn-Tường, cảnh-sát Trần-văn-Tạ, quản Báo.. trà trộn để theo dõi Đạo, nhưng rốt cuộc các người nầy lại theo Đạo và thọ Thiên-ân.

Đức Lê-văn-Trung rất nỗi lo-lắng, ngày 16-8-Bính-Dần (22-9-1926) được Đức Chí-Tôn dạy:
- Các con xin chánh phủ Lang-Sa đặng khai Tịch-đạo, thì cực chẳng đã Thầy ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi thiên cơ.

Khi tái cầu, Đức Chí-Tôn dạy hai vị Đầu-Sư Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc-Lịch-Nguyệt phải nhóm họp các Môn-đệ lo khai-đạo. Khỏang một tuần sau,
28-9-1926 Đức Chí-Tôn giáng dạy:
"Thầy các con,

Trung, con biết Thầy thương yêu nhân-lọai dường nào chưa?
Những điều ngăn trở đều do nơi tiền-khiên của chúng sanh. Đã vào trọn một thân mình nơi ô-trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước cho đặng trong sạch. Nhân lọai đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào gội Thánh-đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng!

Rất đỗi Thầy là một bậc Chí-Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay: một đàng trì, một đáng kéo, thảm thay cho các chịu con ở giữa.

Thầy dạy các con một điều là biết tranh-đấu cùng Thầy hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay trội hơn mới đắc thắng. Các con chịu nỗi thì Đạo thành, các con ngã thì Đạo suy, liệu lấy!

Cầm cả vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công-bình thiêng liêng chẳng nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu-nhiệm cho các con lập công quả".

Thi văn dạy Đạo:
Dìu-dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng trời xúm xít đỡ nương chung.
Đường dài chớ ngán con Kỳ ký,
Ngược gió đừng nao chí hộc Hồng.
Nhướng mắt tua dò theo kẻ trí,
Thìn lòng khá gắng đắp nền nhân.
Sen tàn cúc nở theo ngày tháng,
Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.

CHƯƠNG II

CAO ĐÀI XUẤT THẾ

“Đạo Cao-Đài tức là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mở khai vào thời kỳ này là do Thiên cơ tiền định và cũng hợp với lời tiên-tri của các Đấng Giáo-chủ đã khai mở các Đạo giáo trên thế giới.

Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời kỳ này là thời-kỳ hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một kỷ-nguyên mới Đặc biệt Đức Thích-Ca lập giáo có cho biết đến 2.500 năm kỷ-nguyên Phật- giáo là thời-kỳ để cho Đức Di-lạc ra đời mở Hội Long-Hoa lập một kỷ- nguyên mới .

Đức chúa Jésus-Christ giáng sanh sau Đức Phật Thích-Ca lối 500 năm lại tiên-tri rằng trong 2.000 năm sau sẽ đến ngày “Phán-đóan Đại-Đồng”.

Theo đây chúng ta thấy rằng nhiệm-kỳ Phật-giáo và Gia-tô-giáo khai mở tuy có trước sau nhưng đến ngày mãn hạn thấy ra xấp-xỉ trùng nhau nên Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tức là Đạo Cao-Đài đặng mở một kỷ-nguyên mới : QUI TAM GIÁO HIỆP NGŨ CHI lập thành một nền Tôn- giáo Đại-Đồng cho hợp với trình độ tiến-hóa của nhân-lọai”.

“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng huyền-diệu Cơ bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm Bính-Dần (1926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hai triệu người. Tổ-đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Phật-Mẫu lập thành tại Thánh-Điạ Tây-Ninh. Hội-Thánh hành-đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý-Thái-Bạch kiêm Giáo Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt nay đã qui thiên. Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp chưởng quyền tối cao trong cửa Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị”. (1956)

TÔN-CHỈ của Đại-Đạo là dìu-dẫn quần sanh trên con đường xử thế, lấy luân-lý triết-lý làm yếu-tố.

LUẬT-PHÁP của Đại-Đạo là TÂN-LUẬT và PHÁP CHÁNH-TRUYỀN do Đức Cao-Đài dùng huyền-diệu Cơ bút giáng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền giáo :
- Diệt-trừ mê-tín dị-đoan, bất nạp bóng chàng, phù thuỷ, bổn Đạo dung-hòa mọi tín-ngưỡng và tùy khả-năng tiến-hóa của mỗi hạng người và phong-tục của mỗi địa phương mà phổ-độ.

LUÂN-LÝ thì dạy con người giữ Đạo nhơn-luân, làm tròn bổn phận mình, đối với mình, đối với gia-đình, đối với xã-hội là gia-đình rộng lớn, đối với toàn cả thiên hạ là Đại-Đồng huynh-đệ.

TRIẾT-LÝ thì cấm xa-hoa phung-phí, cấm bã lợi mồi danh, trọng duy tâm hơn duy-vật và xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo, đặng giữ cho tâm-hồn được thơ-thới, nhẹ-nhàng .

GIÁO-LÝ của Đại-Đạo là chuyên về tín-ngưỡng và tu-trì, dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xuất thế”.

01 - CAO-ĐÀI TIÊN BÚT THI VĂN TỰ

Giải nghĩa: Có lời nói rằng mai sau sẽ có Đạo Cao-Đài truyền văn thi của Tiên Phật bằng huyền-diệu Cơ bút.

Lời bàn: Những câu trên là lời tiên-tri của chư Thiên báo cho nhân-loại biết rằng Đạo Cao-Đài sẽ xuất hiện tại Nam phương. Đức Thượng-Đế làm Giáo Chủ.Chính Người là Đấng Huyền Khung Cao Thượng-Đế Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn ngồi tại phương Bắc hay là Huỳnh-Kim-Khuyết đó vậy.

Tuy thuở ấy Cao-Đài Đại-Đạo chưa ra đời nhưng Phật Tiên cũng có lời tiên-tri, tức là thông-truyền trước cho nhân-loại biết để chào đón Đức Cao-Đài Thượng-Đế. Câu trên có trong quyển “Vạn Pháp Qui Tông” được lưu-truyền trong nhân-gian hơn mấy trăm năm nay do các Đạo-sĩ truyền lại, sau đó mới xuất hiện.

CAO-ĐÀI chính là cái linh đài tại Linh tiêu-điện có một cái tháp rất cao thượng, rất thâm diệu vô biên, tên xưa gọi là Lạc-thiên-thai lấy làm bổn thể là oai linh, quí báu vô cùng. Cảnh này nơi thiên đình, quần Tiên thường nhóm hội ở bệ ngọc ấy, hào quang muôn trượng do đó mà chiếu tỏa ra.Thế nên ngày nay Đức Thượng-Đế lấy tên chỗ Ngài ngự mà xưng danh Ngài trong buổi khai mối đạo Trời là Cao-Đài, chính Ngài là Đấng Giáo-chủ toàn tri, toàn năng, nền Đạo của Ngài mở ra trong nguơn hội này là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ gọi tắt là Đạo Cao-Đài.Ngài có giáng cơ cho thi để xác nhận:
Linh tiêu nhất tháp thị Cao-Đài,
Đại hội quần Tiên thử ngọc giai.
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ danh bửu cảnh Lạc-thiên-thai.

Đức Ngài đã định danh:
"Đại hỉ tai! Đại hỉ tai! nhân sanh phùng Đại Đạo, tích phước thị Cao-đài :
- Thích-Ca Như-Lai thị ngã,
- Thái-Thượng Nguơn-thỉ thị ngã,
- Thánh Chúa Jésus thị ngã ,
- Đẳng đẳng Thần, Thánh, Tiên, Phật, thị ngã
- kim viết CAO-ĐÀI

CAO-ĐÀI thị Linh-đài tại Linh-tiêu-điện, hữu nhất tháp cao-thượng chí diệu vô biên, cổ danh Lạc thiên-thai dĩ bổn thể nhất linh nhất bảo".

(Dịch nghĩa: Mừng vui thay! mừng vui thay! Nhân sanh gặp được mối Đại-Đạo. Người đến ban phước báu ấy là Đấng Cao-Đài. Cao-Đài cũng là Linh đài tại Linh-tiêu-điện, nơi ấy có một cái tháp rất cao thượng, huyền-diệu vô cùng, quí báu vô cùng, tên xưa là Lạc-thiên-thai vốn là bổn thể vậy).

Đã bao nhiêu thời gian qua Đức Thượng-Đế cho con của Ngài giáng thế lập Đạo nhiều nơi trên thế giới để tỉnh thức tinh thần nhân sanh như:

Đạo Phật ở Ấn-độ; Khổng, Mạnh, Lão, Trang xuất hiện ở Trung-hoa túc cùng khởi xuất ở châu Á, về phương Đông, sau đó mới truyền qua phương TÂY, Đạo Thánh ra đời, cho nên Thầy mới nói:
- Thích-Ca Như-Lai cũng là Ta.
- Thái-Thượng Nguơn-Thỉ là Ta.
- Thánh Chúa Jésus là Ta.
- Đẳng đẳng Thần, Thánh, Tiên, Phật, cũng là Ta,

Nay trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Thầy đã đến qui tam giáo hiệp ngũ chi lập thành mối Đại-Đạo lấy danh Cao-Đài. Đấng Cao-Đài chính là Ngài, Ngài là Cha chưởng quản cả càn khôn vũ trụ, đã hoàn thành nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại Việt- nam, gọi là "thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thủy"

Đức Thượng-Đế nói rằng:
"Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gỗ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn, ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy".

Thực ra:
"Đạo Thầy là nền Đạo chính Thầy đến lập, là Đấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA-HA-TÁT, Ngài đến giáo Đạo tại Nam phương xưng mình là Thầy, kêu cả Môn-đệ là con cái của Ngài. Ngài dạy "Phải chung lo cho danh Đạo Thầy, Đạo Thầy tức là các con".

02 - HỮU DUYÊN ĐẮC NGỘ TAM-KỲ LỘ
Giải nghĩa: Đây là lời của vị Đại tiên Tào Quốc Cựu giáng dạy:

Rất hữu duyên mới gặp Đạo Tam-Kỳ đến độ rỗi, khá ráng luyện cho nên Đạo kẻo uổng. Người sanh trong đời khó gặp đặng, vì Đạo là rất báu trong đời không chi bì kịp. Chư nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo mở kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư Nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó.

Chư Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư Nhu là kẻ nguyên nhân. Hễ thành tâm hành Đạo thì tự nhiên đặng". (17-6 Quí-Hợi 1923)

Lời bàn: Vào thời tiền khai Đại-Đạo tức là khỏang năm Giáp-Tý (1924) trở đi thì Đức Chí-Tôn đã giáng cơ phân rành mọi lẽ :

"Vốn Thầy lập một nền Đạo chánh cho dân Việt Nam chẳng phải là việc dễ đâu! Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân-cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu các con mới thấy rõ thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi này sao đặng ! Vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai . Vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu!"

Đã qua hai thời kỳ phổ-độ rồi. Mỗi lần phổ-độ như vậy đều có đủ Phật, Thánh, Tiên giáng trần tùy theo phong-hóa của mỗi tư phương mà gầy chánh giáo, như :

Nhứt kỳ Phổ-Độ thì :
- Phật-đạo có Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật chưởng giáo Đạo Phật.
- Tiên-đạo có Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ chưởng giáo Đạo Nho.
- Thánh-đạo có Đức Văn-Tuyên Đế-quân chưởng-giáo Đạo Thánh.

Nhị kỳ Phổ-Độ thì:
- Phật-đạo thì Thích-Ca Mâu-ni làm chưởng-giáo.
- Tiên-đạo thì Thái-Thượng Lão-quân làm chưởng giáo.
- Thánh-đạo thì Đức Khổng-Tử làm chưởng-giáo Đạo Thánh ở phương Đông gọi là ông Thánh ta.

Còn phương Tây có Đức Chúa Jésus-Christ làm chưởng-giáo Đạo Thánh nên gọi là ông Thánh tây.
Nay qua Tam-kỳ Phổ-Độ thì chính đấng Thượng-Đế đến mở Đạo và Ngài làm Giáo-chủ Đại-Đạo chứ không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa, bởi hậu quả là càng ngày càng canh cải cho ra phàm giáo, nhưng phải lập chánh thể cho có phương thế mà dìu dắt nhân sanh trên con đường hành thiện. Do vậy mà ngày nay lập ra Tam-Trấn Oai-Nghiêm để thay quyền Tam giáo.
- Phật-đạo thì có Đức Phật Quan-Âm thay quyền chưởng-giáo Đạo Phật, quyền Nhứt Trấn Oai-Nghiêm.
- Tiên-đạo thì Đức Lý Đại-Tiên thay quyền chưởng giáo Đạo Tiên, quyền Nhị Trấn Oai-Nghiêm.
- Thánh-đạo thì Đức Quan-Thánh Đế-Quân chưởng-giáo Đạo Thánh, quyền Tam-Trấn Oai-Nghiêm.

Như vậy, kỳ này Đức Thượng-Đế quyết-định:
"Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ ".

Thầy xác định rằng:
"Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ hạ nguơn này, nhưng Đạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước là vì tại lòng nhiều đứa chưa để hết tín-ngưỡng mà nghe lời Thánh-giáo, cho nên lần hồi nền Đạo phải ra tan tành manh mún.

Làm một con người đứng vào hàng tam tài: thiên, địa, nhân; mọi việc khó không phải nơi trời hay nơi đất mà do ở lòng người. Lý-do tối yếu tối trọng là:

Thầy lập Đạo kỳ nầy phù hợp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi nguơn tấn hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ-nghĩa cựu-luật của các tôn-giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhân lọai".
Thi văn dạy Đạo
Ơn Trời cho mở Đạo kỳ ba,
Dìu-dẫn nhân sanh lánh vạy tà.
Ví muốn tu thân nhồi quả trước,
Gắng công sau sẽ đến cùng Ta.

03 - MỆNH HỮU CAO-ĐÀI MINH NGUYỆT CHIẾU
Giải nghĩa: lời truyền bá ra cho mọi người biết rồi đây sẽ có Đấng Cao-Đài giáng trần mở nền chơn đạo sáng tỏ như trăng rằm.

Lời bàn: đây là lời tiên tri của các kinh sách nói trước về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài.

Khi Đạo trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn cho nên dù Đức Thượng-Đế chưa đến nhưng tất cả các kinh sách Phật-giáo đều đã có lời tiên tri cho sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài, chẳng hạn như :

- Đạo Tam Thanh: vào thập ngũ thế kỷ, bên Trung-quốc có một vị đạo-sĩ tên Ngô-Chi-Hạc (Ou-tche-Ho) có lập lên phái Tam Thanh chuyên thờ Giáo-chủ của ba nền Đạo lớn là :
- Đức Lão-Tử (Đạo-giáo)
- Đức Khổng-Tử (Nho-giáo)
- Đức Thích-Ca (Thích-giáo)

Đạo Tam-Thanh là bước đầu tiên của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay vậy.
- Ở Trung-quốc thì từ đời Tam quốc, Vương-Bật cho rằng sách Lão-Tử và Chu Dịch là một loài.
- Đến Nam Bắc triều các nhà đạo học cho rằng Lão-học và Phật-học vốn là một dòng.
- Rồi đến Tấn có sách "Du Đạo Thiên" xướng luận điệu Nho, Phật nhất trí.
- Tiếp đến Vương-Thông đồi Tùy tuy là một nhà Nho thuần-túy mà cũng cho rằng Tam giáo là đồng nhất.
- Đến đồi Đường thì tư-tưởng ấy cũng phổ thông lắm .Lưu-Mật là sách Nho-Thích-Đạo bình tâm luận cũng nói về Tam giáo đồng nguyên.

Có lời tiên tri trong quyển Thanh-tịnh-kinh rằng: Thanh-tịnh-kinh hữu di-tích, công viên quả mãn chỉ thọ đơn thơ, thiên mạng phương khả truyền Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (có nghĩa là: kinh Thanh-tịnh có dấu tích để lại rằng công đầy quả đủ sẽ được lãnh thọ đôn thơ :tức là kinh sách dạy tu, tịnh luyện, người có mạng trời khá nên truyền Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ).

Những lời tiên tri của các tôn giáo không khác nào tia chớp sáng lòe trên không gian rồi tiếp theo là tiếng sấm nổ vang trới.

Thế nên, sau khi khai đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ vào ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) thì Đức Hộ-Pháp có nhắc lại trong bài diễn văn in trong Pháp-Chánh-Truyền rằng :

"Khi khai Đạo bên Thái-Tây thì Chí-Tôn đã nói trước rằng: còn nhiều chuồng chiên Người sẽ đến đem về làm một. Lời tuyên-ngôn ấy nghĩa là còn nhiều đạo đương nuôi-nấng un-đúc tinh-thần của con cái Chí-Tôn đặng chờ ngày Người đến hiệp chung lại một lời ấy ngày nay đã quả.

Các chuồng chiên thiêng-liêng của Chí-Tôn là:
- Phật đạo thì bà-la-môn (Brahmanisme), Thích Ca Mouni (Cakya-Mouni), Pythagore-giáo.
- Tiên-đạo thì là Lão-Tử-giáo, Dương-châu, Mặc Địch, Vạn-pháp, bàn môn cho tới thầy pháp, thầy phù, bóng chàng, đồng cốt.
- Thánh-đạo thì là Thiên-chúa-giáo (Christianisme), Gia-Tô (Catholicisme), Tin-lành (Protestantisme), Hồi Hồi (Mahométantisme) .
- Thần-đạo thì là trung-huê Phong-thần, Hy-lạp Phong-thần (Mythologi chinoise,grecque et Egyptienne)
- Nhơn-đạo thì là Socrate, Esobe, Platon... ở Hy-lạp, Khổng-Tử (Confucianisme), Mạnh-Tử (Mentius), Nhị trình-giáo v.v..

Chung cộng cùng cả Hớn-phong, Đường thi, Tấn Tục tại Trung-huê từ trước.
Trước khi đến khai đạo đặng hội hiệp các tôn-giáo lại làm một thì Người đã sai các Đấng thiêng-liêng cao trọng hạ trần mà bày ra các Hội-giáo đạo-đức đặng thức tỉnh trước nhơn sanh như là :
Khảo-cứu Thiên-đạo-giáo Socíeté Théosophique.
Khảo-cứu triết-lý Phật-đạo (Socíeté des recherches sur la philosophie bouodhique).
Thần-kinh và tâm-lý triết học (socíeté physique).
Thần-linh-học (le spiritisme)...

Có nhiều hội-giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở đạo đặng dạy lần cho vạn quốc rõ thấu chánh truyền; ngày nay Thầy mới đến lập một cái Cao Đài, nghĩa là Đền thờ cao hay là đức tin lớn tại thế này (la haute Eglise ou plus grande foi du monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ nhít của hướng Á-đông là An-Nam ta, đặng cho trọn lời tiên-tri: "Đạo xuất ư Đông" và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy, hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi-Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch-Ngọc đặng trổi hơi định tánh, làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh,nhìn Thầy mà trở về quê cũ." (PCT)

Thầy cũng cho biết rằng:
"Thầy nắm máy huyền-vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy càn-khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần-huờn, bầu nhơn sự phải luân-chuyển vần xây phiêu-linh cho đến buổi nhơn-lọai được vẹn toàn, thế giái cũng vì đó phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực-lạc.

Dữ tận hiền thăng, mạnh tàn yếu được, nếu chẳng có mối ĐạoTrời thì sanh linh vì hung bạo phải trả trả vay vay, biết chừng nào có cảnh dinh-hoàn này dược trọn hưởng ân huệ, nấc thang thiêng-liêng kịp dẫn độ người phàm tục." (TNII /36)

04 - MẠT HẬU CÀN KHÔN ĐỒNG NHẤT ĐÁI
THIÊN MÔN VẠN GIÁO CỌNG QUI CĂN         
Giải nghĩa: sau buổi hạ nguơn mạt pháp, trời đất đồng chung một dãy ngàn cửa muôn giáo đều về một gốc.

Lời bàn: đây là lời tiên-tri về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài đăng trong quyển kinh Tỉnh Thế Ngộ Chơn nên mới có câu trên. Như thế, cũng đủ thấy mối Đạo mà Đức Ngọc-Đế đã khai sáng tại Việt- nam như ngày nay đã có Thiên-thơ tiền định từ mấy ngàn năm về trước trong các kinh, các giáo, các sám, của Phật, Tiên, đã có báo trước hoặc bên phương tây, hoặc nơi cõi Á-đôâng này.

Thuở ấy, danh từ Cao-Đài hay Đại-Đạo đã được nêu lên nhưng chưa ai biết. Chính Đức Thế-Tôn Văn-Phật đã có nói: sau Ngài, sẽ có một vị Phật lớn hơn Ngài ra đời. Đức Phật lớn hơn Phật Thích-Ca chỉ có đấng Tạo-hóa mà thôi. Đấng ấy có rất nhiều phương danh:

Thứ nhất gọi Ngài là Ông Trời mà người Trung-hoa gọi là Thiên (là nhất Đại viết Thiên ) nghĩa là chữ nhất đặt lên chữ đại sẽ thành chữ Thiên, như thiên thượng, thiên-hoàng, thiên-đế... Đấng Thiên-đế ngày nay đến xưng danh là "Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" mà nhân-lọai sùng kính Ngài là Đức Chí-Tôn hay Đại-Từ-Phụ.

Câu "mạt hậu càn-khôn đồng nhất đái" quả đúng như lời tiên-tri này: Đạo Cao-Đài được khai mở đúng vào buổi hạ nguơn đệ tam chuyển, giữa lúc thế-giới đang đến mức cao điểm của văn-minh vật-chất và cũng là lúc tinh-thần đang khủng-hỏang nhất, bị đe-dọa bởi năng-lực của ngưyên-tử nên Thượng-Đế đến để đem lại huờn thuốc phục sanh cho nhân-lọai trong buổi này.

Xưa, Đạo vốn một gốc mà phân ra nhiều nhánh, nhiều chi, nhưng tựu trung thì gồm có ba Đạo chánh là: Phật, Tiên, Thánh và năm chi nữa tức là hiệp với Nhơn-đạo và Thần-đạo, gọi là Ngũ chi Đại-Đạo.

Thầy cũng cho biết:
"Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Đại-Đạo là: Nhơn-đạo, Thần-đạo, Thánh-đạo, Tiên-đạo, Phật-đạo; tùy theo phong-hóa của nhân-lọai mà gầy chánh-giáo là vì khi trước Càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt thì nhân-lọai duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi". (TN I/18)

Bấy nhiêu lời Thánh-ngôn đã đủ đầy ý-nghĩa rằng năm mối Đạo được phân chia ra, xuất hiện các nơi trên thế-giới mà mỗi một vị Giáo-chủ sẽ làm chức năng của mình trong phạm vi đất nước mình mà thôi.

Tức nhiên như Chúa Jésus Christ là người Tây phương thì mọi phong-tục tập-quán, sắc phục, tín ngưỡng cổ truyền đều theo Tây-phương, dù một người của nước nào trên thế-giới, theo học với Công-giáo đều rập theo khuôn mẫu ấy.

Như Phật-giáo chẳng hạn, xuất hiện ở Ấn-độ mà Đức Thích-Ca làm Giáo-chủ thì lấy theo văn-hóa, tín ngưỡng của Ấn-độ, thế nên các Phật-tử theo học với Ngài cũng đều theo chân Ngài mà hành y như vậy nên Thầy nói "tùy theo văn-hóa của nhân-lọai mà gầy chánh-giáo".

Nhưng thử hỏi vì sao nói là trước thì càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt?

Bởi lúc ấy phương-tiện đi lại, giao tiếp với nhau trên thế-giới chưa được thông-đồng, người người chưa hiểu nhau qua ngôn-ngữ, tập-quán, phong-tục nên tất cả đều nhìn nhau qua cặp mắt ngỡ-ngàng, nghi-kỵ rồi sinh ra mối hiềm nghi, kỳ thị đáng tiếc.

Nhưng, nay thì mối giao-hữu ngày càng rộng-rãi nhờ sự văn-minh của nhân-lọai họ được giao tiếp nhau, thông-cảm nhau hơn, cho nên Thầy nói :
"Còn nay thì nhân-lọai đã hiêp đồng, càn khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhân-lọai nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nũa trước Thầy lại giao Chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà làm ra phàm giáo, Thầy lấy làm đau-đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-lọai phải xa vào nơi tội-lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ."

Tất cả đó là lý do để ngày nay Thầy mới qui nhứt tôn-giáo, thống hiệp tinh-thần của nhân-lọai gồm về một mối mà Thầy làm chủ, với sự quyết-định:
"Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giao Chánh-giáo cho tay phàm nữa."

Bởi Thầy là Chúa cả càn khôn thế-giái tức là Chúa-tể sự vô-vi, nghĩa là chủ quyền của Đạo, mà hễ chủ quyền của Đạo ngự nơi nào thì là Đạo ở nơi ấy.

Thế nên ngày nay Chí-Tôn định khai Đạo đặng thị chứng cho các tôn-giáo biết nhìn nhau trong con đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh-đấu thù hiềm làm cho thế-giới đặng hòa-bình, thóat cơ tự diệt.

Khi đã qui về một mối Đạo chánh truyền thì phải "phản tiền vi hậu", nghĩa là mở Thánh khai Tiên rồi lập nhà Phật sau hết, nên gọi là Tam-kỳ lộ.

Vì cửa Trời mới mở ra cửa Phật tức là Thiên môn, mở cửa Bồng-lai, chúng ta an tâm để bước vào cửa Thiền là Phạm-Môn.

Mọi việc đều có sự sắp đặt của thiêng-liêng để đưa về cơ qui nhứt hầu cứu vãng 92 ức nguyên-nhân đã bị đọa lạc nơi hồng-trần, cũng là lúc thanh lọc lần cuối mà Đức Lý Nhứt Trấn Oai-Nghiêm đã nghiễm-nhiên nắm cơ cứu khổ lần này: nên thì để hư thì bỏ với một quyền-uy vô-đối.

Vậy thì hôm nay Đạo Cao-Đài xuất hiện tức là dầu cho ngàn cửa hay muôn ngàn Tôn-giáo cũng đều gom về một gốc.

Thầy có giải về lý do qui nhứt ấy rằng:
"Thầy nói cho các con rõ: Vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi trưiớc, vì trước là lớn phải vậy;

Khai thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn-thần mà biến càn-khôn thế-giái và cả nhân-loại.

Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con. Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy khai Bát-quái mà tác thành càn khôn thế giái nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra càn khôn vạn-vật rồi mới có người nên gọi là Tăng. Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.

Thầy lập Phật-giáo vừa khi khai thiên lập địa, nên Phật-giáo là trước, kế Tiên-giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là buổi hạ nguơn hầu mãn; phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Tỷ như lập Tam giáo qui nhứt thì:
Nho là trước. Lão là giữa. Thích là chót.

Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô-vi chi-khí, chính là Niết-bàn đó vậy." (TNI/53)
Thi văn dạy Đạo
Phụng gáy non Nam, Đạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời.
Trời Âu, biển Á trời thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.

05 - CAO NHƯ BẮC KHUYẾT NHÂN CHIÊM-NGƯỠNG
ĐÀI TẠI NAM PHƯƠNG ĐẠO THỐNG TRUYỀN
Giải nghĩa: cao như cửa Khuyết (Huỳnh-Kim-Khuyết) là nơi Đức Chí-Tôn ngự, quay về hướng Bắc, nhân-lọai được hưởng ân-trạch. Đài nầy được dựng nơi phương Nam mà phổ truyền mối Đạo Trời.

Lòi bàn: đây là lời tiên-tri của các Lão-sư chi Minh-sư (còn gọi là Đại-Đạo) nói về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài.

Bên Trung-quốc sau khi nhà Thanh lên thay thế nhà Minh, một sớ cựu thần nhà Minh không phục nhà Mãn-Thanh, bèn lên núi ẩn tu lập ra chi Minh-Sư, Minh-Đường còn gọi là Đại-Đạo, một quyển kinh của các lão-sư phái ấy đã được từ bên Trung-quốc chuyển sang Việt-Nam. Ngoài bìa sách ấy có hai câu đối liển trên, tiên-tri về sự khai mở của Đạo Cao-Đài sau nầy:

Tất cả về những sự báo trước của Đạo Cao-Đài sẽ xuất hiện có nhiều vấn đề hữu ích:
 - Để cho nhân-loại hay tin một nền Đạo mới sẽ được khai mở và sẵn-sàng chờ đón.
- Niềm tin đặt trọn vẹn không bị ngỡ-ngàng. Chẳng những lời tiên-tri nầy đến với các tôn-giáo mà ngay nơi đất nước Việt-nam này chính cụ Thủ-Khoa Huân cũng đã giáng linh cho hai bài thi vào năm 1913, tức là 13 năm trước ngày khai Đạo (1926).

Tại quận Cao-lãnh (Việt-Nam) ngày 3 tháng 1 năm 1913 các vị văn Nho, kỳ lão có họp nhau tại nhà ông Lê-Quang-Hiển, nhạc phụ của ông Diệp-văn-Kỳ để phò cơ thỉnh Tiên. Khi cơ lên, chơn-linh của cụ Thủ Khoa Huân có giáng cho hai bài thơ sau đây .(Xin nhắc lại Thủ-Khoa Huân là một văn-sĩ cách-mạng dưới thời Pháp-thuộc bị xử tử-hình tại Mỹ-tho).

THI
Dung tất Cao-Đài nhiệm khuất thân,
Tư triêm đào lý nhứt môn xuân.
Cánh tân bôi ức giang-san cựu,
Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt phân.
Cửu thập thiều-quang sơ bán lục,
Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục để Cao-Đài tráng trí thân.

            Cụ lại có thích thơ nôm như vầy:
Co duỗi Cao-Đài khỏe tấm thân,
Dạo xem đào lý đượm màu xuân.
Giang-sơn chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ xem một chữ tân.
Chín chục thiều-quang vừa nửa sáu,
Một vùng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt CAO-ĐÀI khoẻ tấm thân.



06 - NGÃ THIÊN THỊ THÍNH
Giải nghĩa: Sự nghe và sự thấy của Thầy chúng ta.

Lời bàn: bốn chữ này đặt trên bức bình phong, hiện để tại Giáo-Tông-Đường tức là ngôi thờ của Đức Quyền-Giáo-Tông Lê-văn-Trung Tòa-Thánh Tây-Ninh.

Lúc còn sinh tiền Ngài phải mua lại bức bình-phong với một giá rất đắc.

Trích một đọan điếu văn của Ngài Khai-Pháp Hiệp-Thiên-Đài đọc trước liên-đài của Đức Quyền-Giáo Tông ngày 26-10-Giáp-tuất (1934) để hiểu được tinh thần của Đức Ngài gắn liền với chữ trên.

"Nếu như ai đã chịu khó lục lại những tờ biên bản của Hội-đồng quản-hạt từ năm 1906 đến khi Âu châu đại chiến năm 1914 và những báo-chí đương buổi bấy giờ thì họ sẽ thấy, sau khi phản-đối bản dự thảo lục hạng điền, cũng như sau khi lập xong nữ-học-đường thì Ngài đã đọc một bài diễn-văn yêu cầu với chánh phủ, lấy một phần số tiền công-nho của làng phụ trội của tất cả các làng khắp Nam-kỳ lục tỉnh đặng lập ra tại Sài-gòn một cái hội-quán gọi là "La grande commune Annamit" nhà đại-đồng của người An-nam. Đại-đồng ở ngoài đời lúc bấy giờ với cái đại-đồng trong Đạo ngày nay có khác chi đâu!

"Ngay trước mặt các Ngài, sau lưng liên-đài, các Ngài đã thấy bốn chữ thật lớn "NGÃ THIÊN THỊ THÍNH". Nghĩa là sự nghe và sự thấy của Thầy chúng ta. Nghĩa câu đó do mấy câu trong kinh Thi: "Thiên thị tại ngã, dân thị thiên thính, tại ngã dân thính" (tức là sự thấy của trời ở nơi sự nghe của dân, Trời tức là dân, dân tức là trời). Tôn-chỉ Đạo của chúng tôi chỉ ở trong bốn chữ "Thiên-đạo và nhân-đạo".

"Cuộc đời hành đạo của Đức Quyền Giáo-Tông chúng tôi cũng chỉ khế xướng có bấy nhiêu thôi. Nếu đem cái kết quả sau khi chín năm hành đạo mà so cái tôn-chỉ, mục-đích đạo của chúng tôi, thì chẳng khác nào nhìn vào giọt nước ở biển Đông, hột cát ở giữa đồng sa-mạc, tuy vậy mặc dầu, Anh Cả của chúng tôi lúc sanh tiền hằng dạy chúng tôi rằng Đức Chúa Jésus Ngài đã nói đức-tin của người ta nó mạnh cho đến đỗi dời núi chỗ nầy đem sang chỗ khác".

Câu đó là câu kết luận của bài điếu-văn này mà cũng là câu từ đây về sau mỗi ngày chúng tôi đều đứng trước vong-linh Anh Cả chúng tôi mà tụng niệm vậy. Bởi biết nghe theo Trời và làm theo đức của Trời mà buổi tiền khai Đại-đạo Đức Chí-Tôn đã ân-cần đến độ Người, đó là bậc Anh Cả là Đức Quyền Giáo-Tông Lê-văn-Trung vậy.

07 - HỮU THÀNH TẮC HỮU THẦN         
Giải nghĩa: Lòng người có được đức chí-thành mới cảm-ứng được với Thần-linh.

Lời bàn: Thế nào gọi là Thần-linh? Trong chữ thành gồm bộ ngôn (7 nét, nghĩa là lời nói) hiệp với chữ thành là nên. Chữ thành này là do sức người, là lực thêm khí cụ sắt thép nữa là chữ qua là dao mác. Điều đó cho thấy rằng ở thời khai sơn phá thạch tức là thời dựng nước, ông cha ta đã đổ nhiều xương máu để xây dựng bờ cõi, định quốc gia biên giới. Còn ngày nay đám hậu duệ tức là con cháu của các Ngài như chúng ta đây là kẻ giữ nước thì phải thêm vào lời nói (bộ ngôn ) tức là tác-động với thất tình nữa mà làm nên chữ thành này là thành-thực, thành-tâm, thành-khẩn, thế nên khi đã gọi là chí-thành thì sự thành này rất nên yếu trọng. Để được sự thành-khẩn một cách chân tình đó tất sẽ cảm ứng với Thần-linh, có nghĩa là tâm của người sẽ hòa đồng với tâm của vũ trụ, mà tâm của vũ trụ là tâm của Thượng-Đế, Đức Chí-Tôn có nói "Thầy là các con, các con tức là Thầy".

Hòi tại sao đức chí-thành có được giá trị cao sịêu như vậy?
- Chí là rất, thành là thành-thực, trái lại là giả dối; bởi Thượng-Đế đã ban cho loài người đến thế này bằng hai chân thật để đi trọn quãng đường đời.

Đức Quyền Giáo-Tông có dạy:
"Đức Chí-thành là tánh chất thành-thực, chơn chánh mà mỗi người cần phải có để đối-đãi nhau cho ngay thẳng, thật-thà trong trường đời hay trường đạo. Đức chí-thành là gốc năm thường, là nguồn trăm nết. Có chí-thành thì đạo hạnh con người mới đặng rõ-ràng, sáng tỏ. Không chí-thành thì đạo hạnh phải bị tà khuất tối tăm. Cho nên con người ở đời mà không un-đúc đặng một khối chí-thành là gốc rễ thì trông chi đến việc trau-giồi đức hạnh là nhành lá vậy.

"Đức chí-thành tỷ như một khối vàng, dùng nó mà chế-tạo ra lắm đồ trang sức tốt xinh đáng giá. Chí như khối vàng ấy phải pha phải trộn thì mất nguyên chất tự-nhiên rồi bảo sao những đồ trang-sức làm ra không phải xấu hèn thấp giá

"Người xưa tuy quê hèn song giữ đặng hai chữ chí-thành, đối với nhau chẳng hề giả dối, gạt-gẫm là gì. Một tiếng ừ với nhau cầm đáng ngàn vàng, một lời hứa với nhau khư-khư giữ chặt.

"Ngày nay tuy gọi văn-minh tấn-bộ, song cái ánh sáng văn-minh chóa lòa làm cho con người tựa như nắng quáng đèn loà mà xem không rõ cái tướng của đức Chí-thành đặng vậy. Cũng bởi không chí-thành cho nên ở đời mới có người này xảo trá, kẻ kia gian tham, sanh lòng nghi-kỵ lẫn nhau đến đỗi trong một việc làm nhỏ mọn mà có nhiều kẻ chung lo thì cũng hóa ra hư hỏng theo.

"Đường đời mà đức Chí-thành còn quan-trọng như thế, huống chi đường Đạo là chỗ cần phải treo lên một tấm gương thanh-bạch hầu để soi chung thiên-hạ!
Người hành-đạo cần phải có đức Chí-thành, tôn-chỉ Đạo mới đặng quang-minh chánh-đại, rồi nhơn đó mới đặng lòng tín-nhiệm của chúng-sanh. Khi tụng kinh cầu-nguyện khấn vái với Trời, Phật nếu đặng Chí thành mới có cảm, có cảm mới có ứng, có ứng mới có nghiệm, cho nên có câu "HỮU THÀNH TẮC HỮU THẦN" là vậy đó!

"Người làm Đạo mà Chí-thành thì chẳng hề để ý chi riêng về việc công-quả mà cầu danh, chẳng hề ỷ mình lập nhiều công-quả mà tự-kiêu, tự-đắc rồi tác oai, tác phúc lập thế chuyên-quyền gây ra lắm điều trái Đạo; ai nói cũng không nghe, ai khuyên cũng không nạp, ai trách cũng không dung. Người làm Đạo mà chí-thành thì chỉ lo cho chúng-sanh, chớ không kể đến thân mình, tự buộc mình vào nơi khổ-hạnh, đem cả hình-hài trí-thức làm món hy-sinh cho tôn-chỉ Đạo, thân còn chẳng kể huống là lợi và danh.

"Nói tắt lại một điều là làm Đạo mà còn chút ít riêng về lợi và danh thì chưa có thiệt là chí-thành vậy.

"Người theo Đạo mà không Chí-thành thì bất quá là cầu vui, tu bắt chước hoặc là tu cầu mị theo ông nọ bà kia đặng có dễ bề thân-cận mà chác chuộng mua yêu cùng trông ỷ lại nơi người vậy thôi.

"Người theo Đạo mà không Chí-thành thì bất quá là mượn danh Đạo để vụ tất đồng tiền hoặc lợi dụng đức-tin của hàng tín-đ? thấp-thỏi để mưu điều trái Đạo.

"Người giữ Đạo mà không chí-thành dầu cho bác-lãm quần-thơ, rõ thông Đạo-lý đến đâu đi nữa tưởng cũng không trông thành Đạo.

Ấy vậy: nếu rủi trong Đạo mà có đại đa số người không Chí-thành dầu cho tôn-chỉ Đạo cao thượng đến đâu đi nữa, nền Đạo bất quá cũng để lại một trị cười cho thiên-hạ."

Thánh-ngôn Đức Chí-Tôn dạy rằng:
"Các con phải biết Đạo gốc bởi lòng Bác-ái và Chí-thành. Bác-ái là lòng đại-từ-bi thương-xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng Bác-ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên-hạ trọng bằng trời đất.

Còn Chí-thành là mỗi việc đều lấy lòng thành thật mà đối-đãi trong đời và trong Đạo. Dầu kẻ phú quí bực nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.

Vậy nên thầy khuyên các con trước hết phải ở sao cho ra vẻ đạo-đức, đừng để ý gì việc công quả mà nêu danh nơi cõi tạm này.

Các con phải mở rộng tâm chí ra mà hành đạo mới nên cho chớ đừng mơ hồ rằøng: Đạo thành thì mình được làm một vị xứng đáng và đại ích trong đạo".

Tóm lại: Đức chí-thành là gốc của nền Đạo, tức là tánh mạng của Đạo vậy, cho nên trong bài kinh Niệm-Hương mở đầu có câu "Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp".

Đức chí-thành không cần tập luyện mới có, chỉ tại nơi tâm muốn cùng không muốn mà thôi.

08 - QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO
Giải nghĩa: Quốc thành hình qua nhiều thời gian, trên dưới ngàn năm trước Công-nguyên, chữ quốc là nước, được viết chữ khẩu giữa chữ nhị một giới hạn không gian (), trong giới-hạn đa có tồn tại con người (). Sau đó, khỏang trên dưới hai ngàn năm trước đây, chữ quốc được gắn thêm một phù hiệu nữa là qua () tượng-trưng cho dáo mác, vũ-khí lực-lượng võ-trang. Rồi đến khỏang 1.500 năm trước đây, chữ quốc được gắn thêm một phù hiệu nữa, bộ vi (), thành QUỐC , biểu thị sự cố định về cương-giới, sự hoàn chỉnh của một quốc-gia, sự gắn bó của tập thể người sống trong quốc-gia đó, sự toàn vẹn và bất khả xâm phạm của lãnh thổ đất nước.

Lý Thường-Kiệt đã nói “Nam-quốc san-hà Nam-Đế cư" Nghĩa là sông núi nước Nam phải do vua Nam cai-trị, để tỏ rõ khí khái của một anh hùng hào kiệt gánh trọn gánh đời.

Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo, người trao cái gánh đạo nặng oằn cho Đức Hộ-Pháp phải Qui nguyên tam giáo phục nhứt ngũ chi để tạo thành Quốc-Đạo đó là nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Trong bài thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 30-9-Đinh-Hợi Ngài nói rằng:
 “Hai chữ Quốc-Đạo lần đầu Đức Chí-Tôn viết ra làm cho Bần-Đạo mờ-mịt, cũng vì hai chữ Quốc-Đạo ấy mà Phạm-Công-Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.

“Ôi ! hai chữ Quốc-Đạo là một vật của Bần-đạo tìm-tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ-quốc, đeo-đuổi mất còn với cái muốn khát-khao từ buổi thanh-xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần-Đạo thấy sao mà phải thèm lạt, tại làm sao Chí-Tôn biết thiếu-thốn nơi tinh-thần điều ấy mà cho Bần-Đạo? Bần-Đạo ban sơ nghi-hoặc, có lẽ Đấng có quyền-năng thiêng-liêng biết tâm-lý đang nồng-nàn ao-ước, đương thèm lạt khao-khát, đương tìm-tàng mà đem ra cám-dỗ.

“Hại thay! Yếu-ớt đức-tin, ngày nay Bần-Đạo ăn-năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì? Cả thiên-hạ nói rằng nòi-giống Việt-Nam không có Đạo. Lạ-lùng thay! Chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng?

“Thật quả có chứ ! có nhiều Đạo quá mà thành ra không có Đạo: mượn Đạo, xin Đạo của thiên-hạ mà thôi”. (ĐHP:30-9-Tân-Hợi)

Đức Chí-Tôn lần này giáng trần lập Đạo, Ngài không giáng thân như bao lần trước mà Ngài sai Hộ-Pháp giáng sanh cùng với Thập-nhị Thời-quân đến, cốt yếu mở bí-pháp đặng vạn linh đoạt-vị .

Quyền-hành của Hộ-Pháp nắm cả ba châu là :
- Đông thắng Thần-châu.
- Tây ngưu hạ-châu .
- Nam-thiệm bộ châu .

Trong số bốn châu ở cõi thiêng-liêng, còn một châu là Bắc cù lưu châu giao cho Kim-Quan-sứ lãnh trách-nhiệm làm Giám-khảo kỳ này để khảo-duợt chư Chức-sắc Thiên-phong cho rõ giá vàng thau lẫn-lộn

Chính Đức Hộ-Pháp là người đã dày công với nền Đại-Đạo từ buổi khởi đoan cho đến giai-đọan kết thúc cuộc đời của Ngài, 35 năm vày-vã dựng xây từ tinh thần đến vật-chất, bao-nhiêu thành-quả mà ngày nay nhân-sanh đang hưởng nhờ bởi bàn tay của Ngài, thế mà đến lúc cỡi hạc qui Tiên vẫn còn nuối tiếc.

Lời lẽ gói tròn trong bài thài mà Ngài đã giáng điển linh ban cho, khi xác tục chưa vào chiếc liên-đài để lịm kín .
THI
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Nào hay vạn sự do thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống-chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi-vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn-pháp,
Tô-điểm non sông Đạo lẫn đời.

09 - CHI LAN NGỌC THỤ  
Giải nghĩa: sự tích ông Tạ-Yên đời Tấn, con em có tài rất nhiều, thường nói câu tử đệ như “chi lan ngọc thụ”, nghĩa là tài ba lỗi-lạc. Nếu là cây cỏ là loài cỏ quí hiếm cũng như nghĩa câu “cành vàng lá ngọc”. Bởi chi lan là nói đến cỏ chi cỏ lan là loài cỏ thơm, hương sắc hòa hợp nhau.

Đây chỉ gia-đình danh-giá, cha mẹ con cái đều là người có tài được nổi tiếng trong Đạo ngoài đời .

Lời bàn: Nay là buổi Cao-Đài Đại-Đạo tiếng “chi lan ngọc thụ” để chỉ người đạo đức, bậc nguyên-nhân mà Đức Chí Tôn đã chọn lựa làm lương-sanh để cứu vớt quần-sanh.

Thầy có cho bài thi:
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương.
Hiền ngõ rủi sanh thời bạo-ngược,
Dầu cho Thánh-đức cũng ra thường.

Thật sự nhờ có mối Đạo Trời khai mở kỳ ba để cứu thế và cứu khổ cho chúng-sanh, nên người hiền được thiêng-liêng đưa tay cứu vớt, nếu không thì dầu người hiền hay kẻ dữ cũng như nhau mà thôi; ngọc đá bất phân, vàng thau lẫn lộn.

Nay nhìn lại trong cửa Đạo Cao-đài phải kể đến gia-đình của Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang là một gia-đình xứng-đáng được hưởng danh-từ ấy:
- Ngài là người con út trong gia-đình là một Chức sắc Đại Thiên-phong Hiệp-Thiên-Đài. Là một trong ba vị tướng-sóai đầu tiên của Đức Chí-Tôn là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh; mà Ngài là Thượng-Sanh Cao Hoài-Sang.

Kế đến bà Giáo-sư Cao-Hương-Cường là người chị của Ông trong cơ-quan Cửu-Trùng-Đài.

Người Anh cả của Ông là Tiếp-Đạo Cao-Đức Trọng là một Thời-quân của Hiệp-Thiên-đài, bấy nhiêu đấy cũng đủ làm vẻ-vang cho gia-đình họ Cao.

Vinh-dự nhất là Bà Mẹ là một Nữ Chức-sắc Đại Thiên-phong đứng đầu Nữ-phái, là Bà Nữ Đầu-Sư Hồ Hương-Lự, thường gọi là Bà Bảy, bình-sanh Bà đã tỏ ra một con người bản-lĩnh, hào-hùng thật đáng để được lưu danh kim cổ.

Xem ra hầu như những điều hạnh-phúc trong cõi đời này đã dành riêng cho gia-đình của Bà Hồ-Hương-Lự vậy, nhưng sự ưu-đãi của Thượng-Đế có được bền vững chăng là công lao vun quén của đoàn hậu duệ nếu muốn mãi được là danh gia vọng tộc, bởi Thượng-Đế rất công bình “ai tu nấy đắc”, bằng không thì chỉ huởng được chút dư hương mà thôi !

Thầy đã có dạy chức sắc Hiệp-Thiên-Đài rằng:
 “Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo, Thầy cho các con biết trước rằng hễ trọng quyền thì trọng phạt”.

Trong ba vị Tướng-sóai của Thầy thì Đức Thượng-Sanh là người trẻ tuổi nhất và cũng ra đi sau cùng hơn hết, nhưng Bà Mẹ cũng phải chịu cảnh tre già khóc măng, bởi bà Mẹ sống rất thọ, Bà qui thiên lúc 95 tuổi, Bà phải tiễn từng người con ra đi!

Khi Đức Thượng-Sanh qui thiên, bổn Đạo cả nước đều thọ tang. Nơi Tây-Ninh Thánh-Địa là một rừng người chịu tang Ngài trong suốt thời-gian 9 ngày hành lễ theo Đạo táng. Ngài nhắm mắt qui thiên lúc 17g ngày 26-3-Tân-Hợi (21-4-1971) thì sau đó Hội-Thánh thiết đàn cơ tại Cung Đạo lúc 20g đêm 27-3-Tân-hợi
( dl 22-4-71). Ngài giáng cơ rằng:
 “Thượng-Sanh,
 “Chào mừng chư Chức-sắc Thiên-phong, đạo-hữu nam nữ, cái kiếp phù-sinh của con người chỉ có giải thóat được là quí hơn hết.
 “Hôm nay Bần-đạo đến để thỏa mãn sự yêu-cầu của quí vị .
 “Bần-đạo không có điều gì hay hơn là bài thi đã cho lúc Bần-đạo tái-thủ phận sự, nhưng xin sửa hai câu đầu như vầy:
 “Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
“Nguyện đem thi-thố tấm trung-kiên.
"Kỳ dư đều để y như cũ Bần-đạo còn rất nhiều Đạo-sự không tiện ở lâu .Xin kiếu. Thăng" .

Bài thài :
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
Nguyện đem thi-thố tấm trung-kiên.
Độ đời quyết lánh vòng danh-lợi,
Trau chí tìm roi bậc Thánh-hiền.
Từ-ái làm nền an thổ-võ,
Đức ân dụng phép tạo nhân-duyên.
Những mong huệ-trạch trên nhuần gội,
Sứ-mạng làm xong giữ trọn nguyền.

Đó là cuộc đời của những tâm-hồn lớn dám chết đời sống Đạo đáng lưu danh kim cổ.

10 - BẤT TRI KỲ DANH CƯỜNG DANH VIẾT ĐẠO
Giải nghĩa: không biết gọi là gì nên miễn cưỡng gọi là Đạo.
Lời bàn: Đạo vẫn một khí không hình, không ảnh, không tiếng, không hơi, nói rộng ra thì trên trời dưới đất, bao la vũ-trụ, san-hà, thấu đến ngoài càn-khôn thế-giái đều hiển-nhiên. Đạo có thể lưu-hành; nói gần lại thì một sợi tóc, một mảy lông ở người thì một hơi thở vô ra; loài cầm thú thì bò, bay, máy, cựa đều y-nguy đạo-lý. Đạo rất lớn, rất sâu, rất rộng mà cũng rất nông, rất kín, rất nhiệm, rất mầu, không chỗ nào mà không có Đạo, không sự gì không có Đạo, mà cũng chẳng thấy hình trạng Đạo ra thế nào! Có thể nói rằng ấy là một không-khí giữa trời đất, người đối với không-khí đó chẳng biết kêu là chi nên phải chế ra chữ Đạo mà nói cho nhơn-sanh dễ hiểu.

- Luận về Thiên-đạo thì ban ngày có mặt trời, ban đêm có mặt trăng và các vì tinh tú. Sao Cơ chủ gió, sao Tất chủ mưa, sao Vân-hán nắng hạn đều có phần hành riêng. Một năm chia ra làm bốn mùa:
- Mùa xuân thuộc Mộc bông hoa tươi-tốt.
- Mùa hạ thuộc Hỏa nóng-nực.
- Mùa thu thuộc Kim mát-mẻ.
- Mùa đông thuộc Thủy lạnh-lẽo.

Mỗi năm mỗi tuần-hoàn vận-chuyển. Cuối rốt rồi trở lại ban đầu, chứ thiên-đạo không hề sai!
- Lụận về địa-đạo: núi thì cao, sông thì sâu, biển thì rộng, chỗ đất bằng thì nhân-dân ở, cây cỏ chen lấn, châm rễ sanh chồi, thú vật sâu bọ đào hang khóet lỗ trên mặt đất tuy chưa ra đông, tây, nam, bắc bốn phương nhưng sản vật hình thể trên địa cầu này chỗ nào cũng đều y nhau như vậy, chứ địa-đạo không hề dời đổi.
- Phối hợp với trời đất là Người thì nhơn-đạo rất có qui-mô rõ-rệt, dễ hiểu.

Đứng làm trai ra gánh vác non sông là trách-nhiệm của quốc-dân phải giữ lòng chí chơn, chí chánh; Gái thì trọn nghì trinh-liệt; tam tùng tứ đức vẹn toàn, cũng như trai tam cang ngũ thường vậy.

Thầy có dạy:
Đạo là gì? Sao gọi Đạo?
“Đạo tức là con đường để cho Thần, Tiên, Thánh, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn-phẩm do theo mà lánh khỏi luân-hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

“Đạo nghĩa-lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền-bí khác cho đích-xác đặng.

“Đời cũng thế, Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên đời, đời Đạo chẳng trọn, lấy Đạo trau đời, mượn đời giồi đạo, Đạo nên đời rạng giũ áo phồn hoa nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc tự thanh-cao, nếm mùi tự-tọai, dưỡng chí thanh-nhàn còn có chi hơn ..
“Vậy là mầu, Vậy là trí” (TNII/bài 1- Bính-Dần-1926) .

Thầy cũng nhắc nhở cho nhân-sanh thấy cảnh trần sầu mà nong-nã, bởi ngày nay Đức Thượng-Đế đã đến với một tình yêu ái vô lượng vô biên; Đời có gì để ham, để luyến?

Chẳng qua nơi đây là trường oan-nghiệt làm nơi để tiến-hóa cho các cho các nguyên-nhân đến đây học hỏi hoặc làm thiên-mạng, khi xong nhiêm-vụ rồi tất cả đều phải trở về:

Vả lại Ông Thầy Trời đã ban cho dân-tộc Việt-Nam này một mối Đạo quí-hóa vô cùng:
 “Đạo đã lập thành, gót trần của phần nhiều Môn đệ hầu rửa sạch bợn, nhưng các con phải chịu lắm nỗi gay-go mà gieo mối chánh-truyền cho đoàn hậu tấn. Gương sáng đã giồi nên, mà con thuyền Bác-nhã phải tùy máy thiên-cơ, lắm phen lắc-lở đắm chìm biết bao khách. Ấy là những Môn-đệ vô phần, đã chẳng giữ nét thanh-cao lại mượn thói vạy tà để làm cho bợn nhơ mối Đạo quí báu của Thầy đã lấy đức háo-sanh mà khai hóa. Con đã để dạ ưu-tư về mối Đạo, đã lắm lần trêu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng, mong trau rạng mảnh gương để soi chung bước đường sau mà lần đến cảnh tự-tọai thung-dung tránh bớt muôn điều phiền-não. Ấy là Môn-đệ yêu dấu, khá gìn mực ấy mà đi cho cùng nẻo quanh co, cân công-quả sẽ vì phần phước mà định buổi chung qui cho mỗi đứa.

“Còn cuối kỳ tháng sáu đây thì Thầy phải ngưng hết cơ bút truyền Đạo. Các con sẽ lấy hết chí-thành đã un-đúc bấy lâu mà lần hồi lập cho hoàn-toàn mối Đạo. Nầy là mấy lời đinh-ninh sau rốt khá lưu tâm. Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ giữ nẻo thẳng đường ngay bước đến thang thiêng-liêng, chờ ngày hội-hiệp cùng Thầy. Ấy là điều quí báu đó!” (TN I/ 111) Thật là cao sâu lắm vậy:
Thi Văn dạy Đạo
Đạo cao thâm! Đạo cao thâm!
Cao bất cao, thâm bất thâm.
Cao khả xạ hề ! thâm khả điếu !
Cao thâm vạn sự tại nhân tâm.
11 - ĐẠO THƯỜNG VÔ VI NHI VÔ BẤT VI
Giải nghĩa: Đạo thường là Đạo của trời đất, không thấy làm mà làm tất cả gọi là thường Đạo.

Lời bàn: Đạo thường của trời đất ở trong muôn vật đều có. Lẽ thường là để tạo ra cái đức, cái đức tức là cái hình của Đạo. Cái đức thường của trời đất là gốc sanh ra vạn-vật, nhưng đều làm cho vật nào thành vật ấy và có thể tồn-tại đươc ở vũ-trụ nên nói cái đức là cái hình thể của Đạo, mà Đạo của trời đất là Đạo thường hay Đạo hằng để làm duy nhứt cái đức ấy.

Trời có các thiên tượng: mỗi ngày mặt trời mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây trong cái chu-kỳ 24 giờ đồng-hồ cứ đều-đặn từ ngày này đến ngày khác, tháng này đến tháng khác, cho đến thế-kỷ này qua thế-kỷ khác không đổi. Hỏi người cần biết để làm gì?

Tức là để sống cho đúng luật tạo-đoan của vũ-trụ; cũng như người lái xe trên đường phố cần biết luật đi đường; tôn trọng luật đi đường là để tự bảo-vệ cho mình và bảo-vệ cho người nơi công-cộng.

Người sống phải biết Đạo là sống theo thiên-lý lưu-hành để có cuộc sống vui và không bị luật đào thãi của vũ-trụ đồng thời để tiến-hóa.

Bởi:
Cơ sanh-hóa càn-khôn không ngoài luật định “thành, trụ, họai, không” tức là lập nên, tồn-tại, biến-chuyển, hư-hao rồi tiêu mất. Sự nói mất chớ thật ra chẳng phải mất đâu, nó chỉ là biến chất thay hình đổi dạng mà thôi. Tỉ như nước của con sông chảy ra biển cả tuy là thấy cùng một con sông chớ nước ngày hôm nay không phải là số nước của ngày hôm qua. Giờ này khác, giờ kế khác, vạn-vật chuyển biến, cả xác hài con người đang mang đây cũng vậy, nó cũng chuyển biến từng ngày, từng giây, từng phút. Tế-bào này tiêu-diệt để cho tế-bào kia tăng trưởng, nó luân-chuyển mãi ở nơi xác thân và thay đổi khí chất luôn tùy theo hành-động của mình mà có tăng hay có giảm. Tuy vậy mà số tăng nhiều hơn số giảm là vì nó là cơ tấn-hóa, nếu không có vậy thì là tiêu-diệt cả càn-khôn còn gì?

Luật tiến-hóa ấy là công-lệ hiển-nhiên của tạo-hóa. Phải tấn-hóa để các chơn-linh thấu đáo những điều mầu-nhiệm mà tạo-hóa sắp đặt sẵn trước ở cả càn-khôn vũ-trụ.

Tất cả để trước mắt những bài học hay, cái cảnh khổ chính là bài học tấn-hóa nhanh chóng nhất. Vì vậy những chơn-linh dám chịu khổ là những chơn-linh tấn-hóa mau hơn hết. Nhưng, thực sự cũng chẳng phải là “khổ”đâu! Ấy cũng chỉ là những bài học tắc cho những người muốn đi tắc. Phép học ấy tức là đi thẳng ngang đường kính của hình tròn chớ không phải đi quanh-quẩn theo vòng chu-vi. Nhưng nếu đi tắc thì chỉ biết phớt qua chớ không thật thấu hiểu, vì vậy mà dù cho những chơn-linh cao-trọng cũng phải giáng thế ở các nơi địa-cầu để học-hỏi từng phần vi-diệu mới mong đọat lý cao thâm. Bài học của họ nhanh chóng hơn những chơn-linh thường nên cũng mắc-mỏ hơn nhiều. Phải dùng tự lực để chống đối những lực-lượng có sẵn của thiên-nhiên, có thóat đi được thì mới tiến lên được. Nếu không thóat nỗi thì phải chịu cuốn xoay vòng theo lẽ dinh hư tiêu trưởng của tạo-hóa.

Đó, luật luân-hồi quả báo và phương tu đọat Đạo là vậy!

Thi văn dạy Đạo
Đường về muốn vẹn để công-trình,
Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
Xuân hé đã hay cơn ác lố,
Đông tàn khá biết lúc trời chinh.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
Hay chi thế tục chước cầu vinh.



12 - ĐẠO PHI THÁNH BẤT HOẰNG THÁNH PHI ĐẠO BẤT ĐẠI
Giải nghĩa: Nho-giáo muốn dạy rằng nếu có Đạo mà không có các Thánh để xiển dương đạo-pháp thì Đạo không mở-mang được; còn nếu có Thánh ra đời mà không gặp thời-kỳ Đạo khai thì các Thánh không phát-huy rộng lớn được.

Lời bàn: “Nay là thời-kỳ Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đại-Đạo ra đời các Thánh mới được lãnh chức Thiên-phong, mang áo mão ra vào điện Thánh chẳng khác chi những quan đại thần của bậc đế-vương, lại còn được đối phẩm với các Đấng nơi Thiêng liêng vị.

“Ra đối mặt với đời thì được các cấp, các bậc quan viên đối xử trọng hậu dân chúng kỉnh vì. Sanh đứng làm người gặp vận hội lập nên địa vị như thế thì tưởng chí bình sanh cũng phỉ tọai, không còn duyên may nào hơn được”. (Thượng-Sanh).

Đạo Cao-Đài ngày nay khác hẳn với các tôn-giáo từ trước tới giờ là ở chỗ Đạo nhập thế. Còn như Lão, Trang, Phật-đạo là đạo xuất thế.

Đạo xuất thế là tôn-chỉ của các Đạo này quan-niệm cho người tu lánh vòng thế tục, gác chuyện đời một bên để lo tu tâm dưỡng tánh, luyện thuốc trường sanh, lên non ẩn thân tu-luyện để thành Tiên tác Phật cầu mong sự giải-thóat cho riêng mình mặc cho tuồng đời thị phi tranh đấu.

Tại sao vậy? Bởi thời ấy con người còn nhiều Thánh-đức, cuộc sống không quá bon chen vật lộn như ngày nay, riêng người tu là đã chán bã lợi mồi danh khi bước đời đã trải, hình thức tu của các bậc ấy như người chơi hoa kiểng.

Còn nay, là buổi đời mạt pháp, cuộc tranh sống đã biến thành trường tranh-đấu gây nên chiến-tranh thảm khốc cả toàn cầu, kéo dài theo nạn thiên tai, động đất, cái khổ của nạn thủy, hỏa, phong làm cho đời lọan-lạc càng thêm náo-nhiệt. Ấy cũng vì lẽ vào nguơn hội cuối-cùng, tất cả đều phải chịu sự thanh-lọc của Thượng-Đế. Tuy nhiên lòng Trời vẫn còn thương xót sanh-linh, còn thấy có kẻ tu hiền nên không đành bôi xóa.

Đức Thượng-Đế mới ra tay cứu vớt bằng cách mở cơ tận độ tức là lập Tam-Kỳ Phổ-Độ là đại ân-xá lần ba để cứu vớt chúng sanh thóat vòng ly khổ, thế nên Đạo Cao-Đài vừa là cơ-quan cứu thế cũng là cơ-quan chuyển thế, người tu thời buổi này là tu nhập thế tức là phụng sự cho vạn linh sanh chúng, vì thương mình, thương đời mà tu, vì cảnh thương tâm chết chốc của sanh linh mà tu, có nhập thế mới giải nguy thế cuộc được.

            Thượng-Đế có dạy rằng:
Thầy ban Đại-Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong-ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn quả ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không.

Vì là Đạo nhập thế nên Đức Chí-Tôn mới lập thành Hội-Thánh để thay thân cho Ngài, làm hình ảnh cho Ngài để phụng-sự cho con cái của Ngài, tức là Ngài ban phẩm tước, địa vị đối phẩm với hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật để thi-hành sứ mạng thể thiên hành chánh.

Tuy nhiên, những phẩm tước này chỉ là một sự cho mượn mà thôi, khi nào hành xong phận sự được toàn vẹn thì về thiêng-liêng được đối phẩm với Cửu phẩm Thần Tiên do công qủa thực hiện trong kiếp sanh đã phụng-sự cho vạn linh sanh chúng, tức là sự hành đạo lập công, là một sự dâng công đổi vị vậy.

Do Đạo khai kỳ này là cơ Đại ân-xá nên chúng sanh mới hưởng được trọn ân phước ấy. Bởi Thầy có giải rõ:

“Hàng phẩm nhơn-tước đạo-đức các con nó trùng với hàng phẩm Thiên-tước của các con. Ngôi thứ Thầy đã sắp sẵn, các con ráng đọat thủ địa vị của mình. Trước qua sau tới liệu mà tu hành.

“Thầy khuyên một điều là đừng tưởng lầm tước phẩm Thiên-đạo thầy đem cho ai cũng đặng. Cửa Bạch-Ngọc-Kinh chẳng phải ai vô cũng đặng. Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên-thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.

“Nếu Thầy làm đặng vậy, Đạo phổ thông rất lẹ, ngặt gia tài mỗi đứa đều có phần, Thầy không phép lấy cho kẻ khác, trừ ra đứa nào chê bỏ thì mới đặng tùy ý Thầy định đọat mà thôi”.

Thi văn dạy Đạo
Ký thành một cuốn gọi Thiên-thơ,
Khai Đạo muôn năm trước định giờ.
May bước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướng phụng đến dương bờ.

13 - NHÂN NĂNG HOẰNG ĐẠO PHI ĐẠO HOẰNG NHÂN
Giải nghĩa: Đức Khổng-Tử nói là người có thể mở-mang cho Đạo rộng lớn chớ Đạo không thể mở rộng cho người được.

Lời bàn: Tại sao vậy? “Người thì có sự hiểu biết mà Đạo thì thể vô-vi, nhờ có sự hiểu biết cho nên người mới làm cho Đạo rộng lớn ra được. Bởi chưng Đạo là chỗ nương tựa của người, mà người là khí cụ của Đạo, cho nên Đạo và người không thể lìa bỏ nhau được. Người phải dụng tâm lực đem cái Đạo thể ở trong mình, mình làm cho sáng tỏ ra. Nếu người không dụng tâm lực, cứ muốn để cái Đạo tự nhiên làm cho mình lên đến chỗ cao-minh quảng-đại thì không bao giờ có được”

Nay là buổi Cao-Đài cứu thế, tức là một môi trường giáo hóa nhơn-sanh, Đức Thương-Đế có lập ra hai cơ quan hữu hình là:
1 - Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài để bảo thủ chơn-truyền do Hộ-Pháp chưởng-quản .
2 - Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn-sanh như một trường học có ba cấp: Thần-vị, Thánh-vị, Tiên-vị để cho nhơn-sanh học hỏi, lập công hầu đọat vị mà bước vào Cửu-phẩm Thần Tiên nhờ nương nơi quyền chưởng quản của Giáo-Tông.

Khi nào quyền hành của Hộ-Pháp và Giáo-Tông hiệp một ấy là quyền Chí-Tôn tại thế.
Do vậy mà Đức Hộ-Pháp có lời khuyên nhủ với Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài hãy làm sứ mạng:

“Các Bạn Hiệp-Thiên-Đài!
“Các Bạn đã có từ buổi ban sơ đến giờ! Đạo vừa mở là có các Bạn!

“Các Bạn đã chia sớt mọi điều từ trong cảnh khổ cho đến cảnh vinh-quang. Hôm nay không ai biết định hướng của Đạo hơn các Bạn. Khi nãy Tiếp-Đạo có nhắc lại Bần-Đạo đã hai phen xuất dương sang Âu và Á làm cho uy-tín của Đạo càng thêm cao-trọng.

“Các Bạn ôi ! chúng ta chỉ có hy-sinh một kiếp sống đặng làm con hạc vô tội, con hạc hòa-bình, biết đâu Đức Chí-Tôn cũng gọi là con bồ câu hòa-bình, nhưng không hòa-bình gì hết. Thân làm con hạc thiêng-liêng ấy buộc ta phải chở Đạo đi toàn khắp mặt địa cầu. Nếu một chủng tộc nào, một sắc dân nào ở nơi mặt địa cầu này chưa biết Đạo là cái lỗi do nơi ta đó vậy.

"Ấy vậy, cái phận-sự của ta tuy đã khổ não cực nhọc mà Bần-Đạo vẫn chưa thỏa nguyện về tinh-thần, sự cứu khổ an ủi thiên hạ đương nhiên bây giờ các Bạn đã thấy: nhơn-lọai đau khổ một cách quá quắt không thể tả đặng.
"- Đau khổ về xác thân
"- Đau khổ về tinh-thần

"Các Bạn đã nhờ Đức Chí-Tôn giao cơ cứu khổ ấy thì cần phải tìm phương giải khổ cho nhân-lọai. Thoảng như buổi ban sơ Bần-đạo không có lãnh trách vụ đặc biệt của Đạo thì các Bạn chắc cũng không để tâm cho lắm!

“Đến hôm nay dầu cho thân già này không còn năng lực họat động chịu cả khổ cực như trước nhưng vẫn cố gắng thì Bần-Đạo thấy hiển-nhiên rằng: trong Cửu nhị ức nguyên nhân họ không phải ở trong nước Việt-Nam mà thôi, ở các nơi trong các chủng tộc đều có họ.

“Tội nghiệp thay! Bóng Đạo vừa đi tới đâu, mặc dầu Thánh-thể Đức Chí-Tôn chưa có làm phận sự mà cả tinh-thần lẫn hình thể của họ đều sáng suốt chói-lọi vậy .

“Họ trông đợi bóng cờ cứu khổ của các Bạn lắm! Cố gắng thêm lên các Bạn.

"Vì trong đạo binh thiêng-liêng hộ giá Đức Chí-tôn từ khai thiên lập Đạo đến giờ, do theo Thánh-giáo Đức Chí-Tôn có nói: Bần-Đạo là Ngự-Mã-Thiên-Quân, phẩm tước, quyền hành cao trọng ấy phải thế nào? để dấu hỏi.

“Ta có thể đền đáp, có thể thay hình ảnh Đức Chí-Tôn đặng làm phận-sự của Ngài hay không? Hay một ngày kia khi trở về thiêng-liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài?

“Bần-Đạo nhất định một hơi thở cuối cùng dầu cho thế nào Bần-Đạo cũng quyết tùng mạng lịnh của Đại-Từ-Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ não.

“Tưởng khi các Bạn cũng đồng chí hướng với Bần-đạo đó vậy”. (ĐHP: 1-1-Ất Mùi)

Quả thật vậy! khi nắp liên-đài đã lịm kín mà hình bóng Đức Ngài cũng như Thập Nhị Thời Quân mãi phưởng phất hương thơ:
THI
Tướng sóai Thời Quân đã đạt thành,
Công trình lập Đạo sử nêu danh.
Ngàn năm để tiếng đời ca tụng,
Không hổ mặt mày với kiếp sanh.



14 - NHÂN TÂM SANH NHẤT NIỆM THIÊN ĐỊA TẤT GIAI TRI
Giải nghĩa: Trong lòng người vừa khởi sanh một niệm trời đất đều rõ biết.

Lời bàn: Chữ niệm họp bởi chữ nhơn và kế đến là nhị sau cùng là bộ tâm tức nhiên là bạn đồng sanh với nhau lòng ta luôn nghĩ đến gọi là niệm, nghĩa là nhắc nhớ hay tưởng nghĩ đến.

Về vấn đề tâm linh, tâm ta luôn gởi đến một Đấng cao cả đó là cha mẹ thiêng-liêng là Trời đất, bởi hai đấng này có đủ sức hộ trì ta, ban phước và tha tội cho ta, nên khi gặp điều khó-khăn ta nhớ ngay đến Đấng ấy đó là sự cầu-nguyện hoặc là “niệm danh Thầy”.

Đối với Đạo Cao-Đài sự cầu nguyện có giá trị như sau:

Sự cầu-nguyện có cảm ứng với chánh-trị thiêng liêng tức là các Đấng vô hình đều biết rõ mọi sự hành tàng nơi cõi thế .Triết lý về hình thể con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh họan hay xảy ra điều gì tai biến thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động, giựt thịt máy mắt hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác... đó là về phần Tinh Khí hình thức của con người .

Còn về phần linh tánh là do Đức Chí-Tôn ban cho nhất điểm lương tâm nó có cảm giác cùng Chí-linh, cho nên khi ta hữu sự thì Thành tâm cầu-nguyện. Nền Đạo là một điều cảm ứng rất mầu-nhiệm vô cùng .Có câu “nhơn tâm sanh nhất niệm thiên địa tất giai tri” là vậy .

Nay lại được lời dạy:
 “Đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo đó. Lời đạo-đức trong miệng con nói ra, ấy là lời của Thầy bố hóa tập trí con đặng đi truyền Đạo, tùy cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người. Chẳng luận là nam hay nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết Đạo-lý con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy, mới có thế tu-hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.

“Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy dầu cho đá, sắt, cây, cỏ, mà nghe đến Thánh-ngôn nơi Thầy mà con nói ra cũng hoan nghinh huống lựa là người, con nhớ và an lòng

“Thầy đã hằng ngày nói với con rằng: Muôn việc chi Thầy đã bố hóa vào lòng con. Như con tính điều chi, tức Thầy đã định rồi. Con không cần nặng lòng lo lắng. Đạo cốt để cho kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm Môn-đệ của “Tà thần tinh quái” thì không thế gì làm Môn-đệ Thầy đặng.” (TNI/9)

Ngày nay người tín hữu Cao-Đài tuyệt tin rằng Đấng Thượng-Đế đã đến với nhân lọai trong tình thương yêu tha thiết:
Ngài đã nghe, thấy, hiểu biết tất cả những hành vi cũng như những ước vọng của chúng sanh. Phương-ngôn Tây có câu :
 “Dieu voit tout, Dieu existe partout et à tout moment” nghĩa là Trời thấy cùng hết, ở đâu và giờ nào cũng có Trời tất cả.

Nên chi những việc mình làm dầu lành, dầu dữ, dầu trong chỗ tối hay chốn thanh thiên bạch nhựt không một mảy mún nào mà Trời không thấy; thậm chí đến tâm mình mà động thì Đấng Chí-Tôn đã hay, đã biết rồi. Vì sao vậy?

Vì rằng mỗi người đều thọ lãnh một điểm linh-quang của Ngài (chacun de nous est une parcelle divine). Cái điểm linh quang ấy của ta tiếp với khối linh quang của Ngài mà cảm ứng nhau (vibrer à l’unisson) như hai chỗ có điện thọai giao tiếp nhau vậy. Bởi cớ mà Ngài biết rõ việc mình đương tính.
Thi văn dạy Đạo
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết-Bàn.
Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc Cao ban.

15 - NGỌC TÀNG NHẤT ĐIỂM XUẤT VI CHÚA NHẬP VI VƯƠNG

Giải nghĩa: chữ NGỌC là dạng chữ VƯƠNG nhưng có thêm một chấm ở phần dưới, nếu nét chấm ấy đem đặt lên trên đầu của chữ, sẽ thành ra chữ CHỦ (chúa), họăc cho nó biến đi tức là hòa nhập vào bên trong thì thành ra chữ VƯƠNG.

Lời bàn:
● Câu này muốn ám chỉ rằng tất cả vật quí hiếm trong trời đất này đều nằm trong tay của vua chúa hoặc ở những người có thế lực, đây là vật-chất.

Nếu ở con người đạo-đức, lỗi-lạc thì đó cũng vẫn là kho báu vô giá. Nhưng kho báu này là tinh thần, là sự hiểu biết, là trí-tuệ.

● (đây là một lối chơi chữ, gọi là chiết tự, tức là phân tích chữ ra từng bộ phận nhỏ rồi ráp nối theo cách thức riêng để có một chữ mới mà ý-nghĩa vẫn cao siêu, xưa các nhà Nho thường dùng lối này để ngụ ý thấp cao, đó là dùng chữ Hán).

Còn giai thọai sau đây là chữ nôm cũng nhiều lý thú, xin dẫn chứng:
Vào thời Pháp đô-hộ Việt-Nam toàn dân đều phẫn-uất cái chế-độ lệ-thuộc ấy lắm. Có nhiều người Pháp rất rành tiếng Việt, khi viên Toàn-quyền Pháp tiếp xúc với Vua Việt-Nam có ra câu đối :
 “Rút ruột Vương tam phân thiên hạ”

Vua Việt-Nam liền đối ngay:
 “Chặt đầu Tây tứ hải thái-bình”
Tuy là câu đối nôm nhưng ý tứ cũng như chữ đối rất là chửng-chạc.

- Câu trên muốn lấy chữ VƯƠNG làm tiêu đề, nếu “rút ruột chữ vương” tức là bỏ nét sổ ở giữa đi thì thành ra chữ TAM mà tam là ba. Ngụ ý của người Pháp là muốn bỏ chế-độ vua chúa mà thôn tính trọn vẹn bản đồ Vịêt-Nam để thống lãnh cả ba miền Nam, Trung, Bắc.

- Câu dưới đối lại thì lấy chữ TÂY 西 làm dụng ý, bởi khi “chặt đầu Tây” rồi thì chữ Tây thành ra chữ TỨ mà Tứ là bốn, cho nên nếu mà nước Nam này đuổi được giặc Tây đi chắc chắn bốn biển sẽ thái-bình.

Người Việt-Nam vốn là dòng máu bất-khuất, không chịu nhượng bộ ai, cớ sao lại phải chịu nô-lệ Tàu hàng ngàn năm, nô lệ Tây trăm năm? Phải chăng Đức Thượng-Đế muốn trui rèn cái gan sắt đá cho được cứng bền mà đạo-đức, anh dũng mà đủ sức thương-yêu, để cho xứng với một quốc-gia Thiên-định chăng?

Thật ra thì người Việt-Nam cũng tự-hào rằng đất nước mình giàu đẹp, núi sông hùng vĩ, dân tộc hiền hòa; miền Bắc thì danh lam thắng cảnh hữu tình, miền Nam thì Sài-gòn vẫn nổi danh là “Hòn ngọc Viễn-Đông” bởi sự trù-phú của một thành phố giàu đẹp mà Thượng-Đế đã dành cho một địa lý thiên-nhiên vô cùng huyền-diệu đó là dãy Thất-sơn với Cửu-Long-giang chín khúc chính là “sơn tiền điểm long mạch” tạo thành nét chấm phá duyên dáng của một quốc gia thiên định, làm nên đất nước Việt Nam huyền-bí, chuẩn bị làm chủ tinh-thần của nhân lọai.

Nếu nhìn toàn dãy đất Việt-Nam giống như hình con rồng uốn khúc mà đất Bắc xưa kia đã một thời oanh liệt với kinh thành Thăng-long sáng chói, thời gian trôi qua chỉ còn lại hai tiếng “cố đô”, còn ghi lại nét DƯƠNG hùng tráng,

Đầu rồng tiến vào miền Trung, dựng nên kinh thành Huế, một thời vang danh họ Nguyễn; thời gian đã xóa nhòa hình bóng, cũng chỉ còn lại tiếng “cố đô Huế ” mà thôi, ghi thêm một nét DƯƠNG thứ nhì làm sáng danh lịch-sử .

Bấy giờ đầu rồng lại tiến vào Nam, Thượng-Đế đến lập cho một Thiên triều của đạo-pháp đó là Tòa-Thánh Tây-Ninh, làm toà ngự của Đức Thượng-Đế mở ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ làm khởi điểm văn-minh tinh thần của nhân-lọai, tức là thêm một điểm DƯƠNG để hoàn thành quẻ CÀN đã hiệp đủ TAM TÀI rồi vậy.

Lại nữa, dãy đất uốn quanh; bên này là đất liền hình ảnh của Thái-dương, bên kia là biển cả là Thái-âm, âm dương phân biệt. Thế rồi trong đất liền có biển (biển Hồ), là Thiếu âm, ngoài biển lại có đảo Hải-nam là Thiếu dương, như vậy từ nhị khí âm dương biến thành TỨ TƯỢNG. hình thành một THÁI-CỰC ĐỒ, giờ đây ranh giới giữa biển và đất liền như cái xương sống của rồng nối ba điểm DƯƠNG lại thành ra chữ VUƠNG , nhưng nơi đây như đã biết Tòa-Thánh là Bạch-Ngọc-Kinh tại thế nên đã đủ yếu tố đứng ra làm CHỦ một nền văn-minh tinh-thần của nhân-lọai, như Đức Chí-Tôn đã hứa :
Một nước nhỏ-nhoi trong vạn quốc,
Ngày sau làm CHỦ mới là kỳ.

Như vậy chữ CHỦ có 5 nét, nếu đứng về lý Ngũ-hành thuộc Thổ, thổ là màu vàng ở trung-ương, cho nên ngày nay Việt-Nam là mảnh đất địa linh nhân kiệt đứng vào trung tâm của địa-cầu 68 này .

Việt-Nam được là Thánh-Địa và làm Chủ của vạn quốc trong kỳ Thượng nguơn này là nhờ ba yếu tố

1 - Về mặt triết-lý văn-minh:
Nước Việt-Nam thọ ảnh-huởng của ba nền tôn-giáo: Thích, Đạo, Nho, từ Ấn-độ và Trung-Hoa truyền sang. Ba nền Tôn-giáo ấy đã được đồng thời phát-triển dưới thời nhà Lý và nhà Trần bằng sự bình-đẳng của ba nền Tôn-giáo nói trên .

Kịp đến khi văn-minh Âu Tây tràn vào thì Việt-Nam lại được hưởng thêm nền văn-minh Cơ-Đốc-Giáo nữa. Như vậy, Việt-Nam là mảnh đất gieo mầm móng Đạo-giáo từ lâu. Vả lại, Việt-Nam ít tạo oan báo nên nghiệp quả của nó cũng nhẹ-nhàng .

Việt-Nam có đủ điều-kiện để làm cơ qui nhứt toàn thế-giới vì lý do ấy.

2 - Về hình thể địa-lý thiên-nhiên:
Việt-nam có ảnh-hưởng to-tát và nằm vào vị-trí đặc biệt của Á-châu, mà Á-châu là châu lớn nhất thế-giới .Châu Á thuộc sắc da vàng theo lý Ngũ-hành thuộc Thổ, mà Thổ chính là trung-ương. Việt-Nam là cửa ngõ tiếp nạp các luồng tư-tưởng từ Đông sang Tây, cũng là cửa ngõ để phòng-vệ đất nước cho các giống dân miền Đông-Nam Châu Á .

3 - Về hình thể địa-lý huyền-bí:
Việt-Nam có con sông dài vào hàng bực nhứt thế-giới, phát-nguyên từ dãy núi cao nhứt thế-giới tất sẽ tạo nên linh-khí thiêng-lịêng. Linh-khí ấy tạo nên Long mạch Cửu-long và dãy Thất-sơn .

Nơi miền Nam là đất mới khai-khẩn nên những quả báo chưa gây nhiều, lại có luồng nước lạnh và luồng nước nóng từ các miền đại-dương hòa-hợp để tạo nên một khí hậu điều-hòa .

Tóm lại:
Việt-Nam có đủ điều-kiện THIÊN, ĐỊA, NHÂN, tức là Tam tài để đứng ra chủ-trương một mối Đại-Đạo. Tam tài tức ứng với lý Tam ngôi. Tam ngôi ba điểm đều vẹn thì là CHỦ thiên-hạ là lẽ thường nào có gì đâu khác Nhưng CHỦ đây là chủ về tinh-thần mà thôi .

Nay Đức Thượng-Đế đến ngự nơi đây để Tây-Ninh trở thành Thánh-Địa, Ngài ban cho Việt-Nam mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này :

“Ấy là sửa đời lập Tân-thế-giới (Être Nouvelle) của Đại-từ-Phụ đã tuyên ngôn từ buổi khai đạo”

Tức nhiên :
 “Thầy lập đạo kỳ này phù hợp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi nguơn tấn hóa đến địa-vị tối cao ,cho nên chủ nghĩa cựu luật của các Tôn-giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhân-lọai”.

16 - THƯỢNG HẠ NHỊ THIÊN XỬ ĐỊA HOÀN
VIỆT-NAM NHỨT QUỐC NHỨT GIANG SAN

Giải nghĩa: (đây là bài thơ của Đức Chí-Tôn ban cho Ngài Vĩnh-Thụy tức Bảo-Đại, Thầy bảo ông Lê văn Họach viết lại bằng Hán-văn trao cho Vĩnh-Thụy là vị Quốc-trưởng đương thời). Đại-ý nói rằng Bảo-Đại phải làm đúng vai trò của một vị Vua của một nước. (Hai câu thơ trên mở đầu cho bài thơ ấy) .

“Thượng hạ nhị thiên” tức là thiên thượng và thiên hạ; thiên thượng là trời thiên hạ là người .

“Xử địa hoàn” là làm cho hoàn-toàn, tức nhiên về mặt chữ nghĩa thì đây là chữ NHỊ Nhị là hai, nét nhứt ở trên là chỉ ông trời trên, nét nhứt ở dưới là chỉ ông trời dưới, ông trời dưới là đất. Con người đứng giữa khỏang trời đất ấy phải làm cho xứng phận, tức là thêm một nét giữa nữa là chỉ người, là vào hàng tam tài: thiên, địa, nhân. Đây cũng là quẻ CÀN nhưng muốn cho đúng Thánh-ý của Chí-Tôn là phải nối liền nét sổ nữa thì thành ra chữ VƯƠNG Vương là vua. Vậy vua phải làm sao?

“Việt-Nam nhứt quốc nhứt giang san” tức là một bản đồ trọn vẹn không bị chia phân. Xưa nay, chữ QUỐC được cấu tạo bằng chữ HOẶC đặt trong bộ VI Nhưng đối với một quốc gia thiên-định thì chữ QUỐC phải là chữ vương đặt trong bộ vi (chữ này ít khi được dùng) .

Lời bàn: khi một quốc gia, một lãnh thổ đã là thiên định thì nòi giống, dân tộc ấy cũng được thiên định, tức là được chọn lựa.

Hẳn nhiên nòi giống Việt-Nam, Đức Chí-Tôn đã chọn lựa làm sắc Tân-dân trong thời Thượng-nguơn Thánh đức,là một sắc dân thứ ba được hưởng hồng ân ấy.

Đức Chí-Tôn có nói rằng: “Lập một nước còn dễ hơn dạy một người dữ đặng hiền”.

Vì sự khó-khăn ấy cho nên Đức Chí-Tôn mới đã phải chuẩn bị dài thời gian như thế! Xem thế thì Việt-Nam tất nhiên đã đủ yếu tố tam tài thiên, địa, nhân, để đứng ra chủ trương một mối Đại-Đạo này vậy.

Đức Chí-Tôn đã đến lựa chọn sắc dân con cái của Ngài tức nhiên đem đến tạo dựng nơi mặt thế này. Hiện giờ có ba sắc dân được hưởng hồng ân đặc biệt của Đức Chí-Tôn đã đến tạo nghiệp cho họ.

Đức Hộ-Pháp nói:
- Sắc dân thứ nhất: là sắc dân Ấn-độ Brahma (kêu là Bà-la-môn) .Đức Chí-Tôn đến tạo Đạo cho họ và tạo đại-nghiệp thiêng-liêng cho sắc dân ấy trước nhất.
- Sắc dân thứ nhì: chính Ngài đến là Chúa Jésus Christ đặng tạo nghiệp cho sắc dân Do-thái mà ngày nay vẫn còn tại thế.

- Sắc dân thứ ba: thời kỳ này sắc dân Việt-Nam hưởng được đặc ân ấy là lần thứ ba, cái lý-do Đức Chí-Tôn đến cùng con cái của Ngài là vì đã qua thời kỳ hạ nguơn tam chuyển bắt đầu Thượng-nguơn tứ chuyển. Ngài đến đặng Ngài thống hợp toàn thể con cái của Ngài lại làm một. Ngài đến đặng lập một nền chơn-giáo, lựa chọn con cái của Ngài, tạo Thánh-thể của Ngài làm một cơ-quan cứu khổ và tạo đại nghiệp cho con cái của Ngài là mấy em thanh niên nam nữ của Đạo đó vậy.

“Ngộ-nghĩnh thay! một nền chơn giáo lấy hai chữ BÁC-ÁI, CÔNG-BÌNH làm căn bản mà cái tương lai nó rực rỡ làm sao mấy em ơi! Còn quyền thiêng-liêng của Đạo mấy em đã biết nó cũng như các nền Tôn-giáo khác, chớ có lạ chi đâu!

“Trái ngược lụng lại nếu Thánh-thể Chí-Tôn cầm quyền mà còn ỷ lại thì thiên hạ trông vào họ tránh hết. Qua nói thật, nếu mấy em thật hành đúng theo chơn giáo của Chí-Tôn thì không có quyền lực nào đàn áp đặng.

“Nếu muốn thi ân bố đức, thì phải cần làm cho đáng giá Thánh-thể của Ngài là cộng các con cái khổ não của Ngài đem vào chia cơm, chia muối, chia khổ não của họ, thì mới là xứng đáng Thánh-thể, mới xứng đáng là cơ-quan cứu khổ của Ngài .

“Mấy em khá nhớ mấy em là người PHỤNG-SỰ CHO ĐẠO mà thôi, không phải như các nền tôn-giáo khác là muốn làm Chúa thiên hạ, nếu muốn làm Chúa thiên hạ thì tốt hơn là làm tôi cho con cái Đức Chí-Tôn là phải hơn”.

Nguyên văn bài thơ như sau:
Thượng hạ nhị thiên xử địa-hoàn,
Việt-Nam nhứt quốc nhứt giang san.
Hoàng-đồ toàn bảo thiên-thơ định,
Đảnh tộ trường-lưu tổ nghiệp tồn.
Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo,
Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong.
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu-Thuấn,
Văn-hóa tương-lai lập Đại-Đồng.

17 -  TRUNG KHỔ HẢI ĐỘ THUYỀN BÁC NHÃ
Giải nghĩa: chúng sanh thời kỳ này đang chơi-vơi trong biển khổ, thế nên Đức Chí-Tôn mở Đạo tức nhiên là tạo chiếc thuyền Bác-nhã để đem ra cứu vớt toàn nhân-lọai trên mặt địa cầu này.

Lời bàn: giữa thời buổi này nhân-lọai quá đau khổ về mọi mặt: nào thiên tai, động đất, sóng thần, tai nạn, thù hằn chém giết nhau, dịch bệnh đủ thứ.

Biết trước ngày tận tàn của nhân lọai đến như vầy làm cho “Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày” nên Đức Chí-Tôn mở Đạo là để cứu vớt chúng sanh và tạo nền chơn giáo này cốt yếu là Ngài đến ký Hòa-ước với nhơn-sanh, tạo hạnh phúc cho nhơn sanh và làm cho thiên hạ hưởng đặng thái-bình nơi mặt địa cầu 68 này. Tức nhiên chúng ta dám quả quyết và để đức tin chắc chắn rằng thế nào cũng thành tựu. Kinh sách đã để lời rằng:

“Cuối thượng nguơn tam chuyển, bắt đầu Thượng nguơn tứ chuyển. Khởi đầu, thường thiên hạ phải nhập trường chung cuộc khảo thí, thi đậu thì ra khỏi cảnh đau thương thảm khổ này, nếu rớt thì ở lại làm Thần-thông-nhơn (Race lucide)".

Đức Hộ-Pháp cũng giải thích rằng:
Trường khảo thí này tức là “Đức Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là mở cơ-quan tận độ chúng sanh. Đức Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế: Mở cơ-quan tận độ chúng sanh tức là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục thiêng-liêng-vị nơi cảnh vô hình.

Mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các đẳng chơn hồn cần phải thi đặng đọat vị: thăng hay đọa.

Bởi thế nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy.

Đức Chí-Tôn cũng sai Hộ-Pháp tạo Bác-nhã-thuyền để đưa và rước vạn linh sanh chúng có ý-nghĩa về mặt thể pháp và bí pháp:
Đức Chí Tôn là Chúa tể càn khôn vũ-trụ, hóa sanh vạn vật, cầm quyền thiêng liêng cũng như hữu hình. Với lòng đại-từ đại-bi chẳng nỡ ngồi nhìn con cái của Ngài phải chịu trầm luân khổ hải, nên Ngài dụng bí-pháp định cho Tam-vị Thần xuống thế, tượng trưng bí pháp là Tổng lái, Tổng mũi, Tổng thương lái vững khuôn thuyền Bác-nhã để độ dẫn các chơn linh nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân và các chơn hồn tức là trong chúng sanh, dầu xiêu lạc nơi nào cũng tìm rước về hội ngộ cùng Thầy.

Trong thời kỳ hạ nguơn bước qua Thượng nguơn tứ chuyển là buổi ân xá kỳ ba, chính mình Đức Chí-Tôn là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế dùng huyền diệu cơ bút lập đạo Cao-Đài tại nước Việt-Nam, Qui Tam giáo hiệp Ngũ chi tạo đời Thánh-đức, dụng Nho-tông chuỵển thế với chủ nghĩa tận độ chúng sanh trên quả địa cầu 68 này qui hồi cựu vị, chẳng phân biệt giống nòi hay chủng tộc.

Như vậy,
Trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, dùng thuyền Bác-nhã với bí-pháp huyền-vi mầu-nhiệm thiêng-liêng là Đức Phật Di-Lạc Vương vâng lịnh Đức Chí-Tôn làm chủ thuyền Bác-nhã đặng khai Long-Hoa-Hội kỳ ba hay là:

“Tam hội Long-hoa Bạch Vương đại hội Di-Lạc Cổ-Phật Vương-Phật Chưởng giáo Thiên tôn” Đức Ngài chủ thuyền Bác nhã để rước các bậc nguyên nhân từ Thập-điện Diêm-cung, thất thập nhị địa giới hay là U-minh-giới đại-địa-ngục .

Đức Phật ngự nơi thuyền mà kêu gọi toàn linh căn chơn tánh cửu nhị ức nguyên nhân hãy mau tỉnh mộng về cửa này, nương nơi Bác nhã thuyền trở về Lôi-Âm-Tự, vào Bạch-Ngọc-Kinh mà hội ngộ cùng Thầy.

Nay hạ nguơn tam chuyển hầu mãn khởi Thựơng nguơn Tứ chuyển địa cầu chúng ta lạc hậu nhiều lắm vậy. Đã ba ngàn xa xuôi, đã thua Thủy đức, Kim đức và Mộc đức tinh quân. Người ta đã bảy chuyển, mình mới tới đệ tứ chuyển. Vì vậy nên Chí-Tôn mới mượn các đẳng chơn linh ở các địa cầu kia đến làm bạn với chúng ta. Không biết số bao nhiêu. Theo Phật pháp thì được:
- 24 chuyến thuyền Bác nhã chở họ đến,
- không chừng 100 ức nguyên nhân.

Phật Tổ độ được 6 ức, LãoTử độ 2 ức, còn lại 92 ức nguyên nhân đến hạ nguơn này chưa thóat khổ nên Chí-Tôn mới đến khai Đạo Cao-Đài .

Lý do nào có các con số trên?

Đạo là lý, nên phải suy từ lý, khởi đoan khi càn khôn định vị thì Đức Chí-Tôn giao quyền cho Phật-mẫu quản khí Hư vô, do đó mà nền Đại- Đạo có đủ âm dương để bảo tồn cơ sanh hóa.

Căn cứ theo bài kinh Di-Lạc chơn kinh, thì:
- Cung Hạo Nhiên là Phật.
- Hỗn nguơn là Pháp.
- Hư-vô là Tăng.

Vốn số Tam có đủ cơ năng phát sinh tiếng nổ, Đạo sanh từ Thái-cực. Đạo là tự hữu, Pháp là tự hữu, Tăng là hằng hữu .
- Chí-Tôn chủ ngũ khí.
- Phật-Mẫu chủ ngũ hành.
- Hộ-Pháp chủ ngũ lôi.

Khí ngũ hành phân hóa đụng với ngũ khí trong không gian phát tiếng nổ là chỗ Hộ-Pháp làm quân bình khí sanh quang cho vạn vật nơi cõi đất có sự sống. Do vậy:
- Chí-Tôn thành lập Bát-quái.
- Phật-Mẫu thành lập Bát cảnh cung.
- Từ đó mới biến tạo ra Bát phẩm chơn-hồn.

Chính 3 con số bát đó hiệp thành 24 (3x8). Đó là 24 ánh linh quang của ba ngôi.
Sau rồi Đức Chí-Tôn phân tánh để lập Đạo cứu đời.Từ nhứt kỳ độ được 6 ức nguyên nhân. Số 6 chỉ sự thành do thiên nhứt sanh thủy, địa lục thành chi.Vạn vật khởi đầu đều do nước, hóa trưởng cũng do nước. Nước là nguồn sanh lực đầu tiên để tạo nên nhứt điểm tinh của người ấy là Đạo sanh nhứt, thành ở lục là vậy.
Tiên độ 2 ức nguyên nhân. Với pháp tu chuyển Tinh hóa Khí thì trên nguyên lý về được cùng hai Đấng tạo đoan chỉ có chơn-thần và linh-hồn mà thôi, nên lấy lý tượng cho số :

Các nguyên nhân đã xuống trần phải chuyển hóa trong Bát phẩm chơn hồn.
Về được với Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu nhờ còn giữ Bát-bửu-nang (6+2=8) của Đức Mẹ giao cho khi xuống thế. Chừng về với pháp thân bằng thần của vạn linh kết thành. Còn 92 ức nguyên nhân là chỉ số lượng cho số cửu (9) là pháp định vị cho thuyết nhị nguyên về âm dương đó.

18 - ĐẠI ĐẠO TRI HÀNH THIÊN HẠ VI CÔNG
Giải nghĩa: đây là lời nói của Đức Tôn-Trung-Sơn, một nhà Đại Cách-mạng Trung-Hoa. Nghĩa là đối với một nền Đạo lớn khi đã hành động, đã hiện thực được thì thiên hạ đều nhìn nhận là một bậc công cán, ơn ích, của nhân lọai.

Lời bàn: Quả thật, cuộc đời Ngài đã thực hiện được lời ấy, qua 11 lần thất bại ông cũng chưa nản, một hôm ông nằm trong sân nhà nghỉ ngơi nhìn nhện chăng tơ, công việc nó nhanh nhẹn, nhưng vừa chăng xong thì con ruồi bay ngang làm đứt mối tơ, rồi tiếp tục làm lại đến lần thứ 13 mới hoàn thành, ông cười thầm, tự nhủ: ta đây mới thất bại chỉ 11 lần thôi!.

Năm 1894, Ông thành lập một tổ chức cách-mạng đầu tiên ở Trung-hoa lấy tên là Hưng-Trung-Hội, sau đó đổi thành Đồng-Minh-Hội, để mưu lật đổ chế-độ phong kiến của triều-đình Mãn-Thanh, ông nêu ra chủ-nghĩa Tam-dân làm cương lãnh chánh-trị, đó là:

1 - Dân-tộc, là nước Trung-hoa phải độc lập,
2 - Dân quyền, là nước Trung-hoa là nước dân-chủ
3 - Dân sanh, là người dân phải được sống bình đẳng trong xã-hội .

Tôn-Văn lãnh đạo cách-mạng khởi nghĩa nhiều lần nhưng đều thất bại ,ông phải trốn ra nước ngoài, sống lưu vong.

Năm 1911, cách-mạng Trung-Hoa thành-công, Tôn-Văn trở về nước thành lập chế-độ Cộng-Hòa và Ông được cử giữ chức lâm thời Đại Tổng-Thống .
Nước Trung-Hoa được đổi lại là Trung-Hoa Dân-Quốc.

Tôn-Văn đặt ra lá cờ “Thanh thiên bạch nhựt mãn địa hồng”, nghĩa là trời xanh, mặt trời trắng, đất đỏ màu.

Sau đó, Tôn-Văn nhường chức Đại Tổng-Thống cho Viên-Thế-Khải, một vị đại-thần triều-đình Mãn-Thanh đã hưởng-ứng theo cách-mạng.

Năm 1916, Viên-thế-Khải phản bội chế độ Cộng-Hòa và lập lên làm vua xưng Đế-hiệu tại Bắc-Kinh, trở lại chế-độ quân chủ.

Các Tướng lãnh quân đội, các Tỉnh-trưởng đều nổi lên phản-đối quyết liệt Viên-Thế-Khải u-uất mà chết .

Trong thời gian đó Tôn-Văn lãnh-đạo chánh-phủ quân-sự ở Quảng-Đông:
 (1917-1918) làm Tổng-Thống chánh-phủ Cộng Hòa. Ngài cải tổ Đồng-Minh-Hội thành Quốc-Dân-Đảng, đặt làm đảng cương, đặt làm quân đội để làm hậu-thuẫn hùng-mạnh cho đảng. Tôn-Văn phái Tưởng-Giới-Thạch sang Nga nghiên-cứu cách huấn luyện và tổ chức Hồng-quân Liên-Xô để về nước lập trường võ-bị Hoàng-Phố, gọi là trường Trung-Quốc Quốc-Dân Đảng Lục-Quân-Quan Học-Hiệu, cử Tưởng-Giới-Thạch làm Hiệu-trưởng.

Năm 1925, tại Bắc Trung-Hoa, Lưu-Vĩnh-Tường và Trương-Tác-Lâm đánh thắng được Ngô-Bội-Phu, buộc Tào Côn từ chức Tổng-Thống, rồi hai ông này hiệp cùng Đoàn Kỳ Thụy đánh điện mời Tôn-Văn lên Bắc-Kinh để bàn việc thống-nhất Nam Bắc.
Tôn-Văn lên Bắc-kinh, nhưng chẳng bao lâu sau thì bạo bịnh bất ngờ .

Mất ngày 12-3-1925 (18-2-Ất-Sửu) , thọ 60 tuổi. Ngài di chúc lại như sau :
- Đảng-viên quốc-dân-đảng phải nỗ lực cách mạng.
- Triệu tập quốc dân hội nghị
- Phế trừ các điều bất bình đẳng đối với ngọai bang
Cái chết đột ngột của Tôn-Văn là một thất bại lớn cho cao trào cách-mạng của Trung-Hoa .
Sau 14 năm làm cách mạng, kể từ năm 1911 đến năm ông mất 1925 .

Đức Tôn-Văn đã đạt được hai thắng lợi :
- Lật đổ được triều-đình Mãn-Thanh,
- Thành lập nước Trung-Hoa Dân-Quốc với chế-độ Dân-Chủ Cộng-Hòa.
Như trên đã nói, Đức Tôn-Văn danh hiệu là Tôn-Dật-Tiên là một nhà chánh-trị và cách-mạng lớn của Trung-Hoa, ngoài ra ông còn là một nhà tư-tưởng triết-học với tác-phẩm cơ bản triết-học là học thuyết của Tôn-Văn .

Khuynh hướng tư-tưởng của Tôn-Văn dựa vào thuyết tiến hóa của Darwin về vũ-trụ-quan, Tôn-Văn giải thích:
 “Thái-cực vận động sanh ra điện tử, điện tử ngưng kết lại thành nguyên tố, nguyên tố họp lại thành vật-chất, vật-chất tụ lại thành trái đất”. Ông cho tinh-thần chỉ là hiệu quả của vật-chất (duy vật) nhưng đồng thời nhấn mạnh ảnh hưởng của giáo dục tinh-thần .

Về quan hệ giữa Tri và Hành, ông chống lại tư-tưởng cổ đại Trung-quốc

“Biết không khó, làm mới khó”. Theo ông thì biết khó, làm dễ, chủ trương phải tìm tri thức khoa học, nhưng không đi đến quan niệm duy tâm “biết trước, làm sau” và bác bỏ thuyết “tri hành hợp nhứt” của Vương-Dương-Minh.

Ông chủ-trương: làm trước biết sau, không biết cũng có thể làm, cho sự hoạt động thực tiễn là con đường tiến bộ tất yếu. Ông chia quá trình nhận thức làm ba thời kỳ:
- Không biết cũng làm. Làm rồi mới biết. Biết rồi mới làm.

Phần lớn thời giờ của Tôn-Văn dành cho công cuộc cách-mạng, ông lại mất sớm và đột ngột nên ông chưa có thì giờ để xây dựng tư-tưởng triết học của ông được hoàn chỉnh.

Nay trong buổi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Tôn-Văn giáng cơ xưng là Trung-Sơn Chơn-Nhơn tức là đệ tử của Đức Trạng-Trình Nguyễn-Bĩnh-Khiêm là một trong ba vị Thánh gọi là TAM THÁNH có mặt trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này, ký Hòa-ước với Đức Chí-Tôn thực thi hai điều: BÁC-ÁI và CÔNG-BÌNH.

Ba vị Thánh-nhân đây là Thiên-sứ, đắc lịnh làm hướng-đạo cho nhân-lọai để thực hành ĐỆ TAM THIÊN NHƠN HÒA-ƯỚC.

Ấy Ngài cũng hoàn thành được tư-tưởng “Đại-Đạo tri hành thiên hạ vi công” vậy. Hỏi vì sao Đức Chí-Tôn lấy danh ĐẠI ĐẠO?

Thầy cắt nghĩa: “Thầy là các con, các con là Thầy". Có Thầy rồi mới có các con, mà có các con rồi mới có chư Phật, Tiên, thánh, Thần. Nên chi yếu điểm chữ ĐẠI là chữ NHƠN nhơn là người.

Bắt đầu viết chữ nhơn là phết một nét bên trái 丿ấy là chơn dương, kế một phết bên mặt ấy là chơn âm, thành thử con người là bán dương bán âm nên mới đứng vào hàng tam tài : Thiên, địa, nhân

Nhưng thử hỏi vì sao lại tạo ra chữ viết, tượng chữ nhân chỉ có “hai chân”? Ấy, muốn nhắc-nhở loài người phải luôn luôn biết mình vốn đã sinh ra từ trong cái “chân” chứ không phải “giả”. Thật vậy, trên thực-tế nếu người mà đi bằng “chân giả” thì khó-khăn và khổ sở đến dường nào. Như vậy, chắc-chắn rằng chúng ta phải đi bằng “hai chân thật” và giữ cho còn suốt quãng đường đời này.

Con người nếu biết tu-hành tức nhiên được đắc vào hàng Tiên, Phật, bởi nhơn cướp đặng chữ nhất là “nhân đắc nhứt” thành chữ đại Nhất là chi? Là cái tâm mật pháp, mật truyền của Đại-Đạo, có một không hai, thời là lớn; đã là lớn thì không vật gì lớn hơn nữa. Nó bao trùm hết cả vũ-trụ càn-khôn, ấy mới gọi là ĐẠI thì được vĩnh kiếp trường tồn, diên niên bất họai .

Còn chữ ĐẠO bắt đầu chấm hai điểm là âm dương nhị khí, kế dưới một nét ngang là âm dương hiệp nhứt, nên chi một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật, cùng quay về hiệp một. Kế dưới là chữ TỰ nghĩa là tự nhiên mà có, nên chi đạo dạy phải tự lập, tức là lo tu-hành để đạt được huyền bí đạo-mầu thì trí lự mới phát minh. Chữ Tự là tự tri, tự giác, chớ chẳng ai làm cho người khác gíac-ngộ giùm hay là minh huệ giùm được.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  9 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét