Cũng nên biết, Thánh Tượng (Thiên Nhãn ) dùng để
khai đàn buổi đầu do ông Cao Quỳnh Cư xem mẫu nơi nhà ông Ngô Văn Chiêu và hoạ
biếu không cho chư tín hữu đem về thờ.
5.
Thiên phong đầu tiên:
Đến tháng 3 năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn giáng
cơ dạy bà Nguyễn Thị Hiếu may Thiên Phục cho chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài liệt kê như sau:
A .
Thiên phục Cửu Trùng Đài
1 - Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt: 1 cái áo đại
phục xanh và 1 cái khăn đống chín lớp xanh.
2 - Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt: 1 cái áo Đại Phục
đỏ và 1 cái khăn 9 lớp đỏ.
3 - Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh: 1 cái
áo Đại Phục vàng và 1 cái khăn 9 lớp vàng.
4 - Ngài Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh (tức Nguyễn
Ngọc Tương) 1 cái áo Đại phục xanh, 1 cái khăn 9 lớp xanh.
5 - Ngài Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh: 1 cái áo
Đại phục đỏ và 1 cái khăn 9 lớp đỏ.
6 - Ngài Ngô Văn Chiêu: 1 cái áo Giáo Tông có thêu
bùa bát quái và 1 cái mão Giáo Tông.
7 - Vương Quan Kỳ, một đại phục Giáo Sư phái Thượng
và 1 cái khăn 7 lớp.
B . Thiên phục Hiệp Thiên
Đài
1 - Đức Cao Thượng Phẩm: 1 cái áo Đại phục trắng và 1 cái áo lá xanh.
2 - Đức Cao Thượng Sanh: 1 cái áo Đại phục trắng và 1 cái áo lá xanh.
3 - Và 12 cái áo Đại phục trắng và 12 cái Nhựt Nguyệt Mạo cho 12 vị thời
quân.
Vào ngày 22 tháng 4 năm 1926 (11-3-Bính Dần) cầu cơ
tại tư gia ông Cao Quỳnh Cư, Đức Cao Đài giảng dạy:
"Đạo
phát trễ một ngày là một ngày hại cho nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên
cơ chẳng nghịch đặng."
Đến ngày 25-4-1926 (15-3-BD) thì thiết lễ Thiên
phong tại nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Thầy dạy:
"Lịch,
con đã nghe đọc những lời Thầy dặn hả?
Cư nghe dặn, con bảo Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông
hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ ăn mặc như thường, đội nón,
cười ....
Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp giống như hát bội mà
mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt vô cho ngay ngôi
Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu Đức, Hậu đứng gần, kẻo xuất
hồn nó té tội nghiệp.
Khi chấp cơ xong, hai con mặc thiên phục vào rồi,
nó mới leo lên.
Lịch! con viết 1 lá bùa Gián Ma Xử đưa cho Tắc cầm.
Hai con mặc đồ thường chừng nào Thầy triệu Ngũ Lôi và Hộ Pháp về rồi Thầy biểu
mặc vô thề mới đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn Ngũ Lôi, khi
giáng rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị vị Đầu Sư quì mà thề.
Cư đem 3 bộ Thiên phục để vọng trên 3 cái ngai, rồi
con chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn thần 3 bộ Thiên phục và 3
cái ngai ấy. Rồi mới kêu 2 vị Đầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó đặng Thầy vẽ
phù vào mình, xong cho Giảng xướng lên "Phục vị" thì 2 người leo lên
ngồi. Cả thảy chư môn đệ đều quì xuống, bảo Tắc nó leo lên bàn, con chấp bút
bằng nhang đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra. Rồi bảo hai vị
Đầu Sư xuống ngai đến trước mặt Ngũ Lôi hai tay chấp trên đầu cúi ngay bùa Kim
Quang Tiên mà thề như vầy:
Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung
Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt thề Hoàng thiên Hậu thổ
trước bửu tháp Ngũ Lôi rằng: Làm tròn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi
đều là môn đệ của Đức Cao Đài Ngọc Đế. Nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định chẳng
dám chuyên quyền mà lập thành tả Đạo. Như ngày sau hữu tội, thì thề có Ngũ Lôi
tru diệt.
Đến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống vái y như vậy
nhưng câu sau như vầy: như ngày sau có phạm Thiên điều thề có Hộ Pháp đoạ Tam
đồ bất năng thoát tục.
Rồi mới bảo Giảng xướng lại nữa "Phục vị"
thì nhị vị Đầu Sư trở lại ngồi trên ngai. Chư môn đệ mỗi người đều đến lạy mỗi
người hai lạy.
Tới phiên các môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà
thề rằng: Tên gì ..... họ gì............. thề rằng: từ đây biết một Đạo Cao Đài
Ngọc Đế chẳng đổi dạ, đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài. Như
sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục.
Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến
lạy nhị vị Đầu Sư."
Đó là những nghi lễ bí truyền, về sau đạo cứ theo
đó mà thi hành tuỳ theo chức sắc hay đạo hữu mà lời thề được biến đổi như trên.
Đến hai mươi ba giờ rưỡi đêm đó, Thầy lại giáng cơ
cho thi:
Kim
triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Am
hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, Hữu ban mang.
Đức, Hậu, phong vi Tiên Đạo Phò Cơ
Đạo Sĩ.
Cư,
phong vi Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ.
Tắc,
phong vi Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.
Trung,
Lịch, đã thọ sắc, cứ tước vị mà theo sắc mạng Ta. (TNHT Q1/31)
Sau
đây là danh sách và ngày tháng các vị Đại Thiên phong trước khi khai đạo chính
thức.
A .
Hiệp Thiên Đài:
1 . Ô. Phạm Công Tắc: Thiên phong Hộ Pháp ngày 15
tháng 3 Bính Dần.
2 . Ô. Cao Quỳnh Cư: Thiên phong Thượng Phẩm ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần.
3 . Ô. Cao Hoài Sang: Thiên phong Thượng Sanh ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần.
B.
Cửu Trùng Đài
1 . Ô. Nguyễn Văn Tương:
(Thái Lão Sư, Minh Sư ) Thiên phong Chưởng Pháp
phái Thượng ngày 24-7 Bính Dần.
2 . Hoà Thượng Như Nhãn: Chưởng Pháp phái Thái ngày
24-7-Bính Dần.
3 . Trần Văn Thụ:
Thái Lão Sư (*1) Thiên phong Chưởng Pháp phái Ngọc
ngày 10-9-Bính Dần.
4 . Lê Văn Trung: Thiên phong Đầu Sư Thượng Trung
Nhựt ngày 15-3-Bính Dần
5 . Lê Văn Lịch:
(Con ông Lê Văn Tiểng) Thiên phong Đầu Sư Ngọc Lịch
Nguyệt ngày 15-3-Bính Dần
6 . Thiện Minh:
(đệ tử Như Nhãn) Thiên phong Đầu Sư Thái Minh Tinh
ngày 13-10-Bính Dần
7 . Lê Bá Trang: Thiên phong Phối Sư Ngọc Trang Thanh ngày 3-7-Bính Dần.
8 . Nguyễn Ngọc Tương: Thiên phong Phối Sư Thượng Tương Thanh ngày 17-5-Bính
Dần
9 . Lê Văn Hoá: Thiên phong Phối Sư Thượng Hoá Thanh ngày 19-8-Bính Dần
10 . Nguyễn Ngọc Thơ: Thiên phong Phối Sư Thái Thơ
Thanh ngày 2-7-Bính Dần.
C .
Giáo Sư
Ngọc Kinh Thanh ngày
mùng 8 tháng 6 năm Bính Dần
Ngọc Vân Thanh ngày
mùng 8 tháng 6 năm Bính Dần
Ngọc Đạt Thanh ngày
mùng 8 tháng 6 năm Bính Dần
Ngọc Mùi Thanh ngày
mùng 8 tháng 6 năm Bính Dần
Ngọc Thông Thanh ngày
28 tháng 9 năm Bính Dần
Thượng Kỳ Thanh ngày
14 tháng 5 năm Bính Dần
Thượng Kim Thanh ngày
17 tháng 5 năm Bính Dần
Thượng Chức Thanh ngày
19 tháng 8 năm Bính Dần
Thượng Hành Thanh ngày
29 tháng 8 năm Bính Dần
Thượng Vinh Thanh ngày
9 tháng 9 năm Bính Dần
Thượng Định Thanh ngày
28 tháng 9 năm Bính Dần
Thái Nhung Thanh ngày
15 tháng 7 năm Bính Dần
Thái Luật Thanh ngày
22 tháng 7 năm Bính Dần
Thái Bính Thanh ngày
7 tháng 8 năm Bính Dần
D . Giáo Hữu
Thượng Giỏi Thanh ngày 23 tháng 8
năm Bính Dần
Thượng Bản Thanh ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần
Thượng Giảng Thanh ngày 7 tháng 8 năm Bính Dần
E.
Lễ Sanh
Trần Văn Xương ngày
26 tháng 10 năm Bính Dần
Trần Văn Tạ ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần
Trần Văn Hoằng ngày
26 tháng 10 năm Bính Dần
Cao Mỹ Ngọc ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần
Mắt Mục Thanh ngày
26 tháng 10 năm Bính Dần
Những vị trên đây đều là những người hữu danh trong
nền Đại Đạo. Có nhiều vị Lễ Sanh phong trước ngày Khai đạo (15-10-BD) nhưng
không còn ảnh hưởng gì về sau. Riêng các vị trên như ông Trần Văn Tạ sau đắc
phong Hộ Đàn Pháp Quân. Ông Cao Mỹ Ngọc sau đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân. Ông
Mắt Mục Thanh (tức Tư Mắc) tên thật là Nguyễn Phát Trước thọ phong Phụ Đạo
Chưởng Nghiêm Pháp Quân, sau đặt điều vu cáo Đức Cao Thượng Phẩm bị quả báo một
cách đáng thương.
(*1) Xem tiểu sử
trong "Đại Đạo Danh Nhân" cùng soạn giả.
6 . Các đàn lệ và lễ nhập
môn:
Vào ngày 24-4-1926 (14-3-Bính Dần) thì ông Ngô Văn
Chiêu tách riêng, không đi phổ độ mà lo tu tự giác vô vi, lấy câu "Ngô
thân bất độ hà thân độ" làm chủ thuyết. Còn ông Lê Văn Trung vâng thánh ý
lo thiết Đàn truyền bá mối Đạo. Dù vậy cả hai đều thờ kính Đấng Cao Đài.
Về đàn lệ thì khởi đầu chỉ có Đàn Cầu Kho tại nhà
ông Đoàn Văn Bản sau thành Tiểu Thánh Thất. Nhưng Đàn Cầu Kho rất hẹp, đồ đạc
thiếu hụt. Bàn thờ Chí Tôn chỉ là một cái ghế nhỏ bằng cây giá tị. Thiên Nhãn
được vẽ trong mảnh giấy cao 3 tấc, rộng 2 tấc. Chiếu đệm cũng không đủ trãi mà
lễ bái. Tuy thanh đạm mà hàng chục tín hữu cứ mỗi đêm thứ bảy đến hầu đàn học
đạo. Sau Thánh Thất được nhiều vị sửa sang lại được khang trang.
Vì cung ứng cho kịp với việc phổ thông mối Đạo. Đức
Chí Tôn dạy lập thêm 5 đàn lệ nữa.
a)
Đàn Cầu Kho: Do ông phủ Vương Quan Kỳ chứng đàn sau có quí ông Ngô Tường Vân, Nguyễn
Văn Mùi, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Văn Kinh (ông này có viết nhiều sách Đạo) cùng
với ông Kỳ luân phiên trông coi việc cúng tế. Sắp đặt trong ngoài lễ lộc thì do
quí ông Đoàn Văn Bản, Hoàng Văn Giả, Lê Văn Giỏi, Lê Văn Giảng, Nguyễn Văn
Tường. Còn phò loan do hai ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức.
b)
Đàn Chợ Lớn: tại nhà ông cựu Nghị viên Lê Văn Trung. Ông Trung và ông phủ Lê Bá Trang
chứng đàn và hai ông Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu thì phò loan.
c)
Đàn Tân Kim (Cần Giuộc): tại nhà ông Cựu Hội đồng địa hạt Nguyễn Văn Lai, quí
ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Văn Lịch chứng đàn. Quí ông Ca Minh Chương và
Nguyễn Văn Tươi phò loan. Lo việc cúng tế do quí ông Lê Văn Tiếp, Võ Văn Kỉnh,
Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Tỉ.
d)
Đàn Lộc Giang (Chợ Lớn): tại chùa Phước Long của Yết ma Giống. Ông phủ Mạc Văn
Nghĩa và ông Yết Ma chứng đàn. Quí ông Trần Duy Nghĩa và Trương Văn Tràng phò
loan.
e)
Đàn Tân Định: tại nhà ông huyện Nguyễn Ngọc Thơ, do ông chứng đàn và quí ông Cao Quỳnh
Cư, Phạm Công Tắc phò loan.
f)
Đàn Thủ Đức: tại nhà ông Ngô Văn Điều do ông chứng đàn và quí ông Huỳnh Văn Mai, Võ
Văn Nguyên phò loan. (*1)
Ngoài những đàn lệ trên, còn thiết Đại Đàn nhiều
nơi khác, để góp phần phổ thông nền chơn giáo. Thêm vào đó Đức Chí Tôn dạy lập
một Đàn đặc biệt tại nhà ông Trần Văn Tạ để chữa bệnh. Phần công quả này do ông
Tạ và con là Trần Văn Hoằng lo liệu.
Đức Chí Tôn lại dạy quí ông Cư, Tắc, Sang, Hậu,
Đức, Tạ phải tuỳ trường hợp mà truyền nhân điện chữa bệnh cho hàng môn đệ.
Nhờ huyền diệu Thiêng Liêng của Ơn Trên ban cho lúc
mới Khai Đạo, nên quí ông Tắc, Đức chữa lành nhiều bịnh ngặt nghèo. Cách chữa
bịnh chỉ đặt bàn tay vào chỗ đau cho nhân điện chạy vào cơ thể người bịnh là
khỏi đau. Chính mấy vị ấy cũng ngạc nhiên cho sự huyền diệu vì các ông đâu phải
thầy thuốc. Ông Đức còn chửa lành bịnh á khẩu, thủng và thiên thời....
Ông Cao Quỳnh Cư khi ở Toà Thánh tạm cũng chữa lành
nhiều bịnh bằng cách cho uống nước "âm dương thuỷ" và "vỏ cây ba
nhánh" trước Toà Thánh mà cứu được nhiều người.
Việc trị bịnh bằng nhân điện cũng phải ngưng một
lượt với việc ngưng cơ bút vào cuối tháng 6 năm 1927 do lịnh Đức Chí Tôn.
(*1) NGUYỄN TRUNG
HẬU Đại Đạo Căn Nguyên, Sài gòn 1930
7 . Việc tạo quả Càn khôn
thờ Đức Chí Tôn:
Từ trước đã họa Thiên Nhãn mà thờ Đức Chí Tôn nhưng
trong đàn cơ ngày 18-9-1926 (12-8-Bính Dần), Đức Chí Tôn dạy:
.... một trái như trái đất tròn quay, hiểu không?
Bề kính tâm ba thước ba tấc, nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ
mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và Tinh Tú vẽ
lên Càn Khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên
không khí; tức là không phải Tinh Tú còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế
giái thì đều là Tinh Tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao. Con phải biểu
vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc
Đẩu con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao
Bắc Đẩu vẽ Con Mắt Thầy; hiểu chăng? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai đúc trong
một ngọn đèn cho nó thường sáng; ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn
loại Càn Khôn Thế Giới đó; ... ... ... Còn chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần đã
lên cốt, thì để dài theo dưới, hiểu không con? (TNHT Q.1/31)
Còn việc, tại sao thờ Thiên Nhãn thì Đức Chí Tôn
giảng rằng (24-2-1926):
"Nhãn
thị chủ tâm
Lưỡng
quang chủ tể
Quang
thị Thần
Thần
thị Thiên
Thiên
giả, ngã giã."
Nghĩa là: Mắt là chủ tâm, hai ánh sáng trong mắt là
chủ tể. Ánh sáng là thần, Thần là
Trời, Trời là Ta vậy.
(*1) Kinh Dịch chương X viết : Dịch khởi thuỷ từ
Càn khôn. Vậy đạo Cao Đài và Kinh Dịch có cùng chung một gốc.
8 .
Số đồ đệ của kỳ ba tam chuyển:
Đàn đêm 4 tháng 10 năm 1926 (27-8-BD) đã qui định
rõ số đồ đệ của Cao Đài giáo.
Thầy Khổng Tử trước có tam thiên đồ đệ truyền lại
còn thất thập nhị Hiền.
Thầy Lão Tử trước đặng một trò là Nguơn Thỉ.
Thầy Giê-Giu trước đặng mười hai người, chừng bị
bắt còn lại là Pierre mà thôi.
Thầy Thích Già đặng bốn người; ba người bỏ Thầy còn
lại một.
Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam
Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Đồ Đệ.
Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên
hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng?
Nơi Bạch Ngọc Kinh hơn sáu chục năm trước, chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời.
......... Các con có cả ba chánh đạo là Tam Giáo,
các con biết tôn trọng; ngày nay lại thêm chánh đạo nữa, các con biết ít nước
nào đặng vậy? ... ... ... Thầy nói cho các con biết: Dầu một vị Đại La Thiên Đế
xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng. (TNHT Q1/36)
9 . Khai đạo với chánh phủ
Pháp:
Ngày 29 tháng 9 năm 1926 (23 tháng 8 Bính Dần).
Ngài Đầu Sư Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư đạo hữu hết thảy là 247
người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào tịch đạo để khai đạo với chính
phủ Pháp.
Ngày 7-10-1926 tờ khai đạo được gởi lên quan Thống
Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (còn toàn quyền Đông Pháp là Alexandre Varenne
(1925-1928) nhằm triều Bảo Đại. Trong tờ ấy có 28 người ký tên là: bà Lâm Ngọc
Thanh, ông Lê Văn Trung, ông Nguyễn Ngọc Tương, ông Nguyễn Ngọc Thơ, ông Nguyễn
Văn Kinh, ông Lê Bá Trang, ông Đoàn Văn Bản, ông Lê Văn Giảng, ông Cao Quỳnh Cư,
ông Phạm Công Tắc, ông Cao Hoài Sang, ông Nguyễn Trung Hậu, ông Trương Hữu Đức,
ông Vương Quan Kỳ, ông Trần Đạo Quang, ông Lê Văn Lịch......
Nội dung tờ khai đạo ngày 7-10-1926:
Bẩm quan Thống Đốc,
Những người ký tên dưới đây thành kính thưa cùng
quan lớn rõ việc như sau:
Vốn từ trước, tại xứ Đông Pháp vẫn có Tam giáo lưu
hành là: Nho Thích Đạo. Tổ tiên chúng tôi tôn sùng cả Tam giáo và thực hành
theo Thánh huấn tốt đẹp của các vị giáo chủ truyền dạy, mới đặng an cư lạc
nghiệp. Trong cố vãng ấy, thiên hạ thái bình đến nổi đêm ngủ không đóng cửa, đi
đường chẳng lượm của rơi, "gia vô bế hộ, lộ bất thập di".
Rất tiếc thay! cái thời mỹ tục ấy chẳng còn thấy
nữa bởi các cớ sau này:
1 . Tôn chỉ của các tôn giáo giống in như một là làm lành lánh dữ chỉ tâm sùng
bái Đấng tạo hoá, mà các người hành đạo kiếm thế chia rẽ nhau.
2 . Các người ấy lại canh cải cho sai nát mối chơn truyền quí báu của Tam
giáo.
3 . Đều tranh nhau trong chốn phù ba, trong vùng vinh hoa phú quí. Cái lòng
tham dục của nhân sanh cũng là một nguyên do độc nhứt phát sanh ra những sự bất
đồng ý kiến ngày nay. Vậy nên, người Việt Nam hiện giờ mới bỏ mất cả thuần
phong mỹ tục ngày xưa.
Thấy tình cảnh rất thương tâm, nên một nhóm người
Việt Nam vì lòng muốn giữ căn bản, vì lòng mến Đạo, mới kiếm phương châm để
dựng lại cái nền Tôn giáo độc nhứt kêu "CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO".
Cái tên "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" chỉ nghĩa
là "Đại ân xá kỳ ba" cũng của Đức Chí Tôn đến giúp các người đứng tên
dưới đây lập nền Đạo mới này đặt ra. Đức Chí Tôn đến xưng danh là "Ngọc
Hoàng Thượng Đế" tá danh Cao Đài chúa tể chư quyền vạn loại.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng đồng loan thủ cơ chấp
bút để, truyền Thánh Huấn, hầu tom góp và truyền dạy các giáo lý của Tam giáo.
Giáo lý sẽ dạy chúng ta:
1) Luân lý cao thâm của Đức Khổng Thánh.
2) Những đức tánh của Thích giáo và Đạo giáo.
Các Thánh Đức ấy cốt dạy làm lành lánh dữ, rộng
thương nhân loại, giữ lòng hoà hiệp và tránh các mối cạnh tranh cùng chinh
chiến.
Chúng tôi xin gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:
1 - Một bản sao lục Thánh ngôn của Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế.
2 - Một bản phiên dịch Thánh kinh.
Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại
được cộng hưởng thái bình như thuở trước. Được vậy, nhơn sanh sẽ thấy đặng thời
kỳ mới mẽ, cực kỳ hạnh phúc.
Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An Nam đã nhìn
nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Đạo Tịch ghim theo đây. Đến khai
cho quan lớn biết rằng kể từ nay, chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp cả hoàn
cầu.
Chúng tôi xin quan lớn công nhận Tờ khai đạo của
chúng tôi.
Đồng
ký tên:
- Bà Lâm Ngọc Thanh Nghiệp
chủ Vũng Liêm
- Ông Lê Văn Trung Cựu
thượng nghị viên, thọ Ngũ đẳng Bửu tinh (Chợ Lớn)
- Ông Lê Văn Lịch Thầy tu làng Long
An, Chợ Lớn
- Ông Trần Đạo Quang Thầy tu làng Hạnh Thông Tây, Gia Định
- Ông Nguyễn Ngọc Tương Tri phủ, chủ quận Cần Giuộc.
- Ông Nguyễn Ngọc Thơ Nghiệp chủ, Sài Gòn.
- Ông Lê Bá Trang Đốc
phủ sứ, Chợ Lớn.
- Ông Vương Quan Kỳ Tri
phủ Sở thuế thân, Sài Gòn
- Ông Nguyễn Văn Kinh Thầy tu Bình Lý thôn, Gia Định
- Ngô Tường Vân Thông
phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
- Ông Nguyễn Văn Đạt Nghiệp chủ, Sài Gòn
- Ông Ngô Văn Kim Điền
chủ, Đại hương cả, Cần Giuộc
- Ông Đoàn Văn Bản Đốc
học trường Cầu Kho
- Ông Lê Văn Giảng Thơ
ký hãng Ippolito, Sài Gòn
- Ông Huỳnh Văn Giỏi Thông phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn
- Ông Nguyễn Văn Tường Thông ngôn Sở Tuần Cảnh, Sài Gòn
- Ông Cao Quỳnh Cư Thơ ký Sở Hoả xa, Sài
Gòn
- Ông Phạm Công Tắc Thơ
ký Sở Thương Chánh Sài Gòn
- Ông Cao Hoài Sang Thơ ký Sở Thương Chánh,
Sài Gòn
- Ông Nguyễn Trung Hậu Đốc học trường tư thục Đa Kao
- Ông Trương Hữu Đức Thơ ký Sở Hoả Xa, Sài Gòn
- Ông Huỳnh Trung Tuất Nghiệp chủ, Chợ Đủi Sài Gòn.
- Ông Nguyễn Văn Chức Cai tổng, Chợ Lớn
- Ông Lại Văn Hành Hương
cả, Chợ Lớn
- Ông Nguyễn Văn Trò Giáo viên, Sài Gòn.
- Ông Nguyễn Văn Hương Giáo viên, Đa Kao.
- Ông Võ Văn Kinh Giáo
tập, Cần Giuộc.
- Ông Phạm
Văn Tỷ Giáo tập,
Cần Giuộc.
Thống đốc Nam Kỳ lúc ấy, không hề ký giấy phép nào
cho Đạo Cao Đài hoạt động. G.Meillon trong "Caodaisme" viết:
"Ngày 7-10-1926 Thống đốc Nam Kỳ đã nhận được tuyên ngôn chính thức về
việc thành lập Đạo Cao Đài. Ông đã khôn khéo tiếp nhận văn kiện, tuy nhiên
không cam kết công nhận chính thức mối Đạo". Ông G.Meillon gọi đó là bản
tuyên ngôn chính thức về sự thành lập Đạo Cao Đài (La déclaration officielle de
la fonda tion du Caodaisme) chớ không có văn bản nào của nhà cầm quyền Pháp cho
phép Đạo Cao Đài hoạt động như nhiều người lầm tưởng.
10 . Thầy giao quyền cho Đức
Lý Thái Bạch:
Đàn đêm 29-10-1926, Đức Chí Tôn giao cho Đức Lý làm
Giáo Tông dìu dẫn và nghiêm trị những giáo đồ hành sái chơn truyền (*1). Đức Lý
Thái Bạch là Nhứt Trấn Oai nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức
Quan Âm Bồ Tát là Nhị Trấn còn Đức Quan Thánh Đế quân là Tam Trấn để trông nom
dìu dắt chư môn đệ.
"Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi
tay Bần Đạo, vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng, vun đắp nền đạo cho vững
vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng; chớ sụt sè ôm thói
mờ hồ, thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo
Thánh ý của Thầy là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.
Mở một mối đạo chẳng phải là sự thường tình, mà
sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải
có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt
mới răn đặng lòng tà vạy.
... ... ....
Đặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giái, dìu dắt, rửa
lỗi mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung;
nếu Thầy chẳng Đại Từ Đại Bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.
Từ đây Bần Đạo, phải để ý dìu dắt bước đường cho
các đạo hữu, phải gắng công thêm nữa cho hiệp với cơ Trời.
Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần
thì bị đọa Tam Pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách
nơi Bần Đạo. (TNHT Q1/42)"
(*1) Sau khi
Ngài Ngô Minh Chiêu không nhận Thiên phẩm Giáo Tông
PHẦN
THỨ HAI
THỜI
ĐẠO PHÁP (1926-1929)
CHƯƠNG
I
ĐẶT
NỀN TẢNG ĐẠI ĐẠO
1 . Đức Chí Tôn định ngày
khai Đạo 14-10-Bính Dần:
Sau khi lập tờ khai Đạo với chính phủ Pháp ngày
7-10-1926 thì việc phổ độ các tỉnh băt đầu từ tháng chín năm Bính Dần. Phân
định vùng trách nhiệm như sau:
- Nhóm 1: Do quí ông Lê Văn Trung, Nguyễn Ngọc Thơ,
Trần Đạo Quang lo việc phổ độ trong các tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay
là Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên), Long Xuyên, Châu Đốc, Hà
Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang).
Quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan.
- Nhóm 2: Do quí ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc
Tương, Yết Ma Luật (đã nhập môn) lo phổ độ trong mấy tỉnh: Chợ Lớn, Gò Công,
Tân An (nay là Long An), Mỹ Tho (nay là Định Tường), Bến Tre (nay là Kiến Hoà).
Quí ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức phò
loan.
- Nhóm 3: Do quí ông Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ,
Yết Ma Nhung lo phổ độ trong các tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một (nay là Bình
Dương), Gia Định, Biên Hoà, Bà Rịa (nay là Phước Tuy), Sađéc.
Quí ông Cao Quỳnh Diêu và ông Cao Hoài Sang phò
loan.
- Riêng ông Nguyễn Văn Tương (Chưởng Pháp khác với
ông Nguyễn Ngọc Tương ) và ông Nguyễn Văn Kinh (có viết nhiều sách Đạo) là rõ
thông đạo lý hơn cả nên đi khắp nơi mà giảng đạo.
Việc phổ độ này để chuẩn bị cho ngày khai đạo, nên
kết quả ngoài sức tưởng tượng. Chỉ trong một tháng mấy ngày mà đã có mấy vạn
người nhập môn cầu đạo. Đến tháng 10 tháng 10 thì tạm ngưng việc phổ độ để lo
sắp đặt lễ khánh thành Thánh thất Từ Lâm Tự ở Gò Kén (Tây Ninh).
Chùa Từ Lâm vốn của Hoà Thượng Như Nhãn ở chùa Giác
Hải, Chợ gạo (nên còn gọi là Hoà Thượng Giác Hải), quyên tiền trong bổn đạo của
ông ấy mà lập thành. Vào tháng 7 năm Bính Dần (tháng 8-1926) ông tình nguyện
dâng chùa (để làm Thánh Thất). Lúc bấy giờ chùa chưa cất xong, nhưng Đông lang,
Tây lang chưa có, tráng xi măng chưa rồi, sơn phết chưa lo, chung quanh chùa
còn nhiều cây bụi sầm uất.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Ngọc Thanh được lịnh
chi tiền lo tất cả mọi việc cho hoàn tất để kịp kỳ khai đạo. Lại phải xây tượng
Phật Thích Ca, cất Tịnh thất, đấp đường từ quốc lộ 22 vào chùa để xe hơi vào
được, rồi nào đốn cây, trồng kiểng, v.v... Còn bà Nguyễn Thị Hiếu thì lo việc
trù phòng, đãi ăn uống cho khách thập phương.
Ông Lê Văn Trung thay mặt cho toàn bổn đạo mời đông
đủ các chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng Đài, các quan khách chính quyền Pháp và
Việt Nam đến dự lễ. Các đạo hữu hiện diện đến hàng muôn người. Hội Thánh tiếp
đãi rất đầy đủ ân cần mà không nhận tiền bạc của ai cả, ngoài vật phẩm cúng tế.
Đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần
(18-11-1926) là đêm Khai Đạo Cao Đài và làm lễ khánh thành Thánh Thất đầu tiên.
Lễ xong rồi thì cầu cơ, đoạn tới lễ nhập môn, kéo dài đến 3 giờ sáng.
Trước đó ngày 23-9-Bính Dần (16-11-1926), Đức Chí
Tôn chỉ dẫn tỉ mỉ cách hành lễ mới theo nền Tân Tôn giáo như sau:
"Phải làm một nghi án trước điện, quay mặt vô
7 ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp. Nơi ấy
phải kín, bốn phía ra vô có màn, Thầy giáng cơ tại án ấy, nghe à.
Lễ Thánh Thất, chia ra làm lễ khách xuất thâu. Vậy
thì, Thầy nói về lễ trước. Việc lễ Thầy giao chánh sự cho Trang; phó sự cho
Nhung, phụ sự có Ý nghe à... Như Ý không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì chánh
sự là Trang làm đầu. Thầy lại thêm ba vị nữa cho các con rộng dùng là: Mùi,
Vân, Đạt.
Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện: Lê
Văn Sanh, Dương Văn Hoài, Nguyễn Xuân Quang, Sơn, Hườn, Lê Thế Vĩnh, Trần Văn
Bân, Nguyễn Văn Mùi.
Về việc khách: Khách thì Tương là Chánh sự, Luật là
phó sự. Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là phụ sự. Lại, Sơn, Thành
là giúp Thầy. Hỏi 12 đứa tình nguyện? Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp, Trò, Giảng, Học,
Kỳ, Tương, Hơn, Kinh, Đơn.
Về thâu: Thơ, Như Nhãn, Đạo Quang.
Về việc xuất: xuất thì Lịch, Xài, Hoá (Phủ Hoá, Cần
Giuộc).
Chưởng Pháp, Đầu Sư: Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp,
ba ngôi Đầu Sư đều có vị.
Phối Sư: Phối Sư thì là Trang, Tương, Thơ là Chánh,
còn 33 vị nữa thì tuỳ theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.
Giáo Sư: Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tuỳ theo ngày thọ
sắc mà phân trước sau.
Giáo Hữu: Kế nữa là 3.000 Giáo Hữu, cũng tuỳ theo
Thiên phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.
Phò loan: ....................... tiếp nối theo sau
ngay chính giữa nơi bàn Hộ pháp thì: Đức, Hậu, Tràng, Nghĩa.
Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên
Bên trái thì: Đãi, Kim, Tươi, Chương
Hộ Pháp: Còn lại để dựa bên bàn Hộ Pháp, hai cái
ghế ngồi làm hai cây phướn đề Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm: bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm
Thượng Sanh: bên trái Hộ Pháp là Thượng Sanh.
Đưa cây Thượng Phẩm cho Mùi, Cây Thượng Sanh cho
Vĩnh cầm hầu hai bên.
Trấn cờ ngũ phương:Tại Đông phương, Tây phương, Nam
phương, Bắc phương lựa 12 đứa đồng nhi cầm cờ, còn giữa thì giao cho Hậu,
Nghĩa, Đức.
Lịch hiểu à! Khi hành Đại lễ cho Thầy rồi thì Lễ
Sanh xướng "Thiên phong hoán tẩy". Cả thảy đều ra rửa mặt mày cho
sạch. Chừng xướng "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải thay Thiên
phục.
Lễ Sanh xướng "Lập vị" đứng theo hàng ngũ
cũ như trước. Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch. Còn Nữ phái thì
đều phải mặc đồ trắng trước khi hành lễ.
Thiên phong Nữ phái: Cư, Tắc phải vào nghi án phò
lập Tịch Đạo, phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Đạo luôn nữa
nghe.
Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư con chấp
bút bằng nhang cho Thầy trấn thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên phong rồi
mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên
tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế chứ không đặng
lộn xộn.
Hành lễ: Còn bao nhiêu môn đệ đứng tiếp theo sau.
Thầy dặn hành lễ rồi, thì phải biểu Lễ Sanh xướng: "Thiên phong phò
loan" đặng Thầy lập "Phật Truyền Chánh Pháp", Cư, Tắc phải để
Thiên phục vậy phò cơ nghe. Thầy sẽ giao nhạc cho Mỹ Ngọc và Lễ, Nhơn."
Đêm sau Đức Chí Tôn lại giáng tiếp.
"Khi môn đệ mặc đồ thường vào, con cũng phải
sắp đặt địa vị chúng nó.
Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc
rửa mặt rửa tay, cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nơi nghi án cho Thầy phong
sắc chư môn đệ lục tỉnh. Xong kế lập Nữ phái. Con phải giúp em con là Đường
thị, Lâm thị, Ca thị lập vị bên Nữ phái cho trang hoàng.
Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi bàn
Hộ Pháp nơi cũ. Chừng Lễ Sanh xướng: "Chỉnh túc y quan" thì biểu 12
đứa phò loan sắp ba hàng kế đó, biểu Đạt đi.
Kế đó là Tắc, Cư, Sang đi hai bên, nữa thì là ba vị
Chưởng Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thụ. Kế nữa ba vị Đầu Sư (biểu Tạ theo Trung,
còn Hoằng theo Thiện Minh); kế nữa ba vị Chánh Phối Sư; kế nữa chức sắc đi ba
đứa, ba đứa ra thay đồ Thiên phục. Khi đặng nửa giờ phải đổ chuông ba hiệp, chờ
tới hiệp chót, biểu Lễ Sanh xướng: "Lập vị" thì lại đi như nảy mà trở
vào. Nhớ bảo hai đứa cầm phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư, Sang.
Vào lập vị hành Đại lễ như: buổi Vĩnh Nguyên Tự,
nghe Lịch à .... Là đã hết 1 đêm đầu rồi.
Kế đêm sau là đêm Thiên phong của chư môn đệ và là
đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.
Đêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường ngày,
xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào Nghi án cho Thầy giáng, xong việc lễ."
2 . Cuộc thử thách đầu tiên
trong nền Đạo:
Đêm hôm ấy, vì quá đông người nên cuộc lễ bớt phần
trang nghiêm. Khi cầu cơ, Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa
dịp, tà quái nhập vào một nam và một nữ, bổn đạo mà gây rối. Lê Thế Vĩnh xưng
là Tề Thiên Đại Thánh và Vương Thanh Chi là Quan Âm Bồ Tát. Lúc đầu bổn đạo
tưởng thật, nhưng sau cử chỉ lung lăng, người người đều biết là tà quái xuất
hiện. Thấy việc lộng hành như vậy, ông Monnet quan ba (đại uý) người Pháp - Hội
viên Thần linh học khuyên giải trong bổn đạo như sau:
"Công việc các ông làm đây là rất phải. Các
ông chẳng nên vì một cuộc biến thường tình như vậy mà ngã lòng thối chí. Tôi
cho là thường tình, vì bên Pháp trong mấy đàn thỉnh tiên cũng thường xảy ra
những điều rối rắm như vậy. Tôi có một lời khuyên các ông là từ đây trở đi, hễ
có cầu cơ thì chớ họp nhau đông đảo, vì cần phải thanh tịnh. Mà hễ đông người,
thì một là mất bề thanh tịnh, hai là tư tưởng bất đồng không tương ứng nhau
được thì không linh nghiệm." (*1)
Việc biến loạn đó khiến cho những kẻ nhẹ dạ ít tâm
thành ngã lòng. Còn hàng chức sắc thì cho đó là một thử thách để trau dồi thêm
lòng tin tưởng. Và cũng là một tiếng vang để khách bàng quang chú ý theo dõi tà
giáo hay chánh giáo. Vô hình trung, cơ phổ độ xoay đổi được thế cờ chuyển hư
thành nên, chỉ 3 tháng sau khi mở đạo tại Từ Lâm Tự mà số người nhập môn lên
đến hàng ức, đủ thành phần, chánh kiến và quốc tịch: Pháp, Cao Miên (nay là
Campuchia), Hoa kiều....
Ba hôm sau Thầy giáng cơ dạy về việc này như vầy:
"Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường Tà
Quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con.
Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?
Đó là bước Đạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao
được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn
phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn đệ
của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế.
Bởi bước Đạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham
mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán đạo. Các con hiểu: Thầy buồn, nhưng ấy là
máy Trời đã định chạy sao cho khỏi? Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc
nhằn. (TNHT Q1/47)"
(*1) NGUYỄN
TRUNG HẬU, Đại Đạo Căn Nguyên, Sài gòn 1930
3 .
Thầy khai Đạo Tịch Nữ Phái, Nam Phái:
Ngay đêm khai đạo, Đức Chí Tôn lập thành Tịch đạo
Nữ Phái:
"Nữ
phái nghe Thầy khai Tịch Đạo:
Hương
tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ
đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt
niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên
niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương
Thanh. Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Ca. ... ... ...
Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ lập đại hội cho đủ mấy vị
rồi sẽ phong sắc một lần." (TNHT Q2/11)
Nhưng mãi đến mùng 1 tháng giêng Đinh mão
(1-2-1927) Đức Lý mới ban sắc phục và lập thành Nữ phái, sau Nam phái.
"Nữ phái phải tùng Đầu Sư Nữ phái, song tùng
quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp. Đầu Sư Nữ phái cũng phải chịu công cử theo
luật Hội Thánh ban hành, theo luật lệ Hội Thánh ban xử đường Đời và đường Đạo.
Đầu Sư Nữ phái mặc một Đạo phục y như Đạo phục Đầu Sư Nam phái, phải đội một Ni
Kim Cô như các Vãi chùa, toàn hàng trắng chín dải, áo có thêu bông sen. Cái Kim
Cô có choàng từ đầu tới gót, đội mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngang
đầu tóc, có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu
trắng, trên chót để chữ Hương, nghe à!
Phối Sư cũng mặc in như vậy, song không có mão
Phương Thiên, áo ba dải, nhưng trước ngực có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một
vòng Minh Khí, nghe à!
Giáo Sư mặc áo ba dải, đội Kim Cô bằng hàng trắng
không đi giày.
Giáo Hữu mặc Đạo phục như Giáo Sư, đầu không đội
mão, mà giắt một bông sen, trên bông sen có Thiên Nhãn Thầy.
Lễ Sanh Nữ phái mặc như Giáo Hữu, nhưng choàng
ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn;
ngay đầu tóc có giắt một bông sen.
Thầy vì thấy nhiều người vắng mặt nên phải đợi đủ
mới phong chức. Lâm Hương Thanh, hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm
nầy. Thầy đến phong chức, lập thành Nữ phái, nghe à!" (TNHT Q1/72)
Đêm Thiên phong nữ phái là ngày14 tháng giêng năm
Đinh Mão (15-2-1927), thiên ân 2 vị Phối Sư, 8 vị Giáo Sư, 28 vị Giáo Hữu, 56
vị Lễ Sanh. Trong đó bà Lâm Hương Thanh và bà Lê Thị Ngân thăng lên Phối Sư.
Còn quí bà Giáo Sư tân phong có tên tuổi sau:
Bà Bùi Thị Giàu (tức bà Phủ Tương), bà Trịnh Thị
Huệ (thân mẫu Đức Cao Thượng Phẩm), bà Nguyễn Thị Hiếu (bạn đời ông Cao Quỳnh
Cư), bà Huỳnh Thị Hồ (ái nữ bà Lâm Hương Thanh), v.v...
Và dưới đây là Tịch Đạo của Nam phái (ban tại Vĩnh
Nguyên Tự ngày 9-8-1926).
THANH
Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ
như địa huyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo
vạn cổ đàn chiếu Phật duyên. (TNHT Q1/26)
Đạo dưới thời Lý Giáo Tông thì Nam lấy chữ THANH,
Nữ lấy chữ HƯƠNG làm tịch. Đến đời Giáo Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ ĐẠO, Nữ
lấy chữ TÂM. Khi nào hết Tịch Đạo thì Đấng Chí Tôn sẽ giáng cơ cho Tịch Đạo
khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ Tịch Đạo này mà phân biệt.
Đấng Chí Tôn lại giải: "Có kẻ hỏi: Thí dụ như
đời Giáo Tông thì Tịch Đạo của chư Đạo hữu Nam Nữ đời trước, dù chức sắc hay
tín đồ cũng vậy, có buộc phải thay đổi Tịch Đạo hay không? Ta nói: không, vì
chính mình Giáo Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Đạo trước. Kỳ dư những tín đồ của
đời Ngài độ rồi, tức là chi tộc của Ngài mới đặng thay đổi mà thôi.
Còn những chức sắc cùng là tín đồ của Giáo Tông đời
trước còn sót lại thì thuộc về chi tộc của Giáo Tông ấy không đặng phép thay
đổi Tịch Đạo.
Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên kế vị cho Lý Giáo
Tông thì cả tín đồ nam nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch Đạo Tâm. Dù trong hàng
tín đồ ấy sẽ có một chơn linh xứng đáng địa vị Chánh Phối Sư, mà Thầy giáng cơ
phong chức đi nữa thì cũng phải chịu Tịch Đạo Tâm như các tín đồ khác. Còn chức
sắc và tín đồ trong đời Lý Giáo Tông còn lại thì giữ Tịch Đạo Thanh Hương không
đặng thay đổi."
Về Tịch Đạo hay Thánh danh trong Đạo Cao Đài có ba
cách xếp đặt như sau:
1) - Về Cửu Trùng Đài:
a)
Nam phái: Thì phải đặt trước (Thái, Thượng, Ngọc) tên giữa (thế danh) đến Tịch Đạo
(Thanh). Thí dụ: Giáo Sư Vương Quan Kỳ thì viết Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh. Có
trường hợp biệt lệ như ba vị Đầu Sư đầu tiên thì là Thượng Trung Nhựt, Ngọc
Lịch Nguyệt, Thái Minh Tinh (tức Thiện Minh Nguyễn Văn Minh).
Riêng ông Nguyễn Phát Trước tự Tư Mắt thì thọ phong
Lễ Sanh Mắt Mục Thanh
b)
Nữ phái: thì đề nguyên tên họ nhưng chữ lót phải thay bằng chữ Hương. Thí dụ: Nữ
Đầu Sư Lâm Ngọc Thanh thì viết Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Hương là Tịch Đạo chớ
không phải chữ lót.
2) -
Hiệp Thiên Đài: thì đề nguyên tên họ và chữ lót của cha mẹ đã đặt, chỉ thêm chức phận ở
trước.
Thí dụ: Bảo Đạo Ca Minh Chương, Truyền Trạng Phan
Văn Phước.
Bên Phước Thiện thì cũng giống như bên Hiệp Thiên
Đài (vì vốn là Chi Đạo của HTĐ ). Thí dụ: Chơn Nhơn Lê Văn Tr. Chơn Nhơn là
Thiên phẩm, Lê Văn Tr. là tên. Nam phái và Nữ phái bên Phước Thiện đều đặt
giống nhau.
4 . Thành lập Pháp Chánh
Truyền và Hội Thánh Cửu Trùng Đài:
Đến ngày 16-10 năm Bính Dần (20-11-1926), Đức Chí
Tôn giáng cơ, cũng tại Từ Lâm Tự kêu ngài Đầu Sư Lê Văn Trung dạy về lập Pháp
Chánh Truyền và ngôi vị Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
"GIÁO
TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con trong
đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Nó đặng phép thông công cùng Tam thập lục Thiên và Thất thập nhị Địa giái đặng
cầu rỗi cho các con, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng!
-
CHƯỞNG PHÁP của ba phái là Đạo, Nho, Thích. Pháp luật Tam giáo tuy phân biệt nhau,
song trước mặt Thầy vốn coi như một. Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước
buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Đầu Sư dâng lên.
Như hai đàng chẳng thuận thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên
Đài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập luật lại. Vậy chúng nó
có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Như thảng có "kinh
luật" chi làm hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con
rán xúm nhau vùa giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng. Ba ấn phải có đủ
trên mỗi luật, mới đặng thi hành. Chư môn đệ tuân mạng!
-
ĐẦU SƯ có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ. Nó đặng quyền lập
luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một
cách nghiêm nhặt, coi phải có ích cho nhơn sanh chăng. Giáo Tông buộc phải giao
cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như
luật lệ Giáo Tông truyền dạy. Như thảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của
nhơn sanh, thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.
Thầy khuyên các con phải thương yêu và giúp đỡ lấy
nó. Thầy lại dặn các con, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
Ba Chi tuy khác, chớ quyền luật như nhau. Như luật
lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ
ấy phải trả lại cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét
lại. Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau. Mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi
hành, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng!
- PHỐI SƯ mỗi phái là 12 người, cộng là 36 người;
trong 36 vị ấy có 3 vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Đầu Sư mà
hành sự, song chẳng quyền cầu phá luật lệ, nghe à!... Chư môn đệ tuân mạng!
-
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư
môn đệ trong đường Đạo với đường Đời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh
ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự
tang, hôn của mỗi đứa.
Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai
quản cúng tế Thầy như thể Đầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu
nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó
phải thân cận với mỗi môn đệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à!... Chư
môn đệ tuân mạng!
-
GIÁO HỮU là người để phổ thông Chơn Đạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm
luật lệ Đạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều, mỗi phái là 1000; chẳng nên tăng
thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy
tỉnh nhỏ.
- LỄ SANH là người có hạnh, lựa
chọn trong chư môn đệ mà hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi tín
đồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp
đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng chức sắc. Kỳ dư
Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngả ấy mà thôi... nghe à! Chư môn đệ tuân
mạng!
Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử
nhau.
Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị kia xúm nhau
công cử.
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3000 vị kia xúm
nhau công cử.
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm
nhau công cử.
Môn đệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả môn đệ xúm nhau
công cử.
Kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào thì mới ra
khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư
tranh đặng, song phải chịu cho toàn môn đệ công cử mới đặng, kỳ dư Thầy giáng
cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi."(TNHT Q1/45)
Còn về việc tăng lên phẩm vị thì phải có Bộ Pháp
Chánh minh tra đủ lẽ, đưa qua Hội nghị Nhân Sanh tuyển chọn, dâng lên Thượng
Hội rồi mới trình lên Cung Đạo để Đức Chí Tôn phán xét, sau khi theo luật dưới
đây:
"Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì phải nhờ ba
vị công cử sau.
Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị kia công cử.
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3.000 vị kia công
cử.
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm
nhau công cử.
Môn đệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn đệ (tức Hội
Nhơn Sanh) công cử.
Kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào thì mới ra
khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư
tranh đặng, song phải chịu cho toàn môn đệ công cử mới đặng. Kỳ dư Thầy giáng
cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy."
Pháp Chánh Truyền thì gồm có việc tổ chức Hội Thánh
Cửu Trùng Đài Nam Nữ và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Vì những điều khoản quá súc
tích nên mỗi người hiểu theo mỗi cách. Do đó, ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ
(1930) Đức Lý Giáo Tông mới dạy Đức Phạm Hộ Pháp chú giải, (Đạo Nghị Định thứ
sáu).
Nền Chánh trị Đạo hạ tầng, theo Pháp Chánh Truyền
buổi ban đầu định đến phẩm Lễ Sanh mà thôi. Về sau, nền Đạo mỗi ngày một phổ
thông, người theo Đạo mỗi ngày một nhiều; Đức Lý Giáo Tông đặt thêm Bàn Trị Sự
gồm có Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự.
5 . Ban hành Tân Luật:
Pháp Chánh Truyền và Tân Luật coi như Hiến Pháp của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tất cả chi chi phải noi theo đó mà thi hành không được
châm chước. Vào ngày 6-12-1926 (2-11 năm Bính Dần), Đức Chí Tôn ra lịnh hội
chức sắc thành lập Tân luật.
"Khởi đầu lập luật tu gọi là TỊNH THẤT LUẬT.
Kế nữa lập luật trị gọi là ĐẠO PHÁP LUẬT, thứ ba lập luật đời gọi là THẾ
LUẬT."
Trong Phần Đạo Pháp gồm có 8 chương: 1) về việc
chức sắc cai trị trong họ Đạo; 2) về người giữ Đạo; 3) về việc lập họ; 4) về
ngũ giái cấm; 5) về tứ đại điều qui; 6) về giáo huấn; 7) về hình phạt; 8) về
việc ban hành luật pháp.
Phần Thế luật là đời của Đạo tức đã nhập môn rồi,
gồm có 24 điều, đại để về việc quan hôn tang tế và giữ Đạo.
Phần Tịnh thất luật tức là luật nhà tịnh dành cho
các tín đồ vào mà tu luyện gồm có 8 điều, nên chức sắc muốn nhập tịnh cũng phải
gởi phẩm tước lại bên ngoài nhà tịnh.
6 .
Thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài:
Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền, vào ngày
13-2 năm 1927 (12-1 Đinh Mão). Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về ngôi vị Hội Thánh
Hiệp Thiên Đài.
"Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền
thiêng liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn.
Thầy đã nói Ngũ Chi Đại Đạo bị qui phàm là vì khi
trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra
phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi,
chớ không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa.
Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến
thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế Giới, Lục thập bát Địa Cầu,
Thập điện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhân loại. Thầy đã nói sở dụng thiêng
liêng; Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả
có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm
ba:
1. Phần của Hộ Pháp, chưởng quyền về Pháp thì:
Hậu là Bảo Pháp, (1)
Đức là Hiến Pháp,
Nghĩa là Khai Pháp,
Tràng là Tiếp Pháp,
Lo bảo hộ Luật Đời và Luật Đạo; chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng
biết.
2 . Thượng Phẩm thì quyền về phần
Đạo, dưới quyền:
Chương là Bảo Đạo,
Tươi là Hiến Đạo,
Đãi là Khai Đạo,
Trọng là Tiếp Đạo, (2)
Lo về phần Đạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy,
binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.
3 . Thượng Sanh thì lo về phần
Đời:
Bảo Thế thì Phước,
Hiến
Thế: Mạnh,
Khai
Thế: Thâu,
Tiếp
Thế: Vĩnh.
Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
...." (TNHT Q1/77)
(*1) Còn Tiếp
Đạo Cao Đức Trọng thâu sau ở Kiêm Biên.
Dưới đây sơ lược tiểu sử của Thập Nhị Thời Quân.
1 -
Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu (1892-1961) sinh ngày 5-3-Nhâm Thìn tại xã Bình
Hoà, tỉnh Gia Định. Năm 1933, Ngài giữ quyền Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài. Sau đó
vì bịnh trở về nhà (1934). Năm 1957 Ngài làm Giám đốc Hạnh Đường và tái lập Đạo
Đức Văn Đàn, rồi qui vị tại Gia Định (1961).
2 -
Hiến Pháp Trương Hữu Đức (1890-1976) sinh ngày 2-2-Canh Dần tại làng Hiệp Hoà
(Chợ Lớn). Năm 1956 Ngài và Ngài Bảo Thế ký thoả ước Bính Thân với chính quyền,
cam kết Đạo không làm chính trị nữa. Năm 1962, Ngài Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
và Trưởng Ban kiểm duyệt Kinh Sách Đạo, Ban Đạo Sử rồi Chưởng quản Hiệp Thiên
Đài (1971).
3 - Khai
Pháp Trần Duy Nghĩa (1889-1954) người tỉnh Gò Công. Năm 1930, Ngài nhận
lãnh trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư. Năm 1937, Ngài nhận chức Chưởng Quản
Phước Thiện. Từ 1941-1945 Ngài bị lưu đày cùng Đức Phạm Hộ Pháp sang
Madagascar. Năm 1946, Ngài làm Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh. Đến năm 1953 Ngài vào
Trí Giác Cung thiền định vì Ngài và Ngài Trương Tiếp Pháp là cặp cơ truyền bí
pháp.
4 - Tiếp
Pháp Trương Văn Tràng (1892-1965) sanh ngày 25-10-năm Quí Tỵ tại Bình Thạnh
(Biên Hoà). Năm 1949, Ngài trọn phế đời hành đạo. Năm 1953, Ngài nhận chức
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh. Ngoài việc lo hành chánh đạo, Ngài còn sáng tác
nhiều sách Đạo có giá trị, nhứt là quyển Giáo Lý Đại Đạo.
5 - Bảo
Đạo Ca Minh Chương (1850-1927) sanh năm Canh Tuất ở làng Mỹ Lộc tỉnh Gò
Công. Ngài chán ngán cảnh quan trường, xin nghỉ về dạy học, kịp khi Đức Chí Tôn
khai đạo (1926) Ngài phế đời hành đạo sớm nhứt. Nhưng tuổi già sức yếu, Ngài
chỉ hành đạo được hai năm thì đăng tiên vào ngày 19-10-Đinh Mão (1927). Vì sớm
qui tiên nên năm 1948 Ngài giáng cơ nhượng quyền Bảo Đạo hữu hình cho vị Hiền
Tài Hồ Tấn Khoa (*1)
6 - Hiến
Đạo Phạm Văn Tươi (1897-1976) được bổ nhiệm Chưởng Pháp (1933) hiện giữ
chức Thống Quản Phước Thiện tại Toà Thánh.
7 - Khai
Đạo Phạm Tấn Đãi (1901-1976) hành đạo thường xuyên tại Toà Thánh từ
lúc đầu đã giữ chức vụ sau: Thái Chánh Phối Sư (1933), Ngọc Chánh Phối Sư
(1954), Thống Quản Phước Thiện (1960), Giám đốc cơ quan Phát thanh và Phổ Thông
giáo lý, Chưởng quản Bộ Pháp Chánh (1971).
8 - Tiếp
Đạo Cao Đức Trọng (1897-1958) là bào huynh ông Cao Hoài Sang, thọ phong
thiên phẩm tại Kiêm Biên (Campuchia,1927), lúc đó Ngài giúp việc Sở Chưởng Khế
tại Nam Vang.
Năm 1938, Ngài lãnh nhiệm Chủ trưởng Hội Thánh
Ngoại Giáo. Năm 1942, Ngài phải sang Thái Lan tỵ nạn, đến năm 1944 trở về Nam
Việt Nam. Năm 1954 Ngài nhận nhiệm vụ truyền giáo ngoại giáo rồi qui vị ngày
23-5-Mậu Tuất (1958).
9 - Bảo
Thế Lê Thiện Phước (1895-1975) sanh ngày 4-6-1895 tại Sài gòn, huyện
danh dự năm 1944. Ông đến hầu đàn, bài thi của Đức Chí Tôn cho tại tư thất ông
Nguyễn Ngọc Thơ:
Cang
nhu tình thế lắm đua tranh
Danh
lợi là bia kẻ giựt giành
Mượn
thú điền viên vui tuế nguyệt
Phồn
hoa âu cũng bỏ cho đành.
Ngài lãnh chức thừa quyền Hộ Pháp (1946), Tổng thư
ký Chánh trị Đạo (1951), Thống lãnh văn phòng Hộ Pháp (1952), Đại diện Hội
Thánh ký thoả ước Bính Thân (1956), Quyền Đầu Sư (1959), Quyền Chưởng quản Hiệp
Thiên Đài (1964), Thống quản Nữ Phái Cửu Trùng Đài (1965), Thống quản Cơ quan
Phước Thiện (1966), Chưởng quản Ban Thế Đạo (1965).
10 -
Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh (1894-1970) Ít về Toà Thánh, qui vị ở Sài gòn 1970.
11 -
Khai Thế Thái Văn Thâu (1899-1981) được cầm quyền Thái Chánh Phối Sư (1933).
Ít về Toà Thánh.
12 -
Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh (1903-1945) sanh năm 1903 tại Sài gòn, là bào đệ của
ông Lê Thiện Phước. Ngài là một nhà báo, sau khi ngộ đạo về Toà Thánh hành
chánh, 1935 Trưởng phái đoàn đi các tỉnh giao thiệp với chánh phủ, đi địa
phương mở Thánh Thất và đi Hà Nội mở Đạo. Trong năm 1945 toàn quốc tao loạn,
Ngài bị đối phương bắt đưa đi mất tích trên đường Sài gòn - Đà lạt.
(*1) xem thêm
"Đại Đạo Danh Nhân" cùng người viết.
7 . Cất Toà Thánh tạm:
Lấy lý do về việc tà quái xảy ra hôm ngày khai đạo
(15-10-Bính Dần) thêm vào một số đồ đệ Hoà Thượng Như Nhãn xúi giục đòi chùa
lại, nên Hội Thánh hẹn trong 3 tháng (tức đến 15-1-Đinh Mão ) sẽ trả chùa.
Nhưng mãi đến ngày 20 tháng 2 năm đó (23-3-1927) mới thỉnh chư Phật, dời Thánh
Tượng về đất mới thuộc làng Long Thành.
Sở dĩ, chậm trễ như vậy vì không tìm được đất, nên
Đức Lý giáng dạy:
Đức Lý dạy: " Mai này chư Hiền Hữu lên đường
trên gọi là đường dây thép (là đường từ Mít Một chạy tới cửa Hòa Viện bây giờ)
nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền Hữu có thấy đặng chăng cho
biết. ...".(ĐSHH Q1/Khổ tâm Hành Đạo của Đức Cao Thượng Phẩm)
Hôm sau, nhờ xe của ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm
Hương Thanh, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, trong đó có Đức Phạm Hộ
Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Lê Văn Trung, hai vị Phối Sư Thượng
Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh, lên đường đến cửa số 2. Bấy giờ, nơi đây còn
rừng rậm, nhiều thú dữ, nhưng vì Thánh ý nên hỏi mua đất của ông kiểm lâm người
Pháp tên Aspar.
Đêm hôm ấy, quí ông cầu Đức Lý về dạy việc:
""Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa tưởng chư Hiền Hữu không thấy
nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Địa. Sâu hơn ba trăm thước như
con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như 6 con Rồng
đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay
miếng đất đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai đầu nữa bên cụm rừng
bên kia. Người Lang Sa chỉ đòi có hai mươi lăm ngàn đồng". (ĐSHH Q2/Ngày
24-02-1927 - âl. 23-01-Đinh Mão)
Về khuôn viên Toà Thánh tạm thì Đức Lý dạy:
"Thánh Thất tạm phải cất ngay miếng đất trống,
còn Hiệp Thiên Đài tạm phải cất trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám
rừng trước miếng đất ấy, như vậy ngay trung tim rừng, cách miếng đất trống
chừng ba thước rưỡi, đóng một cây nọc đo Hiệp Thiên Đài như vầy: Ngoài Bàu Cà
Na, đo chừng 50 thước đóng một cây nọc, ấy là khuôn viên Tòa Thánh. Lão lại
dặn, từ cây nọc bên phía miếng đất phải đo vô Bàu Cà Na 27 thước Langsa, nghe
à! Từ vuông 27 thước mỗi góc của Đài Bát Quái, nghĩa là hình nhà tròn có 8 nóc,
cao từ đất lên thềm 9 thước Langsa, làm 9 nóc rộng bao nhiêu tùy, trên điện Bát
Quái bề cao 9 thước, hình nóc tròn mô lên, chỉ có 8 nóc, cho phân minh; trên
đầu Đài phải để cây đèn xanh. Kế nữa là Chánh Điện, bề dài 81 thước, bề ngang
27 thước, Lão phải vẽ mới đặng. Hai bên Hiệp Thiên Đài, bên mặt thì có Lôi Âm
Cổ Đài, bên tả có thì Bạch Ngọc Chung Đài, Lão phải vẽ mới đặng. (TNHT
Q1/29)"
Sau đó Đức Lý lại giáng dạy lại: "Họa đồ của
Lão, Chí Tôn chê và trách rằng: Hao phí vô nền nặng lắm. Chí Tôn sửa lại mỗi
cấp ba tấc Tây mà thôi. Dưới đất 5 tấc, chín cấp ba tấc là 2m70, cộng là 3m20.
Còn 10 mét thì chí đầu trong nền Bát Quái Đài. Trên đầu song chí nóc 13 thước
mới khỏi mưa nước đọng mà phải mục. Nóc của Đại Điện và Hiệp Thiên Đài cũng y
như mực vậy. Phải làm plafond hai đài chuông, trống cao hơn nóc Hiệp Thiên Đài
6 thước" (ĐSHH Q2)
Khi phá rừng để cất Toà Thánh thì người Thổ, người
Tà Mun đến công quả hàng ngàn. Ông Chánh tham biện người Pháp lo ngại nên mời
Đức Cao Thượng Phẩm ra Toà Bố (Toà Hành Chánh) hỏi cớ sự. Đức Ngài phải trả
lời: phá đất trồng cao su. Do đó mà trong Nội ô hiện nay còn lại một ít cây cao
su. Bởi vậy, trong Thánh Thất chỉ có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh
hành Lễ Đức Chí Tôn mà thôi. Còn Đức Cao Thượng Phẩm, chư chức sắc và thợ mộc,
phu làm chùa không được vào cúng bái.
Sau đó, Đức Cao Thượng Phẩm mới thỉnh cốt Phật Tổ
tầm đạo từ Gò Kén về Đại Đồng Xã. Rồi mới cất Hậu điện, Đông Lang, Tây Lang,
Trù phòng, v.v...
8 .
Ngưng cơ Phổ Độ:
Đàn đêm mồng 1 tháng 6 năm 1927 Đức Chí Tôn giáng
cơ báo trước việc ngưng cơ bút:
"T... từ nền Đạo khai sáng đặng gieo truyền
mối chánh giáo đến nay, thì phần nhiều môn đệ đã để trọn tấc thành mà dìu dắt
sanh linh và đắp vun mối Đạo Trời, ấy là những đứa Thầy đã tin cậy, đặng gia
công dọn lấy chông gai để mở trống nẻo thiêng liêng, dẫn lần dân sanh thoát
khỏi sông mê bến khổ, ...
... ... Còn tới cuối kỳ tháng sáu nầy thì Thầy phải
ngưng hết cơ bút truyền Đạo, các con sẽ lấy hết chí thành đã un đúc bấy lâu mà
lần hồi lập cho hoàn toàn mối Đạo.
Nầy là lời đinh ninh sau rốt khá lưu tâm, ai vạy tà
nấy có phần riêng, cứ giữ nẻo thẳng, đường ngay bước đến thang thiêng liêng chờ
ngày hội hiệp cùng Thầy, ấy là điều quí báu đó, Thầy cho con tự định thâu sớ mà
cho nhập môn như các chỗ khác." (TNHT Q2/36)
Ngưng cơ phổ độ là không còn được cầu nhiều nơi và
tự do như trước. Đó là điều hay nhưng bất tiện cho những người muốn hiểu rõ
huyền diệu của thiêng liêng nên sanh nhiều trắc trở.
Ngày mồng 1 tháng 10 năm Đinh Mão (1927). Thầy mới
giáng cơ như vầy: "Các con, kỳ ngưng cơ phổ độ đến nay chưa được bao lâu,
mà nền Đạo xảy ra lắm điều trắc trở. Thầy đã un đúc chí Thánh cho mỗi đứa,
Thánh ý đã giao trọn quyền cho các con chung lo hiệp trí nhau mà dìu dắt, phổ
thông mối Đạo cho đến tận cùng bước đường. Thiên cơ dĩ định cho nền Đạo sáng
lập đặng cứu vớt sanh linh. Ngày nầy, tháng nầy mà nền Đạo chưa trọn thành, thì
năm nào và tháng nào? (TNHT
Q2/39)".
9 . Thống hiệp Ngũ chi Đại
Đạo:
Ngũ chi Đại Đạo theo Thánh giáo ngày 5-9-1926
(29-7-Bính Dần) thì gồm có:
1 -
Minh Lý tại chùa Tam Tông Miếu (đường Cao Thắng Sài gòn) lúc bấy giờ do ông Âu
Kích quản trị. Chi này đã dâng nhiều Kinh cúng tứ thời cho nền Đại Đạo và nhất
là Kinh Sám Hối.
2 -
Minh Sư tại chùa Linh Quang Tự, An Nhơn, Gia Định do ông Trần Đạo Quang quản trị.
Ông cũng là một chức sắc của Đạo Cao Đài: Thượng Chưởng Pháp.
3 -
Minh Tân tại chùa này nằm trên Bến Vân Đồn Vĩnh Hội (Sài gòn) do ông Lê Minh Khá
quản trị hiệp nhứt chặt chẽ với nền Tân Tôn giáo. Sau ông cựu Quốc trưởng Phan
Khắc Sửu đặt cơ sở Cao Đài thống nhất tại đây.
4 -
Minh Thiện tại chùa Minh Thiện, Thủ Dầu Một (Bình Dương) do hai ông Đạt và Mùi quản
trị, sau cả hai thọ phong Giáo Sư.
5 -
Minh Đường tại Cần Giuộc, Chợ Lớn do ông Lê Văn Lịch quản trị. Ông Lịch đắc thiên
phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt cùng lượt với Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Vào tháng 7-1927 Thầy giáng cơ tại Minh Lý (Tam
Tông Miếu) dạy rằng: "Thầy có hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về sự
lập Đạo tại Đại Nam Việt Quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn
nhau; phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức. Tuy bây giờ phân chia
nhiều nhánh, nhiều chi, chớ ngày sau cũng có một mà thôi. Các con dầu bên nào
cũng thương nhau như con một nhà, chớ khá ganh gổ chê bai nhau. (TNHT
Q1/88)"
Ngũ chi còn có nghĩa là Nhân đạo, Thần đạo, Thánh
đạo, Tiên đạo và Phật đạo.
Đàn đêm 24-4-1926, Đấng Chí Tôn đã dạy: "Vốn
từ trước Thầy đã lập ra ngũ chi Đại Đạo là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên
Đạo. Tuỳ theo phong hoá của nhân loại mà gầy chánh giáo".
1 -
Nhơn Đạo: là Đạo làm người ở trong gia đình và ngoài xã hội, trong cách xử kỷ, tiếp
vật của mỗi cá nhân. Những người liệt vào Nhân đạo là Socrate, Platon, Mạnh Tử,
v.v... Hiền nhân vì thương người mà đoạt cơ tùng khổ.
2 -
Thần Đạo: là Đạo làm công dân, làm tôi trong nước, trong nhiệm vụ bảo vệ non sông
tổ quốc, trong thời loạn cũng như trong thời bình. Được liệt vào Thần Đạo là
Trung hoa phong thần, Hy lạp phong thần, Ai cập phong thần, v.v... Thần vì
thương đời mà lập cơ thắng khổ.
3 -
Thánh Đạo: là Đạo của nhà cầm quyền cai trị dân, của bậc giáo lãnh truyền bá Đạo,
lúc nào cũng phải chí công vô tư, đúng với câu: dân chi phụ mẫu. Được liệt vào
hàng Thánh Đạo là Jésus Christ, Mahomet, v.v... Thánh vì thương Đời mà dạy cơ
thọ khổ.
4 -
Tiên Đạo: là Đạo xuất thế bằng cách tu tâm luyện tánh hay bản thân để được siêu
sanh. Được liệt vào hàng Tiên Đạo là Lão Tử, Dương Châu, v.v...Tiên vì thương
đời mà bày cơ thoát khổ.
5 - Phật
Đạo: là Đạo diệt khổ để thoát vòng luân hồi, nhờ được minh tâm, kiến tánh.
Được liệt vào hàng Phật Đạo là Thích Ca Mâu Ni, Bà La Môn, v.v... Phật vì
thương đời mà tìm cơ giải khổ.
Ba nền Đạo trên là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo
thuộc về Đạo nhập thế. Hai nền Đạo dưới là Tiên Đạo, Phật Đạo thuộc về Đạo xuất
thế.
Theo bài thuyết Đạo ngày 14-2-Mậu Thìn (4-4-1928)
của Đức Phạm Hộ Pháp về việc cửu vị (phẩm tước Cửu Trùng Đài) phù hợp Cửu Thiên
như sau:
1)
Thần vị: Người không Đạo mà mộ Đạo, lại giữ đặng trọn Đạo, hữu căn, hữu kiếp có
thể đắc vị với Địa thần. Kẻ tín đồ biết Đạo mà giữ Đạo đối với Nhơn Thần. Còn
Lễ Sanh đối với Thiên thần.
2)
Thánh vị:
Giáo Hữu đối với Địa Thánh
Giáo Sư đối với Nhơn Thánh
Phối Sư đối với Thiên Thánh
3)
Tiên vị:
Đầu Sư đối với Địa Tiên
Chưởng Pháp đối với Nhơn Tiên
Giáo tông đối với Thiên Tiên
Trong quyển Giác mê kinh có bài thi về Ngũ chi Đại
Đạo như sau:
Thánh, Hiền, Tiên, Phật hy hữu chi nhơn
Tam kỳ phổ độ hy hữu chi sự
Phi hy hữu chi nhơn
Yên năng hành hy hữu chi sự.
10 . Thầy phong Thánh lần
chót:
Từ khi khai đạo đến nay đã gần tròn năm các cơ chế
Đạo đã nên hình, các hàng chức sắc khá đông. Buổi đầu tiên ân huệ sắp chấm dứt.
Mọi tông đồ đến sau phải lập công bồi đức, noi theo Tân luật và Pháp Chánh
Truyền mà tiến thân trong trường Đạo gồm 5 lớp Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Đức Chí Tôn, ngày 17 tháng 9 năm 1927 dạy như sau:
"Các con! phần nhiều chư môn đệ ham muốn phong tịch, nhưng chưa hiểu Thiên
Phong là gì? Thầy để lời cho các con biết rằng: Nhiều Thánh, Tiên, Phật xuống
phàm, nếu căn quả tiền khiên không mấy trọng hệ; nghĩa là kiếp trần duyên không
chi phải nhơ bợn nhiều, thì dầu không Thiên Phong, hễ gắng tâm thiện niệm, thì
địa vị cũng đạt hồi đặng.
Thiên Phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật lìa
trần phải lắm dày công cùng sanh chúng mới trông mong hồi cựu phẩm đặng. Các
con nên nhớ, Thầy lấy từ bi phong tịch, nhưng các Chức Sắc, nếu vì áo mão hơn
đạo đức thì tội chất bằng hai.
.... Thầy vì lòng từ bi thương môn đệ, phong tịch
lần nầy là chót vì Tân Luật đã hoàn toàn, nếu chẳng do theo đó thì Lý Bạch hằng
kêu nài, Quan Thánh và Quan Âm cũng hiệp sức mà dâng sớ kêu về sự ấy. Vậy sau
nầy có ai đáng thì do Tân Luật mà công cử, còn về phong tịch, thì có Lý Giáo
Tông tiến cử. Thầy mới nhậm phong nghe. (TNHT Q2/38)"
11 .
Một vì Thời Quân liễu đạo đầu tiên:
Trong hàng chức sắc Hiệp Thiên Đài, Ngài Bảo Đạo Ca
Minh Chương không những có công trong buổi khai đạo mà còn là người có niên kỷ
cao nhất. Ngài về chầu Đức Chí Tôn vào ngày 19-10-Đinh Mão (12-11-1927) Đức Chí
Tôn giảng dạy về việc này như sau:
"Từ thử có một mình Bảo Đạo là niên cao kỷ
trưởng hơn các con hết, mà buộc Thầy phải đem về thì tưởng các con đủ biết mình
là côi cúc về đường đời, không ai đủ trí thức hoàn toàn mà binh vực các con
nữa, ... ... ...
... .... ... Thầy khuyên các con lấy Chương làm
giây thân ái mà buộc nhau, mới đặng hòa nhã nơi Hiệp Thiên Đài. Thầy cho phép
các con làm lễ táng cho nó long trọng hầu nêu gương cho hậu tấn.
... ... ... Đủ 3 năm phải thiêu hài cốt, lên tượng
đặng đem nó vào Bát Quái Đài nghe. Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất một
tấc mà đắp xây tháp y như lời Thầy đã dặn. Trên mặt tháp đề chữ vàng: "Bảo
Đạo Chơn Quân" nhớ à! (ĐHH Q2/..)
" (*1)
Trong Đạo Cao Đài, chức sắc Cửu Trùng Đài thì hàng
Đầu Sư trở lên và Hiệp Thiên Đài từ Thập Nhị Thời Quân trở lên, khi chết táng
trong liên đài, thế ngồi và xây tháp hình bát giác.
(*1) Xem tiểu sử
trong "Đại Đạo Danh Nhân" cùng soạn giả.
12 .
Điềm báo trước phân chia chi phái:
Vào ngày 18 - 07-1928 Chơn Cực Lão Sư giáng đàn:
"Đấng Chí Tôn vì thương dân tình nơi đây đã
khổ tâm nên gieo Đạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng
tự tại thung dung, mà vì chưa hiểu thấu căn nguyên, khổ bao giờ trông thoát?
Đạo sắp tàn, nỗi Đạo phân chia, chư đạo hữu phải lo
níu kéo lại một mớ, người nào hay người nấy, rồi đây mỗi chỗ mỗi dựng riêng ra,
chư đạo hữu mới tùy thế đó mà tom góp lại... (TNHT Q2/54)"
Theo Thánh ý phân chia ra để dễ truyền bá mối đạo
trời rồi ngày kia sẽ qui nhất lại. Nhưng tai phàm mắt thịt ham quyền chức tranh
dành để Đấng Chí Tôn phải giáng đàn ngày 5-8-1928 (19-6-Mậu Thìn) dạy:
"Đạo thế chẳng kíp thì chầy sẽ thành ra một
mối hàng mà mỗi người trong Đạo, sau khi giành giựt, cấu xé nhau, thì sẽ phân
chia tan tành manh mún để trò cười về sau đó.
... ... ... Người hành đạo chẳng đủ quyền chế cải,
kẻ tự cao muốn chiếm vị cầu danh, nghịch tư cách đối đãi với thế tình, gây ác
cảm mà tạo thù oán. Hai con phải biết chỗ yếu nhược của Đạo nơi đó mà kiếm
phương, tìm chước, lấy cộng hòa, hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải cho chóng,
làm sao cho mỗi đạo hữu các con đều ngó về Tòa Thánh mà xưng tụng ân huệ của
mỗi con có trách nhiệm xứng đáng; và làm sao cho dứt mối hiềm thù riêng của mỗi
đứa, hiệp đồng trí thức mà làm cho người ngoài dòm vào, nhìn nhận mối Đạo quí
hóa và thảy đều sùng bái cử chỉ cao thượng của các con. Chừng ấy các con dầu
không mạnh cũng ra mạnh, không đông cũng nên đông, mà việc phổ độ nhơn sanh
chẳng còn điều chi trắc trở. (TNHT Q2/56)"
CHƯƠNG
II
NHỮNG
GIÁO ĐIỀU CĂN BẢN
1 . Việc thờ Thượng Đế:
Từ khai đạo đến đây việc thờ phượng và tế tự được
chuyên nhất. Đại Đạo như các tôn giáo trên hoàn cầu, đều có lễ nghi, qui điều,
giới luật riêng biệt. Một đàng soi sáng đức tin, đàng khác đôn đốc kềm giữ hạnh
người tu hành.
Trước hết, chính giữa Bát Quái Đài, có một quả Càn
Khôn (*1). Trên có hình vẽ đủ 3.072 ngôi sao và hoạ Thiên nhãn và cung Bắc đẩu
để thờ. Trong quả Càn Khôn đốt một ngọn đèn luôn luôn sáng, tên là Thái cực
đăng để tượng trưng Đấng Thượng Đế ngự trên Thái cực, hằng vĩnh cửu.
Dưới có Tam Giáo: Đức Thích Ca ở giữa, trái có Đức
Khổng Tử, phải có Đức Lão Tử. Kế có Tam Trấn Oai nghiêm: Đức Lý Thái Bạch ở
giữa, trái có Đức Quan Thánh, phải có Quan Âm Bồ Tát. Ngoài ra còn có Thánh
Tượng Đức Jésus Christ (Đại diện Thánh giáo) và Đức Khương Thái Công (Đại diện
Thần giáo).
Việc cúng tế chỉ dùng nhang, trầm, nến và hoa quả.
Đàn tại Sài gòn đêm 18-9-Bính Dần (24-10-1926), Đức
Chí Tôn giải thích về cách thờ phượng như sau:
"Vì
Tân Luật chưa ra nên Thầy phải giải:
Đã
có Thánh Tượng Thầy, thì là cốt Ngọc Hoàng con để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy
nói cho các con rõ: Vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi
trước, vì trước là lớn phải vậy.
Khai
Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy; Thầy đã nói một Chơn Thần mà
biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các
con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có
Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy
khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới
sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy
là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một
cùng Thầy.
Thầy
lập Phật giáo vừa khi khai Thiên, lập Địa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên
giáo, rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi
đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Tỉ
như Tam Giáo qui nhứt thì: Nho là trước, Lão là giữa, Thích là chót.
Nên
Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại vô vi chi
khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (TNHT Q1/38)"
(*1) Kinh Dịch
chương X viết: "Dịch khởi thuỷ từ càn khôn". Vậy đạo Cao Đài và Kinh
Dịch có cùng chung một gốc.
2 . Lễ phục và sớ văn:
Chuông trống đánh mỗi chập 12 dùi, phải 12 chập làm
1 hồi, phải 3 hồi cộng là 36 chập gọi là Ngọc Hoàng sấm. Đây là di tích của
Thích giáo, còn lễ sĩ đi chữ "tâm" là di tích của Nho giáo.
a)
Lễ phục: trừ Giáo Tông, Thượng Chưởng Pháp và Thập Nhị Thời Quân mặc Thiên phục
toàn trắng. Các chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng mặc toàn trắng. Chư chức sắc Cửu
Trùng Đài và Phước Thiện mặc Thiên phục ba màu. Sắc phục Cửu Trùng Đài chia
làm:
- Màu vàng (ý) thuộc về Thích giáo tức phái Thái.
- Màu xanh (tình) thuộc về Tiên giáo tức phái
Thượng.
- Màu đỏ (trí) thuộc về Nho giáo tức phái Ngọc.
Các tín đồ chỉ có bộ đồng phục duy nhứt: áo dài
trắng, quần trắng tượng trưng sự trong sạch và sự tổng hợp của các màu sắc.
b)
Sớ văn: thì có nêu danh các Đấng Thiêng Liêng sau đây:
- Đức Huỳnh Kim Khuyết nội Huyền khung Cao Thượng
Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
- Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.
- Tam tông Giáo chủ là: Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức
Thái ThượngĐạo Tổ, Khổng Thánh Tiên sư.
- Tam Trấn Oai Nghiêm là: Đức Quan Âm, Đức Lý Thái
Bạch, Đức Quan Thánh Đế Quân.
- Kế là: Đức Gia Tô Giáo chủ, Đức khương Thái Công,
Tam châu bát bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn, Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư
Tiên, liên đài chi hạ.
3 .
Cúng tứ thời:
- Thời Tý từ 23 giờ đến 1 giờ khuya.
- Thời Ngọ từ 11 giờ đến 13 giờ trưa.
- Thời Dậu từ 17 giờ đến 19 giờ chiều.
- Thời Mẹo từ 5 giờ đến 7 giờ sáng.
Trước Thiên bàn đặt giữa Thánh thất hoặc giữa nhà,
người công phu qùi tụng những bài kinh sắp theo thứ tự sau đây:
a) Niệm Hương chú: tức dâng hương, gồm có 5 cây
nhang tượng trưng cho ngũ hành, cũng có ý chỉ 5 thời kỳ tiến hoá của người tu:
giới hương, định hương, huệ hương, tri kiến hương, giải thoát hương. Bài này do
Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ cho.
b) Khai Kinh chú do Đức Lữ Đại Tiên giáng cho.
c) Bài xưng tụng Ngọc Hoàng kinh do Đức Lữ Tổ giáng
tả ra.
d) Bài Thích giáo.
e) Bài Tiên giáo.
f) Bài Nho giáo.
g) Ba bài dâng tam bửu tức hoa, rượu, trà.
- Hoa tượng trưng cho Tinh (Le sperme cosmique).
- Rượu tượng trưng cho Khí (Le soufle vital).
- Trà tượng trưng cho Thần (Le principe
intelligent).
Khi cúng Đại Đàn hoặc Tiểu Đàn mới dâng đủ ba lễ.
Thường ngày thì thời tý, ngọ hiến rượu; còn thời mẹo, dậu thì dâng trà.
h) Ngũ nguyện là 5 điều nguyện cho: 1) Đại Đạo
hoằng khai, 2) Phổ độ chúng sanh, 3) Xá tội đệ tử, 4) Thiên hạ thái bình, 5)
Thánh thất an ninh.
Các bài kinh trên được Đức Chí Tôn dạy ba vị Lê Văn
Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc vào đầu tháng 2 năm 1926 đến nhà ông Ngô Văn
Chiêu ở đường Bonard (nay là Lê Lợi, Sai gòn) quan sát cách thờ Thiên Nhãn và
quí vị được trao cho ba bài Dâng Tam Bửu và hai bài Trời còn và Mừng thay để
cầu cơ.
Bài Dâng Tam Bửu hiện nay là do Ngài Bảo Văn Pháp
Quân Cao Quỳnh Diêu chấp bút viết ra.
4 .
Lễ Phật Mẫu:
Khi nhập đàn cúng Phật Mẫu thì cũng chấp tay ấn tý,
xá 3 xá, quì xuống, để tay lên trán niệm mà không lấy dấu 3 ngôi mà chỉ xá
xuống 3 xá rồi đọc kinh.
1) Niệm Hương
2) Khai Kinh
3) Kinh Phật Mẫu
4) Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu (Bài này ngày
sóc vọng khỏi đọc).
5) Dâng Tam Bửu
6) Ngũ Nguyện
7) 10 bài thài (1 Phật Mẫu và 9 Cửu Vị Nữ Phật),
chỉ thài vào Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung ngày 15-8-Âm Lịch mỗi năm.
Chỉ có nơi Đền (hoặc Điện ) thờ Phật Mẫu mới hành
lễ như trên, còn tại tư gia thì thiết lễ cúng Đức Chí Tôn.
Về do lai bài "Kinh Phật Mẫu" được Đức Hộ
Pháp thuyết giảng trên Cửu Long đài vào ngày 15 tháng 8 năm Đinh Hợi như sau:
"Ngày
nay là ngày Đại Lễ Đức Diêu Trì Kim Mẫu Bần Đạo tưởng cả thảy toàn Đạo nên biết
quyền hành của Phật Mẫu như thế nào? Và tại sao chúng ta thờ Người?
Muốn
biết quyền hành ấy Bần Đạo phải thuyết minh và giải nghĩa bài Kinh Đức Phật Mẫu
mà chúng ta thường tụng niệm hằng ngày đó. Trước khi giải nghĩa, Bần Đạo cũng
nên nói rõ ai đến cho bài Kinh ấy? Cho hồi nào? Và tại nơi đâu?
Kinh
Đức Phật Mẫu cho tại Kim Biên Tông Đạo (Cao Miên Quốc) nơi Báo Ân Đường của hai
vợ chồng Thừa Sử Huỳnh hữu Lợi. Lúc trước chưa có Kinh Phật Mẫu, chúng ta chỉ
biết Phật Mẫu, đến Hiệp Thiên Đài khai Đạo Cao Đài, nhờ thi phú văn tự của Cửu
Vị Tiên Nương cho biết nguyên do đến khai Đạo, chớ chúng ta chưa biết quyền
hành của Người. Nơi Kim Biên cả Chức Sắc Hội Thánh Ngoại Giáo đều cầu kinh,
khiến khi đó Bần Đạo đến nhằm lúc cúng Vía Phật Mẫu. Bát Nương đến cầm cơ viết,
chính mình Bần Đạo phò loan nơi Đại Điện, có nhiều người làm chứng. Có chư Đạo
Hữu và một người không biết Đạo là gì là ông Hiếu (kêu Bần Đạo bằng chú) ngồi
trước sân chơi, thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ xẹt xuống rất ngay Báo
Ân Đường. Tới chừng trọn bài Kinh rồi, cả thảy đều nói lại không biết cái gì
xẹt khi nãy như sao xẹt qua xẹt lại vậy, không dè trong nhà đương phò loan. Có
cháu của Bần Đạo và nhiều Đạo Hữu ở ngoài đều làm chứng quả quyết như vậy.... " (TĐHP
Q1/31)
Bài kinh do Bát Nương hỏi Đức Hộ Pháp muốn xin kinh
chữ Nho hay chữ nôm thì Đức Hộ Pháp xin kinh chữ Nho nhưng Bát Nương muốn cho
nhơn sanh dễ hiểu nên dùng những từ thông thường mới nghe như là chữ nôm. Bát
Nương viết mỗi vế 4 câu thì ngưng cơ dâng lên Phật Mẫu chấm, vế nào bị bất thì
viết lại.
5 . Kinh tận độ:
Riêng kinh tận độ thì Đức Quyền Giáo Tông và Đức
Phạm Hộ Pháp gần 10 năm đã lắm lần dâng sớ xin các Đấng ban kinh tận độ. Mãi
đến ngày 23 tháng 7 tới mồng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (21 đến 31 tháng 8 năm 1935)
các Đấng mới giáng cho Tân Kinh. Đó là một giọt nước cam lồ của Đấng Chí Tôn
chan rưới hồng ân đặng gội nhuần cho các đấng linh hồn của toàn thể vũ trụ.
Những bài kinh đó và các lễ nghi thực hành như sau
6 . Lập đàn cầu bịnh:
Hành lễ trong ba đêm. Vào đầu thời thiết lễ cúng
Đức Chí Tôn có thượng sớ và dâng Tam Bửu. Rồi tụng kinh "Di Lạc" và 3
lần "Cứu Khổ".
Đến đêm thứ hai cũng thiết lễ như trước, nhưng
không dâng sớ mà chỉ dâng trà. Đêm thứ ba thêm việc dìu bịnh nhân đến lạy cầu
nguyện. Vị chứng đàn thỉnh hai ly nước đã cúng cầu nguyện Đức Chí Tôn, kê hai
miệng ly đổ thống nhất xuống ly, rồi bảo người bịnh niệm câu chú Thầy, đoạn
uống.
7.
Cầu hồn khi hấp hối:
Sau khi cúng Thầy xong, vị chứng đàn vào lạy cầu
nguyện rằng: "Chúng con là Ban Trị
Sự đương quyền hành sở tại được lời thỉnh cầu của vị Nguyễn Văn X đến đây cầu
hồn cho vị Nguyễn Văn Y đã hấp hối. Mong nhờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, các
Đấng Thiêng Liêng ban ân cho người được nhẹ nhàng linh hồn".
Đoạn đến gần người hấp hối kêu tên nói rằng:
"Tôi
vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến tụng kinh cho linh-hồn Đạo-Hữu ... ... ... nhẹ nhàng
siêu-thăng Tịnh-độ, vậy Đạo-Hữu phải tịnh Thần mà nghe và phải cầu nguyện nơi
Đức Chí-Tôn ban ơn lành cho". (KTĐ&TĐ/Cầu hồn khi hấp-hối và cầu hồn khi đã
chết rồi)
"Chúng con là Bàn Trị Sự đương quyền Hành
Chánh sở tại được lời thỉnh cầu của vị .............. đến đây cầu hồn cho vị
Đạo Hữu ................... đã hấp hối, mong nhờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu,
các Đấng Thiêng Liêng ban ân cho người được nhẹ nhàng linh hồn".(Tài Liệu
Huấn Luyện Bàn Trị Sự 1970)
"Tôi vâng lịnh Đức CHÍ TÔN đến tụng Kinh cho
vong hồn Đạo Hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy Đạo Hữu phải tịnh tâm mà
nghe và phải cầu nguyện với Đức CHÍ TÔN ban ân lành cho". (Tài Liệu Huấn
Luyện Bàn Trị Sự 1970)
8 . Cầu người đã chết:
a) Khi tẩm liệm:
phải thiết lễ đầy đủ cúng Thầy rồi tụng "Kinh Tẩn Liệm". Người chứng
đàn phải lớn phẩm trật hơn người đã chết.
b) Lễ phát tang: sau
khi thành phục, người chứng đàn chỉ cầu nguyện.
c) Lễ cáo từ tổ: có
lễ nhạc. Từ Lễ Sanh trở xuống lễ sĩ mặc áo xanh; từ Giáo Hữu trở lên, lễ sĩ mặc
áo đỏ.
Lễ Sanh hoặc Giáo Thiện một cây lộng và phướn
Thượng Sanh; Giáo Hữu hoặc Chí Thiện trở lên hai cây lộng và phướn Thượng Phẩm.
d) Lễ an táng: Đảnh
lễ Đức Chí Tôn trước khi Cáo Từ Tổ cúng vọng, cầu siêu, khiển điện, di linh cửu
ra thuyền bát nhã, đi đến Điện thờ Phật Mẫu thỉnh linh vị vào bái lễ Đức Phật
Mẫu; đến Đền Thánh hay Thánh Thất cũng thỉnh linh vị vào bái lễ Đức Chí Tôn và
các Đấng. Khi di linh cửu đi đường đọc bài "Kinh Đưa Linh Cửu" và lúc
hạ huyệt đọc bài "Kinh Hạ Huyệt" rồi đọc "Vãng Sanh Thần
Chú".
e) Hành lễ tuần cửu:
chỉ làm tại Thánh Thất hoặc Đền Thánh mà thôi. Ngoại trừ những trường hợp đặc
biệt mới được làm tại tư gia.
Cứ 9 ngày làm lễ 1 lần, mỗi lần tụng 1 bài cửu
riêng. Đây là việc cầu siêu đặc biệt của Cao Đài giáo.
Mỗi tuần cửu phải tụng "Di Lạc Chơn
Kinh".
f) Kinh Tiểu tường
và Đại tường: Tính đủ 200 ngày từ ngày làm tuần cửu thì làm lễ Tiểu tường.
Thiết Tiểu đàn, dâng Tam Bửu và thượng sớ, rồi
thỉnh linh vị đến trước điện tiền tụng "Kinh Tiểu Tường".
Đếm đủ 300 ngày, kể từ ngày làm Tiểu tường thì làm
lễ Đại tường; nghi lễ như Tiểu tường nhưng thay bằng "Kinh Đại
Tường". Cả hai lần đều phải tụng "Di Lạc Chơn Kinh".
9 .
Cầu hồn và cầu siêu cho người ngoài:
Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giai
cấp, đến khi lâm chung biết tưởng đến Đức Cao Đài Ngọc Đế, đến nhờ Đạo cầu cho
siêu thoát, vẫn được thi ân tận độ.
Việc hành lễ như sau:
- Về cầu siêu: Nếu gần Thánh Thất thì cầu nơi đây;
nếu xa Thánh Thất thì thiết lễ cầu siêu nơi nhà chức sắc hoặc chức việc gần đó.
- Nếu người trong thân chịu nhập môn thì đến tư gia
Thượng tượng rồi thiết lễ tang sự. Làm nơi nhà tang chủ chỉ tụng bài "Kinh
Cầu Siêu" và tụng "Kinh Di Lạc".
10 . Thuyền Bát Nhã:
Linh cữu được chở trên một linh xa hình rồng, trên
đó có nóc bát quái và màn che tuỳ theo tín đồ hay chức sắc mà màu khác nhau.
Thuyền bát nhã nguyên là một bông sen của Đức Phật Tổ nơi Cực Lạc dùng tam muội
pháp hoá thành. Thuyền này không đáy và do Tiếp Dẫn Đạo Nhơn chèo.
Khuôn
thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi
quá như bông, nặng quá kim.
Có
đạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không
duyên một đứa cũng là chìm. (TNHT Q1/thivăn 57)
Nói về thể pháp, Đức Chí Tôn sai Tam Thị Thần là
Tổng lái, Tổng mũi, và Tổng thương đến độ chơn hồn về Cực Lạc. Ngoài ra còn 12
bá trạo (người chèo).
Chức sắc từ Giáo Hữu trở lên được chèo hầu và chèo
đưa. Chèo thuyền là một buổi hát sự tích đưa người về cõi Thiêng Liêng hằng
sống (có khôi giáp và điệu bộ giống như hát bội) hàm trong ý hai câu liễn trước
cửa thuyền:
Vạn
sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ.
Thiên
niên tự hữu, linh hồn thiên tứ phản hồi thiên.
Cách sắp xếp từ trước đến sau khi đưa linh cửu như
vầy:
- Tấm danh hiệu: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
- Phướn Thượng Sanh (nếu là Lễ Sanh trở xuống);
phướn Thượng Phẩm (nếu là Giáo Hữu trở lên).
- Bàn hương án (có bửu ảnh của người quá cố).
- Các bàn đưa, phúng vãn ...
- Đồng nhi, nam trái nữ phải.
- Thuyền Bát Nhã chở linh cửu.
- Tang quyến.
- Chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài phẩm cao
đi trước, phẩm nhỏ đi sau, rồi đến đồng đạo.
11 .
Lễ nhạc và kinh kệ:
Nhạc lễ của Cao Đài giáo là nhạc cổ truyền Việt
Nam, chia làm 2 giọng Nam Ai và Nam Xuân.
Lễ nhạc cảm hoá lòng người về đạo đức. Trong các
đàn cúng, nếu có lễ mà không có nhạc hoặc ngược lại thì mất vẻ trang nghiêm:
"Nhạc giả Thiên Địa chi hoà".
Lạy thì bất ấn Tý tức là hai bàn tay chấp lại, ngón
cái của bàn tay trái chỉ vào gốc ngón đeo nhẫn (cung tý) tay phải bao lại bên
ngoài rồi lấy dấu 3 ngôi Phật, Pháp, Tăng trên trán.
"Thầy
khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới
sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy
là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một
cùng Thầy. " (TNHT Q1/38). Thầy là Phật trên các Phật.
Thánh ngôn lại chép:
"Lạy là gì?
- Là tỏ ra bề ngoài , lễ kỉnh trong lòng.
Chấp hai tay lại là tại sao?
- Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm Dương. Âm Dương hiệp nhứt
phát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa. Tức là Đạo. (*1)
Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao?
- Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà
ra. Ấy là Đạo.
Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao?
- Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên,
một lạy Địa.
Lạy Thần, lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
- Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời, và cũng chỉ
rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Đạo.
Lạy Tiên, lạy Phật thì chín lạy là tại sao?
- Là tại chín Đấng Cửu Thiên Khai Hóa.
Còn lạy Thầy 12 lạy là tại sao?
- Các con không biết
đâu?
Thập nhị Khai Thiên là
Thầy, chúa cả Càn Khôn Thế Giái, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số mười hai là số
riêng của Thầy." (TNHT Q1/05)
Mỗi ngày tín đồ phải làm lễ tại Thiên bàn 4 lần gọi
là cúng Tứ Thời (Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu) còn ngày Sóc vọng mới đến Thánh Thất hầu
lễ. Đấng Chí Tôn dạy khi vào đàn cúng, phải tự hỏi coi phận sự ngày ấy xong
chưa và lương tâm có cắn rứt chi chăng?.
Việc cúng bái người chết thì theo kinh Thế Đạo và
làm tuần cửu rất chuyên biệt. Còn việc thờ cúng tổ tiên thì theo phép Đạo Nho.
(*1) Ý ấy trong
Kinh Dịch "Nhất âm nhất dương chi vị Đạo".
12 . Quan niệm về Vũ trụ và
Con người:
Vũ trụ quan của Cao Đài giáo được Đấng Chí Tôn dạy:
"Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế Giới thì
Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân
ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra Càn
Khôn Thế Giới. (TNHT Q2/57)" (*1).
Quan niệm về nhân sinh (*2) thì Đức Chí Tôn cũng
giáng cơ dạy:
"Đạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên,
Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm, do theo mà
lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà
mất hết ngôi phẩm. (TNHT Q2/01)
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét