Ngày 23-12-Canh Dần (30-1-1951) Đức Phạm Hộ Pháp lại
ký thánh lịnh số 13/TL phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 vị Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh.
Nhưng họ không quen việc phế đời hành đạo nên lần lượt rời khỏi Thánh Địa.
12 . Sang vương quốc Cao
Miên:
Sau khi đi Đà Lạt để gặp Đức Bảo Đại bàn việc nước
thì Đức Hộ Pháp Tần du để lo việc Đạo và thi hành
một sứ mạng đặc biệt. Sau
thời Tý đêm 27-3-Canh Dần (1950) Đức Ngài thuật lại tự sự:
"Từ thử đến giờ Bần Đạo chưa có buổi nào đặng
hưởng hạnh phúc đại thắng lợi một cách mỹ mãn như kỳ Bần Đạo đi Cao Miên; ...
... ... ...
Ngộ nghĩnh một nước được hưởng hạnh phúc đã có một
ơn riêng, nên xứ Tần được tiến triển đẹp đẽ. Bần Đạo thấy từ Vua tới dân, trước
trường quan lại đã để trong một đời nghị luận khéo giữ nền chánh trị họ, họ
tranh đấu trí thức tinh thần họ thuộc về đầu óc cương quyết biết tôn trọng cái
quyền dân, quyền nước hơn lợi lộc.
Bây giờ kể từ Sway Riêng tới Kinh Đô, Bần Đạo đã
thấy cái tự do của nước người được hưởng, trong nước của người ta trương cờ xí
của Đạo lên dọc dài theo đường đặng nghinh tiếp vị Giáo Chủ của mình một cách
tự do không ái ngại e lệ chi cả, ... ... ...
Trong mấy ngày Bần Đạo, Bảo Thế và Tiếp Đạo ở đó
cũng tự do không có điều gì làm mất tự do cả, nhứt là nhà binh Pháp, mấy ngày ở
Kinh Đô canh tuần nghiêm nhặt, sự cung kính đối đãi Bần Đạo và các bạn lấy làm
cảm kính vô hạn, ... ... ....
Kế tiếp chúng tôi đi đến nhà Vua, thì Vua dùng lễ
Đế Vương mà tiếp rước chúng tôi tại tư dinh của Ngài, nơi ấy là nơi để rước
những người thân yêu của nhà Vua, rước chúng tôi làm cho chúng tôi ngạc nhiên
sự đối đãi của nhà Vua rất trọng hậu không thể tưởng tượng được.
Khi nào tới, Bộ Nhạc đến trước ngai Vua trương Quốc
kỳ, khi đến đó lật đật bước xuống xe, nhạc trổi lên, quân lính bồng súng lên
nghinh tiếp, chúng tôi liền đến trước cây Quốc kỳ bái đãnh lễ, khi xong truyền
bách bộ đi vô Điện, chúng tôi vẫn giữ lễ ấy, có lính bồng súng đứng giữ lễ, từ
ngoài đến Cung Ngài, Ngài thấy chúng tôi đi bách bộ vào Ngài, Ngài sai quân
lính ra tiếp rước, tôi không có dè Ngài lấy một trọng lễ tiếp rước như thế,
bước vào thấy Ngài mặc đồ Âu phục coi đẹp lắm, mặt sáng láng có vẻ một Vị Vương
Đế. Vào đến Ngài chấp hai tay bái, làm cho Bần Đạo phải bái lại xong Bần Đạo
đưa tay ra bắt ngang nhau nói chuyện đi vô tại trong Cung. Cung Ngài thường để
rước khách quí trọng của Ngài, Ngài mời Bần Đạo ngồi, Bần Đạo nhường lại cho Ngài,
Ngài nhứt định nhường lại cho Bần Đạo phải ngồi, ... ... ....
... ... ...
Khi chúng tôi đã viếng Thủ Tướng rồi dầu biết cả
tâm tình trí óc của họ đã mơ ước thế nào, khi ra khỏi Điện nhà Vua, rồi có tin
Vua Sãi mời đến nhà thờ Norodom nhà thờ đặc biệt từ trước đến giờ của nhà Vua,
khi đến nhà thờ thì Đức Vua Sãi cũng tiếp rước đối đãi với vị Giáo Chủ vậy. ...
... ...
Tiếp chuyện đạo đức với nhau tâm đồng ý hiệp là về
Giáo Lý; giờ phút này Bần Đạo nói thật đạo của nước Tần và Vua của nước Việt
Nam có thể hiệp một cùng nhau đặng. Nếu ơn thiêng liêng Đức Chí Tôn định thì
Hội Thánh Cao Đài có thể hiệp nhứt với Đạo của nước Tần, chung hiệp là một đặng
đem Giáo Lý đạo đức làm con thuyền Bát Nhã đặng độ thiên hạ mà chớ.
... ... ...
Khi Bần Đạo về đi xuống Sài Thành đặng hội các đảng
phái quân sự, Bần Đạo thấy có nhiều vấn đề hay, họ định thi hành, nếu thi hành
được thì tương lai Quốc Gia Việt Nam có thể gỡ được điều ấy cũng nhờ ơn riêng
của Đức Chí Tôn, ... ...". (TĐHP Q3/28)
13 .
Danh vị cơ quan tạo tác:
Hội Thánh và các cơ sở phụ thuộc được xây cất hoàn
thành mà không tốn một xu, đó là nhờ Ban Kiến Trúc, cơ quan tạo tác có nhiều
thợ hồ công quả. Những công đó cũng xứng đáng như công truyền Đạo. Thế nên, Đức
Hộ Pháp ban hành Thánh lịnh số 231 ngày 9-7-Canh Dần (22-8-1950) chỉ vì cơ quan
công thợ tạo tác trong Châu vi Toà Thánh chưa có hàng phẩm tương đương với các
cơ quan khác đặng mở đường lập vị. Thánh lịnh này có ba điều quan trọng.
1 -
Điều thứ nhứt: Định riêng cơ quan công thợ trong châu vi Toà Thánh những danh từ và
trách vụ dưới đây:
a) Tá Lý coi về một sở.
b) Phó Tổng Giám làm đầu một hay nhiều sở dưới
quyền Tổng Giám.
c) Tổng Giám kiểm soát toàn thể các cơ sở
2 - Điều
thứ nhì: Những chức vụ kể trên đây đối hàm như vầy:
a) Tá Lý đối hàm Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b) Phó Tổng Giám đối hàm Lễ Sanh
c) Tổng Giám đối hàm Giáo Hữu.
3 - Điều
thứ ba: Mỗi bậc kể trên đây cũng phải hành sự đủ 5 năm mới được thăng và tới bậc
Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư,
nếu đầy đủ công nghiệp. (Xem thêm Chân dung Đức Hộ Pháp về đối phẩm các hàng
chức sắc).
14 .
Tịnh Thất và Trí Huệ Cung:
Ngoài Thánh Thất ra, Cao Đài giáo còn có Tịnh Thất
để cho những tín đồ cần tĩnh dưỡng tiếp điển với các Đấng. Ngày 15 tháng 12
Canh Dần (1950) Đức Hộ Pháp đã trấn pháp Trí Huệ Cung, trong có Thiên Hỉ Động,
là ngôi Tịnh Thất đầu tiên đúng theo kiểu mẫu của nền Đại Đạo do Đức Hộ Pháp
chỉ vẽ xây cất.
Trí Huệ Cung là Tịnh Thất của Nữ phái, còn Nam phái
thì có Vạn Pháp Cung, trong có Nhơn Hoà Động ở sân đình dưới chân núi Điện Bà.
Trí Huệ Cung thuộc Trường Hoà, cách Toà Thánh khoảng 10 cây số đường trường.
Ngoài ra, còn có Trí Giác Cung trong có Địa Linh Động. Đây là nhà tịnh của bào
huynh ông Phạm Công Tắc. Đức Hộ Pháp giảng về Trí Huệ Cung như sau:
"Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh
đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta,
của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy;
bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng
hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc
biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không
có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.
Cửa Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của
toàn thể các đẳng chơn linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một
tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh,
hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên
toàn thể nhơn loại đó vậy". (TĐHP Q.3/45)
Kể từ ngày 16 tháng 1 năm Tân Mão (1951) Đức Hộ
Pháp vào Trí Huệ Cung tịnh luyện (vì Vạn Pháp Cung chưa xây cất) trong thời
gian 3 tháng. Đêm 17-4 năm đó, sau khi Đức Ngài ra khỏi nhà tịnh, đã thuyết Đạo
tại Đền Thánh như sau:
"Vậy Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng
mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về
mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức
Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài
giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ
đề ngồi thoàn định đặng xin giải thoát cho chúng sanh. (TĐHP Q.4/04)".
Khi Đức Ngài đến Trí Huệ Cung để nhập Tịnh Thất có
nhiều thư gởi đến xin nhập tịnh một lượt với Đức Ngài. Đức Ngài giải thích:
"Ngày giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết
thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa Thiêng liêng ấy đặng. Đang lo
không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết
định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức
Chí Tôn thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm
quyền Thiêng liêng của Đạo. ......
Muốn định Thiên vị của mình, quyền Thiêng liêng đã
buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân.
......
Nếu người nào không có tam lập thì không có ở chung
với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên thể pháp
mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí pháp để đạt pháp, đạt Đạo.
.....
Ấy vậy tam lập là: Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con
người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có tam lập thì giá trị con người không
có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội
nhơn quần được". (TĐHP Q.4/06)
Vào ngày 1-4-Quí Tỵ (1953) Đức Ngài thuyết về
phương pháp tịnh luyện như vầy:
"Hôm nay Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp, tức
nhiên cái Bí Pháp Tịnh Luyện và khuôn luật tấn hóa Tạo Đoan của con cái Chí
Tôn, đối với cơ huyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng cho chúng
ta đoạt cơ tấn hóa. ... ....
... ... ... thật ra Đức Phật Tổ chỉ đoạt được có
một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi, mấy người đã đoạt được vị Phật đều là ở
trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời, sống lụng lại ba
kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết Luật Nhơn Quả của ta, rồi nhờ kiếp
nầy có thể đem tương lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước được. Đoạt Bí Pháp
ấy chúng ta mới có thể biết ta là ai, ta biết đường lối chúng ta đi thế nào, ta
có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ không phải làm cơ siêu thoát đặng.
Đoạt cơ siêu thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh cho chúng ta đó
vậy". (TĐHP Q.6-1/07)
Nhắc lại, ngày 14-01-Đinh Hợi (1947) Đức Hộ Pháp đã
ban hành Đạo lịnh số 209 chỉ dẫn về: PHƯƠNG LUYỆN KỶ đặng vào con đường thứ ba
Đại Đạo, "phương pháp trị tâm" vì tâm là hình ảnh Thiên lương và
Luyện thân luyện trí (Xem Đại Đạo Sử Cương, quyển 3).
15 .
Đức Phạm Hộ Pháp Bắc Du:
Năm 1950, Đức Ngài đi Hà Nội để kêu gọi các đảng
phái, tôn giáo ngoài đó thống nhứt để đòi Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam.
Trong các giới Đức Ngài tiếp xúc có Đức Giám Mục Lê
Hữu Từ, Thượng Toạ Thích Tâm Châu.
Đạo Cao Đài truyền ra Bắc đầu năm Quí Dậu (1933)
Hội Thánh bổ Giáo Hữu Thượng Tuất, Thượng Chữ lập thành Thánh Thất đầu tiên ở
ga Hàng Cỏ, Lê Lợi. Đầu năm 1934, Hội Thánh bổ Giáo Hữu Thượng Ngoạn, Lễ Sanh
Thượng Điểm liên lạc với Hội Nam Kỳ Tương Tế ở Hà Nội. Đêm 1-3-Giáp Tuất
(14-4-1934) lễ Khai Đạo tại Bắc Việt ở Thánh Thất phố Harmand, sau dời về Quỳnh
Lôi. Cơ Đạo ngày càng phát triển là chỗ dựa cho nhơn sanh, nên đầu năm 1935 Hội
Thánh bổ Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh coi Tông Đạo Bắc Việt. Năm sau Đạo truyền tới Hải
Phòng, Thánh Thất lập ở Tam Giang, Tây Tựu.
16 . Lập phố chợ Long Hoa:
Từ lúc Đạo mới gom về
quây quần nơi Toà Thánh thì chợ Ngã Năm (gần cửa số 4 nội ô) sầm uất sung túc
nhất, thứ đến là chợ Thương binh (vì phần đất này dành cho thương phế binh Cao Đài, nay
là chợ Hiệp Lễ) và chợ Từ bi trước Toà Nội Chánh. Số đạo hữu này về lập nghiệp
tại vùng Thánh địa ngày càng đông, nên Đức Phạm Hộ Pháp mới cho thiết đồ án lập
chợ Long Hoa.
Ngày 5-6-1951, Đức Ngài ban phép lành và trấn thần
Long Hoa Thị và hiểu dụ: "... ... ... Bần Đạo cho lập gấp cái chợ nầy để
tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh.
Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ,
nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con
cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải
có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức
Chí Tôn đã định vậy. (TĐHP Q.4/13)".
Sở dĩ, Đức Ngài nhấn mạnh: phải có là vì bấy giờ
khu chợ Long Hoa chỉ là khu rừng, toàn gốc cây gò mối, chỉ có một hai đường
truông sình lầy, giữa đường toàn gốc cây. Người ta khó tin nơi đây trở thành
ngôi chợ sầm uất.
Trong ngày 15-7-Quí Tỵ (1953) khánh thành văn phòng
Ban Quản Trị Long Hoa Thị, Đức Ngài nói: "Bần Đạo rất trông cậy ở lòng
nhiệt thành của toàn thể hãy giúp cho Ban Quản Trị và Hội Thánh hoàn thành Chợ
Long Hoa thiệt (vì hiện giờ chỉ là tạm thôi). Khi thiệt thọ rồi Bần Đạo dám
chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp nữa và
ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông Đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục
làm Thánh Thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực, tâm tình đặng cứu khổ
chúng sanh.(TĐHP Q.6-1/24)".
Ngày hôm sau, Đức Ngài đến đôn đốc công việc khai
phá và hiểu dụ: "Hôm nay sau chỉ có 2 năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi
nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua ban phép lành nơi Chợ Long Hoa là ngày
mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho
tới tháng 7 này thật ra chỉ có 2 năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con
người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em
làm không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần hoạt
bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất
trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
... ... ...
Chợ Ngã Năm mấy em đừng tưởng có phép tắc huyền bí,
Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà lại ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết
rằng: Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến triển mạnh, hơn nữa mấy em do vị tổ
chức của mấy em mà thôi, đủ thấy chợ Ngã Năm thế nào? Đủ địa thế phương tiện
họat động vĩ đại hơn nữa.
Vì cớ cho nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử
chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em ngó thấy chừng vài năm nữa đây sẽ chật
hết, Qua đã ngó thấy chen chúc với nhau rồi đó, Qua liệu phương làm sao mở mang
rộng ra nữa cho mấy em". (TĐHP Q6-1/25)
Ngoài ra còn có chợ Cẩm Giang, Bến Kéo, Tân Dân thị
(tức chợ Qui Thiện), Đức Ngài còn hoài vọng lập chợ Thiên Vương ở Thiên Thọ Lộ
(xã Trường Hoà).
17 . Trai đường:
Từ khi mở đạo thiết lập Toà Thánh tạm, Hội Thánh đã
mở rộng cửa từ bi nuôi nấng nhân sanh. Ai ai cũng được đến "Trai
đường" (nhà cơm chay) dùng bữa. Nhất là khoảng thời gian 1947-1950, học
sinh thường ghé ăn trưa nơi trai đường. Khách thập phương cũng được tự do vào
dự cơm chay để nếm mùi đạo đức.
Trai đường gồm có hai dãy nhà dài xây cất bằng xi
măng cốt sắt rất kiên cố có thể chứa hàng ngàn người ăn cùng một lúc, toạ lạc
sau Nữ Đầu Sư Đường đối diện với Giáo Tông đường.
Theo Thánh lịnh số 57 ngày 1-7-Tân Mão (3-8-1951)
vì tình trạng khó khăn nên Hội Thánh không còn đảm đương cho mọi người như
trước nữa. Từ đó, Hội Thánh chỉ cấp dưỡng cho các chức sắc Thiên phong nam, nữ
Hành Chánh và Phước Thiện, các chức sắc Hiệp Thiên Đài các công thợ, giáo nhi
và đồng nhi, cô nhi và lễ nhạc.
18 .
Các phủ từ trong vùng Thánh Địa:
Trong Cao-Đài giáo ngoài nhà thờ các Đấng Thiêng
liêng, còn có các phủ từ thờ tông đường như Lê phủ từ, Phạm phủ từ, Văn phủ từ,
v.v...
Trong năm 1952, Đức Phạm Hộ Pháp cho lập các phủ từ
các họ nào chưa lập và phủ dụ: "Từ trước đến giờ Đạo Cao Đài lấy Tông
Đường làm nền móng cho Đạo Cao Đài, từ đây sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa, sẽ càng cao
trọng hơn nữa. Không vì Đạo mà vì Tông Đường ta tạo dựng rồi bá Tộc kia cũng
làm, ngày kia ai không Đạo họ cũng về Tộc họ. Luôn dịp mấy em tạo Phủ Thờ này
công nghiệp mấy em đối với Đạo Cao Đài một cách gián tiếp đó vậy, mấy em không
thất Đạo, một gương vĩ đại đối với Đạo mà chớ. .... (TĐHP Q.5/06)".
Trong dịp đến hội ở Phạm phủ từ, Đức Ngài phát
biểu: "Ngày hôm nay Bần Đạo vào hội đây chẳng phải lấy danh thể Hộ Pháp,
chỉ lấy danh thể Phạm Công Tắc mà thôi. ... ... ...
Chữ hiếu là đứng đầu hết không trọn hiếu không thể
gì làm mọi điều khác được, chúng ta muốn có một nghiệp Đạo của mình cho đặng
tận thiện tận mỹ vĩ đại, có thể nói rằng ta muốn cho danh thể tồn tại nơi mặt
thế này bền bĩ lâu dài; đại nghiệp thiệt của chúng ta là đấy.Về nghiệp đạo đức
tinh thần các bậc tiền bối của ta có nói rằng: "Lập thân hành đạo dương
danh ư hậu thế", ta có thể làm Đạo lập thân danh ta được mà phải có hiếu
trước đã, .... ... ...
Tạo Phạm Phủ Từ chẳng phải riêng trong cửa Đạo hay
nội trong nước Việt Nam mà thôi. Chúng ta có thể ngó tới Bắc Việt, ngó tới
Trung Hoa, Tông Đường của ta ở mé biển nữa thành thử một cơ quan vĩ đại.
...(TĐHP Q.5/06)".
Do quan niệm trên, việc lập các phủ từ cũng nằm
trong mục đích truyền đạo, trong phương tiện tông đường.
19 .
Lễ đăng điện Xá lợi Phật:
Sau khi Đức Thích Ca viên tịch thì các tông đồ thiêu
thi hài của Ngài. Lóng xương chưa thiêu huỷ hết được cất giữ như báu vật gọi là
Xá Lợi Phật.
Đại Đức Narada Théra Phó Giáo Tông Phật giáo Tích
Lan đem cho nước Việt Nam 3 hạt ngọc xá lợi: một cho Đại thừa, một cho Tiểu
thừa Phật giáo Việt Nam và một cho Tiểu thừa Phật giáo Campuchia. Vì Đại thừa
Phật giáo chưa quyết định để hạt ngọc ở đâu nên Đại Đức Narada Théra giao cho
Hoàng thái hậu Từ Cung, để Đức bà tặng nơi nào tuỳ ý. Kèm theo 3 hạt ngọc có 3
cây bồ đề: một cây tặng Tiểu thừa Việt Nam, một cây tặng Tiểu thừa Campuchia và
một cây tặng Toà Thánh Tây Ninh trồng gần cây phướn trước Đền Thánh.
Đêm 18-5-Quí Tỵ (1953) thiết lễ đăng điện Xá Lợi
Phật Đức Phạm Hộ Pháp thuyết giảng như sau:
"Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là
đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan, lấy của
tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem
Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân
Hiệp Thiên Đài, ... ... ...
Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Boudda Çakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada Théra thuyết
Đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác thân như ta,
sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao
siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã lên tới Phật vị.
Ngài tái kiếp làm người với mãnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy.... ...
...
Trước kia Đức Phật Thích Ca đã thành Phật đặng, thì
chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Đạo mong
mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài
vậy. (TĐHP Q.6-1/18)". Cây bồ đề trước Toà Thánh hiện nay được trồng dịp
này.
20 . Hội Nghị toàn quốc tại
Sài gòn:
Đức Phạm Hộ Pháp đại diện cho Đức Quốc Trưởng Bảo
Đại triệu tập Hội nghị toàn quốc vào tháng 10 năm 1953 kéo dài trong 17 ngày.
Đại Hội gồm các thành phần: Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Hoà hảo, Bình xuyên,
các nhân sĩ, các nhà cách mạng và đại diện đồng bào các giới để có thái độ với
chính quyền Pháp vì họ đã không thực tâm thi hành các Hiệp ước trao trả độc lập
đã ký với chánh phủ Việt Nam.
Trong bài Thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 14-9-Quí Tỵ,
Đức Ngài nói: "Kỳ hội này Bần Đạo chỉ có mục đích tìm phương dung hòa làm
cho hai nòi giống hiểu biết với nhau đặng giải quyết một vấn đề rất nên đau khổ
tâm hồn, là vì không hiểu với nhau mà đã sát phạt tương tranh cùng nhau.
Hại nổi Đức Quốc Trưởng đã phú thác cho Bần Đạo cái
sứ mạng Hội Nghị Toàn Quốc ấy. .... .....
Hại nổi Quốc Dân Việt nam họ đã mất cả tinh thần
không có tài nào dìu đường cho họ đi trên con đường nhơn nghĩa công bình đem cả
hai vấn đề của Đức Quốc Trưởng đã định.
1-Là phải định thế nào cho nước Việt Nam được độc
lập, về phương diện nầy thì lẽ tự nhiên.
2- Là phải định phương thế liên kết cùng Pháp.
Điều thứ nhứt vấn đề giải quyết, chính mình Pháp đã
định, vì Pháp Quốc kêu gọi nước Việt Nam do tờ hiệu triệu ngày 3-7, nước Pháp
đã định giao quyền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, điều ấy có nói đi nói lại
cũng chán, ... ... ...
Bởi vì chính mình Bần Đạo biết Liên Hiệp Pháp chưa
hoàn toàn, thế nào tinh thần của toàn dân Việt Nam cũng có thể trích điểm nên
Bần Đạo lo ngại chỉ có đề xướng một điều để cho họ lấy độc lập trước, chừng nào
độc lập xong, thành lập Quốc Hội rồi mới định phương bang giao với Pháp, ...
... ...
Cả toàn sắc dân Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn
độc lập ấy đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến nữa, hai chí hướng nó
đều hữu lý cả, nhưng chỉ có một điều là không ai hiểu rõ tâm tình với nhau, nên
chưa quyết định. ... ... ...
... ... Bần Đạo chỉ mong một điều là nếu như Đạo
Cao Đài có sứ mạng dung hòa cả toàn thiên hạ, về tín ngưỡng, về xã hội ít nữa
quyền Thiêng Liêng giúp cho Bần Đạo thiệt thi nhơn nghĩa, thật hành phương pháp
đem hòa bình hạnh phúc cho toàn nhơn loại". (TĐHP Q.6-1/29)
Nhưng Chính phủ Pháp không thực tâm trao trả độc
lập. Họ cố ý hứa hẹn nhì nhằng cho đến ngày quân viễn chinh Pháp đầu hàng ở
Điện Biên Phủ (1954) với chiến lược thần tốc của bộ đội Miền Bắc.
21 . Khảo Cứu Vụ:
Vào rằm tháng 12-Đinh Hợi (25-1-1948) Đức Hộ Pháp
ký Thánh lịnh thành lập Khảo Cứu Vụ để nghiên cứu về giáo lý, triết lý, đạo
pháp, hệ thống hoá tư tưởng CĐ. Nội dung:
- Tổ chức giảng đạo tại Toà Thánh và các Châu Đạo
để phổ thông giáo lý ĐĐTKPĐ và các tôn giáo.
- Tổ chức các lớp huấn luyện chức sắc, chức việc để
đủ tài sức truyền giáo.
- Xuất bản báo chí để phổ thông chơn đạo.
Thánh lịnh còn ghi rõ phương pháp làm việc, lề lối
tổ chức, chương trình hoạt động.... Riêng bí pháp tịnh luyện và phép tham thiền
có ghi trong đó.
Sau khi Thánh lịnh ban hành đúng 75 ngày, vào
5-2-Mậu Tý (1948) Đức Hộ Pháp nói: "Tội nghiệp thay mấy anh lớn già yếu đã
giải thoát không được hưởng một đặc ân gì. Hiện thời bí pháp có ảnh hưởng đến
nền Đạo. Nơi Hiệp Thiên Đài lấy bí pháp tạo huyền linh đài để tương liên với
quyền năng vô hình..." (Thông tin số 59).
Mãi đến ngày 4-5-Nhâm Ty (1972), Ngài Trương Hiến
Pháp, Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài mới ban hành Thánh lịnh số 53-TL tái lập
Khảo Cứu Vụ để đáp ứng nhu cầu tiến triển của nền Đạo.
Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp: Thập Nhị Bảo
Quân là Hàn Lâm Viện của Đạo, là Hội đồng khoa học xã hội tôn giáo. Tới nay Bảo
Quân chưa đủ số nên chưa thực hiện được chức năng. Do đó Khảo Cứu Vụ thay Bảo
Quân làm những nhiệm vụ tương đối thấp hơn. Bởi lẽ, công cuộc khảo cứu đòi hỏi
phải có tri thức, khả năng chuyên môn và tầm hiểu biết sâu rộng trên mọi lãnh
vực. Nếu thực hiện được tư tưởng Đạo Cao Đài sẽ đặng hệ thống hoá và luận tạng
sẽ ra đời.
22 . Âu du:
Ngày 17-4-Giáp Ngọ (19-5-1954) Đức Hộ Pháp sang Âu
châu do lời mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại. Đức Ngài được coi là Cố vấn tối
cao của Đức Bảo Đại để hoạch định cho chương trình Hội nghị Genève. Mặt khác,
Đức Ngài sang Pháp để đáp lời mời của Chính phủ Pháp trước đây, mà Đức Ngài chưa
có dịp đi.
Hôm lên đường, các cơ quan Chánh trị đạo đưa tiễn,
Đức Ngài nói: "Hôm nay Thầy lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem ngọn cờ cứu khổ
đến Âu Châu; mong rằng cánh hạc huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình yêu ái
vô biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc nơi Âu Châu. May ra nhờ lòng
yêu ái vô biên, quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ sẽ làm
cho một trường hổn loạn trở nên thái bình và hạnh phúc cho cả nhơn loại trên
mặt địa cầu này... ... ... ... ... ... Một điều trọng yếu hơn nữa là cả thảy
cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ từ bi bao phủ trên mặt địa cầu này. Nếu mơ ước
không có diệt vong mà thiệt hiện ra được. Bần Đạo dám chắc không có điều chi
vui cho Đại Từ Phụ hơn điều đó. (TĐHP Q.6-2/11)".
Chánh phủ Pháp tiếp đón Đức Ngài theo nghi lễ một
thượng khách. Tổng thống René Coty, Thủ tướng Laniel, Phó thủ tướng Paul
Regnaud, các nghị sĩ và các nhân vật trong chính giới đều hoan hỉ tiếp kiến Đức
Ngài.
Trong cuộc phỏng vấn của báo chí tại Pháp, có hỏi
Đức Ngài chống Cộng không? Đức Ngài trả lời:
"Chúng tôi là người của tôn giáo, thay mặt
Thượng Đế cứu vớt tất cả con cái của người, nên dầu kẻ có tội lỗi thế nào cũng
cứu vớt hết".
Các nhân vật chính trị Việt Nam sau đây đều có đến
nơi Ngài ngự để tham luận. Phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh, Tổng trưởng tài
chánh Dương Tấn Tài, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân và ông Dương Hồng Chương, Đỗ
Hùng ...
16 giờ ngày 22-5-1954, Đức Ngài đến điện Thorène
tiếp kiến với Đức Quốc Trưởng trong 2 tiếng đồng hồ. Ngày 24, Thủ tướng Pháp
Laniel tiếp Đức Ngài tại điện Matignon.
Tình hình chánh trị lúc bấy giờ bất ổn, các chính
khách ái ngại. Bản hiệp định Genève đã đăng trên các báo. Người ta phao tin là
đã ký rồi. Nhưng thật sự thì hiệp ước chưa ký nên người ta đổ xô mọi hy vọng
vào Đức Ngài coi xoay chuyển gì được không.
Ngày 27 đại diện Cao Đài tại Pháp quốc, ông Henri
Regnault đến chào mừng Đức Ngài. Những ngày còn lại, Đức Ngài thăm các di tích
lịch sử của nước Pháp.
Vào 16 giờ ngày 4-6-1954 Đức Ngài cho tổ chức một
bữa tiệc tại nhà hàng Hotel George V để thiết đãi các nhân vật Việt Pháp, Việt
Kiều và các lãnh sự các nước. Trong dịp vui này có tin mừng rằng: sau khi tiếp
Đức Phạm Hộ Pháp, Tổng thống René Coty đã viết thư cho Thủ tướng Laniel nói là
ông đã hứa với Đức Ngài, nhờ Thủ tướng ký tên hai bản Hiệp ước ấy cho vui lòng
Đức Ngài. Mới biết rằng người Pháp rất lão luyện và tế nhị trong cách xử thế,
đợi đúng ngày 5-5-Giáp Ngọ, ngày sinh nhật của Đức Phạm Hộ Pháp mới ký giấy để
làm quà sinh nhật hiếm có.
Vào ngày 24-6-Giáp Ngọ, Đức Ngài về Toà Thánh, trong
cuộc tiếp đón ngày về, Đức Ngài có phủ dụ: "Trên hai tháng đến xứ Pháp,
nhờ ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn ban bố quyền năng vô đối của Ngài mà Bần
Đạo đã đặng thỏa mãn, và có phương kế làm cho đôi bạn đã sống chung cùng nhau
trên tám chục năm trường, vì lầm hiểu nhau mà không đem lại hòa bình của hai
nước đặng.... ... ...
Y như lời Bần Đạo khi Hội Nghị Toàn Quốc, Bần Đạo
có nói một câu Pháp ngữ như vầy: "Que la France nous aide. Afin que nous
puissions réaleser notre indépendance national et édéfier le Temple de l'Union
Française". (TĐHP Q.6-2/12)". Nhờ câu nói ấy mà toàn thể quốc dân
hiểu rằng làm thế nào thiệt hiện đặng nền độc lập.
Trong chuyến Âu du, Đức Ngài có làm bài thơ
"khó mong độc lập" đáng lưu ý như sau:
ÂU DU 1954
Cỡi
gió tung mây đến Pháp triều,
Đo
lường vận nước được bao nhiêu?
Tương
lai gởi phận, tay tha chủng,
Mai
một thương thân đám Việt Kiều.
Cứu
quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An
dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho
hay chính nghĩa chưa cân đúng,
Máu
mủ vì thương phải đánh liều.
23 . Đông Du:
Ngày 20-7-Giáp Ngọ, Đức Ngài sang Trung Hoa Quốc
gia (Đài Loan) theo lời mời của Chính phủ này, sau đó thăm xã giao nước Đại
Hàn, rồi sang Nhật để bàn việc nước và rước di hài của Đức Cường Để.
Trước các cơ quan Chánh trị Đạo, Đức Ngài hiểu dụ
"Hôm nay Bần Đạo lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn Bần Đạo
vừa được Chánh Phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ định của họ mời Bần Đạo chỉ
vì Đạo mà thôi. ... ... ...
Hôm nay Thầy được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho
cầm cây cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ
mạng Thiêng Liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy
gẫm lung lắm đó vậy.... ... (TĐHP
Q.6-2/15)".
Sau khi viếng Đài Loan, Đức Ngài sang Nhật rước di
hài của Đức Ngoại Hầu Cường Để (quí danh là Nguyễn Phúc Vân) đích tôn của Đông
Cung Cảnh về nước. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhứt, Đức Ngài tuyên bố:
"Đây là di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc Vân,
Ngài là đích tôn của Đức Đông Cung Cảnh tức là Tông Chi Hoàng Tộc. Cả toàn thể
Quốc Dân đều biết dĩ vãng của Ngài.
Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất
khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm thế nào phục hồi vận mạng Tổ Quốc,
độc lập thiệt hiện.
Ngài cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với
tâm hồn của Bần Đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, cùng
đảng phái, đoàn thể, Tôn Giáo... ... ...
Đau đớn thay! Trên bốn chục năm lưu vong nơi đất
khách. Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh
chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.
Hôm nay, di hài của Ngài đã được đem về nước: Do đó
khối anh linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối Quốc hồn của bốn ngàn năm lập
quốc....". (TĐHP Q.6-2/16)
Ngày 20-9-Giáp Ngọ, Đức Ngài về Toà Thánh và tuyên
bố trước toàn Đạo: "Tiếp theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài
Thành đã nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Bần Đạo chẳng cần nhắc
đi nhắc lại thì cả toàn thể quốc dân Việt Nam cả toàn Đạo cũng biết rõ sự hy
sinh vô đối của Ngài ... ... ...
Cả Thanh Niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn
gởi của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn Thanh
Niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc, mặc dầu còn một hơi thở
cuối cùng, nhưng Ngài còn rán hô "Việt Nam Muôn Năm" rồi mới tắt
thở." (TĐHP Q.6-2/17)
. Linh vị của Đức Cường Để được thờ tại Báo Quốc
Từ.
24 . Báo Quốc Từ:
Báo Quốc Từ thành lập từ ngày 1-10-1955 cách cửa
chánh chợ Long Hoa về phía Bắc hai ngã tư. Một ngôi đền trang nghiêm lộng lẫy
nằm trên con lộ mang tên Báo Quốc Từ.
Hằng năm vào ngày 10-3-âm lịch thiết lễ giỗ Tổ Hùng
Vương rất long trọng tại nơi đây.
Trước đền trên hai cột trụ cửa có câu liễn:
Bảo
thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách
Hộ
trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh.
Chính giữa đền thờ trần thiết một bàn thờ cao lớn,
sơn son thiếp vàng từ khí bằng đồng. Hai bên có lộng vàng, tàng đỏ, lổ bộ kim
cang. Ngay sau bàn thờ có 8 chữ Hán to:
CỨU
QUỐC CÔNG THẦN - CHIẾN SĨ TRẬN VONG.
Dưới 8 chữ ấy có 4 bài vị sơn son thiếp vàng là:
Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Cường Để. Đức Hộ Pháp giải thích (18-8-Ất Mùi):
"Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo
thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng trung
quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi .
Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc
cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy. (TĐHP Q.6-3/17).".
25.
Lễ khánh thành Toà Thánh Tây Ninh:
Đây là cuộc lễ có thời gian dài nhất 10 ngày, từ
ngày 6 đến 16 tháng 1 năm Ất Mùi (29-1-1955 đến 8-2-1955) từ trước đến nay. Số
người dự lễ lên đến một triệu và số người đến xem lễ và quan sát lên đến non
triệu người.
Trước tết âm lịch năm đó, nhiều đoàn người, gia
đình đã lũ lượt, từ các tỉnh về Toà Thánh ăn Tết và ở lại dự lễ khánh thành.
Gần ngày lễ càng ngày càng đông đủ mọi sắc xe, đủ mọi địa phương rần rần rộ rộ
kéo về. Hội Thánh chỉ tiếp những khách chính thức, còn các đạo hữu thì ở ngoại
ô tại các nhà quen trong 18 Phận Đạo. Riêng người ngoại Đạo đến quan sát trong
ngày rồi trở về Sài gòn, lên lên xuống xuống tấp nập vô ngần.
Vào ngày 8-1-Ất Mùi (31-1-1955) là ngày chánh lễ,
Đại Đồng Xã bề ngang 40 thước, bề dài 80 thước, hai khán đài nam và nữ mỗi cái
chứa được trên ngàn người đã chật nức. Nhìn lên hàng ghế danh dự ngoài Đức Phạm
Hộ Pháp còn có Thủ tướng Ngô Đình Diệm, các Đại sứ của các nước. Đại Đồng Xã đã
đầy người, các đạo hữu đến sau phải đứng tạm trong rừng Thiên nhiên, sau hai
khán đài. Thiếu bút mực để ghi chép ngày lễ đó.
1)
Lễ kỷ niệm Cao Đài giáo ra Quốc tế: Sáng hôm đó, Đức Phạm Hộ Pháp lên Thiên hỉ đài và
giảng giải: "Ấy vậy hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm của Đạo Cao Đài đã ra mặt
Quốc Tế. Nếu luận rằng: Nó đã ra mặt Quốc Tế rồi thì ta cũng nên luận về tình
hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên mặt địa cầu.
... ... ...
Bần Đạo nói quả quyết rằng: Hai kẻ muốn thâu hoạch
cả tinh nhuệ của nhơn loại đặng làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân
Chủ Xã Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.
... .. ... ...
Hai cái đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân Công Lý
thì ta thấy "lịch cũng như lương, mà lương cũng như lịch" có chi lạ.
Ngày giờ nào toàn cả nhơn loại tỉnh mộng lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ
tranh đấu với một tấn tuồng làm cho mình đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại
không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn tuồng hèn hạ đó dầu cho các nhà
Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng vậy. Nếu cả thảy thiên hạ không
ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống cùng ta chớ gì. ... ... ...
Giờ phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ
lợi dụng mình nữa bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình,
một người làm không được, năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy nước
hiệp lại đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra, thiên hạ mới hòa bình, duy có
lẽ đó thiên hạ mới hòa bình mà thôi. (TĐHP Q.6-3/04)". (*1)
2)
Lễ khánh thành Toà Thánh: 23 giờ 30 hôm dó. Hội Thánh rước Đức Hộ Pháp đến Đền
Thánh dự khán việc đốt pháo bông có chữ:
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LỄ
KHÁNH THÀNH TOÀ THÁNH
Đúng 24 giờ, Đức Ngài cắt dây băng mở cửa Đền Thánh
và khởi hành Đại lễ. Hôm sau lễ khánh thành Đền Phật Mẫu (Báo Ân Từ).
3)
Khánh thành các dinh thự: Đến ngày 12-1 (4-2-1955) khánh thành các dinh thự
như Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Toà Nội Chánh, Văn Phòng
Hội Thánh Phước Thiện, Đức Phạm Hộ Pháp nói: "Khởi đầu Bần Đạo đi viếng
các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, ... ...
Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền Hành Chánh
Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi trong
Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài
mà trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối Đạo là Thiên Điều đã định mở cửa Thập
Nhị Khai Thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả Cửu
nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài. Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài mà
trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng
Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo; trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh mà thôi. ...
... ...
Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh
Phước Thiện của Hộ Pháp tức là Hiệp Thiên Đài đó vậy. Hội Thánh Phước Thiện là
thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà
Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái
Bí Pháp, chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không
có định, Bần Đạo chỉ lấy bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho
cả chơn hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Bài thi văn như vầy:
Tỉnh
ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến
tu hậu nhựt độ sanh hồn,
Vô
lao bất phục hồi Chơn mạng,
Tỉnh
thế kỳ thân đắc Chánh tôn.
Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo
mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng
Liêng ". (TĐHP Q.6-3/05)
4)
Lễ thiêu xác các Thánh Tông đồ: Theo Thánh ngôn của Đức Chí Tôn, chư chức sắc Đại
Thiên Phong qui vị 3 năm (?) thì thiêu xác. Trong chương trình khánh thành,
định ngày 15-1 (7-2-1955) thì làm lễ thiêu xác các Thánh Tông Đồ.
Đức Phạm Hộ Pháp có thuyết minh về việc này như
sau: "Cả toàn thể quốc dân của chúng ta hạng Đại Đức cũng nhiều, hạng học
thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của ông
Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, ông Lê Bá Trang, không lẽ
trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa.
... ... ...
Ngọn lửa sẽ thiêu các các Thánh ấy, nó sẽ biến
thành ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần
nhơn loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó
cũng sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn luôn cả
Thánh Thể của Ngài nữa".(TĐHP Q.6-3/06)
Xem trong cuộc khánh thành còn có các cuộc vui như
triển lãm, văn đàn, đánh cờ người, văn nghệ, lửa trại, hoà nhạc, đấu bóng, đấu
võ sĩ đạo, cộ bông, v.v... Cuộc lễ chấm dứt trong niềm hân hoan và tin tưởng
tương lai rực sáng của toàn thể tín đồ.
(*1) Bài thuyết
đạo của Đức Hộ Pháp năm 1954
(*2) THÁNH NGÔN
HIỆP TUYỂN (quyển I) Tây Ninh 1950
26 . Tam đầu chế:
Theo quyết định Đại hội các cơ quan Chánh trị Đạo
tại Hộ Pháp Đường ngày 2-2-Ất Mùi (23-2-1955) xét vì Đại Đạo hoằng khai, các cơ
quan Chánh trị Đạo cần tiến triển, mỗi cơ quan cần có chủ quyền thật sự đặng
điều khiển cho hợp với chơn truyền, nên Đức Phạm Hộ Pháp đã dùng quyền Chí Tôn
đặt định Tam đầu chế để thay quyền Đầu Sư nơi Cửu Trùng Đài và Thượng Phẩm,
Thượng Sanh nơi Hiệp Thiên Đài.
Quyền hành của Tam đầu chế là giải quyết những việc
khó khăn có liên quan cho toàn thể mỗi đài. Khi nào giải quyết không được mới
dâng lên quyền thống nhất Hộ Pháp phán định.
1)
Tam đầu chế Hiệp Thiên Đài: do ba vị Bảo Đạo, Tiếp Đạo, Bảo Thế dưới quyền
thì có:
a)
Bộ Chánh Pháp: cầm luật pháp của Đạo
b)
Cơ Quan Phước Thiện: là bộ phận của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
c)
Bộ Lễ nhạc, vì Bộ này dưới quyền Tiếp Lễ Nhạc quân, chức sắc Hiệp Thiên Đài.
d)
Ban Hội đồng Đại biểu Nhơn sanh tại Thánh địa Toà Thánh vì giao thiệp với Hiệp
Thiên Đài (do Thánh lịnh số 3/PC ngày 24-10-Giáp Ngọ).
2)
Tam đầu chế Cửu Trùng Đài do ba vị Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài đảm nhiệm,
dưới quyền gồm có:
a) Cơ quan Phổ tế vì cơ quan này là một bộ phận
Hành chánh.
b) Hội Thánh Ngoại Giáo vì dưới quyền Ngọc Chánh
Phối Sư.
c) Hội Thánh Đường nhơn thì tạm dưới quyền Ngọc
Chánh Phối Sư.
Ngoài ra còn có: Chuẩn tế xã hội, Kinh tế tự túc và
Cơ Thánh Vệ.
3)
Tam đầu chế Nữ phái: Nữ phái Hành chánh dưới quyền chăm nom của Tam đầu
chế Nữ phái Cửu Trùng Đài. Tam đầu chế Nữ phái đồng quyền với Tam đầu chế Nam
phái.
Tam đầu chế mỗi Đài giữ phận sự riêng biệt, trừ khi
nào cần nhóm họp thì Đức Hộ Pháp ra lệnh, quyền chủ toạ do Đức hộ Pháp nắm giữ
hoặc uỷ quyền cho một vị khác thay.
Theo Thánh lịnh số 1675/VPHP ngày 4-9-Ất Mùi. Đức
Ngài trao trả quyền Đầu Sư cho quyền Vạn Linh và Hiệp Thiên Đài cho Thập Nhị Thời
Quân, chọn người cầm quyền.
27 .
Từ vị Thượng Tôn Quản Thế:
Vào đầu tháng 3-1955 đất nước đã chia đôi, các đảng
phái miền Nam chia rẻ. Nhằm kết hợp các lực lượng miền Nam thành một khối làm
hậu thuẫn cho Chính phủ đủ sức đối phó với thời cuộc và lập thế quân bình giữ
hai miền, nên Đức Phạm Hộ Pháp đã hợp tác lập thành Mặt Trận Thống Nhất Toàn
Lực Quốc Gia.
Theo Thánh lịnh số 704/VPHP ngày 11-3-Ất Mùi (2-5
-1955) Đức Phạm Hộ Pháp không còn làm Thượng Tôn Quản Thế cho quân đội Cao Đài
vì đã được quốc gia hoá. Trong thời gian làm Thượng Tôn Quản Thế, Đức Ngài đã
lưu lại:
1) Thời thanh bình từ năm 1947-1955.
2) Đưa quân đội ra
ngoài phạm vi Thánh địa (do Thánh lịnh số 57 ngày 13-2-Nhâm Thìn) để việc hành
Đạo được trang nghiêm.
3) Ân thưởng chiến sĩ Pháp
hồi: Các chiến sĩ Pháp hồi được Đức Lý Giáo Tông phong vào hàng Lễ Sanh và được tuyển
bổ qua cơ quan Phổ Tế để đi truyền giáo ngoại quốc (do Thánh lịnh số 88 ngày
22-5-Nhâm Thìn).
Theo Thánh lịnh 01/TL
ngày 18-10-Nhâm Thìn (4-12-1952) thì có 18 chiến sĩ Pháp hồi được ân phong Lễ
Sanh và phải trở về Cửu Trùng Đài làm việc, không được ở trong quân đội nữa.
4) Tận trung báo quốc:
Theo Thánh lịnh số 34/VPHP ngày 9-1-Quí Tỵ (22-2-1953 ) Đức Ngài cho tuyên dương Quân đội Cao
Đài vì:
a) Đối với Đạo, quân
đội Cao Đài là một tiêu biểu cho sự công bình và nhân đạo, đã nêu cao ngọn cờ
nhân nghĩa và thi hành đúng với sứ mạng thiêng liêng.
b) Đối với Quốc gia:
Quân đội Cao Đài đã tiền phong ủng hộ giải pháp quốc gia, biết noi gương các bậc tiền
nhân liệt sĩ để làm vinh diệu cho tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam.
c) Đối với quốc dân,
quân đội Cao Đài đã lập trật tự an ninh cho dân chúng trong thời loạn.
28 . Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Campuchia:
Vào ngày 23-8-Ất Mùi
(8-10-1955) Đức Ngài cho ban hành "Bản tuyên ngôn như sau:
Cơ Đạo trải qua hồi biến chuyển ấy, là lẽ hằng, Bần
Đạo khuyên cả con cái Đức Chí Tôn bình tỉnh, sáng suốt, chờ Hội Thánh giải
quyết. Nhất là mấy em, nam cũng như nữ, rán gìn giữ gia đình và Đạo tâm của
mình và chi chi cũng chờ lịnh Hội Thánh".
Số là vào đầu tháng 8 năm Ất Mùi, vị Tổng Tư Lệnh
Quân Đội Cao Đài do chính tay Đức Hộ Phạp lập thành, khi đã được quốc gia hoá,
ra lịnh lập Ban Thanh Trừng, bắt nhiều đạo hữu giam cầm. Một số thiếu nữ trong
Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và ép buộc phải khai nhiều điều khiếm nhã cho Đức
Ngài.
Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm lỏng tại Hộ Pháp
đường xung quanh có quân đội võ trang canh phòng từ 20-8-Ất Mùi (1955) đến mùng
5-1-Bính Thân (1956). Vì quá buồn tủi cho cảnh đồng đạo tương tàn, Đức Hộ Pháp
buộc lòng cùng nhiều chức sắc tuỳ tùng rời Thánh địa lúc 3 giờ khuya ngày ấy,
nhắm thủ đô Miên quốc trực chỉ". (Diễn văn của Đức Cao Thượng Sanh đọc
nhân Lễ kỷ niệm triều thiên của Đức Phạm Hộ Pháp năm 1964 ).
Sự kiện này, không làm lạ vì Đức Ngài đã từng
khuyến cáo cấp chỉ huy Quân đội Cao Đài: "Các con là lửa Tam muội. Lửa dữ
trừ được ma vương mà cũng có thể đốt thiêu luôn Toà Thánh, nên Thầy không cho
các con ở Thánh địa, hãy ra ngoại vi đồn trú".
29 . Triều Thiên trên đất Campuchia:
Dù sống trên đất
Khơ-mer nhưng Đức ngài vẫn còn cầm quyền Chánh trị Đạo và ra Thánh lịnh chót
ngày 26-12-Bính Thân (26-1-1957) tức là sau khi Hội Thánh tại Toà Thánh ký thoả
ước
Bính Thân, không làm chánh trị. (*1)
Trong thời gian lưu vong, Đức Ngài đã ban hành
nhiều bản văn sau:
1) Thư gởi Chủ tịch Liên hiệp quốc và Thủ tướng
Chính phủ và các cường quốc đề ngày 20-3-1956.
2) Chánh sách hoà bình chung sống, do dân phục vụ
dân, lập quyền dân, đề ngày 26-3-1956. Chánh sách này không làm ngăn trở một
chánh quyền nào, mà cũng không tranh chấp chánh quyền, không chống chánh quyền,
cốt chỉ để cứu nhơn loại khỏi vòng tội lỗi giết hại lẫn nhau, đúng với tiêu
chuẩn nhơn nghĩa của một tôn giáo.
3) Gởi cho toàn Đạo, chức sắc Thiên phong, Hội
Thánh nam nữ Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và Phạm Môn cùng cả con
cái Đức Chí Tôn, nam nữ lưỡng phái đề Kiêm Biên ngày 23-3-1956. có tái bút: Hội
Thánh phải ấn hành gởi toàn Đạo.
4) Thư gởi cho cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch CPVNDCCH và
cụ Ngô Đình Diệm, Tổng thống VNCH đề ngày 28-3-1956 và một thư khác đề ngày
24-4-1956 (*2)
5) Bản tuyên ngôn ngày 30-4-1956, trong nói rõ lý
do lập quân đội Cao Đài và từ đấy bất kỳ quân lực nào mượn danh Đức Ngài đều là
giả dối.
6) Thơ gởi chư Đại Đức toàn thể các tôn giáo, đề
ngày 3-11-1956.
7) Bản di ngôn gởi Hoàng thân Norodom Sihanouk đề
ngày 14-4-1959.
Trong có đoạn: "Bần Đạo giải thoát kiếp nơi
đây Bần Đạo xin thỉnh cầu Điện hạ cho phép Bần Đạo tạm gởi thi hài nơi đất
Miên, dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng gia Cao Miên.
Ngày nào tổ quốc thân yêu của bần đạo là nước Việt
Nam đã thống nhất, sẽ theo chánh sách hoà bình trung lập mục phiêu đời sống của
bần đạo, tín đồ của Bần đạo sẽ di liên đài về Toà Thánh Tây Ninh".
Vào 13 giờ 30 phút (giờ địa phương) ngày mùng 10
tháng 4 năm Kỷ Hợi (17-5-1959) Đức Phạm Hộ Pháp triều Thiên tại Thánh Thất Kiêm
Biên (Khmer) thọ 70 tuổi. Hôm ấy, nhằm lễ Assomption của Thiên chúa giáo.
Đài Thiên văn và Thông Thiên học bên Pháp do thơ
của ông Olion ngày 29-5-1959 và Thánh giáo của Sarah Barthel cho biết ngày rước
Chư Thánh có một Chơn linh mặc sắc phục có khôi giáp. "Chơn linh đó là Hộ
Pháp xứ Việt Nam là Phạm Công Tắc và sau khi xuất ngoại, thể xác Ngài ngồi
trong liên đài tám góc, ngửa bàn tay ban phép lành cho các sắc áo vàng, xanh,
đỏ, trắng, những tín đồ của Ngài, đều hưởng được diệu pháp của Phật, đó là Hộ
Pháp". (*3)
Đức Ngài đã giáng cơ ngay lúc thi thể chưa liệm cho
Hội Thánh và toàn Đạo Cao Đài bài thi sau:
THI
Trót
đã bao năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ
tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn
nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi
đây, ai đến cầm chơn pháp?
Tô
điểm non sông Đạo lẫn đời.
PHẠM HỘ PHÁP
HOÀI NIỆM TÔN SƯ
Giáng
sanh trùng ngũ hạnh thanh cao,
Sư
phụ độ đời đạt vị cao.
Ngự
Mã Thiên Quân danh Hộ Pháp,
Tây
Sơn Đạo giả bậc thi hào.
Linh
Tiêu chánh pháp nâng gươm huệ,
Trần
thế nghĩa nhân toả sáng sao.
Đắc
Đạo Thầy về Kinh Bạch Ngọc,
Ngàn
thu thương tiếc lệ dâng trào.
VÂN ĐẰNG
(*1) Thoả ước ký
ngày 17-01-Bính Thân ( 28-2-1956) giữa Đại diện Hội Thánh Cao Đài và Chính phủ
VNCH nhằm xác nhận chủ quyền của Đạo và tách rời chánh trị ra khỏi Đạo Cao Đài.
(*2) Ngày
2-6-1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi điện văn phúc đáp gởi Đức Hộ Pháp mà câu kết
viết: "Cuộc đấu tranh của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song
toàn dân đoàn kết một lòng,cùng quyết phấn đấu cho nên nhất định sẽ thắng
lợi".
(*3) Đức Hộ Pháp
nhập cảnh thiêng liêng hằng sống, Sài gòn 1967, trang 8,9.
SƠ
KẾT GIAI ĐOẠN 1929 - 1956
Thuyền đạo đã lướt trên phong ba bão tố, phải tránh
những tảng đá ngầm và những ghềnh thác. Các nhà tiền khai Đại Đạo đã lao tâm
lao lực và nhận cả oan khiên vào mình rồi nằm xuống để thuyền Đạo vượt lên.
Những gương hy sinh cao cả của chức sắc và chư đạo hữu không ngần nào đếm hết.
Nhờ Ơn Trên bố hoá, dưới dân đạo thấy huyền diệu mà
theo, đến năm 1934, thư của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung gởi cho Tổng thống
Pháp xác nhận là Đạo Cao Đài có trên một triệu tín đồ gồm đa số là người Việt
Nam, thứ đến là Cam Bốt, Pháp, Hoa, Lào. (*1)
Năm 1936 Đức Hộ Pháp cũng xác nhận với Báo
Populaire d' Indochine (27/11/1936) là Đạo Cao Đài có một triệu tín đồ ở Miền
Nam và từ 6 đến 7.000 ở miền Bắc.
Tóm lại, đến năm 1939 Đạo Cao Đài có 1.027.000 tín
đồ mà Trung và Bắc Kỳ chỉ có 7.000 người và Cam Bốt lên đến 40.000 tín đồ.
(*2).
Về giáo lý vẫn còn trong tình trạng hồng mông. Vì
thế mỗi người giải thích theo hiểu biết riêng mình nên xảy ra lắm điều rắc rối.
Đức Chí Tôn ban cho sắc dân thuộc địa mão áo thiên phục quá rộng so với tài
năng của họ. Là người phàm bỗng nhiên cơ bút phong cho họ làm ông Thánh, ông
Tiên ... trong khi họ chưa kịp trau giồi để trở thành các bậc Thánh thiện đó.
Thế nên sự tranh giành đố kỵ xảy ra là việc đương nhiên vì họ không xuất thân
từ dòng tu nào. Song mọi việc đâu qua luật Thiên điều. Mọi hành động của con
người đều có sức mạnh của Thiêng liêng lèo lái bên trong để tiến gần chân thiện
mỹ. Nhờ đó nền Đạo sống còn và hoằng khai.
Về tôn chỉ giáo điều hiện lên trước mắt mọi người.
Khi bước vào Đền Thánh thấy ngay bức họa Tam Thánh Ký đệ tam hoà ước: Thiên
Thượng, Thiên Hạ (Dieu et Huma nité ) mà nội dụng là Bác Ái, Công Bình (Amour
et Justice ) thực hiện được hoà ước đó thì Đại Đồng Nhân Loại.
Ba vị thánh ba sắc dân: Nguyễn Bỉnh Khiêm (Việt
Nam), Victor Hugo (Pháp), Tôn Dật Tiên (Trung Hoa) cùng hợp sức nhau xây dựng
chánh giáo chứng tỏ Đạo Cao Đài không kỳ thị chủng tộc vì coi mọi sắc dân đều
có đấng cha chung là Đức Chí Tôn.
Ba vị thánh ba tôn giáo: Thanh Sơn Đạo sĩ (Tiên
giáo), Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Thánh giáo) và Tôn Trung Sơn (Phật giáo) (xem
"Tam Thánh Bạch Vân Động" cùng người viết) tượng trưng cho vạn giáo, điều đó chứng tỏ
Đạo Cao Đài rộng mở, không kỳ thị tôn giáo.
Nước ta trong thời đại Lý Trần thì Tam giáo là Quốc
Đạo mà Đạo Cao Đài qui Tam giáo. Vậy Đạo Cao Đài quốc Đạo là một lý đương
nhiên. Đức Chí Tôn đã dạy:
Nam
bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ
quyền Chơn Đạo một mình ta.
Đạo Cao Đài với sự cứu rỗi miên viễn và vĩnh hằng,
nên những cơn khảo đạo chẳng qua là những tảng đá ngầm phải vượt qua. Người đời
dù nghi ngờ sự qui nhứt của Đạo Cao Đài. Họ bảo không thể nào đem các vị giáo
chủ khác nhau ngồi trên cùng thiên bàn. Họ đọc kinh sách đạo Cao Đài cho là
những mảnh vụn ghép lại (*3). Nghi ngờ để đạt chân lý mà chân lý ấy ai sẽ tìm?
Đạo của Thiên Thượng thì Thiên hạ phải tìm! Tín hữu Cao Đài cũng chỉ là một
người. Trong phút giây nào đó, họ cảm nhận sự huyền nhiệm của Đấng cao cả mà
theo Đạo dù họ chưa nắm vững triết lý sâu xa của nền đạo mới.
Tam Tạng kinh điển của Phật giáo, thật ra trải qua
một thời gian rất dài người ta mới hệ thống hoá được. Khởi đầu chỉ có Kinh
tạng, Luật tạng và 400 năm sau Đức Phật Tổ viên tịch mới có Luận tạng. Đạo Cao
Đài khai sanh chưa tròn giáp, ngay buổi đầu Đạo cũng có Kinh tạng, Luật tạng đủ
cho những tín hữu tu theo trung hạ thừa. Còn Luận tạng, triết lý sâu xa chưa hệ
thống hoá đang chờ những bậc hiền triết thông kim bác cổ lý giải vì hiện Đạo
Cao Đài còn trong vòng sàng sãi của luật Tạo Đoan. Nhưng tôn chỉ, mục đích,
giáo thuyết đã ban ra, người tín đồ nào cũng có đức tín mãnh liệt là đạo sẽ
miên trường tới "thất ức niên" và ngẩng cao đầu kệ rằng:
Một
nước nhỏ nhoi trong vạn quốc,
Mai
sau làm chủ mới là kỳ.
Tam Tê Anh, Trọng Đông
Canh Tuất
TRẦN VĂN RẠNG
(*1) Tiểu sử Đức
Quyền Giáo Tông, Tây Ninh 1973, tr.96. PH.DEVILLERS. Histoire du Việt Nam, Paris
1952 tr.68
(*2) NGUYỄN VỸ
,Tuấn chàng trai nước Việt ( quyển II) Sài gòn 1969 , tr.364
(*3) KIM ĐỊNH,
căn bản triết lý văn hoá VN. Sài gòn 1967 , tr. 70
QUYỂN III
THỜI THẾ PHÁP (1957-1971)
ĐẠI ĐẠO NĂM THỨ 49
PHẦN THỨ TƯ
CHƯƠNG
I
VIỆC
THỐNG NHẤT CHI PHÁI
Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp sang Cam Bốt thì đạo sự
tại Toà Thánh tạm do vị Thời Quân Bảo Thế Lê Thiện Phước cầm giềng mối.
1 .
Điều kiện qui nhứt về Toà Thánh:
Ngày 17 tháng giêng năm Bính Thân (28-2-1956) Ngài
Bảo Thế đại diện Hội Thánh Cao Đài ký với đại diện chánh quyền Ngô Đình Diệm
Bản thoả ước Bính Thân nhằm xác nhận là Đạo Cao Đài từ đó tách rời chính trị ra
khỏi Đạo.
Đến ngày 10/3/ Đinh Dậu (9/4/1957) do vi bằng của
Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện Nam Nữ yêu cầu Đức Thượng Sanh (đang ở
Sài gòn) và chư vị Thời Quân về Toà Thánh Tây Ninh cầm giếng mối Đạo.
Sau khi nắm quyền đạo, việc trước tiên của Đức
Thượng Sanh là muốn thống nhất nền đạo, nên Ngài cầu xin với Ơn Trên phán quyết
về Đạo Nghị Định Thứ Tám do Đức Lý và Đức Hộ Pháp lập vào ngày 15 tháng 7 năm
Giáp Tuất, nội dung như sau:
NGHỊ
ĐỊNH 8
Điều
thứ nhứt: Những chi phái do bởi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ làm gốc lập thành mà không do
nơi mạng lịnh Hội Thánh thì cả chúng sanh chẳng đặng nhìn nhận là của Chí Tôn
và phải định quyết là Bàng môn Tả đạo.
Điều
thứ hai: Các Tôn giáo xin nhập môn vào mối chơn truyền phải có đủ quyền Vạn Linh
và quyền Chí Tôn công nhận." (*1)
Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 17 tháng 10 năm
Đinh Dậu (8/02/1957) Đức Lý Bạch có dạy:
"Chư hiền hữu Hiệp Thiên Đài, về Đạo Nghị định
của Lão đối với chi phái là phương pháp lúc trước để phổ độ nhơn sanh mà thôi.
Hiện giờ cửa đạo đã mở rộng thì cơ QUI NHỨT thế nào cũng sẽ thực hiện
được". (*2)
Thêm vào đó, đàn cơ tại Giáo Tông Đường đêm mồng 10
tháng 4 năm Giáp Thìn (1964) có Đức Thượng Sanh, chư Chức sắc Hiệp Thiên Đài,
Cửu Trùng Đài hầu đàn, Đức Hộ Pháp giáng dạy có khoản như vầy:
"Ngày giờ đã đến, Bần Đạo để lời khuyên cả
Chức sắc và toàn Đạo rán thế nào thống nhứt nền Đạo cho được, mới có đủ sức
mạnh để làm gương cho vạn quốc".
Sau đó Hội Thánh đã ban hành:
ĐIỀU
KIỆN QUI NHỨT VỀ TOÀ THÁNH
1 . Nhìn nhận Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cùng một pháp
nhân với sự thờ phượng cúng kiến duy nhứt.
a . Thờ Thiên Nhãn.
b . Kinh Lễ Tân Kinh (Thiên Đạo & Thế Đạo )
c . Tuân y Tân luật và Pháp Chánh Truyền.
2 . Thống nhất các danh từ đạo gồm có:
a . Một Toà Thánh duy nhất đặt tại Tây Ninh, còn
các nơi khác gọi là Thánh Thất hay Thánh Tịnh.
b . Một Hội Thánh duy nhất tại Toà Thánh Tây Ninh
cầm quyền chưởng quản nền Đạo.
3 . Để tiến đến sự thống nhất trọn vẹn, tạm thời tôn trọng hệ thống tổ chức
địa phương và chức phẩm của mỗi chi, chờ ngày quyền Thiêng liêng định vị tại
Cung Đạo Toà Thánh Tây Ninh do Hiệp Thiên Đài Toà Thánh phò loan.
a . Đứng vào hàng chức sắc Thánh thể phải tùng Đạo pháp, phế đời hành Đạo.
b . Chức sắc các chi về Toà Thánh tạm thời hành sự dưới quyền Hội Thánh Hiệp
Thiên Đài tối thiểu là một năm mới được dâng lên quyền Thiêng liêng định vị tại
cung Đạo.
c. Khi hành lễ mặc áo tràng trắng, khăn đen, sắp
ngôi thứ trên từng lầu Hiệp Thiên Đài.
4 . Mỗi tam cá nguyệt có một phiên họp thường lệ liên chi tại Toà Thánh, mỗi
phái đoàn gồm
5 vị đại diện để chung lo phổ biến giáo lý Đại Đạo
phát huy cơ qui nhứt.
5 . Mỗi chi cần đề cử một vị Chức sắc đại diện có đủ thẩm quyền thường trực
tại Toà Thánh Tây Ninh để giao tiếp với Hội Thánh.
6 . Trong khi điều hành việc Đạo nếu gặp phải một vấn đề nào khó khăn mà trí
phàm không quyết đoán được mới thỉnh giáo các Đấng Thiêng liêng tại Cung Đạo do
Chức sắc Hiệp Thiên Đài Toà Thánh Tây Ninh phò loan, còn cơ bút các nơi khác
chỉ để học hỏi riêng mà thôi, không được ban hành chung.
7 . Thường niên lập một phái đoàn hỗn hợp Phái Đoàn Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ Toà Thánh Tây Ninh, mỗi chi hai vị để viếng thăm các Thánh Thất, Thánh
Tịnh và bổn đạo trong toàn quốc.
8 . Cần lập danh sách Chức sắc, Chức việc và tín hữu nam nữ mỗi chi gửi về
Toà Thánh Tây Ninh để biết số thống kê chư tín hữu Cao Đài trong quốc nội và
quốc ngoại.
9 . Lập trường chung cho toàn Đạo là phải thành
thật thuần túy đạo đức.
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày
mùng 8 -1 - Kỷ Dậu (1969)
HỘI THÁNH (*3)
Đọc mấy văn kiện trên, ta thấy đây là thời điểm
thuận tiện nhứt cho việc thống nhất nền đạo.
(*1) Tân Luật,
Paris Gasnier
(*2) Cao Đẳng
Hạnh Đường năm Nhâm Tý (1972) số 21 HO
(*3) Ban Đạo Sử,
tài liệu lưu trữ
2 . Sự vận động hợp nhất các
phái Đạo:
Phấn khởi với Thánh Giáo Đức Lý ngày rằm tháng 6
năm Giáp Thìn (1964) một phiên họp của các đại diện Hội Thánh các chi phái Đạo
Cao Đài đặt tại Tam Giáo Điện Minh Tân (Sài gòn ) gồm có đại diện 7 Hội Thánh
và đại diện cơ quan Đạo. Mục đích là tìm phương pháp qui hợp thống nhất các chi
phái Cao Đài về Toà Thánh Tây Ninh. Toàn Hội giao nhiệm vụ chủ toạ cho Huỳnh
Đức Phan Khắc Sửu.
Toàn Hội quyết định thành lập ban vận động lấy tên
là "Tổng Hợp Chi Phái Cao Đài" tạm thời ủy quyền cho ông Trần Văn Quế
lãnh tiếp xúc với các Hội Thánh.
Đại hội "Tổng hợp Chi Phái Cao Đài" họp
ngày 23/08/1964 tại Thánh Thất Nam Thành (đường Nguyễn Cư Trinh - Sài gòn) gồm
7 đại diện Hội Thánh. Sau khi bàn cải tán thành lập Ban Chấp Hành lâm thời với
danh hiệu "Ban Vận Động Tổng Hợp Chi Phái Cao Đài".
Ông Trần Văn Quế lãnh nhiệm vụ Tổng thơ ký đại diện
Hội Thánh Truyền Giáo. Những chức vụ khác chia cho các chi phái Đạo sau đây: Hội
Thánh Nhị Giang, Toà Thánh Tây Ninh, Bạch y Liên Đoàn, Công Đồng Giáo Hội,....
Sau đó ông Trần Văn Quế có hướng dẫn phái Đoàn về Toà Thánh Tây Ninh để bàn
việc thống nhất.
Hội Thánh thực thi "điều kiện qui nhứt về Toà
Thánh" Ông Huỳnh Đức Phan Khắc Sửu tạm phong Đại Phu và nhiều vị khác chức
Hiền Tài.
3 .
Việc thống nhất vẫn tiến đều:
Nhận lời mời của Hội Thánh, ngày 22/11/1972 các chi
phái về Toà Thánh đại hội thống nhất Đạo tại Hội Trường văn phòng Ban Thế Đạo
vào ngày 17 tháng 10 năm Nhâm Tý (22/11/1972) gồm các phái đoàn: Giáo Hội Cao
Đài Thống Nhất trung ương, Hội Thánh Tam Quan Trung Việt, Phái đạo Cao Đài
Chiếu Minh Cần Thơ, Hội Thánh Di Lạc Vĩnh Long, Hội Thánh Cao Thượng Bửu Toà
(Bạc Liêu), Hội Thánh Tiền Giang (Gia Định), Hội Thánh Hậu Giang Minh Chơn Đạo,
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Hội Thánh Truyền Giáo (Đà
Nẵng), Hội Thánh Tây Ninh.
Trong bài diễn văn khai mạc Đại Hội Ngài Hồ Bảo Đạo
nói:
"Nhớ lại mấy năm trước đây, cố đại huynh Huỳnh
Đức Phan Khắc Sửu cùng một số đại diện về nơi đây hội hiệp với cố Đại Huynh
Thượng Sanh Cao Hoài Sang và chúng tôi. Toàn hội buổi ấy quyết định thống nhứt
về tinh thần, đồng nhìn nhận chỉ một Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chung thờ một chủ
nghĩa: Công Bình, Bác Ái, Từ Bi". (*1)
Bài phát biểu của ông Kiến Minh trưởng phái đoàn
các Hội Thánh có đoạn viết:
"Với tư cách Trưởng phái đoàn được ủy thác,
đại diện các Hội Thánh và các cơ quan Đạo tham dự hội nghị, chúng tôi đề nghị
chúng ta hãy lặng lẽ nhìn nhau trong tình yêu thương chan chứa giữa con cái của
Thầy, rồi cùng nhau lấy lòng hiệp hòa hiếu kính làm của lễ trân trọng dâng lên
Chí Tôn và Phật Mẫu".
Sau đó, các phái Đạo lần lượt qui về Tòa Thánh Tây
Ninh. Khởi đầu là phái Đạo Từ Vân (Phú Nhuận) qui về ngày 22 tháng 4 năm Nhâm
Tý (1972).
Một vị đại diện phái Đạo Thánh Thất Từ Vân trình
bày ước nguyện qui về Toà Thánh Tây Ninh đã ôm ấp từ lâu:
"Chúng tôi xin nhắc lại đoạn đường dĩ vãng.
Vào khoảng năm 1937, trong lúc bước Đạo thăng trầm, quí vị Thời Quân tản mạn
tại Đô Thành. Một cơ hội cho gia đình chúng tôi lập công bồi đức.... Buổi ấy do
Đức Thượng Sanh thay mặt Hội Thánh ký tên nhận lãnh làm chủ ngôi chùa Từ Vân
cũng như phần đất. Chính quí vị tiền bối đã đặt bảng hiệu Thánh Thất Từ Vân
thay vì Từ Vân Tự.
Cũng vào năm ấy quí vị lập thành cơ cấu hành sự
mang danh là CƠ QUAN TÁI LẬP, để xúc tiến việc Đạo tại Đô thành và vùng phụ
cận, mục đích là qui tụ quí Chức sắc và chư tín đồ ngõ hầu chấn chỉnh Cơ đạo
không bị phân hoá vì thời cuộc....
Nguyện vọng của chúng tôi được hoàn thành. Vậy là
Hội Thánh đã ban cho chúng tôi một sự mừng vui của hai thế hệ, một thế hệ tiền
nhân của chúng tôi đã khuất chắc chắn hài lòng. Một thế hệ hiện tại là chúng
tôi rất hả dạ". (*2)
Lời phát biểu: "Chấn chỉnh Cơ Đạo không bị
phân hoá vì thời cuộc" trên đây đã lý giải được mục đích tối thượng của
"Tờ Kỉnh Cáo" vào ngày 18/11/1937 của Đức Cao Thượng Sanh và Thập Nhị
Thời Quân (trừ Khai Pháp và Tiếp Đạo) ký tên không nhìn nhận Đức Phạm Hộ Pháp.
Đức Thượng Sanh giải việc này như sau:
"Ai có sống trong những năm tháng nền Đạo suy
vi chia rẻ thì mới thấy những nỗi khổ tâm, lo lắng của những người có sứ mạng
lúc bấy giờ. Bao nhiêu Thánh Thất hầu như thuộc về ông Tương, các vị Thời Quân
thì bấp bênh trước lời kêu gọi của ông Tương đang thiếu một bộ phận Hiệp Thiên
Đài, còn chư vị đạo hữu chẳng biết ngã về đâu? Tờ Kỉnh Cáo có tác dụng trấn an
các vị Thời Quân và chư Đạo Hữu từ vùng Sài gòn trở xuống Hậu Giang". Chư
Đạo Hữu muốn hỏi điều chi về việc Đạo xin do nơi văn phòng tạm thời của Hiệp
Thiên Đài ở Từ Vân Tự, Phú Nhuận, Gia Định". (*3)
Câu này hàm ý ngăn chặn không một ai ngã về chi
phái và không để bị đòn ly gián của thực dân Pháp. Bởi lẽ, trước sự lớn mạnh và
bành trướng của Đạo Cao Đài, chính quyền Pháp sợ Đạo trở thành một phong trào
ái quốc (*4), nên họ tìm đủ mọi biện pháp để ly gián.
Sau khi hiệp thương thống nhất tại Toà Thánh Tây
Ninh một thời gian dài, Ngài Bảo Đạo hướng dẫn phái đoàn gồm Hội Thánh Cao Đài
Truyền Giáo, Hội Thánh Tiền Giang, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất, Hội Thánh Minh
Chơn Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý đến các Thánh Thất Ban Chỉnh Đạo (Chợ Lớn
), Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo tại An Hội (Bến Tre), Phái Tiên Thiên Sóc Sãi, phái
Tiên Thiên Mỹ Tho,....
Đâu đâu phái đoàn cũng được sự đón tiếp long trọng
trong niềm thương Thầy mến Đạo.
Dư âm thống nhứt vang xa, ngày 11/2/Ất Mão, ông Lưu
Thanh Hóa đại diện Ban Chỉnh Đạo hiến Thánh Thất Mỹ Hiệp về Toà Thánh Tây Ninh.
Trong buổi tiếp nhận, ông Thượng Chánh Phối Sư phát biểu như sau:
"Hôm nay hân hạnh đến Mỹ Hiệp thuộc Tộc Đạo
Chợ Mới, Châu Đạo An Giang để dự lễ tiếp nhận tài sản do ông Lưu Thanh Hoá đại
diện Ban Chỉnh Đạo hiến về Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh và dự lễ an vị Thánh
Tượng Thánh Thất Mỹ Hiệp.
Hôm nay toàn Đạo nơi Mỹ Hiệp đây tổ chức buổi lễ để
ông Lưu Thanh Hoá đại diện Ban Chỉnh Đạo hiến tài sản về Hội Thánh Tòa Thánh
Tây Ninh là một đại công mà ông cùng toàn Đạo nơi Ban Chỉnh Đạo đã lập được để
dâng lên Đức Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng. Ông và toàn thể trong
môn phái chỉ biết mình là môn đệ của Đức Chí Tôn cùng chung một gốc, vì Đức Chí
Tôn đã giảng dạy rằng "Chi chi cũng nơi Tòa Thánh Tây Ninh mà
thôi"....
Buổi lễ hôm nay nói lên tinh thần đạo giáo cao độ,
chúng ta hãy nhìn nhau trong gia đình huynh đệ đồng dìu dắt nhau trên con đường
đạo mà lập công bồi đức, chung hưởng ân lành của Đức Chí Tôn và Đức Phật
Mẫu". (*5)
(*1) Thông tin (
viết tắt TT) số 65 ra ngày 30/11/1972
(*2) TT số 54 ra
ngày 20/6/1972 trang 8,9
(*3) Xin xem
Thượng Sanh Cao Hoài Sang cùng người viết
(*4) Gouverment
Genéral de l'Indochine Francaise, quyển VII
(*5) TT số ra 119, trang 5,6
CHƯƠNG
II
TIẾP
TỤC XÂY DỰNG CƠ SỞ ĐẠO
1 . Ban Đạo Sử:
Đức Cao Thượng Sanh tiếp tục công tác xây dựng cơ
sở Đạo mà các vị tiền bối chưa thực hiện hoàn chỉnh. Năm 1962, Ngài cho lập Ban
Đạo Sử đã phát biểu như sau:
"Thiết tưởng nên nhắc lại, Ban Đạo Sử thành
lập được do Thánh ý của Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp trước kia. Mãi đến
năm 1962 (Nhâm Dần) Đức Thượng Sanh Chưởng quản Hiệp Thiên Đài chỉ định Ngài
Thời Quân Hiến Pháp triệu tập đại hội tuyển chọn nhân viên cộng sự... Ngài nói:
Những diễn tiến thăng trầm của nền Đại Đạo sẽ được
ghi chép từng giai đoạn. Công nghiệp hy sinh vì Đạo, khổ hạnh vì đời của mỗi
Chức sắc, từ các bậc tiền bối khai Đạo cho đến Chức sắc, đạo hữu lập công tô
điểm Đạo Đời cũng sẽ được ghi vào Đạo Sử...
Chúng tôi xin lập lại:
ĐẠI ĐẠO khai thành, giáo lý sưu tầm kim nghiệm cổ.
SỬ CƯƠNG biên soạn, chơn kinh tàng trữ bổn truy
nguyên". (*1)
Bài diễn từ của Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, Trưởng
Ban Đạo Sử có đoạn viết:
"Ban Đạo Sử được thành hình năm 1962, Ngài Hiến
Pháp lãnh nhiệm vụ Trưởng Ban, có hai nhân viên phụ trách mà thôi, văn phòng
tạm đặt tại tòa Hiệp Thiên Đài. Năm 1964 dời qua Nhà Hội Vạn Linh. Lúc Ngài
Hiến Pháp lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh. (Bộ này cũng đặt tại Nhà Hội
Vạn Linh, đặt Ban Đạo Sử gần nhau cho dễ kiêm nhiệm).
Đến năm 1968, Ban Đạo Sử bắt đầu hoạt động khả quan
hơn. Nhân viên Ban Đạo Sử được tăng cường, nhờ chức sắc các cơ quan bổ đến,
đồng thời một số tín hữu giàu thiện tâm tình nguyện đóng góp công quả.
Công việc đang tiến triển, bất ngờ Đức Thượng Sanh
qui vị. Ngài Hiến Pháp được bầu lên cầm Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Tới
Thời Quân Khai Đạo lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh kiêm Trưởng Ban Đạo
Sử.
Lúc bấy giờ chưa có một ngân khoản nào dự trù xây
cất trụ sở Ban Đạo Sử. Sự bất đắc dĩ đưa đến là Hội Thánh cho Viện Đại Học Cao
Đài mượn Nhà Hội Vạn Linh làm trường sở. Một lần nữa, Ban Đạo Sử phải dời đến
gần Dưỡng Đường Phước Thiên, vì chỗ chật hẹp với tính chất tạm thời, nên Ban
Đạo Sử quyết định kiến tạo trụ sở.
Được Hội Thánh cấp cho phần đất (trên lộ Cao Thượng
Phẩm, đối diện nam vườn Thiên Nhiên) mặc dầu không tiền, chúng tôi vẫn mạnh dạn
bắt tay vào việc... Thật là chỗ không thành ra có như sử Đạo đã chứng minh, nơi
cửa Đạo thì chỉ "bắt gió nắn hình". Tuy rằng trụ sở còn đơn giản
nhưng là cả sự cố gắng vô biên và lòng hy sinh của đồng đạo, đáng kể là của
nhân viên Ban Đạo Sử". (*2)
(*1) TT số 61 ra
ngày 2/10/1972 trang 4-6
(*2) TT số 61 ra
ngày 2/10/1972
2 . Ban kiểm duyệt
kinh sách:
Vào ngày mùng 10 tháng 4 năm Quí Mão (1/6/1963) kỷ
niệm ngày Triều Thiên của Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Sanh đã ban Đạo lịnh
số 017/ĐL cho thành lập Ban kiểm duyệt kinh sách Đạo, nguyên văn như sau:
THƯỢNG
SANH VÀ THẬP NHỊ THỜI QUÂN
- Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
- Chiếu vi bằng ngày 10 tháng 3 Đinh Dậu (DL
9/4/1957) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện nam nữ, yêu cầu
Ngài Thượng Sanh và chư vị Thời Quân về Toà Thánh cầm giềng mối Đạo.
- Nghĩ vì cần lập Ban kiểm duyệt những Kinh, Thánh
giáo và sách vở của Đạo trước khi ban hành để tránh điều sơ sót.
Điều thứ nhất: Kể từ đây Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
đảm nhiệm sự kiểm duyệt những Kinh, Thánh Ngôn của đạo trước khi đem ra ban
hành. Những Kinh, Thánh Ngôn nào không có sự kiểm duyệt của Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài thì kể như bất hợp pháp, Chức sắc và đạo hữu không nên tin dùng.
Điều thứ nhì: Thành lập một Ủy Ban Hỗn Hợp đảm
trách sự kiểm duyệt có tính cách thường xuyên các sách vở của đạo trước khi cho
phép ấn tống. Ủy Ban Hỗn Hợp này gồm có:
- Hiệp Thiên Đài: ông Hiến Pháp - Trưởng ban.
- Cửu Trùng Đài: Ba vị Chánh Phối Sư hay đại diện
của mỗi đơn vị, hội viên.
Điều thứ ba: Mặc dù ba vị Chánh Phối Sư hay Chưởng
quản Cơ Quan Phước Thiện trong thành phần của Ủy Ban Hỗn Hợp kể nơi điều 2 trên
đây, có thể đề cử người đại diện cho mình, song sau khi kiểm duyệt xong xuôi,
ba vị Chánh Phối Sư và vị Chưởng quản Phước Thiện cũng phải đứng ký tên chịu
trách nhiệm.
Điều thứ tư: Nếu trong quyển sách dự thảo đem ra
kiểm duyệt mà có khoản nào hoặc câu nào không được xác nghĩa, cần thêm hay bớt
thì Ủy Ban ghi chú sẳn và mời tác giả đến giải thích cho minh xác. Khi kiểm
duyệt hoàn tất, Ủy Ban sẽ đệ trình lên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài kiểm soát lại
mới cho ấn tống.
Điều thứ năm: Ông Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, ba vị
Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài và vị Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện thi hành; Ông
Quyền Đầu Sư; Ông Khai Đạo điều khiển Phước Thiện tùy nhiệm vụ ra lịnh ban hành
Đạo lịnh này.
Toà Thánh, ngày 10 tháng 4
năm Quí Sửu
Thượng Sanh
(ấn ký)
3 . Tư cách pháp nhân:
Từ ngày khai Đạo (1926), Đạo chưa có tư cách pháp
nhân, nên đất xây dựng Toà Thánh, Hội Thánh giao cho bà Lâm Hương Thanh và Ông
Nguyễn Ngọc Tương đứng giấy sở hữu nên lắm việc rắc rối xảy ra.
Trong tờ tỏ bày việc Đạo trước Đại Hội Nhơn Sanh
lần thứ nhứt nhóm vào ngày 15 tháng 10 Tân Mùi (DL 24/11/1931) Ông Thượng Chánh
Phối Sư Thượng Tương Thanh trình bày:
"... Tài sản Hội Thánh tới ngày nay mua sắm
được một sở đất 96 ha để làm Thánh Địa
cất Toà Thánh và các Viện, một sở đất kế cận 50 ha để cho đạo hữu cất nhà và lập nghĩa địa.
Hai sở đất này do tên bà Lâm Hương Thanh và tôi tên
Nguyễn Ngọc Tương thế mặt cho Đạo. Muốn tránh sự bất hảo xảy ra đến ngày sau,
tôi có làm cho Hội Thánh một tờ khai rằng: tiền mua đất này Hội Thánh đã trả
hết, tôi chỉ có đứng thế mặt mà thôi.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét