Tôi bảo kiết rằng: mấy anh em trên Toà Thánh Tây
ninh đều sẽ vui lòng mà đưa tay tiếp rước mấy anh em Hậu Giang cùng nhau tới
hiệp trùng phùng để những điều rắc rối đã xảy ra cho cơ khảo của tà thần sắp
đặt.
Sự hoà hiệp đó là một lễ hiến trang trọng hơn hết
cho Thầy. Xin anh và mấy anh em theo anh mau mau về hiệp mà dâng lên Đại Từ
Phụ, chung nhau trau dồi nền Đại Đạo lại
cho tỏ rạng mà phổ thông đến ngoại
bang". (*1)
(*1) Ban Đạo Sử:
Tài liệu lưu trữ
Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Tương và ông Lê Bá Trang
tách rời Toà Thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh đạo. Hội Thánh Tây Ninh ra
Đạo Nghị định số 17 ngày 28-7-1933 không nhìn hai ông nầy nữa vì Ban này canh
cải bầu chức sắc HTĐ và lập ra Tân pháp. Châu tri số 6 ngày 12-6-Ất Hợi
(12-7-1935) có ghi "Bần Đạo chưa hề đặng lịnh cơ bút của Đại Từ Phụ hay là
của Đức Lý định nhượng phẩm ấy cho người nào cả.
Sự hành động mê hoặc tín đồ của đạo hữu Thượng
Tương Thanh đều là giả dối, huống chi sự hám vọng của người đã nảy sanh ra từ
khi Đức Quyền Giáo Tông còn tại thế, chỉ cố xô ngã Thượng Trung Nhựt đặng tìm
phương tiếm vị.
Bần đạo chỉn nguyện cho Thượng Tương Thanh lấy thủ
đoạn thâu phục nhơn tâm sao cho đặng toàn hết thiên hạ, rồi Bần đạo sẽ đem áo
mão Giáo Tông ra quì trước cửa Toà Thánh đặng dâng cho người, rồi nhìn nhận
người, nâng đỡ người lên ngôi báu đặng làm chúa cả toàn sanh chúng.
Hại thay! Cái sở vọng ấy e không đắc nguyện đặng,
vì dưới mắt Bần đạo thấy, ba tay kiện tướng của người là ông Quí, ông Hậu, ông
Kinh cũng còn phản người rồi đó".
Rồi từ đó, sự phân chia ngày càng nhiều đến năm
1940 mới đủ 12 chi phái như dưới đây mà Toà Thánh Tây Ninh là nguồn cội và tổ
đình của nền Đại Đạo.
1) Minh Chơn Lý (1931-1935): đặt tại Cầu Vỹ
(Định Tường) do ông Nguyễn Văn Ca lập. Phái này hoạt động với sự cộng tác của
phái Cầu kho của ông Trần Đạo Quang gồm chư chức sắc và đạo hữu hai miền Tiền
Giang, Trung Giang và Hậu Giang như quí vị Lê Kim Tỵ, Nguyễn Văn Tòng, Nguyễn
Văn Thiệu, v.v...
Phái Minh Chơn Lý theo đuổi ba mục đích là chấn
chỉnh nền đạo lo phổ độ người vào cửa đạo và ra kinh sách khuyến thiện như kinh
Tu chơn thiệp quyết, Chánh giáo thánh truyền, Chánh tà yếu lý, Giác mê khải
ngộ. Các bài kinh nhật tụng bằng quốc ngữ: kinh xưng tụng Thầy, Mẹ, Tam giáo.
2) Ban Chỉnh Đạo được thành lập
vào khoảng năm 1933-1934 do 3 vị Thiên phong trước tu ở Toà Thánh Tây Ninh lập
nên quí ông Nguyễn Ngọc Tương, Lê Bá Trang và Nguyễn Văn Lai. Thánh Thất của
phái này đặt tại làng An Hội (thuộc Châu Thành - Kiến Hoà). Về sau gọi là Hội
Thánh Bến Tre mà ông Nguyễn Ngọc Tương là Giáo Tông. Ông Lê Bá Trang được thăng
lên chức Chưởng pháp.
Sau Tòa Thánh Tây Ninh, phái Bến Tre có đến mấy
trăm Thánh Thất mấy trăm ngàn tín hữu. Phái này hành đạo theo Tân luật, Pháp
Chánh Truyền và Thánh ngôn Hiệp tuyển như buổi ban sơ. Ông Tương nhập tịnh năm
1942 và qui vị năm 1951.
3) Tiên Thiên do Giáo Hữu
Thượng Chín Thanh lập nên. Từ ngày khai Đạo, ông đã theo học Đạo tại Toà Thánh
Tây Ninh. Sau ông lập đồng tử riêng để cầu cơ nên phải ra khỏi Thánh Địa. Ông
về quê nhà làng Phước Mỹ Tây, quận Cái Bè (Định Tường) lập ra phái Tiên Thiên.
Ông hành đạo theo lối riêng của ông.
Vào khoảng năm 1932-1933 một số chức sắc Minh Chơn
lý thích nghe thiên cơ nên gia nhập vào phái Tiên Thiên như quí vị Lê Kim Tỵ,
Nguyễn Văn Tòng, v.v... Phái này lập Thất thập nhị tịnh và ấn tống nhiều kinh
sách như: Tiếng trống giác mê, Minh giáo thánh truyền, Thi văn diệu lý, Ngọc
minh kinh, Diệu minh kinh, Bát bộ chơn kinh, Thánh đức chơn kinh.
Cơ bút phái Tiên Thiên phong cho ông Chín làm Ngọc
Chưởng Pháp và chỉ định Vĩnh Nguyên Tự làm hội quán Hiệp Thiên Đài dưới quyền
chưởng quản của ông Ngọc Lịch Nguyệt, 72 Thánh tịnh được xây dựng nhiều nơi.
Phái này chỉ phục sức toàn trắng.
4) Thông Thiên Đài do quí ông Nguyễn
Văn Nhã (bác sĩ), Lê Quang Hộ (đốc phủ) và Quách Văn Nghĩa (Đại điền chủ) lập
nên. Ngoài ba vị ấy, còn có chín vị khác như ông Huệ Chương (ông Thân), Ngươn
Ngọc (ông Đức), Cẩm Đình, Quảng Vân, v.v...
Phái Thông Thiên Đài có liên lạc với Đức Phạm Hộ
Pháp nhưng không chịu về Toà Thánh. Thánh Thất phái này đặt tại Đông Sơn, tổng
Hoà đồng thượng (tỉnh Gò Công).
5) Liên Hoà Tông Phái hay Liên Hoà Tổng Hội đặt tại Thánh Thất Cầu Kho (Sài
gòn) do ông Nguyễn Phan Long và ông Trần Văn Quế lập nên. Vì nhận thấy, năm
1935 sự chia rẻ chi phái làm tổn thương quá nhiều uy tín của nền Đạo, nên phái
này lập ra để liên hoà.
6) Minh Chơn Đạo hay Cộng Đồng
Hội Giáo đặt tại Giồng Bướm, quận Phước Long (Bạc Liêu), tên gọi là Toà Thánh Ngọc
Minh hay là Toà Thánh Hậu Giang. Phái này do 3 vị Đại Thiên phong của phái Minh
Chơn Lý chủ trì là quí ông Trần Đạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn Văn Thiệu.
Ông Phát thọ phong Thái Chưởng Pháp. Sau Toà Thánh Tây Ninh, phái Minh Chơn Lý,
Ban Chỉnh Đạo, phái Tiên Thiên, phái Minh Chơn Đạo có một số Thánh Thất và
nhiều đạo hữu rải rác khắp các tỉnh miền Hậu Giang. Phái này hành y theo Tân
luật, Pháp Chánh Truyền lo việc phổ độ nhơn sanh. Nhưng về sau, chuyển hướng
thờ trái tim và Thập Ngũ linh đăng.
7) Trung Hoà Học Phái hay Nữ
Trung Hoà chỉ là một (*1) do quí công Phan Trường Mạnh, Trương Kế An tổ chức có tính
cách thanh niên. Chú trọng vào sự học tập, hành Đạo hơn là một chi phái có
nhiệm vụ hành chánh và phổ độ. Ông An sau về Tòa Thánh Tây Ninh thọ phong Bảo Y
Quân (1972)
Trung Hoà Học Phái đặt tại Thánh Thất Minh Đức
(Kiên Giang) do bà Nữ Đầu Sư Ngọc Nhiên Hương Chưởng quản. Hiện nay đặt tại Sài
gòn.
(*1) Trong Histoire et Philosophie du
Caosaisme của Gabriel Gobron ghi là hai phái.
8) Tây Tông Vô Cực do ông Nguyễn Bửu Tài lập nên trụ sở đặt tại Thánh Tịnh Tây Tông Vô Cực
Cung ở làng Chẹt Sây (Kiến Hoà).
Phái này cũng như phái Tiên Thiên gồm các bậc chơn tu, trường trai,
tuyệt dục, ly gia, cắt ái, chuyên luyện kim đơn theo lối xưa.
Sở dĩ gọi là Tây Tông để đối lại phái Đông Tông của
ông Ngô Văn Chiêu từ Phú Quốc dời về Sài gòn (phía đông Nam phần).
9) Tuyệt Cốc do hai ông Nhuận và Ruộng
(Nguyễn Ngọc Điền) trước làm công quả tại Toà Thánh vì bất mãn điều chi đó kéo
thêm một số người xuống tóc, mặc áo dài tuyệt cốc (không ăn ngũ cốc) rồi cùng
nhau vào đại điện của Đền Thánh (Tây Ninh) lên ngồi trên bảy cái ngai trước Bát
Quái Đài (tức 1 ngai Giáo Tông, 3 ngai Chưởng pháp và 3 ngai Đầu Sư) (*2)
Vì thế họ bị trục xuất ra khỏi Toà Thánh. Họ tức lý
làm những điều xằng bậy mang tai tiếng, nhất là đối với chính quyền Pháp. Thật
ra là một nhóm người làm loạn chớ không hội đủ điều kiện thành một chi phái
trong Đại Đạo. Vì một chi phái phải có chức sắc, Thánh Thất, hành đạo và truyền
đạo.
(*2) Hoài Nhân,
bốn mươi năm lịch sử đạo Cao Đài (1926-1966) Biên Hoà 1966.
10) Chiếu Minh do ông Ngô Văn
Chiêu, sau khi tách rời khỏi cơ phổ độ về lập ở Cần Thơ. Sau gọi là Chiếu Minh
vô vi vì chủ trương tu đơn và phân thành Chiếu Minh Long Châu, Cao Đài Thượng
Đế hội giáo hay là Chiếu Minh đàn. (*1)
(*1) Việc trần
thiết Thiên bàn của phái Chiếu Minh khác bên phổ độ, trên thờ Thiên Nhãn, dưới
có tam bửu nhang đèn, thêm hình ngài Ngô
11) Cầu Kho thành lập năm 1930 đặt
tại Thánh Thất Cầu Kho (Sài gòn) nhà ông Đoàn Văn Bản (nay đổi tên là Nam Thành
Thánh Thất, đường Nguyễn Cư Trinh, Sài gòn). Đây là trung tâm tu học, thuyết
pháp ra sách, báo chí, phổ độ nhơn sanh.
Lãnh đạo phái này có quí ông Đoàn Văn Bản, Vương
Quan Kỳ, Võ Văn Tường, Trần Quang Minh, Huỳnh Trung Tuất, Nguyễn Phát Trước (tự
Tư Mắc ). Sau thêm quí ông Lương Văn Bồi, Phan Trường Mạnh, Trần Văn Quế,
Nguyễn Văn Phùng....
Một số quí vị Thời quân Hiệp Thiên Đài Toà Thánh
Tây Ninh cũng có đến đây hội đàm Đạo sự như Nguyễn Bảo Pháp, Lê Bảo Thế, v.v...
12) Cơ quan truyền giáo Trung Việt là biến thể phái
Tiên Thiên tại vùng Đà Nẵng, Thánh Thất Trung Thành đặt ngoài vùng ngoại ô thị
xã này.
Sau khi Hiệp định Gènève (1954), chư tín hữu các
nơi họp lại quyết định đưa cơ quan Truyền Giáo lên hàng Hội Thánh. Năm 1956 sau
khi xây cất xong Trung Hưng Bửu toà Hội Thánh truyền giáo tổ chức khánh thành
có nhiều chi phái đến dự.
Thật ra, ngày nay số Thánh Thất tự trị lập nên
nhiều, lắm nơi lớn mạnh. Trong khi 12 chi phái vừa kể có một số không còn dấu
vết gì. Các phái đáng kể ngoài 12 phái trên là:
1) Bạch Y Chơn Lý do quí ông Nguyễn
Văn Tòng, Tô Bửu Tài lập thành Thánh Thất tại Mông Thọ (Kiên Giang ) gọi là Hội
Thánh Bạch Y chuyên lo phổ độ chúng sanh, củng cố nội bộ theo Tân luật, Pháp
Chánh Truyền, nhưng chỉ vận toàn đồ trắng.
2) Tam Kỳ Nguyên Bản lập nên do Ngũ vị
Thiên sư của phái Minh Chơn Lý tách ra do nhóm quí ông Nguyễn Văn Kiên, Nguyễn
Văn Phấn và nhiều vị nữa. Phái này đã đi đến chỗ siêu hình siêu tướng về cách
thờ phượng, trên Thiên bàn không có hình tượng dấu hiệu gì cả.
Thánh Thất đặt tại Tiên an với lối kiến trúc đặc
biệt, số tín đồ ít.
3) Toà Thánh Nhị Giang đặt tại Châu đốc
(An Giang) Toà Thánh này thi hành theo Tân luật và Pháp Chánh Truyền cũng có
Hội Thánh lưỡng đài.
4) Toà Thánh Tiền Giang đặt tại Thánh
Tịnh Minh Kiến Đài thuộc làng Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp (Gia Định).
5) Việc hiệp nhất các phái đạo
Vào khoảng 1945-1946 quí ông Nguyễn Hữu Đắc, Lê Kim
Tỵ lập cơ quan "Cao Đài Hiệp Nhất" để qui hiệp các chi phái. Sau Cựu
Quốc trưởng Phan Khắc Sửu lập "Cao Đài Thống Nhất" cũng để qui tụ các
chi phái, nhưng vẫn không thành.
Vào ngày 15 tháng 6 năm Giáp Thìn (1964) một phiên
nhóm của các Đại diện Hội Thánh các chi phái đạo Cao Đài tại Tam giáo điện Minh
Tân (Sài gòn) gồm có Đại diện 7 Hội Thánh và Đại diện 9 cơ quan Đạo, mục đích
tìm phương pháp qui hiệp thống nhất các chi phái Cao Đài về Toà Thánh Tây Ninh.
Toàn hội giao cho ông Phan Khắc Sửu chủ toạ phiên họp.
Toàn hội quyết định thành lập ban vận động lấy hiệu
là "Tổng hợp chi phái Cao Đài" tạm thời uỷ quyền cho ông Trần Văn Quế
lãnh tiếp xúc với các Hội Thánh.
Đại hội Tổng hợp chi phái Cao Đài họp ngày
23-8-1964 (16-7-Giáp Thìn) tại Thánh Thất Nam Thành gồm có 7 đại diện Hội
Thánh. Sau khi bàn giải, thành lập Ban Chấp hành lâm thời với danh hiệu
"Ban Vận động Tổng hợp chi phái Cao Đài".
Vị tổng thơ ký là ông Trần Văn Quế (*1) đại diện
Hội Thánh Truyền giáo. Những chức vụ khác chia cho các chi phái sau đây: Hội
Thánh Nhị giang, Toà Thánh Tây Ninh, Bạch Y liên đoàn, Cộng Đồng Hội giáo,
v.v... Về sau ông Trần Văn Quế có hướng dẫn phái đoàn về Toà Thánh Tây Ninh để
thống nhất nhưng bất thành vì còn ý kiến dị đồng.
Việc phân chia chi phái có cái lợi là chia vùng ảnh
hưởng để phổ biến Đạo Trời. Dựa vào xu hướng và trình độ của nhân sanh mà giáo
hoá. Đó là nguyên tắc hoá dân từ xưa của chư Tiên Phật.
Trong hoàn cảnh chiến tranh lệ thuộc, sự phân chia
khiến cho nhà cầm quyền bớt dòm ngó, không làm hại các bậc chân tu. Nhiều chi
phái bày trò âm thinh sắc tướng, Nhà cầm quyền cho đó là các trò hí cuộc không
đáng quan tâm.
Vì không tập hợp nên chính phủ có đóng chi này thì
chi kia vẫn sống mà phổ thông giáo lý giúp cho ngọn cờ cứu khổ của Cao Đài Giáo
lúc nào cũng bay phất phới.
Nhưng việc phân chia cũng là một mối tai hại vì
"Chung nhau thì giàu mà chia nhau thì khó" Một chi không làm nên việc
vĩ đại chưa kể đến mỗi phái hành đạo một cách khác làm cho người đời đàm tiếu.
(*1) Ông Trần
Văn Quế thọ phẩm Giáo Sư tại Toà Thánh, có chân trong Khảo Cứu vụ (1948).
5 .
Kết quả việc phổ độ dưới thời Quyền Giáo Tông:
Để qua một bên những tranh chấp nội bộ, trong thời
gian 9 năm (1926-1934) thời Đức Q. Giáo Tông cầm quyền mối Đạo, Đạo Cao Đài có
trên triệu tín đồ, quá đông so với quá trình truyền giáo của các tôn giáo khác.
Sở dĩ Đạo phát triển nhanh như vậy là nhờ sự hợp
thời, hợp tình và hợp cảnh.
Hợp thời vì dân Việt Nam trong thời đại khoa học
này đòi hỏi một tôn giáo mới, có tính cách rộng rãi, đại đồng và dân chủ.
"Giới trí thức hiểu rằng phải thay thế Nho giáo bằng một ý thức tiến
bộ" (*1). Nhưng ý thức hệ dân tộc không phải là một ý thức hệ hoàn toàn
vay mượn của ngoại lai. Nó càng không thể do sự khảo cứu sách vở để kết tinh
được, mà cốt yếu, trước hết vẫn phải nhờ ở mình sẵn có nền móng truyền thống
làm nền tảng cho sự thâu hoá, rồi bồi bổ thêm phần phong phú. Dù sao cái ý thức
hệ dân tộc phải tìm lại trong ý thức tập thể, trong cái tiềm thức truyền thống
của dân tộc, phải cảm thông với cái hồn chung trong hiện tại cũng như trong quá
khứ (*2).
(*1) NGUYỄN THẾ
ANH, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Sài gòn 1970, trang 285.
(*2) NGUYỄN ĐĂNG
THỤC, Giáo lý Cao Đài với ý thức hệ dân tộc Sài gòn Tuần báo Nhân Sinh
(4-7-1964), trang 3.
Hợp tình vì sinh môi Việt Nam thích hợp với bất cứ
tôn giáo nào, chưa kể đến những tín ngưỡng nhân gian. Bởi lẽ truyền thống dân
tộc Việt Nam, nhất là miền Nam khí hậu điều hoà, đất đai phì nhiêu, việc mưu
sinh dễ dàng nên nhân gian được nhàn hạ. Họ có nhiều thì giờ suy tưởng những
hiện tượng mầu nhiệm của Tạo Hoá và suy nghĩ về lẽ huyền vi của vũ trụ mà thâm
nhiễm Đạo giáo.
Hợp cảnh vì sinh cảnh Việt Nam từ lâu ung đúc học
thuyết Tam giáo đồng nguyên làm chủ đạo cho tinh thần dân tộc. Kịp đến khi
Thiên Chúa giáo truyền sang nước ta, tất cả đã dung hoà và biến thái thành hồn
tính chung của dân tộc.
Đến nỗi trong mỗi con người Việt Nam, người ta
không còn có thể phân biệt đâu là cá tính Khổng giáo, đâu là cá tính Phật giáo.
Thuyền Đạo đã lướt trên phong ba bão tố, phải tránh
những tảng đá ngầm và những ghềnh thác. Các nhà tiền khai Đại Đạo đã lao tâm,
lao lực và nhận cả oan khiên vào mình rồi nằm xuống để thuyền Đạo vượt lên.
Những gương hy sinh cao cả của chức sắc và chư đạo hữu không ngần nào đếm hết.
Về giáo lý vẫn còn trong tình trạng hồng mông. Vì
thế mỗi người giải thích theo hiểu biết riêng mình nên xảy ra lắm điều rắc rối.
Đức Chí Tôn ban cho sắc dân thuộc địa mão áo thiên phục quá rộng so với tài
năng của họ. Là người phàm bỗng nhiên cơ bút phong cho họ làm ông Thánh, ông
Tiên.... Trong khi họ chưa kịp trau giồi để trở thành các bậc Thánh thiện đó.
Thế nên sự tranh giành đố kỵ xảy ra là việc đương nhiên vì họ không xuất thân
từ dòng tu nào. Song mọi việc đâu qua luật Thiên điều. Mọi hành động của con
người đều có sức mạnh của Thiêng Liêng lèo lái bên trong để tiến gần chân thiện
mỹ. Nhờ đó nền Đạo sống còn và hoằng khai.
Về tôn chỉ giáo điều hiện lên trước mắt mọi người.
Khi bước vào Đền thánh thấy ngay bức họa Tam Thánh Ký đệ tam hòa ước: Thiên
Thượng, Thiên Hạ (Dieu et Humanité ) mà nội dung là Bác Ái, Công Bình (Amour et
Justice) thực hiện được hoà ước đó thì Đại Đồng Nhân Loại.(*1)
Ba vị thánh ba sắc dân: Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Việt Nam ), Victor Hugo (Pháp), Tôn Dật Tiên
(Trung Hoa) cùng hợp sức nhau xây dựng chánh giáo chứng tỏ Đạo Cao Đài không kỳ
thị chủng tộc vì coi mọi sắc dân đều có đấng cha chung là Đức Chí Tôn.
Ba vị Thánh ba tôn giáo: Thanh Sơn Đạo sĩ (Tiên
giáo), Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Thánh giáo) và Tôn Trung Sơn (Phật giáo - xin xem
Tam Thánh Bạch Vân Động ) tượng trưng cho vạn giáo điều đó chứng tỏ Đạo Cao Đài
rộng mở, không kỳ thị tôn giáo.(*2)
(*1) Tiểu sử Đức
Quyền Giáo Tông, Tây Ninh 1973, tr 96. PH DEVILLERS. Histoire du Việt nam.
Paris 1952 tr 68
Nguyễn Trần Huân
sđd tr.211, cho rằng năm 1936 Cao Đài có 300 ngàn tín đồ
(*2) NGUYỄN VỸ,
Tuấn chàng trai nước Việt (quyển II), Sài gòn 1969, tr.364
Nước ta trong thời đại Lý Trần thì Tam giáo là Quốc
Đạo mà Đạo Cao Đài qui Tam giáo. Vậy Đạo Cao Đài quốc Đạo là một lý đương
nhiên. Đức Chí Tôn đã dạy:
Nam
Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ
quyền Chơn Đạo một mình ta.
Đạo Cao Đài với sự cứu rỗi miên viễn và vĩnh hằng,
nên những cơn khảo đạo chẳng qua là những tảng đá ngầm phải vượt qua. Người đời
dù nghi ngờ sự qui nhứt của Đạo Cao Đài. Họ bảo không thể nào đem các vị giáo
chủ khác nhau ngồi trên cùng thiên bàn. Họ đọc kinh sách đạo Cao Đài cho là
những mảnh vụn ghép lại (*1), nghi ngờ để đạt chân lý ấy ai sẽ tìm? Đạo của
Thiên Thượng thì Thiên hạ phải tìm! Tín hữu Cao Đài cũng chỉ là một người.
Trong phút giây nào đó, họ cảm nhận sự huyền nhiệm của Đấng cao cả mà theo đạo
dù họ chưa nắm vững triết lý sâu xa của nền đạo mới.
Tam Tạng kinh điển của Phật giáo, thật ra trải qua
một thời gian rất dài người ta mới hệ thống hoá được. Khởi đầu chỉ có Kinh
tạng, Luật tạng và 400 năm sau Đức Phật Tổ viên tịch mới có Luận tạng. Đạo Cao
Đài khai sanh, chưa tròn giáp. Ngay buổi đầu đạo cũng có Kinh tạng, Luật tạng đủ
cho những tín hữu tu theo trung hạ thừa. Còn Luận tạng, triết lý sâu xa chưa hệ
thống hoá đang chờ những bậc hiền triết thông kim bác cổ lý giải vì hiện Đạo
Cao Đài còn trong vòng sàng sãi của luật Tạo Đoan. Nhưng tôn chỉ, mục đích giáo
thuyết đã ban ra, người tín đồ nào cũng có đức tín mãnh liệt là đạo sẽ miên
trường tới "thất ức miên" và ngẩng cao đầu kệ rằng:
Một
nước nhỏ nhoi trong vạn quốc,
Mai
sau làm chủ mới là kỳ.
(*1) KIM ĐỊNH,
Căn bản triết lý văn hoá VN. Sài gòn 1967, tr. 70
CHƯƠNG
III
ĐỨC QUYỀN
GIAO TÔNG ĐĂNG TIÊN
1 . Từ một tiền đề:
Người đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn
Chiêu đạo hiệu là Minh Chiêu. Trong đàn cơ 14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến
phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng:
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu
nó sắm liền một bộ Thiên phục màu trắng, có các quẻ của bát quái y theo Thầy
vẽ, thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
Vốn là "Chiêu minh linh giác" (ngộ đạo
thấy rõ), Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo
tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh
Truyền, toàn đạo mới biết: "Bộ đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu
bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long
Tu phiến, Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng bát quái"
(*1)
(*1) Ban Đạo Sử:
Tài liệu lưu trữ.
Như vậy, Ngài Ngô kiên định lập trường CHƠN TRUYỀN
VÔ VI mà Đức Cao Đài đã dạy. Thế mà có người truy phong Ngài Ngô là đệ nhứt
Giáo Tông, Ngài Lê Văn Trung là đệ nhị Giáo Tông, kế đến Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương, Nguyễn Bửu Tài và Cao Triều Phát.
Đức Hộ Pháp đã thuyết đạo (1948) rằng: "Mỗi vị
tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là lỗi ở mấy em,
chẳng lẽ đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền
đạo".
Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho
phù hợp với luật lệ đạo. Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn
Trung, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao "quyền thưởng phạt đã
vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc
phàm trần nhanh chóng nên ban quyền cho Thượng Đầu Sư "thay mặt cho Lão mà
thi hành các phận sự Q. Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có
Lão" (*1).
Hãy lưu ý mấy chữ "Q. Giáo Tông về phần
xác", tức là Ngài Lê chỉ được nửa Giáo Tông. Thế nên, Ngài Lê Văn Trung
không bao giờ mặc áo đại phục Giáo Tông. Thiên phục mà Đức Q. Giáo Tông được
tạc tượng trước lầu chuông Toà Thánh cũng chỉ là tiểu phục. Do đó, Ngài Lê
không phải là đệ nhị Giáo Tông. Nếu có đời Giáo Tông khác thì tịch đạo THANH
HƯƠNG phải đổi ra ĐẠO TÂM.
(*1) Ban Đạo Sử:
Tài liệu lưu trữ.
2 .
Châu tri báo tang của Hội Thánh:
Vùng đất xây cất Toà Thánh vốn là rừng cấm nhiều
chướng khí, nước rất độc. Đức Q. Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng
phải nằm nhà thương. Vừa thuyên giảm đôi phần, vì đạo sự phức tạp, Đức Ngài rời
bệnh viện về Toà Thánh để xử lý. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống
thuốc vô ói ra hết, không ăn mà qui tiên.
Toà Thánh báo tin như sau:
"Kính chư hiền huynh, hiền tỷ.
Hội Thánh ĐĐTKPĐ rất đau đớn mà cho chư hiền huynh,
hiền tỷ hay tin buồn: Đức Q. Giáo Tông đã qui tiên tại Giáo Tông Đường ngày
13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ
sớm mai."
3 . Tường thuật lễ tang của
các báo:
Tờ Gringoire ở Paris ra ngày 6-12-1934 đăng bài
viết của phóng viên J. Dorsenne có đoạn như sau:
"Những đoàn người từ các nơi xa gần, đi bằng
xe hơi, xe cam nhông, xe bò. Nào là ghe thuyền chở đầy tín đồ, đàn ông, đàn bà,
tất cả đều quyết đi nhanh về Toà Thánh đặng thọ tang, có người đã bịt khăn
trắng trước khi thọ lễ.
Suốt ngày đêm, mọi người gồm cả nam phụ lão ấu lập
thành hàng ngũ chỉnh tề đến trước liên đài.
Cuộc lễ ban đêm được Bộ Lễ sắp đặt có trật tự. Chức
sắc, chức việc và đạo hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề. Trước liên đài hàng hàng
lớp lớp qùi giữa sân van vái thì thầm.
Sau lễ, người người lần lượt tan hàng. Bây giờ chỉ
có 36 vị chức sắc phái Thượng hầu xung quanh liên đài.
Đến ngày thứ 12 là lễ an táng chánh thức. Số tín đồ
đã đông lại càng đông hơn. Mọi người đều mặc y phục trắng, đầu bịt khăn trắng
để tang, xen lẫn với những chức sắc mặc áo màu xanh đỏ vàng."
Sau đây là bài tường thuật của tạp chí Niết Bàn:
"Có trên năm ngàn tín đồ theo hộ tống Long mã
kị liên đài đi khắp trong nội ô Toà Thánh. Ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc đứng lên
đọc điếu văn lời lẽ rất bi ai cảm động. Kế đó là Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương
Thanh, Ông Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa và ông Cao Đức Trọng, chủ trưởng Hội
Thánh Ngoại Giáo. Mỗi người đều đọc một bài ai điếu dài."
4 .
Kết luận về một đời người:
Sự nghiệp đối với đời, công nghiệp đối với đạo của
Đức Q. Giáo Tông như sông dài biển rộng, người viết không sống đồng thời nên
không thể đánh giá hết công lao của Đức Ngài đối với Đạo, nên tạm mượn lời của
trạng sư Diệp Văn Kỳ (viết ngày 28-11-1934).
"Nói đến thân thế sự nghiệp của ông Lê Văn
Trung tất nhiên là phải bàn đến đạo Cao Đài. Vì ông là một người sáng lập, lại
là ông giáo chủ. Đạo Cao Đài mà phải thì ông là công thủ. Đạo Cao Đài mà quấy
thì ông lại là tội.
Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, một nhà bác học
Trung Hoa mỗi khi thảo luận đến các vấn đề tôn giáo đều có nói: "Thiên
trung điểu tích họa giả giai nan: dấu chân của con chim bay trên không, thợ vẽ
nào cũng phải chịu là khó".
Thật thế người ta muốn tìm ra cội rễ của tôn giáo
thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chân chim bay trên không.
Huống chi, Đạo Cao Đài mới xuất hiện ở Nam Kỳ chưa
đầy 9 năm. Bao nhiêu lý thuyết hình thức của Đạo hiện đương ở thời kỳ phôi thai
và do cơ bút mà có thì chẳng thế chi nghị luận cho xác đáng.
Sự hoạt động của Đạo Cao Đài từ khi sáng lập đến
nay không phải mỗi mỗi đều tận thiện tận mỹ. Song nếu xét thật công bình, Đạo
Cao Đài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại, Đạo Cao Đài
truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn kết hơn một triệu dân
Nam Kỳ là một việc đáng làm, ai ai cũng nên kính phục."
Mộ đạo nhứt tâm kiên, ma bất lẫn, niết bất truy,
thiên giả sanh chi, sanh bất quí.
Tích đức vạn cổ trọng, sử do truyền, kinh do lục,
nhơn thùy vô tử, tử do vinh.
(Yêu đạo bền một lòng, mài không mòn, nhuộm không
đen, Trời sanh ra, sanh không hổ, hổ mà an.
Mến đức để muôn đời, sử còn trọng, sách còn truyền,
lời không phục, ai người không chết, chết còn vinh).
Ông Diệp Văn Kỳ đã thấy rõ chân dung của Đức Q.
Giáo Tông với chủ trương của nền đạo mới là đại đồng, không kỳ thị chủng tộc,
tôn giáo và xã hội. Nhất là chống lại chính quyền Pháp hà khắc không cho nhân
dân ta bảo vệ thuần phong mỹ tục, nên Đạo Cao Đài nêu cao "Nam phong thử
nhựt biến nhơn phong". Năm 1908, Trần Quí Cáp vì loạn đầu bào mà bị xử
chém ngang lưng. Nhưng trong Tân Luật của Đạo Cao Đài, điều thứ 15 viết:
"buộc chức sắc phải để râu tóc", là nhằm chống lại việc Pháp hóa dân
tộc Việt Nam. Ông Kỳ coi đó như một cuộc cách mạng chống lại chế độ hà khắc của
thực dân Pháp.
Bài thài dâng lễ vía hàng năm của Đức Q. Giáo Tông
như sau:
Càn
khôn quen thú phước linh tiêu,
Thấy
khổ trần gian nghịch Thánh điều.
Mượn
xác phàm riêu cây phất chủ,
Nương
cơ tạo xủ phướn tiêu diêu.
Bầu
linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy
sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
Muôn
dặm cửa Tiên chờ bước tục,
Cỡi
lau trở gót ruột trăm chiều.
PHỤ
CHÚ 1
TÂY NINH, le 1er Décembre
1934
À Messieurs les Présidents des Syndicats de la
Presse du Monde Entier,
Messieurs les Presidents,
Nous avons l'honneur de venir respectuesement vous
prier de bien vouloir solliciter de tous les Directeurs des Journaux, Revues
Periodi ques, une large hospitalité à notre Appel à l' Unité de Foi ci-joint.
Ce sera un grand bienfait que la Presse readra à
l'Humanité toute entière, car, si l' Unité de Foi se réùalise, les races se
fraterniseront et la Paix Universelle règnera.
Le Monde sera délivré de l'borrible cauchemar d'une
prochaine guerre mondiale dix fois plus dévastatrice que celle de 1914-1918.
Veuillez agréer, Messieurs les Présidents,
l'assurance de nos sentiments respectucux et reconnaissants.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite -Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de
l'Indochine.
Chef de la Religion ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
3ème Amnistie de DIEU en Orient
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
à TÂY NINH. COCHINCHINE FRANCAISE.
PHỤ
CHÚ 2
TÂY NINH, le 1 er Décembre 1931
À Leurs Majestés les Empereurs et Rois, leurs
Excellences les Chefs d' Eùtats, les Ministres de toutes les Religions
du MONDE ENTIER
Sires, Excellences.
Nous avons l'honneur de porter respectueusemeni à
votre haute connaissance que l'Être Suprême, DIEU tout Puis-sant, notre Père
Miséricordieux à tous, est venu sur un coin de la terre d'Annam (à Tây ninh-
Cochinchine - Indochine Francaise) pour créer une nouvelle Foi capable de
rénover le monde entier par un noble Idéal: L'amour des créatures. De par la
vonlonté divine, les races se frater-hiseront et la Paix Universelle règnera.
La guerre, l'horrible guerre gratricide, horreurs
du Xxè siècle, siècle soi - disant de Progrès, de Civilisation pourra bien être
évitée. Nous disons Fratricide car, quelle que soit la race dont ils font
partie, tous les Enfants de cette terre descendent l'un même Père, c'est DIEU
qui préside à leurs destinées. Ainsi lorsque les peuples se font la guerre,
c'est exactement comme des frères qui s'entre - tuent.
Nous avons recu de DIEU, Notre Père Miséricordieux
à tous, la Mission de propager sa sainte Doctrine à travers le Monde.
Nous avons eu de multiples preuves de sa venue sur
cette terre: de nombreux miracles se sont produits comme au cemps de la venue
du Christ, comme ceux de Lourdes et d'ailleurs. Fermement convaineus de
l'efficacité de la nouvelle Doctrine et forts de la puretè de nos intentions
nous avons présenté à l'Administration Coloniale Francaise un serment ècrit
don't ci-inclus un exemplaire par lequel nous nous enga-geons, sous peine de
mort, à ne nous occuper que des questions religieuses et à ne pas troubler en
aucune facon l'ordre établi. En revanche, nous demandons de travailler, avec
l'aide et la protection de la France à la propagande de la Nouvelle Foi dans le
Monde entier.
Les représentants de l'Administration Coloniale ne
se sont pas montres toujours bienveillants à notre égard, quel-ques-uns ont été
tolérants mais d'autres ont fait leur possible pour empêcher cette propagande.
DIEU est venu nous dire de répandre sa sainte
Doctrine à travers le Monde; nous ne saurons donc pas faillir à notre Mission.
Aussi nous nous faisons un impérieux devoir de venir respectueusement, Sires,
Excellences, porter ce fait à la con-naissance de l'Humanité entière, afin que
tout le monde sache que l'heure de l'Amnistie divine approche, que le
rassemblement des enfants du Créateur doivent se faire pour que la Paix tant
recherchée règne dans tout l'Univers.
Il suffira pour cela que hommes savent aimer leurs
semblables et pratiquer la vertu dans le chemin tracé par DIEU.
Nous sommes certains que, plus que quiconque,
Sires, Excellences, vous voulez que vos sujets dont la destinée est entre vos
mains, ne vivent plus dans la crainte perpétuelle d'une guerre future, avec les
horreurs, les ravages que cause- ront d'engins meurtriers de tout dernier
perfectionnement toute de vertus, et qu'ils soient délivrés à jamais du
terrible cauchemar qu'est la guerre moderne.
Nous vous demandons d'envoyer le plus tôt possible
vers nous un certain nombre d'entr eux pourqu'ils puissent se rendre compte de
ce que nous avons avancé.
DIEU a dit ceci: Mes Enfants, si vous tardez à
ré-pandre ma sainte Doctrine, chaque jour de retard occasion-nera la perdition
des centaines de milliers d'ames.
Le cri d'appel étant lancé, nous pensons avoir fait
notre devoir.
Dès que nos moyens nous le permettront, nous
parcou-rerons le Monde, apportant à chaque Peuple la Nouvelle Evangile.
Daignez agréer, Sires, Excellences, l'hommage de
notre profond respect.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite - Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de
l'Indochine.
Chef de la Religion ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
3ème Amnistie de DIEU en Orient
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
à TÂY NINH.- COCHINCHINE - FRANCAISE
PHỤ
CHÚ 3
Lời tường thuật của Báo chí và
Thư của Đức Thánh Cha Nhà thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE
EN ALLEMAGNE,
Au cours de l'annéc 1931, dans les premiers mois
plusieurs voyageurs allomands ont visité le phalanstère de Tây ninh, se sont
interessés à la Secte, ont pris des notes et des photos, et sont repartis par
le bateau qui avait escalé trois jours à Saigon. On ne les a plus revus, mais
le numéro du 21 Juin 1931 du Berliner Illustrierte Zeitung parvenait au
Saint-Siège.II contenait un article avec photographies de Tây ninh, signé
W.BOSSARD sur la plus étrange secte du monde.
Enfin, en Novembre 1931, nouveau document
d'Allemague (ci-après), en réponse à l'envoi d'une brochure le Bouddhisme
rénové fait par LE VAN TRUNG.
--oOo--
ÉGLISE GNOSTIQUE
D'ALLEMAGNE
P. Futlingen, den 13
Novembre 1931
Altesse éminentissime!
Très grand, très puissant et très excellent prince
Sérénissime Seigneur!
Très Saint-père!
Votre message a atteint l'Europe Centrale! Le
Synode Général de l'Eùglise Gnostique d'Allemagne dont je suis le patriarche, a
résolu de préparer son union avec le Caodaisme...
On m'a chargé de vous faire savoir cette résolution
et de vous prier pour des informations sur l'histoire, la consti tution, la
doctrine et les rites de votre religion Universelle en Francais, Anglais ou
Hollandais, afin que le message du Caodaisme puisse se servir de notre,
organisation ecclésiast que dans les pays des Allemands, Autrichiens, Suisses,
Hollandais, Belges, Lithuaniens, Lettens et Esthéniens.
En comptant sur la
réalisat on de ce désir je suis
Votre très humble
serviteur.
m.p.
Signé: GODWIN
30 330 960
Souverain -pontife et patriarche de l'Eglise
Gnostique d'Allemagne Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose
mystique.
Adr: H.GODWIN stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE
PHỤ
CHÚ 4:
VỚI ĐỨC QUỐC.
Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người
Đức đến viếng Toà Thánh Tây Ninh, lưu tâm đến giáo phái này, đã ghi chép chụp
nhiều hình ảnh; rồi quay về hải thuyền, cập bến Saigon ba hôm. Người ta không
còn gặp lại họ nữa; nhưng số báo BERLINER ILLUS-TRIERTE ZEITUNG ra ngày
21-6-1931 đã được gởi đến Hội Thánh. Trong đó, có một bài mang nhan đề Giáo
Phái Mới Lạ Nhứt Của Thế Giới do W. BOSSARD viết, kèm theo nhiều hình ảnh của
Tây Ninh.
Sau cùng, đến tháng 11 năm 1931 là văn kiện mới, từ
Đức gởi sang (kèm sau đây) để đáp lại một quyển sách nói về Phật Giáo Chấn Hưng
do ông Lê Văn Trung gởi cho họ.
PHỤ
CHÚ 5
Thơ gởi Tổng thống cộng hoà Pháp
Tây Ninh, le 4 Mars 1934
A Monsieur le Président
de la République Francaise, PARIS.
Monsieur le le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir tres respectueusement remettre entre vos mains la
Décoration de Chevalier de l'honneur que ma conférée la République Frangaise
par Décret du 18 Mai 1912.
Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans
Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin memble du conseil du
Gouvernement de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années
de vie mises loyalement au service de la France, qui m'ont valu cette haute
récompene de la Républi que.
Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes
vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain
(1926) je fus appelé par l'invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de
toutes religions existantes pour " semer parmi les peuples l'amour du bien
et des créatures de Dieu, la pratique de la vertu, apprendre à aimer la justice
et la résignation: révéler aux humains les conséquences pos-thumes de leurs
actes, tout en assainissant leur âme".
Depuis huit ans je me consacre entièrement à cette oeuvres de fraternisat
ion des races, convaincu que la nouvelle religion constitue un des puissants
facteurs indispensables à la réalisation d'une collaboration loyale et sincère
de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.
Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un milion de fidèles composé
d'Annamites en très grande partie et de Frangais, Cambodgiens, Laotiens, Mois
et Chinois.
Nous ne sommes pas compris peut-être par le gouver nement Colonial?
Toujours est -il que le Caodaisme est sans cesse injus-tement frappé.
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des acies arbitraires
et des persècutions religieuses.
À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promo-teur de cette
nouvelle église dans son honneur.
Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants
ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur
Vilmont, chef de la Province de Tây ninh Cochinchine.
"En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très
obligé de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette
nouvelle règlementation des cultes.
"Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre,
je me parmets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte
de mes requêtes et de mes droits sinon de chef du Sacerdoce Caodaisme, du moins
de chef du Temple de Long Thanh (Tây Ninh) ces "désordres" n'auraient
jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez aue les désordres que vous
signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.
"Le réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans
mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à là religion et malgré ma
lettre No394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte,
jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France double
d'un décoré de la Légion d'honneur.
"Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure ou tous
mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause
commune des deux peuples c'est -à - dire à l'entente cordiale et sincère les
deux races appelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de
vie et l'intérêts ".
Naturellement ces doléances sont restées sans réponse par contre les
persécutions se sont de plus belle
La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour
dette due au fisc par trente quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à
fait falicieux.
Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut
jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par, la loi ne fut observée.
J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh
avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.
Ainsi aux yeux du Gouvernement Colonial, la Légion d'honneur ne signifie
rien, l'infâmie peut atteindre.
Tout le tort revient-il à République qui ne devait pas conférer cet insigne
honneur à un pauvre indigène?
J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter
une très haute distiuction à laquelle le Gouvernement Colonial n'a aucun égard
et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la
France.
Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que
j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans
haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises
et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle
d'apporter au monde la paix et la concorde.
Veuillez agréer, Monsieur le Président de la République, expression de mon
plus profond respect.
LÊ VĂN TRUNG
LÊ VĂN TRUNG Pape Intérimaire
Du Bouddnisme rénové ou Caodaisme.
Ancien Conseiller Colonial,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Long Thành Tây Ninh
(Cochinchine).
Pièce jointe: Un certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'ordre
National de la Légion d'Honneur.
PHỤ CHÚ 6
Toà Tam giáo lần thứ nhì
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Sao lục án Toà Tam Giáo xử ngày 28 tháng 8 năm 1931.
Tuân y theo Thánh Giáo đức Lý Giáo Tông, Nghị Định ngày mồng 3 tháng 10 năm
Canh Ngọ,
Chiếu theo Đạo Nghị định của Hộ Pháp và lời phê chuẩn của Giáo Tông ngày 3
tháng 10 năm Canh Ngọ, thiết lập Tam Giáo Toà.
" TAM GIÁO TOÀ CỬU TRÙNG ĐÀI
(Kỳ nhì)
" Tại Toà Thánh Tây Ninh ngày rằm tháng
bảy Tân Mùi
(28 Aout 1931)
xử các vụ và kết án như sau đây:
1 - TÊN HỌ: Trần Đạo Quang.
CHỨC: Ngọc Chưởng Pháp.
ĐỊNH ÁN: Chiếu theo hình phạt thứ 9. Phải ăn năn
sám hối thọ tội cùng chúng sinh
2 - TÊN HỌ: Nguyễn Trung Hậu .
CHỨC: Bảo Pháp HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
3 - TÊN HỌ: Trương Hữu Đức .
CHỨC: Hiến Pháp HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
4 - TÊN HỌ: Trương Văn Tràng .
CHỨC: Tiếp Pháp HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
5 - TÊN HỌ: Phạm Văn Tươi .
CHỨC: Hiến Đạo HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
6 - TÊN HỌ: Lê Thiện Phước .
CHỨC: Bảo Thế HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
7 - TÊN HỌ: Thái Văn Thâu .
CHỨC: Khai Thế HTĐ .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh
cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo.
8 - TÊN HỌ: Thái Ca Thanh .
CHỨC: Phối Sư .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu hình phạt thứ 5) Ngưng chức một
năm, nếu biết ăn năn sám hối thì cho phục chức như cũ.
9 - TÊN HỌ: Thượng Bàn Thanh .
CHỨC: Giáo Sư .
ĐỊNH ÁN: Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năn sám hối
thì cho phục chức như cũ.
10 - TÊN HỌ: Ngọc Minh Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năn sám hối
thì cho phục chức như cũ
11 - TÊN HỌ: Thượng Sanh Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năn sám hối
thì cho phục chức như cũ
12 - TÊN HỌ: Thượng Tương Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
13 - TÊN HỌ: Ngọc Khai Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
14 - TÊN HỌ: Thượng Lai Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
15 - TÊN HỌ: Thái Minh Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
16 - TÊN HỌ: Thái Kiên Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
17 - TÊN HỌ: Ngọc Sơ Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm.
18 - TÊN HỌ: Thái Hiển Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm.
19 - TÊN HỌ: Thượng Diêu Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm.
20 - TÊN HỌ: Thượng Ngự Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm.
21 - TÊN HỌ: Thượng Hồng Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
22 - TÊN HỌ: Thượng Trò Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
23 - TÊN HỌ: Thái Quyến Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
24 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
25 - TÊN HỌ: Thượng Giỏi Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
26 - TÊN HỌ: Thượng Kỳ Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
27 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
28 - TÊN HỌ: Ngọc Phung Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
29 - TÊN HỌ: Ngọc Lương Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng
30 - TÊN HỌ: Ngọc Bôi Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
31 - TÊN HỌ: Thái Ban Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN: Tha bổng
32 - TÊN HỌ: Thượng Đồng Thanh
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng .
33 - TÊN HỌ: Thượng Tân Thanh .
CHỨC: Lễ Sanh .
ĐỊNH ÁN: Tha bổng.
34 - TÊN HỌ: Thượng Trúc Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu theo hình phạt thứ 10) - Hầu kẻ hữu
đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học đạo..
35 - TÊN HỌ: Thượng Dung Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà
Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo.
36 - TÊN HỌ: Thái Chương Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà
Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo.
37 - TÊN HỌ: Thượng Lâm Thanh .
CHỨC: Giáo Hữu .
ĐỊNH ÁN: (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà
Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo.
Toà Thánh, ngày Rằm tháng
bảy năm Tân Mùi
Quyền Giáo Tông
Chánh toà
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Bảo Văn pháp quân
Quyền Lục sự
CAO
QUỲNH DIÊU
Xin Đầu Họ lãnh thi hành cái án sao ra trên đây và
dán vào bổn tại mỗi Thánh Thất trong tỉnh. Cách thi hành phải làm như sau đây:
Đạo hữu nào có tên trong bản án mà ở trong tỉnh mình thì trích lục ra từng án
mà giao lại cho đạo hữu ấy và phải lấy biên nhận. Đạo hữu nào không chịu lảnh
án thì Đầu Họ phải lập vi bằng gởi về Toà Thánh. Ví dụ người thứ nhứt có tên
trong bản án là đạo hữu Trần Đạo Quang có ở trong tỉnh mình thì sao lục án ra
một tờ mà giao cho người:
* * *
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ lục niên)
Sao lục Toà Tam Giáo xử ngày Rằm tháng 7 năm Tân
Mùi tại Toà Thánh Tây Ninh, nhằm ngày 28 tháng 8 năm 1931.
Đạo hữu Trần Đạo Quang xử phải ăn năn sám hối thọ
tội cùng chúng sanh. Hạn một tháng, kể từ ngày giao án, phải về Toà Thánh. Nếu
chẳng tuân y thì phạm tội bất tuân luật đạo, kỳ toà tới phải bị án nặng hơn.
Vâng lịnh Ngọc Chánh Phối Sư quyền Ngọc Đầu Sư kiêm
Chủ trưởng Chức sắc nam phái.
Đầu Họ Tỉnh"
PHỤ
CHÚ 7
Châu tri số 1
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ bát niên)
CHÂU TRI
1 - Cho chư Thiên phong
2 - Chư vị Đầu Họ Đạo
3 - Chư vị Chủ Thánh Thất
4 - và chư vị đạo hữu
lưỡng phái
Chư Hiền huynh, Hiền tỉ, Hiền muội,
Chiếu theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn ngày 14
Février 1933 chiếu theo Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông ngày ler Janvier 1933
và ngày 10 Mars 1933, chiếu theo những điều của Thượng Hội quyết định ngày 25
Décember 1932, việc chính trị của nền đạo đã sắp đặt lại từ 12 Mars 1933 (17
tháng hai Quí Dậu) như sau này:
Điều
thứ nhứt: Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt còn cầm quyền Giáo Tông mà thôi.
Điều
thứ nhì: Trong lúc Chưởng pháp chưa có chính vị thi hành quyền Chưởng pháp giao
lại cho Hiệp Thiên Đài cầm. Ba vị Thời quân cầm quyền Chưỡng pháp là vị Bảo
Pháp Nguyễn Trung Hậu, vị Bảo Thế Lê Thiện Phước và vị Hiến Đạo Phạm Văn Tươi.
Điều
thứ ba: Ba vị Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang
Thanh còn cầm quyền Quyền Đầu Sư mà thôi.
Điều
thứ tư: Trong lúc Chánh Phối Sư chưa có chánh vị thì quyền hành giao cho Hiệp
Thiên Đài cầm. Ba vị Thời quân cầm quyền Chánh Phối Sư là vị Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa, vị Khai Đạo Phạm Tấn Đãi và vị Khai Thế Thái Văn Thâu.
Vị Khai Pháp cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
Vị Khai Đạo cầm quyền Thái Chánh Phối Sư.
Vị Khai Thế cầm quyền Thượng Chánh Phối Sư.
Điều
thứ năm: Ba vị Chánh Phối Sư tân được quyền lập Nội chánh để cầm quyền Cửu viện
tại Toà Thánh.
Toà Nội Chánh chia ra như sau này:
PHÁI
THÁI
1) Lương viện
- Quản lý: Ô. Phối Sư Thượng Tông Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Hộ Thanh
2)
Hộ viện
- Quản lý: Giáo Hữu Thái Như Thanh
- Phó quản ly: Giáo Hữu Thái Bộ Thanh
- Phó quản lý: Lễ Sanh Thượng Chất Thanh
3)
Công viện
- Quản lý: Giáo Hữu Thái Gấm Thanh
- Phó quản lý: Lễ Sanh Thượng Quờn Thanh
PHÁI
THƯỢNG
1)
Nội viện
- Quản lý: Giáo Sư Thượng Latapie Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Trí Thanh
2)
Học viện
- Quản lý: Giáo Sư Thượng Thành Thanh
và Phước viện
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Sáng Thanh
3)
Nông viện
- Quản lý: Giáo Hữu Ngọc Bến Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Đưa Thanh
PHÁI
NGỌC
1)
Lại viện
- Quản lý: Giáo Sư Thượng Bảy Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Tuy Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Thiện Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Áo Thanh
2)
Lễ viện
- Quản lý: Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Mía Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Lai Thanh
3)
Hoà viện
- Quản lý: Giáo Sư Thượng Liêng Thanh
- Phó quản lý: Giáo Hữu Thượng Tại Thanh
- Phó quản lý: Lễ Sanh Thượng Tài Thanh
Lễ đăng điện và ban quyền cho Quyền Giáo Tông,
Quyền Đầu Sư, Chánh Phối Sư và Nội chánh đã thiết hành ngày 12 Mars 1933 tại
Toà Thánh nhằm 17 tháng Hai Quí Dậu.
Ba vị Chánh Phối Sư và Nội chánh đã bắt đầu hành
chánh kể từ ngày 26 Mars 1933 nhằm ngày 1 tháng 3 năm Quí Dậu là ngày ba vị Cựu
Chánh Phối Sư thăng lên Quyền Đầu Sư đã giao trách nhậm trọng cho ba Chánh Phối
Sư tân là ba vị Khai Đạo, Khai Pháp và Khai Thế.
Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ nhì, thứ ba và thứ tư
của Đức Lý Giáo Tông thì mỗi việc chi thuộc về quyền chính trị đều giao cho
Chánh Phối Sư như là quyền thay mặt cho toàn đạo mà giao thông cùng Chánh phủ
và cả tín đồ, quyền giáo dục nhơn sanh, quyền xem xét các nơi, chăm nom đạo
hữu, quyền trị Chức sắc phần Đạo và phần Đời, buộc chức sắc làm y phận sự,
quyền tạp tụng, quyền điều hành sự phổ độ, tài liệu của Đạo, quyền chủ trưởng
Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh, v.v...
Vậy chúng tôi xin khuyên chư Thiên phong phải hết
lòng vì Đạo giúp cho ba vị và nội chánh có đủ sức thi hành cả chương trình hành
đạo. Chương trình này có in theo sau đây cho chư chức sắc và chư đạo hữu lưỡng
phái biết.
Từ đây các việc truyền bá trong đạo phải có tờ của
ba vị Chánh Phối Sư tân ký tên hay là bàn Nội Chánh có mặt ba vị ký. Ai không
được lịnh của ba vị mà tự chuyên đi giao thông với chư chức sắc và chư Đạo hữu
là người muốn sanh việc rối loạn làm hư nền đạo.
Hiện thời, Hội Thánh rất cần dùng việc hiến công
quả, chư đạo hữu có tài nghệ chi cũng nên thừa lúc này đem ra hiến cho đạo nhờ
vì nội năm nay phải lo cất Bát Quái đài.
Năm rồi Thái và Ngọc Chánh Phối Sư có ra Châu Tri
số 39 ngày 6-1-1932 xin chư vị Chức sắc Đầu Họ Đạo Chủ Thánh Thất cho trong đạo
hữu hay ai có lòng bác ái hộ vật thực đến Toà Thánh hỉ cúng đặng đủ nuôi đạo
hữu hiến thân làm công quả cho nền đạo.
Năm nay Toà Thánh phải tạo tác nhiều việc lớn lao
nên cũng xin chư đạo hữu hết lòng lo việc hộ vật thực như vậy, như lúa gạo,
nếp, bắp, khoai, muối, v.v... cùng là
vật dụng như nón lá, ky đệm, lá cần đóp, lá chằm, chiếu, v.v...
Các vật thực và các vật dụng hộ về Toà Thánh đều có
Chức sắc Thiên phong thâu nạp và chứng kiến công ơn của chư đạo hữu hỷ cúng cho
đạo.
Ngoài ra, năm nay, Hội Thánh còn phải lo việc phổ
độ ngoại quốc, việc hiệp nhất trong năm Quí Dậu vì cả thế giới đều trông mong
hai chữ Hoà bình.
Năm nay là năm lập thành đại công quả, xin chư Chức
sắc và chư đạo hữu lưỡng phái tận tâm chung lo chấn hưng nền đạo cho hoàn tất,
y theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn hồi năm Bính Dần.
Toà Thánh (Tây Ninh) ngày
1 Avril 1933
(ngày 7 tháng 3 năm Quí
Dậu)
Hộ Pháp Quyền Giáo Tông
PHẠM CÔNG TẮC THƯỢNG TRUNG NHỰT
LỜI PHỤ: Sau khi giao quyền hành Chánh Phối Sư cho
Hiệp Thiên Đài, Quyền Giáo Tông có mời ba vị Chánh Phối Sư và Nội Chánh hiệp về
Toà Thánh đặng lập chương trình hành đạo.
Trong lúc hội đặng lập chương trình, Quyền Giáo
Tông và Hộ Pháp có đến dự thính. Quyền Giáo Tông cũng có mời ba vị Quyền Đầu Sư
hoặc đến dự kiến, hoặc chỉ vẽ điều chi giúp cho nên việc (thơ số 34 ngày 4 Mars
1933), Quyền Thượng Đầu Sư Thượng Tương Thanh có đến dự hội một lần.
Chương trình hành đạo đã lập thành, lẽ thì phải đem
ra cho Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn, nhưng vì các khoản
nghị định trong chương trình đều không trái Pháp Chánh Truyền, Tân luật và Đạo
Nghị định, và nhứt là cần phải thi hành lập tức cho nên chúng tôi nhứt định
dụng quyền Chí Tôn giúp cho ba vị Chánh Phối Sư đủ quyền thi hành chương trình
hành đạo ấy khỏi đem ra ba hội phê chuẩn.
Quyền Chí Tôn của Giáo Tông và Hộ Pháp do nơi Thánh
ngôn của Đức Chí Tôn ngày 23 Dccembre 1931 (có in theo đây) mà có.
Toà Thánh (Tây Ninh) ngày
1 Avril 1933
(ngày 7 tháng 3 năm Quí
Dậu)
Hộ Pháp
(ấn ký)
PHẠM CÔNG TẮC
Quyền Giáo Tông
(ấn ký)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
* * *
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ bát niên)
Kính cùng chư Huynh trưởng và chư Đạo tỷ Thiên
phong chư Chức sắc và chư đạo hữu lưỡng phái.
Chư Hiền Huynh, Chư Hiền Tỷ;
Bổn "Chương Trình Hành Đạo" in theo sau
đây là của chúng tôi hiệp với Hội Thánh Cửu Trùng Đài đặng lập thành và đã có
đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp phê chuẩn.
Trong lúc chúng tôi và Nội Chánh bắt đầu hành chánh
thì mỗi việc chi trong đạo đều phải quan sát lại kỹ lưỡng hầu tìm phương nâng
cao phẩm giá nền Chánh giáo của đức Từ Bi và giúp cho nhơn sanh dễ bề tu tiến.
Vậy chúng tôi có mấy lời Tâm huyết xin chư Huynh
Trưởng, Đạo Tỷ và chư đạo hữu lưỡng phái biết và xin hết lòng vì đạo giúp cho
chúng tôi được đủ thế sắp đặt các việc. Chúng tôi tưởng ai ai cũng bằng lòng và
cũng cho các điều kể trong chương trình của chúng tôi hiến dâng cho thành tựu.
Toà Thánh, ngày 7 tháng 3
- Quí Dậu (1 Avril 1933)
Thái Chánh Phối Sư
PHẠM TẤN ĐÃI
(ấn ký)
Thượng Chánh Phối Sư
THÁI VĂN THÂU
(ấn ký)
Ngọc Chánh Phối Sư
TRẦN DUY NGHĨA
(ấn ký)
NỘI
CHÁNH
Phối Sư Thượng Tông Thanh
Giáo Sư Thượng Bảy Thanh
Giáo Sư Thượng Thành Thanh
Giáo Sư Thượng Latapie Thanh
Giáo Sư Thượng Liêng Thanh
Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh
Giáo Hữu Thái Gấm Thanh
Giáo Hữu Thái Như Thanh
Giáo Hữu Thái Bộ Thanh
Giáo Hữu Thượng Thiện Thanh
Giáo Hữu ThượngTại Thanh
Giáo Hữu Thượng Hộ Thanh
Giáo Hữu Thượng Sáng Thanh
Giáo Hữu Thượng Trí Thanh
Giáo Hữu Thượng Tuy Thanh
Giáo Hữu Thượng Đứa Thanh
Giáo Hữu Thượng Mía Thanh
Giáo Hữu Thượng Lai Thanh
Giáo Hữu Thượng Áo Thanh
Giáo Hữu Ngọc Bến Thanh
Giáo Hữu Ngọc Nên Thanh
Lễ Sanh Thượng Tài Thanh
Lễ Sanh Thượng Quân Thanh
Lễ Sanh Thượng Chất Thanh
PHỤ
CHÚ 8
Chương
Trình Hành Đạo
PHÁI
THÁI
1 - Lập Nội luật Hội Thánh.
Chú giải: Quyền Hành Chánh tuy giao cho ba vị Chánh
Phối Sư chớ mọi việc chi thi hành đều phải do theo chương trình hành đạo của
Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn. Quyền của ba hội là quyền Vạn
Linh. Việc nào đã có quyền Vạn Linh định đoạt thì quyền Chí Tôn của quyền của
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một phải y theo. Quyền Chí Tôn lại quyết đoán khi nào
có sự phản khắc trong quyền Vạn Linh nghĩa là khi nào ba hội không đồng ý kiến
Chiếu theo Đạo Nghị định thứ tư điều thứ ba thì Hội Thánh phải dưới quyền chủ
trưởng của Thái Chánh Phối Sư và trách nhậm là lo về sự phổ độ việc hành đạo
tha phương, về tài liệu của đạo, lương hướng cho chức sắc Thiên phong, về tài
chánh và nền chánh trị của đạo.
Hội Thánh phải tìm phương hay đặng tu bổ và nâng
nền lý tài của đạo, phải tìm phương sanh lợi cho đạo, tóm lại phải lo cho sự
sinh hoạt của toàn đạo đặng vững chắc về mặt tài chánh tức là lo cho sự sinh
hoạt của toàn đạo về mặt phổ độ cũng đặng mạnh mẽ. Hội Thánh đã có phương sanh
lợi nghĩa là có bên thâu thì bên xuất cũng liệu phương giúp ích cho đạo, phải
chăm lo quan sát không cho xa xỉ của đạo và phải giúp cho toàn đạo hưởng đặng
các cơ sở của đạo về phần hữu hình.
2 - Thâu nạp các của cải tài chánh làm một bổn
nguyên về của Đạo cả thảy.
Chú giải: Của cải, tài chánh của Đạo như đất,
ruộng, nhà, ghe, xe trâu bò ngựa, v.v... đều phải đem vô bộ sổ rành rẽ, thâu
làm một bổn nguyên của đạo. Các tài sản ấy phải dưới quyền của ban Ủy viên
thường vụ. Ban cai quản này phải biết phương dụng các của ấy tức là sanh lợi
cho chúng sanh nhờ, chớ không nên thâu mà làm tiêu lụn của đạo. Phải nạp tờ
phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
3 - Chỉnh đốn tu bổ các nhà cửa trong Thánh địa,
cất Toà Thánh, lo cho Tiểu Thánh Thất các nơi phải y một kiểu.
4 - Nền lý tài lập tư bản, phát lương hướng cho các
Chức sắc Thiên phong nam nữ.
Chú giải: Mỗi việc chỉ có thu xuất thì phải cử một
bàn Uỷ viên lo lắng và quan sát sổ sách và nạp tờ phúc mỗi tháng, ba tháng và
mỗi năm.
5 - Liệu thế giúp sức cho Hội Thánh Ngoại Giáo
truyền bá Chơn đạo ra ngoại quốc.
Chú giải: Việc phổ độ tha phương chẳng phải nội
vùng Đông Pháp này là đủ mà là cả toàn cầu, đâu đâu Hội Thánh cũng phải đến
gieo truyền mối Đạo Trời, chủ nghĩa tối cao của Đại Đạo, chẳng những là hiệp
ngũ chi, qui Tam giáo mà thôi mà phải làm thế nào cho dầu các bậc Đế Vương
ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng đạo, phải đồ theo cả cơ thể của đạo,
phải nhờ đạo mới mong trị thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là Hiệp nhứt, vậy mới kêu
là Đại Đạo. Thánh ngôn của đức Lý Giáo Tông ngày 29-12-1932 lại nói rõ như vầy:
"Thiên ý đã định vậy, bất kỳ nơi nào hễ có dấu chân người Việt Nam đến thì
Đạo mới thành được". Trong buổi Hội Thánh đang lo sắp đặt nội dung của Đạo
thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã khởi lập, hầu phổ hoá các sắc dân khác. Trên nhờ
các đấng Thiêng Liêng chỉ giáo như đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Bát Nương và Lục
Nương Diêu Trì Cung, dưới nhờ Chức sắc Hội Thánh Ngoại Giáo hết lòng tuân y
mạng lịnh, cho nên khắp toàn cầu đều nghe danh thể Đại Đạo Tam Kỳ. Hiện nay, ở
kinh đô nước Pháp là Paris đã có người Pháp thọ Thiên sắc đặng lo phổ độ người
Pháp và lập thành Thánh Thất. Rồi đây, Hội Thánh Ngoại Giáo phải liệu phương
phổ độ lần qua các nước khác nữa.
6 - Cất học đường.
7 - Sắp đặt việc ăn ở và làm việc tại Thánh địa,
việc ăn uống của phái nam và phái nữ.
8 - Không cho ở trong Thánh địa mà không có phận sự
và không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho ngài.
9 - Không cho ở trong làng Đạo mà không có giấy
phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho ngài.
10 - Không cho cất nhà cửa hay lập cái chi mà không
có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay cho ngài.
11 - Rào ranh Thánh địa.
12 - Cất giếng nước. Sắp đặt sở trục trược.
13 - Công quả về việc moi sạn.
14 - Lò gạch.
15 - Cất nhà cho Thiên phong, Chức sắc.
PHÁI THƯỢNG
1- Xem xét Thánh ngôn những điều cần ích của Đại Từ
Phụ và Đức Lý Giáo Tông đã dạy từ thử mà chưa thi hành. Nếu như có những điều
trọng hệ cần ích phải thi thố tức cấp thì Hiệp Thiên Đài làm tờ phúc đem ra ba
Hội đặng lập luật ban hành liền.
Chú giải: Phải cử một ban kiểm dượt Thánh ngôn. Ban
kiểm dượt này sẽ dưới quyền chủ trưởng của một vị Chưởng Pháp. Còn về thể lệ
chấp cơ và ban hành Thánh ngôn thì sẽ thi hành y theo Châu Tri số 42 ngày
1-2-1931 của ông Cựu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh nói về chương trình hành
đạo của Hiệp Thiên Đài.
2- Bỏ bớt các Thánh Thất không hữu dụng và không có
phép của Chánh phủ để làm nơi phước thiện hay là nơi tiểu tổ giúp lương.
3- Lo cho Tiểu Thánh Thất các nơi, cúng kiến y một
kiểu và luật lệ cũng vậy.
Chú giải: Lễ nghi đã có phái Ngọc lập cho thì cứ do
theo luật lệ ấy mà buộc các nơi hành lễ một kiểu.
4- Định trách nhiệm đặc biệt của Toà Thánh, các
Thánh Thất và Hội Thánh Ngoại Giáo về việc tùng quyền hành đạo.
Chú giải: Toà Thánh thì có nội luật riêng. Còn các
Thánh Thất thì phải tức tốc lập Nội luật phân quyền cho rành nhứt là về quyền
đặc biệt của ban Cai quản Chủ Thánh Thất và Đầu Họ đạo. Trước khi cho cất Thánh
Thất phải quan sát buộc làm giấy tờ rành rẽ, hỏi làm thế nào có tiền cất? rồi
ai ở? Chức sắc nào chịu ở? Về sinh hoạt thế nào? v.v... Đạo Nghị định thứ tư,
điều thứ 7 có định để y như trước.
5 -
a) Lập báo chương đặng truyền bá tư tưởng đạo, lập
Tàng thư viện.
b) Lập ban kiểm dượt kinh sách đạo, không có Chưởng
pháp phê chuẩn.
c) Cử ban Ủy viên cai quản nhà in.
6 - Liệu phương giao thiệp cùng các Tôn giáo và các
chi phái nghịch đạo, điều hoà cho khỏi chinh nghiêng nền đạo.
7 - Giao thông cùng Chánh phủ, minh tỏ những điều
chơn thật của Đạo.
8 - Lập trách nhiệm cho ty giáo huấn, dầu đạo giáo
hay là thế giáo cũng vậy.
9 - Nuôi dưỡng học sinh.
10 - Lập các sở vệ sinh.
11 - Lập Nội luật Hội Nhơn Sanh.
Chú giải: Chiếu theo đạo nghị định thứ tư, điều 4
thì Hội Nhơn Sanh ở dưới quyền chủ trưởng của Thượng Chánh Phối Sư và trách
nhậm là lo về phần giáo dục nhơn sanh tức là đời. Có đời mới có đạo mà có đạo
mới nên đời thì phải liệu phương điều đình cho đời phải tùng đạo, dìu dắt cho
đời thấy cả cơ thể tối cao tối trọng của đạo và biết giá trị của mình mà cầm
quyền vạn linh cho chắc. Phải nâng đỡ tri thức tinh thần của nhơn sanh lên cao
đặng hiểu cho toàn chơn lý hầu đủ phương kềm chế sự hành động của Hội Thánh.
Lập thế dìu độ chúng sanh vào cửa đạo và học phương kèm chế cho tín đồ để bước
trên đường đạo và tuân y được các luật đạo. Lại nữa, đời có chính trị của đời
thì cũng phải xây chuyển cơ đời cho hiệp cùng chơn tướng của Đạo.
12 - Khai phá Thánh địa.
PHÁI
NGỌC
1 - Xin Quyền Giáo Tông giao các việc hành chánh từ
thử đặng quan sát lại, nhứt là luật lịnh của ngài ra mà chưa thi hành.
2 - Chiếu theo các Đạo Nghị định, mời Chức sắc
Thiên phong C.T.Đ và H.T.Đ phế đời hành đạo.
Chú giải: Vì chư chức sắc hiến thân trọn vẹn cho
đạo sẽ được lương hướng y theo Đạo Nghị định thứ tư của Đức Lý Giáo Tông cho
nên phải xem xét cho kỹ vị nào hữu dụng cho đạo mời về, nhưng nếu đã được lịnh
mời về thì buộc phải lo phế đời hành đạo, bằng không làm thì không kể vào Hội
Thánh, không được dự vào chính trị của Đạo, y theo Đạo Nghị định thứ năm của
Đức Lý Giáo Tông. Mà hễ phế đời hành đạo rồi thì Hội Thánh phải châu cấp thê
nhi. Số tiền châu cấp phải tuỳ theo bậc phẩm và nhứt là phải tùy theo số vợ
con.
3 - Trừ bỏ những chức sắc tạm phong của Cửu Trùng
Đài đã thuyên bổ hành chánh các nơi.
Chú giải: Theo Tân luật, điều thứ ba thì phải chịu
công cử như Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3000 vị xúm nhau côngcử. Nhưng
hiện thời số chức sắc chưa đủ thì phải cầu phong cách này: dầu trong hàng chức
sắc hay trong hàng tín đồ cũng phải xem xét lại công cán và hạnh đức đem vào
một bộ sổ cầu phong. Sổ ấy phải trình cho ba Hội lựa và định bực phẩm. Có ba
hội chịu rồi thì Giáo Tông và Hộ Pháp mới ra đạo Nghị định phong chức. Ngoài
ra, theo luật đạo thì chức sắc phải lựa theo đẳng cấp mới được, như Lễ Sanh phải
lựa trong hàng Chánh Trị sự.
4 - Bổ các Bàn Trị sự thế quyền chức sắc Thiên
phong đặng cầm quyền đạo các nơi.
5 - Định mỗi năm cả Chức sắc Thiên phong phải về
Tòa Thánh mấy lần cho bớt việc tổn phí.
Chú giải: Mỗi năm, Chức sắc Thiên phong phải về Toà
Thánh hai lần là ngày Đại lễ Đức Chí Tôn và ngày Khai đạo là ngày Rằm tháng 10.
Muốn cho bớt việc tổn phí nữa cho nên sẽ định lại ngày đại hội của Hội Thánh và
Hội Nhơn Sanh cho trúng với hai ngày trên đây.
6 - Trừ bỏ những điều Chức sắc Thiên phong Cửu
Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài đã thật hành ra mặt thế mà trái pháp luật.
7 - Canh cải những sự hành động của C.T.Đ không phù
hợp với Pháp Chánh Truyền và Tân Luật.
8 - Định trách nhậm đặc biệt của C.T.Đ và H.T.Đ.
9 - Định trách nhậm đặc biệt của mỗi chức sắc C.T.Đ
nam và nữ.
Chú giải: Việc hành chánh của Chức sắc các nơi phải
lập thành một luật. Trách nhậm của các Hội Thánh Ngoại Giáo cũng vậy. Luôn đây
xin giải nghĩa sơ bốn chữ Hội Thánh Ngoại Giáo... Phải đọc Hội Thánh Ngoại Giáo
chớ không phải là Ngoại Giao. Hội Thánh Ngoại Giáo là một cái hội của chư Thánh
để giáo đạo ở ngoại quốc. Bậc phẩm và trách nhậm tuy phải tuân theo luật
Đại-Đạo Tam-Kỳ-Phổ-Độ, hành chánh tuy hiện thời phải tùng quyền của Quyền Thái
Đầu Sư, nhưng cũng có phần đặc biệt là phải tùy theo tánh cách của người bổn
xứ, tài liệu và vật liệu của người bổn xứ, v.v...
10 - Chỉnh đốn các thức lệ cúng kiến.
Chú giải: Ngoài các thức lễ chỉnh đàn hành lễ phải
cho y một kiểu mẫu, phải định thêm lễ nghi về quan hôn tang tế buộc các nơi
phải tùng theo một luật lệ. Pháp giải oan, pháp Tắm thánh, v.v... cũng vậy. Về
nhạc cũng phải chỉnh đốn nhứt là giọng đọc kinh của đồng nhi, phải phân biệt ba
giọng ai, giọng xuân và đảo ngũ cung. Nơi đọc kinh có ảnh hưởng nhiều về sự hòa
bình êm tịnh và phát thạnh của Thánh Thất sở tại. Cứ tụng một hơi ai oán thì
không khác nào cầu sự khổ não cho Thánh Thất mình. Đạo phục cũng phải y theo
Pháp Chánh Truyền. Đáng lẽ Toà Thánh hay là các Thánh Thất phải may đạo phục mà
ban cho chức-sắc khi thiết lễ ban quyền. Hàng tín đồ không có đạo phục đặc biệt
thì không được bận áo rộng tới Đàn cúng. Khi hành lễ phải tuân theo đẳng cấp mà
quỳ người trước người sau y theo Pháp-Chánh-Truyền.
11 - Thảo Xá Hiền Cung.
Chú giải: Thảo Xá trước đã có lịnh dạy làm trường
qui thiện cho phái nữ thì nay cũng sắp đặt đặng có chỗ cho các đạo cô ở mà tu
hành. Việc này sẽ bàn tính với bà Chánh Phối Sư nữ phái và phải lập ban Cai
Quản nữ phái dưới quyền kiểm soát của Toà Thánh.
12 - Lập Nội luật Toà Thánh và Thánh địa.
Chú giải: Chẳng phải nội đền thờ Đức Chí Tôn, chư
Thần Thánh Tiên Phật mà kêu là Toà Thánh. Cả khuôn viên của Toà Thánh là gồm
hết Thánh địa, gồm cả thành đạo mà người làm chủ là Giáo Tông hay là người thay
mặt cho Ngài. Nội luật của Toà Thánh phải cần có đặng thi hành lập tức.
13 - Kiểm soát các người giúp việc riêng cho các
chức sắc tại Toà Thánh. Thuyên bổ người tuần phòng Thánh địa Toà Thánh và người
giúp việc tại tư gia của chức sắc trong Thánh địa.
14 - Kiểm soát các án tiết của Toà Tam giáo đặng
xin đại ân xá.
15- Hội cả ba hội đặng cầu phong thêm chức sắc và
thăng thưởng các chức sắc có công lao. Cầu phong cho cả Đầu Sư Nữ phái.
Phò
loan:
.• Hộ Pháp,
Văn Pháp THÁNH NGÔN
Hầu đàn: Thảo
Xá Hiền Cung ngày 23 Décembre 1931
.• Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
.• Quyền Đầu Sư Thái Thơ Thanh
.• Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và mấy vị
.• Chức sắc Thiên phong có mặt tại Thảo Xá ngày ấy.
THẦY các con,
Thầy lấy làm vui đặng gặp các con đủ mặt ngày nay
mà hầu Thầy. Các con nghe lời dặn cần yếu này, mà làm phận sự các con cho vẹn
vẽ cùng Thái Bạch.
Các con phải nhớ rằng toàn thế giái Càn Khôn chỉnh
có hai quyền: trên là quyền hành Chí Tôn của Thầy, dưới là quyền hành của sanh
chúng, Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày
nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy
đặng đủ phương độ tận chúng sanh. Còn các con cả thảy đều đứng vào hành sanh
chúng dưới quyền hành chuyển thế của đời nghĩa là toàn nhân loại đồng quyền
cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy. Vậy thì Vạn linh cũng
có thể đoạt vị vào hàng Thần Thánh Tiên Phật đặng.
Trong quyền hành ấy có nhiều đẳng cấp nên khỏi phải
chịu phẩm người, ấy vậy người là chủ quyền của vạn linh. Thầy nói rõ: quyền Chí
Tôn là Thầy, quyền Vạn linh là sanh chúng, ngày nào quyền lực Chí Tôn đặng hiệp
một cùng Vạn linh thì đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn
của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông cùng Hộ Pháp. Vậy thì quyền
hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Còn cả
nhơn loại thì là quyền lực Vạn linh. Quyền Chí Tôn của Thầy duy có quyền Vạn
linh đối phó mà thôi.
Thái Bạch hằng giận các con rằng mọi điều chi nó đã
hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ rúng.
Vậy thì từ đây hễ có mệnh lệnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải
hội đủ Nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẽ phân minh đặng
thi hành phận sự.
Thái Bạch đã hứa cùng Thầy rằng qua ngày Tòa Tam
giáo nữ phái rồi thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa, các con rán mà chìu theo lòng
nó nghe!
Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.
Sao y bản chánh
Hiệp Thiên Đài
Tiếp Thế
Lê Thế Vĩnh
PHỤ
CHÚ 9
BÀI DIỄN VĂN
của ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Đọc tại Toà Thánh ngày
mồng 8 tháng Tư năm Giáp Tuất (1934).
VÍA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Về: Phương diện Chánh Thể
Của Đạo.
Chư Đạo Hữu cùng Chư Đạo Muội,
Buổi chênh nghiêng Đạo đã hầu qua, tâm lý toàn con
cái của Đại Từ Phụ dường như đặng chững chàng an tịnh đủ để trọn trí thức tinh
thần suy gẫm, nên Tệ Huynh ngày nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc của
Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng thuyết giáo đặng chỉ rõ Thánh ý nơi nào để
cho Đạo phải chịu khảo đảo dường ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường
nơi bài thuyết pháp này, xin chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cố tâm kiếm hiểu.
Các Tôn giáo đã lập thành tại thế ngày nay đã đoạt
đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, thì trước kia cũng phải chịu khổ hạnh
nương lấy một quyền hành bạc nhược yếu ớt của tâm lý mà thôi.
Ôi! Quyền hành tâm lý buổi nào thì cũng gặp sẵn một
tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh, oai nghiêm là quyền Đời hiện hữu; sự xung
đột của quyền Đời và quyền Đạo từ cổ chí kim tự nhiên đều có, chúng ta đã choán
biết rằng những quyền lực hành thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất; trứng
tinh thần nảy nở sanh quyền lực, vì cớ cho nên các quyền hành đã có đủ thế lực
mạnh mẽ nắm thế trị vào tay, hễ vừa thấy tri thức tinh thần của nhơn sanh ướm
mòi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác nữa, thì đã sợ lưu hại cho mình
nên toan phương đập đổ.
Cuộc kết quả sự phản kháng ấy, hoặc thành hoặc bại,
óc ảnh hưởng của tương lai sinh hoạt quyền lực đương nhiên của họ, vì cớ mà sự
xung đột hằng xem dữ dội.
Ấy là phương khảo thí tài lực của trí thức tinh
thần hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở; hay thì chánh,
dở thì tà, chánh thì còn, tà thì dứt. Ấy vậy dầu cho sự xung đột của quyền Đạo
với quyền Đời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Đạo
quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Đạo. Phận sự bảo
trọng lấy mình là dễ, còn phận sự bảo Đạo vốn khó vô cùng:; đáng lẽ những kẻ
khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy mình nên gọi là người ơn, còn những
người khuyên lơn bảo tồn nền Đạo nên cho là kẻ nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng
khi chẳng cần nói thì chư Hiền hữu, chư Hiền muội cũng đoán biết rằng chẳng lẽ
Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm giềng mối Đạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà
thôi, trái ngược thì lại nhủ rằng: phải hủy mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng
lẽ chúng ta đành cho rằng trọng mình hơn trọng Đạo là chơn lý?
Ôi! biết bao phen đêm khuya canh vắng Tệ Huynh nằm
gác tay lên trán thầm hỏi lấy mình:
Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu
ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Đại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san
sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác?
Càng nghĩ, càng lo, lo rồi lại sợ, sợ không kham
trách nhậm mạng Trời; càng suy, càng tủi, tủi rồi lại khóc, khóc sợ không
phương nâng đỡ nỗi chơn truyền.
Đại Từ Phụ lại qui tụ con cái của Ngài gần trên một
triệu sanh linh biểu bảo hộ nưng niu dạy dỗ.
Anh thì nghèo, em thì khó, gia nghiệp không mà
quyền thế cũng không, bị cường bức ép đè mang khổ hạnh.
Đã chín năm, Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt, nhiều
thảm trạng khó khăn, tinh những tiếng khóc than chẳng dứt: kẻ thì đói, người
thì đau. Chức sắc thì hèn, Tín đồ thì dở, mối thương tâm chất chứa đầy lòng,
giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.
An đâu đặng mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn, chúng
sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng thấy một ai lo trọn Đạo. Tệ Huynh
xem lại những tay yếu trọng chấp chánh Đạo quyền thay vì chia đau sớt thảm, lo
giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho
Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên, những thảm khổ ngơ tai, bịt mắt, lại buộc Tệ Huynh
phải an tịnh đặng đắc Đạo thành Tiên, dầu mối Đạo chênh nghiêng đừng ngó đến.
Cái sở vọng của các người ấy, Tệ Huynh để cho chư
Hiền hữu, chư Hiền muội kiếm hiểu coi họ để tại nơi nào, không cần cạn tỏ.
Vì Tệ Huynh biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên
không khứng nghe lời mới nảy sanh ra trường ác cảm.
Nào là lường gạt nhơn sanh, nào là tranh giành
quyền tước, gieo nhục nhã khắp nơi, lấy quyền Đời chế Đạo. Một trường ngôn luận
xảo ngược, dối gian truyền cùng làng khắp xóm, nhưng sự kết cuộc cũng không hại
chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm cho thiên hạ chê khinh Chánh Giáo. Chẳng
biết lương tâm của những kẻ phá Đạo ngày nay nó phải thế nào, lẽ tà chánh trọng
khinh sao chẳng rõ.
Tệ Huynh ngồi nhớ lại đã cách mười năm, nghĩa là hạ
tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng Nghị, vào lầu ra các, trong thì bạn,
ngoài thì quan, nẻo hoạn-lộ hèn sang đã choán, lẽ nhục vinh đã ngán với tuồng
đời, mùi cay đắng đã từng quen với mặt thế, nào là mày trung, nào là mặt nịnh,
đã trông nom mõi mắt mòn hơi, nên mới biết chê Đời mến Đạo.
Nay lục tuần hầu đến, lẽ nên hư quyền biến cũng đã
thừa: có chi hay phòng mến phòng ưa, có chi trọng phòng yêu phòng chuộng. Tệ
Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Đại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem
lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm
lợi khí mở chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải
trả nợ thì Thầy lẽ nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của Nhơn sanh cho kẻ
tham gian bạo ngược, còn như gọi rằng duyên thì chắc đủ lực quyền cầm vững Đạo.
Đã 9 năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai, mà cũng có thể
bảo thủ chơn truyền của Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là một tay giả
mạo hay là một đứa tội nhơn mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn Phàm tánh.
Bởi biết mình, biết Thầy, biết người, biết Đạo, mới
yên trí tịnh tâm giữ gìn Đạo Mạch.
Tệ Huynh duy có một sở vọng là ngày nào Đạo đắc
thành, đời đặng thật thái bình thì thối bước lui chơn liền, đặng thích chí du
sơn ngoạn thủy, cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng
phải tại mến đời ngồi chịu khổ.
Ngày nay là ngày Vía Đức Thích Ca mà Tệ Huynh không
giải thích Đức Thích Ca vì chư Hiền Hữu lưỡng phái cũng hiểu rõ tích của Ngài
và chư Hiền Hữu cũng thông suốt Phật Đạo chút ít rồi.
Tệ Huynh chỉ để thì giờ quí báu đặng nhắc cho chư
Hiền Hữu lưỡng phái nhớ một hai tôn chỉ quí trọng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
đương thời, nhứt là về phương diện chánh thể của Đạo.
Tuy Tệ Huynh không giảng Phật Đạo chớ Đại Đạo ngày
nay cũng là Phật Đạo vì gồm hết Tam Giáo (Nho, Thích, Đạo) vì Thích Ca cũng là
Thầy, Thầy là Thích Ca.
Tệ Huynh hằng nhắc chư Hiền hữu, chư Hiền muội rằng
Đạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Đạo thì phương diện khác nhau, vì Đạo khai
phải phù hạp với dân trí đương thời khai Đạo.
Khi Đức Thích Ca mở Phật Đạo thì nhơn sanh buổi ấy
còn thánh đức nhiều, cả cá nhơn đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế, nên
Thiên Đình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt tứ khổ (sanh, lão, bịnh, tử)
mà độ chúng.
Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ não, lao
thân tiêu tứ với đời mà chừng thành Đạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội rồi mới
thành Đạo.
Đức Lão Tử khai Đạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp
làm tôn chỉ cao thượng vì đương buổi ấy thì nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc.
Ngài cũng bị nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc
chúng. Đệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đổi khi Ngài đi ngang qua
Hàm Cốc Quan vô nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông này là chơn linh Ngươn Thỉ thì
Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa Ngài. Mà Đạo
Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.
Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Đình xuống khai Đạo Nho
đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt, vì trong buổi ấy cang thường luân lý
suy tồi, nên nhơn sanh thấy cái Đạo nhơn luân của Ngài hay, sửa đời đặng, thì
khâm phục.
Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời. Qua Tề bị Yến
Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc ăn vác nằm sương nhọc
nhằn biết mấy. Đến đỗi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thì khanh nho (đốt
sách, chôn học trò) mà Đạo Nho cũng loán truyền khắp hoàn cầu.
551 năm sau Khổng Phu Tử mới khai Đạo bên Thái Tây
nên Thầy cho Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh khai Đạo Thánh cho phù hạp với
dân trí Âu Châu.
Đức Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến
đỗi hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Đồ theo Ngài mà sau còn có một Thánh
Pierre mà thôi. Nhưng người cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền
bắt buộc.
Chừng Đạo thành thì có Du Già bắt Ngài mà nạp cho
Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh giá. Hành xác Ngài gớm ghiết như
thế đặng cho Nhơn sanh kinh khủng bỏ Đạo, mà Đạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả
hoàn cầu.
Lúc Đạo Gia Tô truyền qua Đông Pháp thì vua Annam
cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Đạo Gia Tô quá Thập Tự, ai không bước ngang
qua thì bị tử hình.
Hình phạt gớm ghê như thế mà cũng có người Chí
Thánh thọ tử mà thôi, chớ không chịu chối Đạo.
Xét kỹ lại, thiệt người xưa là Thánh Đức, ít ai bì
kịp cứ giữ chánh tâm làm trọng, thỉ chung như nhứt mà thôi.
Ngảnh lại ngày nay mà ngán cho đời!
Ôi! trong 8 năm dư chuông thánh truy hồn. Đạo Trời
đem tin cứu thế mà hễ có nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người toan
phá Đạo thì mau mau cuốn Thánh Tượng, dẹp Thiên Bàn, lòng toan chối Đạo.
Biết bao nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ
theo nịnh tà mong toan phá Đạo, rước rắn rừng vô cắn gà nhà, nạp Chí Thánh vô
đề lao cho phỉ lòng oán hận!
Con một cha, gà một ổ, mà làm cho đổ luỵ rơi châu,
gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí vẹn phải dừng chơn thối bước!
Quạ nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một
đường sao nỡ hại nhau như thế???
Ai toan bứng gốc phá chồi của nền Đạo thì để cho
Thiêng Liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật lệ của Thầy và Đức Lý Giáo Tông
đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Đạo vì luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt tà quyền.
Đời
có thạnh có suy
Đạo
động tịnh chuyển xây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét