Đại Đạo Sử Cương - 1 / 10 (Hiền Tài. Trần Văn Rạng)


Quyển - I
THỜI KHAI PHÁP (1920-1926)
THỜI ĐẠO PHÁP (1926-1929)

LỜI GIỚI THIỆU
Của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
kiêm Trưởng Ban Đạo Sử.
Tôi lấy làm hân hạnh xin chân thành giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương cuốn ĐẠI ĐẠO SỬ CƯƠNG này do tác giả TRẦN VĂN RẠNG,
Hiệu trưởng trường Trung Học Phú Khương, Hiền Tài Trưởng Nhiệm
Văn Hoá Ban Thế Đạo biên soạn rất công phu.

Cuốn ĐẠI ĐẠO SỬ CƯƠNG này ghi tóm tắt lịch trình thời tiền sử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nhưng cũng đủ làm tài liệu cho các nhà khảo cứu Sử Đạo. Việc sắp đặt đúng theo thứ tự, có trước có sau, khiến cho dễ thấy và dễ hiểu những điều cần muốn biết.

Điều đáng chú ý và đáng khen tặng là tác giả nhìn thấy được tâm sự của giới trí thức, nhứt là tâm sự của các nhà chí sĩ thời tiền sử Đạo đã vì ôm mối hận nước nhà bị đô hộ mà hết sức cố gắng tìm lối thoát cho dân tộc. Vì vậy mà có sự hoạt động chống chế độ thực dân không ngừng. Những bậc tiền bối sáng lập Đạo Cao Đài cũng thuộc trong nhóm chí sĩ này.

Khi họ phăng được bất cứ một mối dây nào khả dĩ đem đến một cơ hội giải thoát thì họ nắm chặc lấy liền.

Cái cớ Đạo Cao Đài xuất hiện không mấy ngày mà thâu hút được một số tín đồ khá lớn cũng vì đó. Vì lúc đầu các Đấng Thiêng Liêng xây chuyển làm rung động tâm hồn của tất cả mọi người. Thêm vào đó lại còn có nhiều huyền diệu thiêng liêng khác nữa.

Nay tác giả cho cuốn Đại Đạo Sử Cương ra đời tôi nhận thấy rất hạp thời và hữu ích, nên xin kính cẩn lưu ý giới thiệu quí vị độc giả.
Nay kính.
Toà Thánh, ngày 16- 6 Canh Tuất
(DL 13-7-1970)
Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)

LỜI TỰA
Nhân hướng dẫn nhiều đoàn thể và các nhân vật ngoại giáo đến viếng Toà Thánh (Tây Ninh), sau khi xem qua đền đài và cách sắp xếp, khách nhân xin chỉ dẫn các sách để tìm hiểu về căn cội Đạo Cao Đài. Đến Lễ Viện loay hoay tìm kiếm một quyển sách khả dĩ giúp họ hiểu được đại cương sự diễn tiến của nền Tân Tôn Giáo theo ý thức của một người ngoại đạo, thì khó thấy. Phần lớn các sách đã xuất bản nặng về giáo lý dành cho những người đã nhập môn. Chính vì lẽ đó, không nệ sự hiểu biết nông cạn mà viết quyển "Đại Đạo Sử Cương" này, trước là tập tu học sau giúp nhân sanh một biểu đồ đơn giản của Cao Đài từ ngày lập giáo.

Việc xây dựng lại lịch sử là một việc khó. Đối với Cao Đài giáo lại càng khó vì thiếu tài liệu. Phương pháp sử là rõ ràng khúc chiết và có cách thế ghi chép phải theo. Tuy nhiên, những nhà làm sử được quan niệm riêng và lối phân tách chọn lựa theo cảm quan của mình, cố gắng được khách quan, chân thực càng nhiều càng hay.

Dựa vào những lẽ đó, tôi chia lịch sử Cao Đài giáo thành nhiều thời kỳ.

1- THỜI KHAI PHÁP (1920-1926): Sở dĩ chọn niên đại này vì đến ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần) thì Khai Đạo tại Gò Kén. Và dùng 2 chữ khai pháp là khai chánh pháp, Đức Chí Tôn thâu nhận những tông đồ đầu tiên để lập cơ phổ độ.

2- THỜI ĐẠO PHÁP (1926-1929): tức là bắt đầu từ ngày Khai đạo đến cuối đời Đức Cao Thượng Phẩm. Gọi "Thời Đạo Pháp" là vì thời này đặt cơ sở nền tảng của Đạo: Tân luật, Pháp Chánh Truyền. Theo Thánh ngôn, Đấng Chí Tôn ra lệnh cuối tháng 6-1927 thì bế cơ, có nghĩa là không được cầu tự do như trước. Thời kỳ này coi như chi Đạo quản pháp.

3- THỜI CHÁNH PHÁP (1929-1956) là thời kỳ do Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp chưởng quản, chấn chỉnh các cơ cấu đạo đúng Pháp Chánh Truyền cho ra thiệt tướng.

4- THỜI THẾ PHÁP (1957-1971) do Đức Thượng Sanh chưởng quản. Từ 1926-1971 là 45 năm (số lạc thư).

5- THỜI HIẾN PHÁP (1971-1975) do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức cai quản, cơ Đạo nghiêng dần vào thời kỳ Thiếu Âm.

Kính thỉnh chư chức sắc Thiên phong và quí đồng bào chỉ giáo cho những sự sơ lầm.

Tam Tề Anh vào hạ 1970
Hiền Tài Trần Văn Rạng.

PHẦN PHÁT ĐOAN

KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI MIỀN NAM

CÁC LỜI TIÊN TRI CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIỆN

KHÁI LUẬN VỀ THÁNH ĐỊA CAO ĐÀI VÀ TÔN GIÁO CAO ĐÀI

ĐẠI ĐẠO khai hành, giáo lý sưu tầm kim nghiệm cổ
SỬ CƯƠNG biên soạn, chơn kinh tàng trữ bổn truy nguyên


CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI MIỀN NAM
KHI CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIỆN

1 . Miền Nam là đất thuộc địa Pháp:
Muốn hiểu rõ Đạo Cao Đài, ta hãy đặt nền Tân tôn giáo này vào hoàn cảnh đất nước khi đạo khai. Theo hoà ước Patenôtre 1884 thì người Pháp không có quyền can thiệp vào việc nội trị của nước Việt Nam, nhưng Đại diện Pháp luôn luôn tìm cách lấn quyền Triều đình Huế. Sau Đạo Dụ năm 1925 thì Vua Việt Nam không còn một chút thực quyền, chỉ còn giữ việc tế tự trời đất và lăng miếu. Trong nước mọi việc đều do người Pháp quyết định. Viên Toàn quyền là chúa tể nắm tất cả quyền hành.

Toàn quyền do sắc lệnh của Tổng thống Pháp bổ nhậm đóng ở Hà Nội điều khiển guống máy chính trị, xã hội, tài chánh, kinh tế cả Liên bang Đông Dương. Phụ việc có Tổng thư ký hay Phó toàn quyền, Tổng giám đốc các Nha chuyên môn, Tổng tư lệnh và Tư lệnh Hải quan.

Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, riêng Nam Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực tiếp cai trị. Từ năm 1862 đến 1879 võ quan phụ trách nền hành chánh. Sau năm 1879, văn quan thay thế. Phủ Thống đốc Nam Kỳ đặt tại Saigon, do Viên Thống đốc cầm đầu, phụ việc có Phó thống đốc, Giám đốc các sở chuyên môn.

Hai Hội Đồng Tư Vấn là Hội Đồng Tư Mật và Hội Đồng Quản Hạt như ông Lê Văn Trung là Nghị viên Hội đồng này. Nam Kỳ được chia làm 20 tỉnh trừ đô thành Saigon, Chợ lớn: Đứng đầu mỗi tỉnh là viên Tham Biện Pháp và Phó Tham biện, chủ sự các phòng chuyên môn và công chức Việt Pháp.

Tỉnh chia ra quận do một Quận trưởng người Pháp cai trị, một ít quận do Đốc phủ Việt Nam phụ trách như quận Phú Quốc do Quan phủ Ngô Văn Chiêu trông coi. Tổng thì có Cai tổng, làng có ban Hội tề, đứng đầu là Hương cả đến Hương chủ, Hương trưởng. (*1)

(*1) NGUYỄN THẾ ANH, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ - Saigon 1970.

2 . Các tầng lớp xã hội:
Với chính sách chia để trị này, những vị vua yêu nước đều bị truất phế hoặc bị đày ra khỏi đất nước như vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Giai cấp xã hội cũng bị đảo lộn, trật tự mới được sắp xếp.

a) Giới trí thức: thì gồm có nhóm chống Pháp thành lập các Mặt trận hoặc đảng như Đảng Lập Hiến hoạt động mạnh trong vụ bầu cử Hội đồng thuộc địa (Conseil colonial) thành lập năm 1925 do Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long (một tín hữu Cao Đài) lãnh đạo. Đảng thanh niên xuất hiện ở Saigon vào tháng 3 năm 1926 phản đối việc Pháp bắt giam Nguyễn An Ninh và dự đám tang cụ Phan Chu Trinh. Đảng Phục Việt ra đời ngày 14-7-1925 xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu. Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập năm 1926 do Nhượng Thống và Nguyễn Thái Học gây cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái - Năm 1925 Nguyễn Ái Quốc lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội chống Pháp. Chính những cuộc nổi dậy này ảnh hưởng nhiều đến việc thành lập quân đội Cao Đài và Việt Nam Phục Quốc Hội.

Nhóm thỏa hiệp do Pháp đào tạo từ các trường thuộc địa, phải lẳng lặng nghe lời họ để được vinh thân phì da, họ sống cách biệt với dân chúng như Hoàng Cao Khải, Trần Bá Lộc. Trong Đạo Cao Đài thì có quan phủ Vương Quan Kỳ, quan phủ Ngô Văn Chiêu, hai ông này rất mến Đạo, thương dân, nhưng vẫn sợ Pháp dòm ngó.

b) Giới trưởng giả và điền chủ: toàn là đại phú gia, họ có ruộng cò bay thẳng cánh, thường sống ở tỉnh, lâu lâu mới về làng thâu lúa thóc. Có kẻ ác nhưng cũng có người hiền như Bà Lâm Ngọc Thanh là đại diện điền chủ ở Vũng Liêm, đã giúp phần lớn trong việc tạo tác các Thánh thất.

c) Giới trung lưu gồm có trung nông, tiểu thương, công tư chức. Các thành phần này theo Đạo Cao Đài đông nhất và cũng là những đệ tử đầu tiên của nền Tân tôn giáo. Họ làm việc cho Chính phủ bảo hộ làm công chức như quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Lê Văn Trung, v.v... và làm việc cho các xí nghiệp tư như Cao Quỳnh Diêu. Tuy họ làm việc với người Pháp, nhưng đa số đều bất mãn vì hoàn cảnh nước nhà bị đô hộ. Ngày tháng chỉ còn biết làm bạn với cây cỏ hoặc người khuất mặt, hoặc tham gia cách mạng. Nhờ vậy mà việc xây bàn (table tournante) được thịnh hành trong thời đó.

d) Giới cần lao gồm có thợ thuyền và nông dân, đời sống của họ thật cơ cực, sống trong các túp lều xiêu vẹo. Con cái họ thiếu ăn, thiếu mặc và lẽ đương nhiên là thất học. Kịp khi Đạo Cao Đài khai mở là nguồn cứu tinh của họ nên xin nhập môn rất đông. Bởi thế ta không lấy làm lạ, tận trong thôn quê sằn dã đều có Thánh thất.

3 . Văn hoá thời Pháp thuộc:
a) Ảnh hưởng văn học Tây phương bỏ Hán học, chính quyền Pháp mở trường Pháp Việt. Số người theo Tây học tăng nhanh vì thấy chữ quốc ngữ vừa dễ học, vừa đủ khả năng diễn đạt tư tưởng. Chính ông Trương Văn Tràng (sau là Tiếp Pháp Chơn Quân), thuở nhỏ theo học chữ Hán sau bỏ vào trường Việt Pháp.

Tuy vậy, quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai. Nhóm Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí cố gắng làm cho được trơn tru, nhưng đến thời Tự lực Văn Đoàn mới được như ngày nay. Chính vì thế mà lời văn, từ ngữ trong Thánh ngôn, Kinh sách đạo thời Khai đạo cũng chịu ảnh hưởng đó.

b) Thơ cổ vẫn được duy trì, điều này là một sự hiển nhiên trong các văn phẩm Đại Đạo. Nhóm thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư không trấn áp được thơ cổ của Tản Đà, Á Nam, Đông Hồ. Thuần Đức (Bảo Pháp Chơn Quân ) là một thi sĩ đương thời chuyên về thơ luật.

c) Âm nhạc cổ vẫn còn địa vị, tuy bị âm nhạc cải cách của giới trẻ lấn át. Hát bội, cải lương, hát chèo, chầu văn cúng tế vẫn được lưu hành. Tuy cổ nhạc Việt Nam bị hạn hẹp trong nhịp, điệu, thể thức trình bày phức tạp, nhưng Cao Đài giáo dùng làm âm nhạc chánh. Chèo thuyền là hình thức hát bội pha hát chèo rất hợp với quan cảm của người Việt Nam. Ông Cao Quỳnh Diêu (sau là Bảo văn Pháp quân) rất rành về cổ bản, đã chỉ vẽ cho các nhạc công Bộ Lễ.

d) Kiến trúc ảnh hưởng nhiều Tây phương. Năm 1924 chính quyền Pháp cho mở trường Cao Đẳng Mỹ thuật truyền bá bộ môn hội hoạ, điêu khắc,(*1) Toà Thánh Tây Ninh là một sự tổng hợp mỹ thuật Đông phương và Tây phương. Một công trình vĩ đại tiêu biểu cho nghệ thuật Việt Nam trong buổi giao thời.

e) Phong tục thay đổi, những giá trị cố hữu của dân tộc Việt Nam bị các tư tưởng mới như tự do cá nhân, nam nữ bình quyền đàn áp. Quyền của cha mẹ bị suy giảm, Thanh niên nam nữ tìm cách thoát ly gia đình. Cách phục sức từ thành đến tỉnh cũng thay đổi. Đàn ông cắt tóc, phụ nữ ăn vận theo lối mới. Các lễ nghi hôn nhân, tế tự được tiết giảm.

Các tôn giáo Phật, Lão, Nho độc tôn từ các triều Lê, Lý, Trần đến triều Gia Long thêm Đạo Thiên chúa bành trướng mau lẹ, dù bị tàn sát và cấm theo đạo. Có lẽ dựa vào đó, nhà văn hoá Hồ Hữu Tường, trong loạt bài trầm tư đã nghĩ rằng mảnh đất duy nhứt có thể thực hiện được nền văn hoá tổng hợp chính là Việt Nam. Nền văn hoá truyền thống của ta khác biệt với mọi nền văn hoá trên thế giới, tinh thần Tam giáo trở thành ý thức hệ cho dân tộc, thêm vào ý thức hệ văn minh khoa học của Thiên Chúa giáo. Do đó người ta hy vọng nền văn hoá Việt Nam là một nền móng cho thời kỳ Phục Hưng Tôn Giáo của toàn thế giới. Muốn được điều đó, Việt Nam phải là một quốc gia độc lập, thống nhất để có đủ thời gian phục hưng cơ sở văn hoá, mà hiện nay ba điều kiện để thành công, thiên thời, địa lợi, nhân hoà chưa có đủ, chỉ có thiên thời là Đấng Thượng Đế đã cho khai mở một nền Tân Tôn giáo năm 1926 qui Tam giáo, hiệp ngũ chi.

(*1) LÊ THÀNH KHÔI, le Việt Nam, Histoire et civilisation, Paris Les Editions du Mimut 1955

CHƯƠNG II

CÁC LỜI TIÊN TRI CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIỆN

1 . Kinh sấm truyền báo trước Cao Đài giáo xuất hiện:
Trong càn khôn vũ trụ, theo Pasteur không có định luật ngẫu nhiên, mọi sự việc đều có do lai riêng của nó. Cao Đài giáo trước khi xuất hiện cũng đã có nhiều kinh sấm truyền báo trước.

a) Lời tiên tri trong sách Phật tông nguyên lý: Đức Thế Tôn Văn phật đã huấn dụ: "Sau Ngài sẽ có một Đức Phật lớn hơn Ngài ra đời".

b) Lời tiên tri trong quyển Thanh tịnh Kinh: "Thanh tịnh Kinh hữu di tích. Công viên quả mãn chỉ thọ đơn thơ Thiên mạng phương khả truyền đạo Tam Kỳ Phổ Độ". Kinh Thanh Tịnh có dấu tích để lại rằng: công đầy quả đủ sẽ được lãnh thọ đơn thơ. Người có mạng Trời khá nên truyền đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

c) Lời tiên tri trong quyển Vạn Pháp qui tông: "Cao Đài tiên bút thi văn tự". Trong Đạo Cao Đài mai sau này sẽ có thơ văn của chư Tiên do thần diệu cơ bút viết ra.

d) Chúa Jésus Christ đã phán trong Thánh kinh (Thesalonians I5: 2): "Ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong ban đêm vậy".

e) Sự tiên tri trong Đạo Tam Thanh, Vào thế kỷ XV bên Trung Hoa có vị đạo sỹ tên Ngô Chi Hạc lập phái Tam Thanh, thờ giáo chủ 3 đạo lớn: Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Thích Ca. Đạo này là bước đầu tiên của nền Đại Đạo.

f) Lời tiên tri của Chi Minh Sư. Khi nhà Thanh (Trung Hoa ) chiếm ngôi nhà Minh, một số vong thần chạy sang Việt Nam và một nhóm lên núi lập ra chi Minh sư, Minh Đường (hai chi trong ngũ chi của Đại Đạo sau này). Ngoài bìa sách kinh của các chi ấy có 2 câu thơ:

Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng.
Đài tại Nam phương đạo thống truyền.

Đã tiên đoán cho việc khai đạo Cao Đài tại phương Nam nước Tàu tức Việt Nam.

g) Lời tiên tri trong "Minh Thánh Kinh linh sám": "Mạng hữu Cao Đài minh nguyệt chiếu". Danh của Đức Cao Đài sáng tỏ như trăng sáng.

h) Lời tiên tri trong sách "Ấu học tầm nguyên": "Đầu Thượng viết Cao Đài" trên đầu mọi người gọi là Cao Đài.

i) Lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Trong quyển "Bạch Vân Am thi tập" có ghi:
Con mừng búng tít con quay,
Vù vù chong chóng gió lay trên đài.
Nhà cha cửa đóng then cài,
Ầm ầm súng dậy, hỏi người đông lân.

Hai câu đầu ám chỉ chữ "Vạn" trên nóc các Thánh Thất đạo năm 1939-1945, cũng gọi là đài. Biểu hiện này trùng với hiệu đảng Đức quốc xã nên người Pháp ra lịnh đóng cửa các Thánh thất, hợp ý với 2 câu sau. Rồi sau nhờ Nhật đảo chánh (1945) các Thánh thất được mở cửa lại tức "ầm ầm súng dậy hỏi người đông lân".

j) Lời tiên tri trong quyển "Giác mê ca":
Hữu duyên mới gặp Tam kỳ phổ độ,
Muôn đời còn Tử phủ nên danh.

k) Lời tiên tri trong quyển "Kinh Tỉnh thế ngộ chơn":
Đại thiên tiên hoá hoằng chơn đạo,
Trợ quốc cứu dân tích thiện luân.
Nam Hải Từ Hàng chân vận tế,
Tây Phương tiếp dẫn, Phật Đông Lâm.

Trước khi có cuộc thay đổi lớn sẽ có một nền đạo chân chánh xuất hiện giúp nước cứu dân, làm điều thiện đáng khen. Biển Nam có Phật Từ Hàng đi khắp nơi để độ rỗi. Phương Tây có Phật Tiếp Dẫn đưa người đến Đông độ.

l) Lời tiên tri trong quyển "Kinh Vạn diệu thiên thư cổ bổn":
Tam giáo kim tùng cổ hoá sanh,
Tiên thiên phương hữu thi Tam Thanh.
Phật pháp Nho hề quy nhứt bổn,
Tự nhiên tả đạo thống trương tranh.
Vạn ức sơn hà giai hữu thử,
Tổng quy nhất phái đắc an thành.
Xà vĩ, mã đầu khai đại hội,
Tam Kỳ hậu thế hiển phương danh.

m) Lời tiên tri tại Trung phần trước năm 1926:
Canh dần, Mậu dần niên,
Kỷ mão, Canh thìn tiền.
Tự nhiên Thiên phú tánh,
Cao đài tận chân truyền.

Lời tiên tri trong kinh các tu sĩ tại Trung phần theo phái Minh Sư có câu:
Con cầu Phật tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ông.

n) Lời tiên tri của cụ Thủ Khoa Huân: Vào ngày 3 tháng 1 năm 1913 tại Cao Lãnh (Kiến phong) các kỳ hào hợp tại nhà ông Lê Quang Hiển, nhạc phụ của ông Diệp Văn Kỳ để thỉnh tiên. Chơn linh cụ Thủ Khoa Huân có cho 2 bài thơ sau:
Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân,
Tứ triêm đào lý nhứt môn xuân.
Cánh tân bôi bức giang sang cựu,
Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt thân.
Cửu thập thiều quang sơ bán lục,
Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục đỗ Cao Đài tráng chí thân.

            Cụ lại thích nôm luôn:
Co dũi Cao Đài khoẻ tấm thân,
Dạo xem đào lý đượm mùa Xuân.
Giang san chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ thay một chữ tân.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vùng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao Đài khoẻ tấm thân. (*1)

Chữ Cao Đài được nhắc đi nhắc lại 4 lần, nhưng mãi đến năm 1927, chức sắc đi truyền đạo tại Cao Lãnh, ông Hiển đem 2 bài thơ trên ra mới rõ lẽ mầu nhiệm của nền Tân tôn giáo.

o) Lời tiên tri của Tào Quốc Cựu ở Miếu Nổi: Tại Miếu Nổi (Gò Vấp) đêm 17-6-Quí Hợi (dl 30-7-1923) Tào Quốc Cựu giáng cơ dạy:

"Chư nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo ở kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ.

Trên Thánh điều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân" (*2)

p) Lời tiên tri của Huê Quang tại chùa Ngọc Hoàng (ĐaKao): Vào đêm 22-7-Quí Hợi (2-9-1923), Huê Quang Đại Đế giáng đàn tại chùa Ngọc Hoàng ở Đất Hộ cho bài thi quán thủ như vầy:
HUÊ phát Tam Kỳ Đạo dĩ khai,
QUANG minh tứ hướng thướng tam tài.
ĐẠI phước kêu đau thân đắc ngộ,
ĐẾ Quân giáng hạ, nhữ vô tai. (*3)

Câu hai tiên tri bốn phương đều kéo cờ ba màu vàng xanh đỏ (tứ hướng thướng tam tài).

(*1) TRẦN VĂN QUẾ, Cao Đài giáo sơ giải Saigon Thanh Hương 1963
(*2) và (*3) Nguyễn Trung Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên, Saigon 1930 tr.9

2 . Hoàn cảnh xã hội Việt Nam chung đúc cho nền Tân Tôn giáo:
Đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo cực thịnh, được xem như là quốc đạo. Trong gần 1.000 năm, từ thế kỷ X, đến cuối thế kỷ thứ XIX, các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Hậu Lê và Nguyễn đã dùng chữ Nho trong các công văn, trong sự học hành, các khoa thi, và hành chánh. Trong triều nhà Trần mở khoa thi Tam giáo (Nho, Thích, Lão) được gọi là Tam giáo đồng nguyên và được tôn sùng ngang hàng. Tinh thần Tam giáo chẳng những biểu lộ trong văn chương từ cú mà còn là những gì linh động được thể hiện qua mọi lề lối sinh hoạt của dân tộc. Tinh thần Tam giáo đã trở thành một ý thức hệ đơn thuần trong xã hội Việt Nam, tạo cho dân tộc một tinh thần bất khuất biết lý hoà đồng để làm cơ giới tranh đấu. Đó là một thần trí đặc thù mà người Việt Nam lấy làm hãnh diện. Đã bao nhiêu lần Bắc thuộc, kế đến Pháp thuộc mà phong tục dân tộc vẫn không mất bản sắc, bất khả đồng hoá, chính là nhờ cái thế Tam giáo đồng nguyên Thích, Nho, Lão.

Nền văn hoá Việt Nam lại phải đương đầu với sự du nhập văn minh vật chất Tây phương, kèm ý thức hệ tâm linh Thiên Chúa giáo. Sóng gió đạo lý đã nổi loạn, nền luân lý cổ truyền Khổng Mạnh bị lung lay, nhưng rồi với thời gian đâu vào đấy, bước đến chỗ hoà đồng tôn giáo. Dù đông hay tây, cổ kính hay tân thời đã kết tinh lại tạo thành một ý thức hệ tổng hợp, dung hoà mọi bất đồng tiểu dị trên mảnh đất nhỏ bé bất hạnh nhưng nhiều diễm phúc và hồng ân Thiêng Liêng này. Do đó, người ta hy vọng rằng Việt Nam sẽ là nơi Đại phục hưng Tôn giáo trên toàn thế giới.

3 . Đấng Chí Tôn dành ân sủng do dân tộc Việt Nam:

Đàn đêm 24-4-1926 Đấng Chí Tôn đã dạy:
"Vốn từ trước thầy đã lập ra Ngũ chi Đại Đạo là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.

.... Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn". (TNHT Q1/10) (*1)

Đức Lý Giáo Tông chủ trì về hồn toàn đạo cũng giảng đàn đêm 13 tháng 1 năm 1927 như sau:

"Hiện nay nhân loại đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, trật tự và thanh bình thuở xưa không còn nữa. Luân lý sụp đổ, nhân tâm sa đoạ. Đối với những kẻ hoài nghi, Thượng Đế chỉ còn là một tiếng suông. Họ không biết rằng trên Cao Đài kia ngự trị của Đấng Chí Tôn, Chúa tể cả vũ trụ và cả số phận loài người".

(*1) THÁNH NGÔN HIỆP TUYỀN (quyển I) Tây Ninh 1964.

4 . Tổng tắt:
Xem như thế, việc xuất hiện Cao Đài giáo là Thiên thơ dĩ định, mở Kỳ Ba tam chuyển này để độ 92 ức nguyên nhân và truyền đạo đến thất ức niên.

Bởi lẽ, đạo Cao Đài hợp với mọi thời đại vì "Tân luật trong một thời gian nữa sẽ phải thay đổi cho phù hợp với dân trí". (Pháp Chánh Truyền chú giải, Paris Gasnier 1952, tr.25), sinh động với mọi thời đại, với mọi cuộc sống và mọi xứ sở.

"Ngày kia, Đạo sẽ xuất dương ra ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Việt Nam" (PCT, Sđd, trang 52) thì sẽ thể hiện một đạo Cao Đài kiểu Pháp, kiểu Mỹ, nhưng có cùng chung một giáo lý là nhìn nhận chỉ một Đấng Cha Chung, một cộng đồng huynh đệ cùng nguồn gốc.

CHƯƠNG III

KHÁI LUẬN VỀ THÁNH ĐỊA CAO ĐÀI VÀ TÔN GIÁO CAO ĐÀI

1 . Vị trí và diện tích:
Thánh địa Cao Đài nằm về phía Đông tỉnh lỵ Tây Ninh, Toà Thánh cách Tỉnh lỵ 5 cây số và cách Saigon 99 cây số về phía Tây: Bắc giáp núi Bà Đen, Đông giáp quận Khiêm Hanh, Nam giáp Vàm Cỏ Đông và Tây giáp ranh tỉnh lỵ. Toà Thánh nằm thiên về phía Tây gần cửa số 2 quen gọi cửa Hoà Viện.

Diện tích 20.383 mẫu. Khởi tiên, khai phá khu bàu Cà Na và sân bay. Lúc đó (1926) còn là rừng già, âm u chướng khí. Nước hết sức độc. Thú dữ như cọp, gấu, beo, v.v... nhiều vô kể. Loài người và loài thú tranh nhau thế đất. Những địa danh như Bàu Cóp, Trảng Dài,... nghe qua đã rợn người.

Khu khai phá đầu tiên này trong vùng Cây Ba Nhánh gồm 96 mẫu của Hội Cựu Chiến Sĩ Pháp. Vị trí như sau: Bắc giáp lộ Liên tỉnh 13, Đông giáp sân bay chiến lược của Pháp (chưa sử dụng), Nam giáp Ao Hồ, Tây giáp đường Mít Một (đường giây thép cũng gọi là đường trên (route haute) là đường Tây Ninh đi Saigon theo ngã Truông Mít, đối với đường đi Saigon bây giờ ngã Giang Tân gọi là đường dưới (route haute). Dọc theo đường trên buổi trước có trồng trụ giây thép sở Bưu Chánh nên gọi là đường giây thép.

Số tín đồ ngày càng đông, Hội Thánh phải mượn thêm phía Đông Bắc 70 mẫu, tức khu Nghĩa địa giáp ngã ba Suối Đá. Đến năm 1927 tăng thêm 11 mẫu, 1932 tăng thêm 70 mẫu. Vào 8-9-1966 Hội Thánh Cao Đài được Chính phủ đệ nhị Cộng Hoà hợp thức hoá sử hữu chủ 3.355 mẫu. Trên thực tế, vùng Thánh địa rộng đến 20.383 mẫu, có đạo hữu quần tụ.

Khung cảnh rừng rậm núi non đượm vẽ mầu nhiệm. Đại Nam Thống Nhất Chí ghi về núi Linh Sơn: "Ở phía Bắc huyện Tây Ninh 20 dặm, hình núi cao ngất làm trấn sơn cho tỉnh hạt; Tây Nam giáp ranh giới Cao Miên, lưng chừng núi có Chùa Đá ít ai đi đến". Sách Gia Định Thông Chí chép: "Núi Bà Đinh đá mọc lởm chởm, cây cối xanh rậm, nước ngọt rất tốt, trên có chùa Linh Sơn, dưới có hồ nước, rừng khe u bao la, cảnh trí nhàn nhã, có thôn lạc, người đồng quê và người Mọi ở. Nhân dân nhờ lợi trong núi, có đồ kim thạch cổ quí, người ta đôi khi lượm được. Tương truyền ở trong hồ có thấy cái chiêng vàng cũng như việc tứ tân phù khánh giang thuỷ đắc chung (*1), nhưng lại gần không thấy nữa. Đêm nào trời trong tạnh thấy thuyền rồng bơi lượn múa hát du dương, lại còn có rùa vàng khi nổi, khi lặn, dài một trượng dư, đó là linh khí chung tụ, không phải là việc quái đâu. Núi này còn có một tên nữa là núi Điện Bà Sơn. Năm Tự Đức thứ ba đổi tên Linh Sơn có đặng vào tự điển" (điển lễ tế tự).

(*1) Khánh đá nổi lên ở bến Tứ và được chuông trong sông.

2 . Quản trị:
Toà Thánh và Thánh Địa do Hội Thánh Cao Đài quản trị.
1)- Hội Thánh Cửu Trùng Đài: còn gọi là Hành chánh Đạo dưới có Cửu Viện trông coi mọi việc. Phái Thái (vàng) chưởng sự các viện: Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện. Phái Thượng (xanh): Học Viện, Y Viện, Nông Viện. Phái Ngọc (đỏ): Hoà Viện, Lại Viện, Lễ Viện.

Cửu Trùng Đài do Giáo Tông chưởng quản, dưới có: Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh, tín đồ.

2)- Hội Thánh Hiệp Thiên Đài: là cơ quan lập pháp và tư pháp của Toà Thánh, thông công cùng các Đấng, phụ thuộc có ba chi: Chi Pháp, Chi Đạo, Chi Thế.

Hiệp Thiên Đài do Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh chưởng quản chi Thế, hữu có Thượng Phẩm chưởng quản chi Đạo.

Dưới có Thập Nhị Thời Quân cũng chia làm 3 chi. Ngoài ra có Thập Nhị Bảo Quân và Ban Thế Đạo, Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Chức sắc Ban Thế Đạo.

3)- Hội Thánh Phước Thiện: là cơ quan lo về việc xã hội, cứu khổ (Corps de charité). Trước là một chi của Hiệp Thiên Đài, nay thành Hội Thánh nhưng vẫn dưới quyền thống quản của Hiệp Thiên Đài.

Chức sắc Phước Thiện gồm 12 phẩm gọi là Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, cao nhất là Phật Tử, thấp nhất là Minh Đức (đạo hữu).

Đó là 3 Hội Thánh chính gọi chung là Hội Thánh Cao Đài chủ sự mọi việc từ trung ương đến địa phương.

3 . Tôn giáo Cao Đài:
Tôn Giáo Cao Đài thoát thai do việc cầu cơ thỉnh tiên ở Phú Quốc năm 1920 và ở Saigon năm 1925. Một tôn giáo mặc khải toàn diện do huyền diệu Thiêng Liêng. Trong giai đoạn khai pháp vì mới nên cách tế tự, hành sự, từ ngữ giống Phật giáo chấn hưng (Boudhisme rénové). Về sau dần dần đủ đúng đường hướng một tôn giáo hoàn cầu: thống Tam giáo, hiệp Ngũ chi. Trong tài liệu tham khảo của Đại Học Đường Mississipi Bác sĩ Quinter Lyon dịch là The GREAT RELIGION (Đại Đạo).

Tôn giáo Cao Đài thành chánh pháp tại Toà Thánh Tây Ninh sau lần lần chia ra 12 phái đạo, rồi nhiều Thánh Thất tự trị. Theo thống kê 1954, Toà Thánh Tây Ninh và các Thánh Thất phụ thuộc các tỉnh: Nam, Trung, Bắc Tông Đạo là 2 triệu rưởi, nếu kể các chi phái lên gần 4 triệu. Việc truyền giáo hải ngoại bị ngưng trệ vì ảnh hưởng tình trạng chiến tranh của xứ sở.

1) - Tam Kỳ Phổ Độ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đại ân xá kỳ ba (Troisième Amnistie). Từ khi có loài người Đức Chí Tôn cho mở 3 kỳ ân xá.

a) Nhất kỳ phổ độ: Tức Nhứt Thiết Long Hoa Thiên Khai Tý Hội, các hàng giáo chủ sau đây ra đời cứu thế:
Phật đạo: Nhiên Đăng Cổ Phật
Tiên Đạo: Thái Thượng Lão Tổ
Thánh Đạo: Văn Tuyên Đế Quân

b) Nhị kỳ phổ độ: tức Nhị Thiết Long Hoa Thiên Khai Sửu Hội. các vị sau đây lần lượt ra đời:
Phật đạo: Thích Ca
Tiên đạo: Lão Tử
Thánh đạo: Khổng Tử

c) Tam Kỳ phổ độ: tức Tam Thiết Long Hoa Thiên Khai Huỳnh Đạo hay Dần Hội do Đức Thượng Đế giáng điển quang lập Đạo qui hiệp các tôn giáo lại làm một và không giao chánh giáo cho tay người phàm.

Đức Chí Tôn chọn ba vị sau đây thay mặt cho Tam giáo là Tam Trấn Oai Nghiêm: Lý Thái Bạch (Tiên); Quan Thế Âm (Phật) và Quan Thánh Đế Quân (Thánh).

2) - Tam giáo qui nguyên: Trong danh hiệu "Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" đã hàm ý sự qui nguyên.
- Cao Đài: thuộc đạo Nho vì sách Nho có câu: Đầu thượng viết Cao Đài.
- Tiên ông: thuộc Đạo Tiên (phẩm chót của Tiên gia).
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: chỉ về Phật giáo.

a) Về hình thức: Cao Đài giáo nhận các phần sau đây:

- Phật giáo: chuông trống, lễ cầu siêu, trai giới.

- Lão giáo: Lễ dâng Tam Bửu; bông, rượu, trà (tinh, khí, thần). Trên Thiên bàn có Thái Cực đăng tượng trưng ngôi Thái Cực.

- Nho giáo: Lễ nhạc, sự thờ phụng tổ tiên và các lễ quan, hôn, tang, tế cùng đạo ngũ thường.

- Ki-Tô-Giáo: cách lấy dấu 3 ngôi, đổi lại là Phật, Pháp, Tăng. Hình thức tắm thánh, giải oan. Các Thánh thất tương tự như nhà thờ.

b) Về phương diện triết lý: hay hình nhi thượng học, Cao Đài Giáo nhìn nhận những nguyên tắc này của các Tôn giáo:
- Phật giáo: Luật nhân quả tức nghiệp báo và luân hồi, Bát Chánh Đạo để thoát vòng luân hồi, từ bi, bác ái, tam qui ngũ giới và minh tâm kiến tánh, tham thiền nhập định.
- Lão giáo: thuyết Tam Bửu, Ngũ Hành, và phương tu luyện tâm lý, sinh lý để thoát trần, tu tâm luyện tánh, vũ trụ quan và phép tu tiên (đơn).
- Nho giáo: Nhân, Trí, Dũng; tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ, thuyết trung thứ (dung), ngũ luân, ngũ thường, tồn tâm dưỡng tánh, sinh động nhập thế.
- Ki Tô Giáo: Lòng bác ái, khoan dung, đức tin tuyệt đối để đạt Đạo.

3) - Phần chuyên biệt của Cao Đài giáo:
- Việc thờ Thiên nhãn trên Thiên bàn có tính cách tượng trưng. Đức Chí Tôn giáng cơ: Nếu không có Hư vô chi khí thì không có Thầy. Nếu không Thầy thì không có chi trong Càn khôn vũ trụ. Còn chư Phật, chư Tiên, Thầy hỏi ai tạo ra các đấng ấy, đó là Đạo.
- Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ấn định sự tổ chức Hội Thánh, việc dùng Thiên phục ba màu (tam thanh): vàng, xanh, đỏ và những điều luật người theo Đạo phải noi giữ.
- Chuông thì gọi là Bạch Ngọc Chung và trống thì gọi là Lôi Âm Cổ. Khi có Đại Đàn thì đánh Ngọc Hoàng Sấm.
- Việc dâng lễ phẩm chỉ có bông, rượu, trà và 5 cây nhang, tuyệt đối không dùng các món nấu và không đốt vàng mã.
- Kinh cúng nơi Thánh Thất gọi là kinh Tứ Thời hay kinh Thiên Đạo; kinh cúng vong linh người chết thì gọi là kinh Thế Đạo, gọi chung là Tân Kinh hay Kinh lễ.
- Hai Đại Lễ chánh là Vía Đức Chí Tôn vào mồng 9 tháng Giêng âm lịch và vía Đức Phật Mẫu vào ngày 15 tháng 8 âm lịch. Trong những ngày lễ Mẹ, tất cả tín đồ đều bình đẳng, không có áo mão phân cấp bậc. Hai lễ này, tất cả chức sắc hành đạo địa phương phải về chầu Lễ nơi Toà Thánh.
- Ba Hội lập quyền Vạn Linh là: Hội nhơn sanh do các đại biểu tín đồ nhóm họp; Hội Thánh do các Chức Sắc họp tại Nội Điện Toà Thánh; Thượng Hội gồm chức sắc Đại Thiên Phong; bên Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông và ba vị Chưởng Pháp; ba vị Đầu Sư; bên Hiệp Thiên Đài thì Hộ Pháp Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
- Toà Thánh và Thánh Thất cất phải gồm đủ ba đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài.
Trên đây chỉ là những nét cương yếu chuyên biệt, đi sâu và còn nhiều tiểu tiết phức tạp.

4 - Sinh hoạt: Dân vùng Thánh Địa có 185.000 tín hữu (năm 1960) (toàn quận Phú Khương trừ xã Thái Hiệp Thạnh là tỉnh lỵ Tây Ninh) được mệnh danh là "dân tứ xứ". Vì các tín hữu Cao Đài do nhiều nơi trên toàn quốc qui tụ về Tây Ninh, bắt đầu từ năm 1926, sức mạnh Tôn giáo giúp toàn đạo đẵn gỗ, phá rừng, làn sóng di dân mạnh nhất vào khoảng năm 1947-1950, tức là sau lúc Đức Hộ Pháp được trả tự do. Kế đến là khoảng 1953-1954, chiến tranh Việt Pháp đến hồi quyết liệt. Họ chạy về Thánh Địa sống dưới bóng Đạo Kỳ tránh bị thiêu thân vào các trận tuyến. Vào năm 1966-1967 mặt trận miền Trung sôi động, các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, dân Đạo dời gia đình về Toà Thánh lập nghiệp vùng trên Vườn Điều (xã Ninh Thạnh).

Dù là dân tứ xứ họ không ở theo tỉnh. Lúc đầu chưa quen phong thổ thì tá túc nhà người cùng xứ quen thuộc. Sau một thời gian họ tìm đất sống cho hợp với công việc làm ăn. Nên khó mà tìm được một vùng thuần nhất dân của một tỉnh, mà các gia đình mất hút trong nghiệp Đạo, lòng tin về Thượng Đế. Chỉ còn Tổ Đình là Toà Thánh, bên cạnh niềm an ủi tổ tông là nhà thờ họ, không có địa phương

Chín mươi phần trăm (90%) theo Đạo Cao Đài là giai cấp nông dân hoặc làm nghề lao động. Hiện có khuynh hướng đi vào thành phố và phát triển trong giới trí thức.

Y Phục các tín đồ thường nhật giống mọi người dân Việt Nam khác. Người lao động vận quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng màu trắng, ở thôn quê dùng màu đen. Dự các buổi tế tự thì mặc quần áo bà ba ngoài choàng áo dài trắng. Chức sắc thì mặc tràng y theo sắc phái. Những người thuộc hàng trí thức, công chức, sinh viên thì vận âu phục, nhưng khi đãnh lễ Đức Chí Tôn đều mặc toàn trắng theo lễ phục Đạo.

Người phụ nữ có nhiều đức tánh tốt, ảnh hưởng Nho giáo và truyền thống đạo đức, họ lo buôn bán tảo tần, cày cấy, chịu cực hy sinh cho chồng con. Các người con gái gần chợ búa thì ăn vận theo lối mới, làm nghề mới: lập tiệm may, bán hàng, công chức, v.v...  Họ giàu trực giác, ham điều đạo đức, ưa chuộng kinh sách Đạo và tôn trọng các vị lãnh đạo tinh thần.

Phái nam thì đã trưởng thành hoặc đã sống trong chiến tranh nên có tinh thần quật khởi, có lý luận chính trị thường xuyên. Họ là thành phần nòng cốt xây dựng Đạo và bảo vệ Đạo. Họ có thể liều chết vì Đạo để bảo vệ danh dự Cao Đài được tròn vẹn, quá trình đã chứng tỏ điều đó. Họ chịu khó cạnh tranh, họ tôn sùng thần tượng và các "tướng Trời", nhưng khó bị lợi dụng. Thà chết với tấm lòng trong sạch, chớ không quỳ lạy để hưởng bổng lộc mà nô lệ kẻ khác.

PHẦN THỨ NHỨT

THỜI KHAI PHÁP (1920-1926)

CHƯƠNG I

ẤN CHỨNG THIÊNG LIÊNG

1 . Người đệ tử Cao Đài đầu tiên:
Người Việt Nam đầu tiên được diễm phúc làm đệ tử Cao Đài là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, người Chợ Lớn. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1920, ông phủ Ngô Văn Chiêu được đổi ra Hà Tiên, một tỉnh thuộc miền duyên hải Tây Nam Sài gòn. Hà Tiên từ thuở xưa vẫn được nổi tiếng là có thắng cảnh thu hút nhiều du khách. Trên đất liền thì có các núi như núi Lăng trông thẳng ra biển sẽ thấy mộ phần Mạc Cửu, thân sinh Mạc Thiên Tích, nổi tiếng nhờ 10 bài "Hà Tiên Thập Vịnh Cảnh", một cựu thần nhà Minh, rồi núi Thạch Động, núi Đá dựng. Phía trước châu thành Hà Tiên có núi Tô Châu gồm có Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu, ngó thẳng ra Đông Hồ, xa hơn nữa thì có Mũi Nay, Hòn Phụ Tử, v.v... Các núi này toàn đá vôi nên lắm động, nhiều hang tạo thành khung cảnh huyền bí, thần tiên. Nhờ non sông chung đúc dân chúng ở đây sớm biết cách phò cơ thỉnh tiên.

Vốn là người mộ đạo, ông phủ Ngô Văn Chiêu thường lên núi Thạch động để phò cơ thỉnh tiên nhờ hai đồng tử. Một vị tiên cô xưng là Ngô Kim Liên giáng cho ông thi:
I . Văng vẳng nhạc kêu bạn giữa thu,
Rằng Trời cùng đất vẫn xa mù.
Non Tây ngảnh lại đường gai gốc,
Gắng chí cho thành bực trượng phu.

II . Ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu,
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
Mắt mẹ nào ai trông thấy đấy,
Lắm công trình mới đúng công phu.

Ngô tiên cô khuyên tu nhưng ông phủ Ngô Văn Chiêu chưa thấm nhuần chơn đạo.

Ngày 26 tháng 10 năm 1920, ông được lệnh đổi ra đảo Phú Quốc. Phú Quốc về phía Tây tỉnh Kiên Giang, trông hình một tam giác chiều dài nằm trong vĩ tuyến 10°6 đến 11°56 (50 cây số); chiều rộng nằm trong kinh tuyến 113°74 đến 114° (30 cây số). Xung quanh Đảo về phía Nam còn một số đảo nhỏ. Phú Quốc có 99 ngọn núi, phần nhiều núi nhỏ và đồi chỉ có một vài ngọn núi cao. Diện tích 66.000 mẫu tây. Dân số đông vào khoảng 10 ngàn người đa số là người Việt Nam rồi đến Hoa Kiều và người Kampuchia. Giữa đão có núi Đường Đưng cao hơn trăm thước. Chính trên đỉnh núi này mà ông phủ Ngô Văn Chiêu lập đàn thỉnh tiên.

Từ khi ông ra trấn nhậm đảo hễ ông lập đàn thì có tiên giáng không như trước kia cầu cơ rất khó khăn. Một hôm có một vì Tiên ông giáng chẳng chịu xưng danh, bảo ông phải chịu làm đệ tử thì sẽ dạy đạo và bảo bỏ kinh Minh Thánh đừng tụng nữa. Về sau, ông mới biết vị Tiên ông đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi bữa kia, Tiên ông giáng cơ bảo ông phải lo tu và ăn chay thêm cho đủ 10 ngày trong một tháng.

Ông nghĩ rằng: "Mình đương làm quan, nay người này mời, mai người khác thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày, rồi sau rủi quên ăn mặn thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy mà được có kết quả thì cũng rán mà ăn. Nếu ăn chay 10 ngày khi chết còn phải chịu luân hồi thì thà ăn 2 ngày còn hơn. Miễn là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm trái với lương tâm thì thôi". Ông định, khi cầu tiên sẽ bạch lại như vậy.

Vào đêm mồng 1 tết Tân Dậu (8-2-1921) có người thợ bạc có chuyện muốn cầu tiên, đến mời ông chứng đàn. Tiên ông giáng cơ chưa kịp bạch hỏi chi thì cơ viết như vầy: "Chiêu, tam niên trường trai".

Thấy vậy, ông rất bối rối vì ông chưa chịu ăn chay 10 ngày mà nay Tiên ông lại ra lịnh trường chay 3 năm. Ông mới bạch rằng: "Bạch Tiên ông, Tiên ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, mong xin Tiên ông phải bảo hộ đệ tử chớ trường trai 3 năm lâu quá chẳng biết đệ tử có chịu nổi hay không và xin Tiên ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có chứng quả chi mới được". Tiên ông bảo cứ theo lời dạy thì sau sẽ rõ.

Ông phủ Ngô Văn Chiêu khởi sự trường trai và học đạo kể từ đây. Tiên ông thường giáng cơ truyền đạo cho ông tu và dặn phải giữ bí truyền chừng nào tới thời kỳ khai đạo thì Tiên ông sẽ dạy.

2 . Thiên Nhãn hiển hiện lần đầu tiên:
Tuy ông đã làm đệ tử của Tiên ông chớ chưa lập bàn thờ vì không biết phải thờ ra sao. Một buổi sáng lối 8 giờ, ông đương ngồi trên võng bỗng đâu thấy trước mắt cách xa độ 2 thước lộ ra con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời ông lấy làm sợ hãi lấy hai tay đậy mắt lại chừng 30 giây ông mở mắt ra thì thấy con mắt cũng còn và lại chói sáng hơn nữa. Ông liền chấp tay vái rằng: "Bạch Tiên ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong thì con mắt lu dần rồi mất.

Dù vậy, ông vẫn chưa thiệt tin nên chưa tạo Thiên Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau, ông cũng thấy như lần trước nữa. Ông khấn nguyện sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ, tự nhiên con mắt biến mất.

Sau khi thấy Thiên Nhãn hiện 2 lần ông cầu cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên ông đã dạy vẽ con mắt như đã thấy mà thờ và xưng danh là: "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và dạy ông chỉ kêu Tiên ông bằng Thầy mà thôi. Từ đó, ông chính thức trở thành người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài. (*1)

Lần lần Đức Cao Đài truyền đạo cho ông tu. Ông quyết chí tu hành, trường trai giới sát và ông thệ nguyện rằng: "Nếu độ ông thành Đạo thì ông sẽ lo độ lại chúng sanh tuỳ theo phước đức của mỗi người". Khi tu được 3 năm thì Thầy khuyên ông: "Ba năm lao khổ độ nhất nhân, mắt Thầy xem rõ lòng đã chắc, thương vì con trẻ gắng chí tầm phương biết Đạo mầu". Sau vì nhiều người ganh tỵ xúi dân kiện thưa, ông đắc lịnh đổi về Saigon ngày 30 tháng 7 năm 1924, âu cũng là Thiên cơ dĩ định vậy.

(*1) Lịch sử quan phủ Ngô Văn Chiêu, Saigon 1962 , trang 28-29

CHƯƠNG II

CƠ PHONG THÁNH

1 . Đấng A, Ă, Â giáo đạo:
"Trong năm Ất Sửu, các Thầy, các Ông, từ hàng Thông Phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo lộn trong giới trí thức đương thời là: "Con người có thể thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng Vô Hình được". Nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần Linh Học và Thông Thiên Học đã khảo cứu một cách rõ rệt: "Loài người có thể sống với cảnh Thiêng Liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy". Cái triết lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là hạng người học thức muốn tìm tàng thấu đáo.

Nơi hạng học thức ấy có một cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương pháp bên Âu Châu hay bên Pháp là Xây Bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền năng Thiêng Liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền vi bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ". (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 13-10 Giáp Ngọ, 1954). (TĐHP Q6-2/19)

Mặt khác, vốn là những nhà thi sĩ và chất chứa nơi tâm nỗi câm hờn vì nước nhà bị đô hộ, ba vị này (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang) mượn thú xây bàn mời vong linh những người quá vãng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của tổ quốc (Lời xác nhận của Đức Cao Thương Sanh về Đạo sử xây bàn ngày 22 -12 Đinh Mùi, 1968).

Ngày nay, dù sao chúng ta cũng không thể phủ nhận lòng ái quốc chân thành của các nhà lãnh đạo Cao Đài... (Phạm Văn Sơn, chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam, Sài gòn 1972, tr.178).

Do đó, vào ngày 25-7-1925 (ngày 5-6-Ất Sửu) hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà ông Cao Hoài Sang, bên cạnh chợ Thái Bình (Saigon) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya có lẽ vì thần linh thúc giục, các ông mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba ông đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông 4 chơn kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ tối đến 2 giờ đêm có nhiều vong linh nhập bàn viết tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ. Cũng có 1 vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chửng chạc, khi lựng khựng đường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó các ông nản lòng ngưng xây bàn.

Việc xây bàn thật vất vả vì chỉ có khẩu ước với đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp một lần "A" hai lần là "Ă" và 3 lần là "Â", v.v...  khi chân bàn ngừng chỗ nào thì người ngồi ngoài biên chữ ấy, rồi nhiều chữ ghép thành 1 tiếng nhiều tiếng mới ghép thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và rõ ràng.

Qua đêm thứ nhì (26-7-1925) ba ông lại xây bàn thì đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi bát cú đường luật:
THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
                                                                                              Ký tên Cao Quỳnh Tuân (*1)

Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân phụ ông Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm. Ông Cư đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi. Cả 3 cảm phục ý nghĩa của bài thơ.

Đến đêm 30-7-1925 (10-6 Ất Sửu), ba ông lại họp nhau tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm nay có một nữ vong linh giáng đàn cho thi:
THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.
                                               Ký tên ĐOÀN NGỌC QUẾ

HOẠ VẬN
1 - Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai.
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
Hềm gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai.
                                                           PHẠM CÔNG TẮC

2 - Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các,
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi, sầu cụm trước,
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng,
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.
                                                           CAO QUỲNH CƯ

3 - Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hại nỗi xương tàn xũ giậu mai.
Một dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.
                                               CAO HOÀI SANG

Ba ông hoạ lại 3 bài. Riêng ông Cư hỏi cô Quế hồi còn sống ở đâu - Cô đáp: "ở Chợ Lớn". Cô tên thật là Vương Thị Lễ kêu ông Vương Quan Kỳ bằng chú (*2)

Hôm sau thì ông Cư mời ông Tắc và ông Sang qua nhà ông để xây bàn mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Ba ông hỏi cô Quế về việc thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các ông càng thêm học hỏi. Cô gọi ông Cư là anh cả, ông Phạm Công Tắc là Nhị ca, ông Cao Hoài Sang là Tam ca còn cô là Tứ muội.

Đến hạ tuần tháng bảy năm đó, ba ông lại xây bàn bỗng có một ông giáng xưng là A, Ă, Â cho bài tứ tuyệt.
THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ông Cư hỏi ông A, Ă, Â mấy chục tuổi, ông gõ bàn hoài không ngừng, nên ông Cư không dám hỏi nữa. Từ đó về sau, hễ cơ ai giáng xuống cho thi thì ba ông cầu ông A, Ă, Â giải nghĩa.

Đến cuối tháng đó, cô Đoàn Ngọc Quế giới thiệu các tiên nương: Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương. Các ông rất mừng được thêm bạn thi thơ, nên mời các cô ngày rằm trung thu đến, Cô Quế nói rằng: "Ba anh muốn cầu thì ngày đó phải ăn chay, cầu mới được". Ba ông đồng ý.

(*1) Do lệnh Đại ân xá "nhất nhân chứng ngộ, thất tổ siêu thăng" nên Cụ Cao Quỳnh Tuân đắc vị "xuất bộ tinh quân".
(*2) Xem thêm "Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật".

2 . Hội Yến Diêu Trì Cung:
Tại nhà ông Cao Quỳnh Cư số 143 Bourdais (nay là Calmette) Sài gòn vào ngày 15-8 Ất Sửu (1-9-1925) lập bàn hương án, chưng những hoa thơm và xông trầm trọn ngày. Đến 12 giờ (khuya) thì 4 cô giáng cho thi, chỉ trích một bài.
THI
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gío dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
                                                                       LỤC NƯƠNG

Sau đó, Đức Chí Tôn mới hạ lệnh bảo làm một yến tiệc. Ngài dạy sắp đặt để đãi các Đấng vô hình, đãi 10 người: Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 ông. Việc lo cỗ bàn do bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu), trên bàn thờ Phật Mẫu, dưới sắp 9 cái ghế. Ba ông thì ngồi ăn, còn bà Hiếu thì đi gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ Phật Mẫu. Đó là bí pháp truyền thống của Đạo Cao Đài. Hiện nay hằng năm đều tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung để tán tụng công đức của chư vị Tiên Nương, có đại công trong việc khai đạo, vào 15-8-âm lịch.

Khi Hội yến xong, ông Cư và Tắc hỏi Đức Chí Tôn:
- Khi nãy Diêu Trì cung đến Ngài có đến không?
- Có chớ, Ta ở đây từ lúc ban sơ, Đức Chí Tôn trả lời. Ông Tắc lại hỏi:
- Như em tôi Thất Nương (Cô Đoàn Ngọc Quế) có thể đạt đạo đặng chăng?
- Phải tu, bằng không thì chẳng được.

Sau đó, các ông học đạo với Cửu vị Tiên Nương.
Vái van xin quí Cửu Thiên nương,
Tâu với Ngọc hư tỏ ngọn nguồn.
Vì nghĩa ......... mang trọng tôi,
Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.

Vào đầu tháng 12-1925, ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn tại nhà 3 ông Cư, Tắc, Sang có Tiên về cho thi hay lắm mới đến nhà ông Cư xem coi thiệt giả. Ông A, Ă, Â gõ bàn cho thi:
THUẦN văn chất Đức tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao.

Nhờ điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên ông Hậu mới chịu theo Đạo, rồi lần lượt độ các ông trong hàng Thập Nhị Thời Quân.

Nhắc lại lúc ông Nguyễn Trung Hậu đến xem đàn cơ xin thỉnh ông Huỳnh Thiên Kiều tự Quí Cao, bạn thân về thi, thơ của ông lúc còn sanh tiền. Ông Quí Cao nhập bèn cho bài thơ tứ tuyệt sau đây:
Âm dương tuy cách cũng chung trời,
Sinh tịch đời người có bấy thôi.
Chén rượu đồng tâm nghiêng ngửa đổ,
Thương nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Ông Hậu xem bài thi, nhưng còn nửa tin nửa nghi, ông liền nói rằng: "Tôi sẵn có làm một bài thi đem theo đây, xin đọc cho anh nghe và xin anh hoạ lại chơi cho vui". Ông Quí Cao gõ bàn hai cái, có nghĩa là đồng ý. Ông Hậu xướng thi:
Mấy năm vùng vẫy cũng tay không,
Đường thế chiêm bao một giấc nồng.
Nặng nghiệp phong trần buồn với phận,
Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng,
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc,
Đất túng càng khinh chốn chậu lồng.
Chừ gặp cố nhân lời dám hỏi,
                                                           Hỏi ra cho biết vận cùng thông. (Đạo Sử Hương Hiếu)

Ông Quí Cao liền gõ bàn họa lại một cách suông sẽ như vầy:
Một tiếng u minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bát nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,
Đường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Đạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông. (ĐSHH)

Sau đó ông Phạm Minh Kiên và ông Lê Thế Vĩnh (sau thọ phong Tiếp Thế) là nhà báo đến viếng ông Cao Quỳnh Cư, đang lúc Đấng A, Ă, Â giáng. Ông Cư xin cho mỗi người một bài thi để kỷ niệm, Đấng A, Ă, Â đáp: "Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi".
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Đạo Đời ví biết Đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Người người đều thán phục, bài thi chỉ có 4 câu mà gồm đủ hình trạng, tâm sự của hai nhà báo.
Một hôm khác, Ông Cao Quỳnh Cư bàn với các bạn rằng: "Bình sanh tôi lấy làm khâm phục thi văn ông Lý Bạch. Vậy chúng ta cầu thử người coi". Sau khi dâng lễ, khấn vái, thi sĩ Lý Bạch về cho thi:
THI
Đường trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng vị công khanh chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng Đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san. (ĐSHH)&(TNHT)

Sau đó quí ông mời nhà thơ Đỗ Phủ về hoạ như vầy:
HOẠ
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng lai vui Đạo hưởng thanh nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu Đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giái vui mùi đạo,
Mơi viếng Kỳ san, tối Cẩm san. (TNHT)

Nhờ cầu vị tiên nào được vị tiên ấy, nên các ông lấy làm đắc chí. Âu cũng là Thượng Đế an bày để thâu phục các vị Tông Đồ đầu tiên.

Dầu vậy, ông Cao Hoài Sang cũng rất thận trọng để đặt niềm tin đúng chỗ. Ông có làm một bài thi tự thuật cho các thi sĩ hoạ chơi. Rồi cũng xây bàn thỉnh Tiên, vong linh cụ Cao Hoài Ân (thân sinh ông Sang) giáng đàn. Ông Cao Quỳnh Cư thưa rằng: "Sẵn dịp anh về đây, sẵn có bài thi tự thuật của Sang, cậy mấy anh em tôi hoạ. Vậy anh hoạ chơi luôn thể". Ông Cao Quỳnh Diêu tiếp lời nói rằng: "Anh đề thi mà khuyên dạy nó và lấy vần voi, mòi, còi, roi, thoi, của bài "Từ Thứ Qui Tào" mà hoạ lại", Chơn linh cụ Cao Hoài Ân cho thi:
THI
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòe há nhọc roi.
Nín nẳm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chừng có lượng đôi thoi. (Đại Đạo Truy Nguyên)

Từ đó ông Cao Hoài Sang mới thật tin và theo tiếng gọi thiêng liêng mà hành đạo.
Hết người này đến kẻ khác nghi, Ông Trương Hữu Đức (sau thọ phong Hiến Pháp) cho các các bạn cố ý giả ngộ chơi. Thế nên ông về nhà đem bàn ra một mình đặt tay lên, miệng vái các vong linh ứng hiện cho thi. Tức khắc có vong linh của lệnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh (mà ông đã mắc trên 20 năm). Sau có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho thi:
THI
Minh Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao ước cái không hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn đồ đã chịu chay.

Từ đó ông Trương Hữu Đức hết sức tin tưởng và ăn chay trường luôn.
Ngay cả ông Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp) cũng giải rõ tâm sự của mình trong bài Thuyết Đạo ngày 15-7 Nhâm Thân (1932) như sau:

"Tệ đệ vốn là người ít tin cơ bút hơn hết, cũng tại Đại Từ Phụ đề nghị nên cứ theo thử mãi, thử rồi lại sợ mang tội cùng Thầy, vái cho bị một phen rầy thì hoạ may phải tởn, mà Thầy cũng chưa hề rầy. Đôi phen cũng vì nhẹ đức tin mà cải mạng lịnh của Thầy; chừng biết tội vái cho bị rầy mà chừa cải. Thầy cũng không rầy. Nhiều khi nói lớn vái to lên ai cũng đều nghe biết hết, mà Thầy chỉ cười rồi bỏ chớ cũng không chịu quở phạt lấy một lần.

Để lòng nghi cho đồng tử không huyền diệu, về nhà chấp bút một mình, kể tội từ buổi Tam Hoàng, bày oan từ đời Ngũ Đế. Đêm khuya leo lét một bóng một hình, đưa ngòi bút lên đặng đợi Thầy, Thầy vừa giáng đà lo khóc trước.

Đôi khi thấy khóc quá, Thầy lại chọc cười, rồi chuyện vãn một hồi, nào là dạy đức tánh của Thiêng liêng, nào là huyền bí cơ Tạo, nói thôi bao la thế giái, học thôi nát óc nát đầu. Coi lại mấy điều phải cầu không một lời nói đến."

Ông Cao Quỳnh Cư và ông là cặp cơ Phong Thánh đầu tiên. Buổi đầu, ông thường cho ông Cư tự nhịp bàn chớ không phải Tiên Thánh giáng. Ông yêu cầu Ông Cư để hai tay vừa chạm trên mặt bàn, mà bàn vẫn nhịp và cho thi. Ông Cư rất khó chịu cho sự nghi hoặc đó, nhưng chưa có dịp giải bày. Một hôm tại Vĩnh Nguyên Tự, cây cơ treo trên tường bỗng lay động nhịp nhịp. Ông Cư mới gọi Ông Tắc chỉ và nói: "Tắc, em coi qua nhịp hay cơ nhịp".

Ông Tắc cười mà không đáp, và khi cơ chuyển như vậy chắc chắn có các Đấng muốn giáng đàn dạy việc chi, nên khi cầu cơ thì Tiên Thánh giáng liền. Những điều đó ông Phạm Công Tắc thố lộ trong bài Thuyết Đạo đêm 17-8-Quí Tỵ (1953).

"Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh Lớn ngày nay là Chức Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi chơi, ... ... ...

... ... ... Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to tác". (TĐHP Q.6-1/28)

3 . Lập đàn cầu đạo:
Vào ngày 27-10 năm Ất Sửu, bà Cữu Thiên Huyền Nữ giáng cơ bảo: "Mùng 1 này tam vị Đạo hữu Vọng Thiên cầu đạo". Hôm sau, 3 ông cầu Thất Nương (Đoàn Ngọc Quế) chỉ vẻ cách cầu đạo, Thất Nương bảo đó là nhiệm vụ của ông A, Ă, Â.

Ngày 30 tháng 10 năm đó, ông A, Ă, Â giáng dạy rằng: "Ngày mùng 1 tháng 11 này (16-12-1925) tam vị phải Vọng Thiên cầu đạo. Tắm gội cho tinh khiết, qùi giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái rằng:

Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh".

Sáng ngày mồng 1 ông Cao Quỳnh Cư qua nhà ông Tý mượn Đại Ngọc Cơ theo lời dạy của Đức Chí Tôn, như vậy việc xây bàn đến đây thay bằng phò cơ (*1). Đến giờ ba ông thiết lễ, tịnh tâm mặc niệm như lời ông A, Ă, Â dạy dù ngoài đường kẻ hiếu kỳ tới coi. Bỗng đâu thi sĩ Bồng Dinh (*2) đến vịn cái bàn chỗ 3 ông quì mà ông ngâm thi. Người ta càng đến đông hơn. Cúng bái xong vào nhà cầu cơ. Đức Cao Đài giáng viết chữ Nho 3 ông không hiểu, nên thỉnh ông A, Ă, Â xin giải thích. Ông A, Ă, Â nói Đấng Cao Đài khuyên quí vị nghĩ cho thấu đáo lý tạo đoan rồi cho thi.
THI
Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng Đạo nhàn.

Thuở trước, khi cầu cơ thì đọc bài: Trời còn và Mừng thay!
BÀI TRỜI CÒN
Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Đường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu trời đất thanh liêm chín mười.
Vàng trao ngọc chuốc càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.

Và khi Thần, Thánh, Tiên Phật giá lâm phải đọc bài:
BÀI MỪNG THAY
Mừng thay chi xiết nổi mừng,
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn khôn thế giới cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kính chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Đèn lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.

Đến khi khai đạo tại Gò Kén thì không còn đọc hai bài này nữa.
Trong năm khai Đạo nhiều cặp cơ được đắc phong. Nhưng về sau chỉ còn 4 cặp cơ được lịnh đi phổ độ và truyền Đạo mà thôi.

Cặp cơ thứ nhứt là quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc; thứ nhì là Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu; thứ ba là Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức; thứ tư là Trần Duy Nghĩa và Trương Văn Tràng. Mấy cặp cơ này đều do cặp cơ quí ông Cư Tắc phong.

Ngoài các cặp cơ trên còn có các cặp sau: Tươi-Chương, Kim-Đãi, Mai-Nguyên, Mạnh-Phước, Thâu-Vĩnh.

Tuy nhiên chỉ có 4 ông: Tươi-Chương, Kim-Đãi chấp cơ được. Đặc biệt là ông Phạm Tấn Đãi (sau đắc phong Khai Đạo) là đồng tử bên tích cực, đủ khả năng chấp cơ truyền Đạo. Hai ông Mai và Nguyên vì không đến hầu đàn phong Thánh tại Gò Kén, nên hai ông Lê Thế Vĩnh và Cao Đức Trọng (vị này được thọ phong tại Campuchia năm 1927) thế vị trong hàng Thập Nhị Thời Quân.

Cầu cơ hay là phò loan gồm có hai vị đồng tử, ngồi hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau, điển các Đấng giáng rồi Ngọc cơ tự động mà viết ra? Chính vì đó, người ta có thể ngỡ người bên trái hoặc bên phải viết ra? Thế nên, cơ bút cũng có thiệt mà cũng có giả. Người trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.

Khi chấp cơ, Ngọc cơ rung động trên bàn viết, nhưng nếu không có thần của bản thân đồng tử thì Ngọc cơ chỉ rung động mà không viết được chữ gì hết. Lúc đó tinh thần của đồng tử nảy ra ý định viết chữ. Nhờ hoàn cảnh của đàn cơ do các vị hầu đàn hết lòng khẩn nguyện, nên ý nghĩ của đồng tử chỉ chăm chú về điều Thánh thiện. Nhờ đó, khi viết ra thấy toàn ý từ Thần Tiên và lời lẽ đạo đức.

Khiếu của đồng tử ngồi chấp cơ cũng như dây điện có dây nóng dây nguội. Bên nóng là bên tích cực (positif), bên nguội là bên tiêu cực (négatif). Chính bên tích cực mới phát sanh ý tưởng mà viết ra văn còn bên tiêu cực chỉ nâng cơ trợ điển mà thôi. Cơ bút viết ra hay hay dở đều do bên tích cực, nếu có kẻ tự ám thị thì cũng do bên tích cực mà ra.

Nhờ kinh nghiệm và tâm lý, ta có thể phân biệt các cặp phò loan trên như sau: cặp cơ quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc thì bên ông Tắc là tích cực, vì ông cầu cơ với ai đều có kết quả còn ông Cư không hề chấp cơ được với ai hết, nghĩa là cơ không viết ra chữ.

Cặp cơ thứ nhì là quí ông Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu, bên ông Sang là tích cực. Cặp cơ thứ ba quí ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức thì bên ông Đức là tích cực. Cặp cơ thứ tư quí ông Trần Duy Nghĩa và Trương Văn Tràng thì bên ông Nghĩa là tích cực.

Nhờ phân tích khiếu đồng tử, mới thấy rõ ông Phạm Công Tắc là 1 chơn linh vượt hạng, đủ năng lực xây nền Tân Tôn giáo, đáng liệt vào hàng sư tổ của việc cầu cơ chấp bút.

Vì lẽ đó, khi cầm quyền Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài, Đức Hộ Pháp mới ra Thánh lịnh số 21 ngày 22 tháng 2 Tân Mão (29-3-1951) có đoạn:

"Nghĩ vì cơ bút là một cơ quan thuộc về Huyền Linh Pháp nên vẫn là hư hư thiệt thiệt, vì bất kỳ mọi sự chi mà có tánh phàm của con người phối hợp vào đó, đều giả nhiều mà thiệt ít.

Nghĩ vì cơ bút đã đủ quyền tạo Đạo đặng thì nó cũng đủ quyền diệt Đạo đặng, vì cớ mà Đức Chí Tôn đã cấm cơ phổ độ." (Khảo Luận Xây Bàn & Cơ Bút Soạn giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng)

Nhằm trong sự chặn đứng lợi dụng cơ bút, chức sắc Hiệp Thiên Đài có lập bản "Hiến pháp cơ bút" chỉ chấp cơ nơi Đền Thánh. Bởi lẽ, có nhiều người cầu cơ xúi giục các đồng tử non lòng nhẹ dạ vô trách nhiệm đưa ra những lời đường mật mê hoặc nhân sanh, lôi cuốn họ theo đường mê tín, chia chi phân phái.

Dưới đây là Thánh danh các Đấng giáng cơ giúp việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Ất Sửu bằng phương pháp xây bàn hoặc cơ bút: 1) Xuất Bộ Tinh Quang; 2) A, Ă, Â; 3) Cửu Vị Tiên Nương; 4) Cửu Thiên huyền nữ; 5) Thiên Hậu; 6) Liên Huệ Tiên; 7) Đại Tiên Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký; 8) Nhàn Âm Đạo Trưởng; 9) Hớn Thọ Đình Hầu Quan Công; 10) Thần Sơn Quan, Diệu Võ Tiên Ông; 11) Đỗ Mục Tiên; 12) Minh Nguyệt Tiên Ông; 13) Bách Nhẫn Đại Tiên; 14) Thánh Pierre; 15) Huệ Mạng Trường Phan; 16) Lê Văn Duyệt; 17) Quí Cao; 18) Thổ Địa Tài Thần; 19) Lý Thái Bạch; 20) Ông Môn; 21) Cao Xuân Lộc; 22) Cao Quỳnh Tuân (thân sanh ông Cao Quỳnh Cư); 23) Cao Hoài Ân (thân sanh ông Cao Hoài Sang).

Vào đêm Noel năm 1925, Thất Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm trang để tiếp giá. Ba ông Cư, Tắc, Sang nghe vậy nửa mừng nửa lo, liền thiết lễ chỉnh đàn trang nghiêm. Rồi hai ông Cư, Tắc phò cơ. Cơ viết:

Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Giáo Đạo Nam Phương.
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

(*1) Cơ: là giỏ đan bằng tre, ngoài phất giấy vàng, có cần bằng cây dương liễu hay cây dâu, đầu chạm hình chim loan, ở cổ chim loan có cây cọ bằng tre hoặc mây để viết chữ xuống mặt bàn cơ. Người đứng ngoài có thể đọc được.
(*2) Tức ông Giáo Sỏi.

4 . Các vị tông đồ đầu tiên và Cơ phổ hoá:
Vào đêm 25-12-1925, nhân lễ Noel của Chúa Jésus Christ, ông A, Ă, Â giáng:

Đức Cao Đài đã hiểu lòng của 3 đệ tử: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang. Ngài đã ban đầy ơn cho mỗi người, đêm nay phải vui mừng vì là ngày của Thượng Đế xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).

Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. (Nhà của M. C...). Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa. (TNHT)

Đêm 31-12-1925 Đấng A, Ă, giảng dạy:
Ba con thương Thầy lắm há? Con thấy đặng sự hạ mình của A.Ă. như thế nào chưa? Con có thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa? Người quyền thế nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A.Ă. chăng?
A.Ă. là Thầy. Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không? (ĐSHH)
        Như vậy, từ đây các ông biết Đấng A, Ă, Â là ông Trời là Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Đức Cao Đài, xưng là Thầy.

Đến ngày 1-1-1926, Thầy giáng cơ phủ dụ và báo trước nhiệm vụ cao trọng của 2 ông trong nền Tân tôn giáo:
"Cư, Tắc! Hai con đừng lấy làm việc chơi nghe; Thầy dặn hai con một điều, nhứt nhứt phải đợi lệnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán nghe. Phận sự hai con, trách nhậm hai con Thầy đã định trước song ngày giờ chưa đến phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây, Thầy khởi sự dạy Đạo cho. (2 Janvier 1926) (ĐSHH)"

"Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải mở Đạo Cao Đài, tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi thâu Môn đệ. Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông Đồ có sứ mạng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này đã giáng sanh trước, đặng làm môi giới độ Đạo sau nầy. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi Phò Loan, đặng Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kêu gọi mấy vị Tông Đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời Quân ấy, có Cao Tiếp Đạo ở tại Kiêm Biên chớ không phải ở Saigon. Đi thâu Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng: Có một người thờ Ngài rồi là Ông Ngô Quang Chiêu, tức nhiên Đức Chí Tôn muốn thâu Ông làm Giáo Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ không ra nguyên cớ là Đức Chí Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu may sắc phục Giáo Tông cho Người, kỳ hẹn trong 10 ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo Tông, trong thời gian 10 ngày, chỉ có 10 ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô Quang Chiêu không hưởng được địa vị ấy." (Phạm Hộ Pháp thuyết đạo đêm 13-10-Giáp Ngọ). (TĐHP Q6-2/19)

Ngày 9-1-1926 hai ông Cư, Tắc vào độ ông Lê Văn Trung trong Chợ Lớn. Mãi đến ngày 11, ông Trung mới nhập môn. Ngày 31 khai đàn với sự chứng đàn của Ngài Ngô Minh Chiêu.

"... buổi nọ Ông Lê Văn Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng Trưởng. Đời Pháp thuộc chức Nghị Viên lớn lắm, Ông là người Nam làm đến bực đó thôi, mà nghe ra Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào, chính thật ra buổi nọ tôi nghe tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tưởng tượng. Một Ông Quan mất nước không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ Ngài, mục đích chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi, khi vô tới nhà thú thật với Ngài rằng: Chúng tôi được lịnh của Đức Chí Tôn, biểu chúng tôi đến nhà anh Phò Loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo, anh tính sao anh tính. Ngộ quá chừng quá đổi, Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết. Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi Phò Loan, rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông nhập môn đủ hết, chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí Tôn không? Có khi tưởng Ông không tin nơi Đức Chí Tôn nữa chớ. Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó, hai cha con kiếm đâu được ra một cây Cơ không biết, vái Đức Chí Tôn rồi cầu Cơ. Khi Phò Loan thằng nhỏ kia cầm đến cây Cơ thì ngủ, Ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí Tôn dạy Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai Người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin Đức Chí Tôn.

Từ khi Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng, thì chúng tôi có thể nói rằng: Do nới Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài đó vậy.......... Bởi vì chính mình Đức Chí Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội Thánh. Ngài đi đến đâu, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo Phò Loan để Đức Chí Tôn thâu môn đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo Trung Thượng Trung Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn Đức Chí Tôn thâu môn đệ, ... ... ...
Khi đó Đức Chí Tôn thâu Ông Nguyễn Ngọc Thơ, tức là Phối Sư Thái Thơ Thanh làm môn đệ, Thái Thơ Thanh là bạn chí thân, tức là chồng của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành thử mỗi người đều có Thiên Mạng nơi mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ Phái đó vậy. (TĐHP Q6-2/19)

Vào đêm mồng 1 tết năm Bính Dần (13-2-1926) giờ Tý tái cầu thì Đức Thượng Đế giáng dạy rằng:
"Chiêu buổi trước hứa lời truyền Đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó thành công, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó. Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu đi độ người. Nghe và tuân theo. (ĐĐCN)

Đó là lời Thánh giáo đầu tiên và là Ngày kỷ niệm Khai đạo Cao Đài về Cơ phổ hoá. Đến ngày 9-1 năm đó (21-2-1926) nhằm vía Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ông phủ Vương Quan Kỳ có thiết đàn riêng tại nhà số 80 đường Lagrandière (nay là đường Gia Long). Đêm ấy có mời chư nhu và mấy vị đạo hữu hầu đàn. Đức Thượng Đế dạy rằng:
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài; ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con; các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ ý muốn của Thầy". (ĐĐCN)

Khi ấy, ông Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử đầu tiên mà cho một bài thi kỷ niệm. Đức Thượng Đế liền cho thi:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang, Quí Giảng thành.
Hậu, Đức, Tắc, Cư Thiên địa cảnh,
Qườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.

Nguyên 12 chữ xiêng trong 4 câu trên là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên của Đức Thượng Đế vì Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang, Thầy điểm danh chung 1 tên. Còn 3 chữ câu chót là tên 3 vị hầu đàn, chưa nhập môn. Đức Chí Tôn lại dạy riêng nhóm xây bàn.

"Kể từ nay là ngày phát khởi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thầy tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" (*1)

Sau đây là vài nét, thứ tự theo bài thi, về quí vị nêu tên trên.
1) NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932): Đạo hiệu Ngô Minh Chiêu dòng dõi quan thị lang triều đình Huế, di cư vào Nam lập nghiệp ở khu Hoà Hưng (Sài gòn).

Ngài sinh ra ở Bình Tây (Chợ Lớn) trong 1 căn nhà lá nhỏ, không chịu bú sữa. Lớn lên kết tình với bà Bùi Thị Thân, sinh được 3 gái, 6 trai. Sau khi đậu bằng Thành Chung, Ngài vào làm tại Toà Tân Đáo (1899), đến năm 1903 thì đổi về dinh Thượng Thơ rồi Toà Hành Chánh Tân An. Đến năm 1917 thi đỗ tri huyện. Đầu năm 1920 thân mẫu tạ thế, Ngài buồn nên xin đổi ra Hà Tiên. Tại đây Ngài ngộ Đạo Cao Đài. Nhưng chuộng lối tu đơn, Ngài tách rời cơ phổ độ về Cần Thơ lập phái Chiếu Minh vô vi.

2) VƯƠNG QUAN KỲ: ông làm tri phủ, sau được đắc phong Giáo Sư, chức sắc thuộc Toà Thánh Tây Ninh. Về sau tách về Cầu Kho (Sài gòn) nay là Thánh Thất Nam Thành hợp với ông Đoàn Văn Bản chuyên lo phổ thông giáo lý.

Đức Chí Tôn cho ông bài thi, nhân đêm Tết năm Ất Sửu (12-2-1926 ):
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề đạo tối tân. (ĐĐCN)

3) LÊ VĂN TRUNG (1876-1934): Ngài sanh ở Mỹ Lâm (Chợ Lớn) nhờ thông minh, mới 17 tuổi đã được bổ vào ngạch thư ký Soái phủ Sài gòn. Năm 1906, Ngài ra ứng cử Hội đồng quản hạt, Quận Nhì. Ngài chống dự thảo luật "Lục hạng điền" của Thống Đốc Nam Kỳ Outrey.

Năm 1911, Ngài cổ động và đề xướng trường Nữ Học Đường Áo Tím (nay là Trường Gia Long, Sai gon). Ngày 6-10-1925, Ngài đệ đơn từ chức Thượng Nghị viên để thừa hành thiên mạng. Lúc quan thống đốc Le Fol trấn nhiệm xứ Nam Kỳ, vào ngày 22-1-1926 Ngài phế đời hành Đạo. Ba tháng sau được ân phong Đầu Sư, năm 1930 được Đức Chí Tôn ân phong Quyền Giáo Tông.

Đức Chí Tôn ban cho Ngài thi, nhân tết Ất Sửu:
Đã thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường. (ĐĐCN)

4) NGUYỄN VĂN HOÀI tức Hội đồng Hoài, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu, Đức Chí Tôn cho ông thi nhân tết Ất Sửu:
Vô vi tối yếu đạo đương cầu,
Đệ tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế sự vô duyên, vô thế sự,
Tiêu tư bất xuất ngoại gian đầu. (ĐĐSC)

5) ĐOÀN VĂN BẢN tức Đốc học Bản, khởi tiên ông lập Tiểu Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông) lo phổ thông giáo lý. Thầy cho thi nhân tết Ất Sửu:
Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành. (ĐĐSC)

6) CAO HOÀI SANG (1900 - 1971) người xã Thái Bình (Tây Ninh). Sau khi đỗ bằng Thành Chung, Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi về hưu. Ngài là 1 trong ba vị chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, đắc phong Thượng Sanh. Thực sự hành đạo và cầm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài năm 1957 (khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Campuchia) đến ngày qui thiên 1971.

7) VÕ VĂN SANG, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu, Đức Chí Tôn có cho ông bài thi nhân tết Ất Sửu như sau:
Tân dân hỉ kiến đắc tân niên,
Phổ độ tam kỳ bá thế hiền.
Nhứt tịnh chủ tâm chơn đạo lý,
Thăng Thiên hượt địa chỉ như nhiên. (ĐĐSC)

8) LÝ TRỌNG QUÍ, người Cần Thơ, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu. Nhân tết Ất Sửu Đức Chí Tôn cho bài thi:
Lỡ một bước, lướt một ngày,
Một lòng thành thật chớ đơn sai.
Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp lửng đừng làm tội bữa nay. (ĐĐSC)

9) LÊ VĂN GIẢNG làm ở hãng Ippolito (Sài gòn) được Thiên phong Giáo Sư phái Thượng. Đức Chí Tôn cũng cho thi nhân tết Ất Sửu:
Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại Đạo rán nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn. (ĐĐSC)

10) NGUYỄN TRUNG HẬU (1892-1961) tự Thuần Đức, người Gia Định, thọ thiên ân Bảo Pháp. Năm 1957 về Toà Thánh làm giám đốc Hạnh Đường và tái lập Đạo Đức Văn Đàn.

11) TRƯƠNG HỮU ĐỨC (1892-1976) người Chợ Lớn thọ thiên ân Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài. Sau khi Đức Thượng Sanh qui thiên, ngài được bầu lên Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài (1971).

12) PHẠM CÔNG TẮC (1890-1959) sanh tại làng An Hoà, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh (trong khai sanh ghi sanh ở Long An). Năm 20 tuổi làm thơ ký Sở Thương Chánh (Sài gòn). Ngài theo đuổi cách mạng và cộng tác với các báo như La cloche fêlée, La voie libre, Lục tỉnh Tân văn, v.v...

Năm 1925 để tìm hiểu huyền vi của Tạo hoá. Ngài cùng hai ông Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang họp nhau xây bàn. Nhờ đó nền Tân tôn giáo mới xuất hiện. Ngài thọ phong Hộ Pháp đêm 14 trạng 15 tháng 3 Bính Dần, tức trước khi khai đạo.

Ngài bị đày đi sang Mã Đảo (1941-1946) 5 năm, 2 tháng, 3 ngày. Cuối năm 1955, Ngài lại lưu vong sang Miên quốc và triều thiên nơi đây (*2)

Vào đêm 30-12-Ất Sửu (12-2-1926) quí Ngài Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư và Ngài đi đến mỗi nhà các bạn tu để chúc xuân và phò cơ xin thi (Các bài thi cho mỗi vị đã dẫn trên ).

Trước tiên là nhà ông Võ Văn Sang cuối cùng là nhà ông Lê Văn Trung. Bài thi cho Ngài như sau:
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.

13) CAO QUỲNH CƯ (1887-1929) sinh tại làng Hiệp Ninh, Tây Ninh. Ngài cầu cơ thỉnh tiên một lượt với ông Phạm Công Tắc và đắc phong Thượng Phẩm cùng lượt.

Ngài là người phế thân hành Đạo trước nhất và chịu khổ cực nhất trong buổi đầu tiên để xây dựng tổ đình. Đức Chí Tôn cho thi nhân tết Ất Sửu.
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dạy ấy là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

(*1) HUỆ CHƯƠNG, Đạo Mạch Truy Nguyên , Sàigòn 1929, trang 23.
(*2) Xin xem CHÂN DUNG HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC cùng một soạn giả.

* Lễ nhập môn và khai đàn buổi đầu
Việc nhập môn cầu Đạo buổi đầu do Đức Chí Tôn độ hoặc các vị ngộ đạo trước hướng dẫn, như 13 vị có tên trong bài thi tứ tuyệt trên, nơi các tư gia hoặc chùa miếu, chớ chưa có Thánh Thất. Ngày 27-1-1926 khai đàn tại tư gia ông Cao Quỳnh Cư, Đức Chí Tôn giáng dạy:
Đã để vào toà một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ cao sắc,
Sống có Ta, thác cũng có Ta.

Về sau hễ có người nào nhập môn, thì mở ngay cuộc khai đàn tại nhà đó và chư tín hữu khác cũng được tham dự mà làm lễ nhập môn. Có một vị đạo hữu xin được nhập môn và khai đàn tại nhà, nhưng gia cảnh nghèo không sắm đủ lễ. Đức Chí Tôn giáng cho bài thi an ủi:
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.

Buổi đầu, các môn đồ khi nhập môn được Đức Chí Tôn cho thi. Những người nào được phê chữ Thâu, Thượng thì nhận là tín đồ, còn người nào không ghi gì cả, kể như không thâu nhận. Như buổi đàn cơ do Giáo Sư Thái Đạt Thanh chứng đàn và hai ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức phò cơ, có 1 bài thi cho bà tên Bộn như sau:
Bộn bàng kẻ tới với người lui,
Lui khỏi ngoài vòng tính cuộc vui.
Vui Đạo không vui vui thế sự,
Sự hay sự dở chửa phân mùi.

Bà ấy vốn là mụ tú bà nên không được thâu làm môn đệ.
Một người tên Tích đến cầu Đạo thì Đức Chí Tôn cho bài thi:
Tích đức cho con, Tích hỡi con,
Con còn lăn líu lắm nghe con.
Con thương con cháu là thương Đạo,
Đạo chẳng ở xa ở tại con.
                                                                                              Thâu

Xem thế, ông Tích là 1 người hung bạo nhưng vì thương tính mộ Đạo cũng được Thâu.

Ngày 20-10- Bính Dần (25-11-1926) lúc khai Đạo tại Gò Kén (Tây Ninh) Đức Chí Tôn cho 1 người mới cầu Đạo tên Ngô Trung Bình một bài thi và ghi chữ Thượng.
Nguồn Đạo tìm vào đã tận nơi,
Rán đưa chơn tục chí đừng vơi.
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.
                                                                       Thượng
   
        Home       [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét