Quyển - I
THỜI KHAI PHÁP (1920-1926)
THỜI ĐẠO PHÁP (1926-1929)
LỜI GIỚI THIỆU
Của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
Tôi lấy làm hân hạnh xin chân thành giới thiệu cùng
bạn đọc bốn phương cuốn ĐẠI ĐẠO SỬ CƯƠNG này do tác giả TRẦN VĂN RẠNG,
Hiệu trưởng trường Trung Học Phú Khương, Hiền Tài Trưởng Nhiệm
Văn Hoá Ban Thế Đạo
biên soạn rất công phu.Hiệu trưởng trường Trung Học Phú Khương, Hiền Tài Trưởng Nhiệm
Cuốn ĐẠI ĐẠO SỬ CƯƠNG này ghi tóm tắt lịch trình
thời tiền sử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nhưng cũng đủ làm tài liệu cho các nhà
khảo cứu Sử Đạo. Việc sắp đặt đúng theo thứ tự, có trước có sau,
khiến cho dễ thấy và dễ hiểu những điều cần muốn biết.
Điều đáng chú ý và đáng khen tặng là tác giả nhìn
thấy được tâm sự của giới trí thức, nhứt là tâm sự của các nhà chí sĩ thời tiền
sử Đạo đã vì ôm mối hận nước nhà bị đô hộ mà hết sức cố gắng tìm lối thoát cho
dân tộc. Vì vậy mà có sự hoạt động chống chế độ thực dân không ngừng. Những bậc
tiền bối sáng lập Đạo Cao Đài cũng thuộc trong nhóm chí sĩ này.
Khi họ phăng được bất cứ một mối dây nào khả dĩ đem
đến một cơ hội giải thoát thì họ nắm chặc lấy liền.
Cái cớ Đạo Cao Đài xuất hiện không mấy ngày mà thâu
hút được một số tín đồ khá lớn cũng vì đó. Vì lúc đầu các Đấng Thiêng Liêng xây
chuyển làm rung động tâm hồn của tất cả mọi người. Thêm vào đó lại còn có nhiều
huyền diệu thiêng liêng khác nữa.
Nay tác giả cho cuốn Đại Đạo Sử Cương ra đời tôi
nhận thấy rất hạp thời và hữu ích, nên xin kính cẩn lưu ý giới thiệu quí vị độc
giả.
Nay kính.
Toà Thánh, ngày 16- 6 Canh
Tuất
(DL 13-7-1970)
Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)
LỜI TỰA
Nhân hướng dẫn nhiều đoàn thể và các nhân vật ngoại
giáo đến viếng Toà Thánh (Tây Ninh), sau khi xem qua đền đài và cách sắp xếp,
khách nhân xin chỉ dẫn các sách để tìm hiểu về căn cội Đạo Cao Đài. Đến Lễ Viện
loay hoay tìm kiếm một quyển sách khả dĩ giúp họ hiểu được đại cương sự diễn
tiến của nền Tân Tôn Giáo theo ý thức của một người ngoại đạo, thì khó thấy.
Phần lớn các sách đã xuất bản nặng về giáo lý dành cho những người đã nhập môn.
Chính vì lẽ đó, không nệ sự hiểu biết nông cạn mà viết quyển "Đại Đạo Sử
Cương" này, trước là tập tu học sau giúp nhân sanh một biểu đồ đơn giản
của Cao Đài từ ngày lập giáo.
Việc xây dựng lại lịch sử là một việc khó. Đối với
Cao Đài giáo lại càng khó vì thiếu tài liệu. Phương pháp sử là rõ ràng khúc
chiết và có cách thế ghi chép phải theo. Tuy nhiên, những nhà làm sử được quan
niệm riêng và lối phân tách chọn lựa theo cảm quan của mình, cố gắng được khách
quan, chân thực càng nhiều càng hay.
Dựa vào những lẽ đó, tôi chia lịch sử Cao Đài giáo
thành nhiều thời kỳ.
1- THỜI KHAI PHÁP (1920-1926): Sở dĩ chọn niên đại
này vì đến ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần) thì Khai Đạo tại Gò Kén. Và dùng 2
chữ khai pháp là khai chánh pháp, Đức Chí Tôn thâu nhận những tông đồ đầu tiên
để lập cơ phổ độ.
2- THỜI ĐẠO PHÁP (1926-1929): tức là bắt đầu từ
ngày Khai đạo đến cuối đời Đức Cao Thượng Phẩm. Gọi "Thời Đạo Pháp"
là vì thời này đặt cơ sở nền tảng của Đạo: Tân luật, Pháp Chánh Truyền. Theo
Thánh ngôn, Đấng Chí Tôn ra lệnh cuối tháng 6-1927 thì bế cơ, có nghĩa là không
được cầu tự do như trước. Thời kỳ này coi như chi Đạo quản pháp.
3- THỜI CHÁNH PHÁP (1929-1956) là thời kỳ do Đức
Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp chưởng quản, chấn chỉnh các cơ cấu đạo đúng
Pháp Chánh Truyền cho ra thiệt tướng.
4- THỜI THẾ PHÁP (1957-1971) do Đức Thượng Sanh
chưởng quản. Từ 1926-1971 là 45 năm (số lạc thư).
5- THỜI HIẾN PHÁP (1971-1975) do Ngài Hiến Pháp
Trương Hữu Đức cai quản, cơ Đạo nghiêng dần vào thời kỳ Thiếu Âm.
Kính thỉnh chư chức sắc Thiên phong và quí đồng bào
chỉ giáo cho những sự sơ lầm.
Tam Tề Anh vào hạ 1970
Hiền Tài Trần Văn Rạng.
PHẦN
PHÁT ĐOAN
KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI MIỀN
NAM
CÁC LỜI TIÊN TRI CAO ĐÀI
GIÁO XUẤT HIỆN
KHÁI LUẬN VỀ THÁNH ĐỊA CAO
ĐÀI VÀ TÔN GIÁO CAO ĐÀI
ĐẠI ĐẠO khai hành, giáo lý
sưu tầm kim nghiệm cổ
SỬ CƯƠNG biên soạn, chơn
kinh tàng trữ bổn truy nguyên
CHƯƠNG
I
KHÁI
QUÁT VỀ XÃ HỘI MIỀN NAM
KHI
CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIỆN
1 . Miền Nam là đất thuộc
địa Pháp:
Muốn hiểu rõ Đạo Cao Đài, ta hãy đặt nền Tân tôn
giáo này vào hoàn cảnh đất nước khi đạo khai. Theo hoà ước Patenôtre 1884 thì
người Pháp không có quyền can thiệp vào việc nội trị của nước Việt Nam, nhưng
Đại diện Pháp luôn luôn tìm cách lấn quyền Triều đình Huế. Sau Đạo Dụ năm 1925
thì Vua Việt Nam không còn một chút thực quyền, chỉ còn giữ việc tế tự trời đất
và lăng miếu. Trong nước mọi việc đều do người Pháp quyết định. Viên Toàn quyền
là chúa tể nắm tất cả quyền hành.
Toàn quyền do sắc lệnh của Tổng thống Pháp bổ nhậm
đóng ở Hà Nội điều khiển guống máy chính trị, xã hội, tài chánh, kinh tế cả
Liên bang Đông Dương. Phụ việc có Tổng thư ký hay Phó toàn quyền, Tổng giám đốc
các Nha chuyên môn, Tổng tư lệnh và Tư lệnh Hải quan.
Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, riêng Nam Kỳ
là đất thuộc địa do Pháp trực tiếp cai trị. Từ năm 1862 đến 1879 võ quan phụ
trách nền hành chánh. Sau năm 1879, văn quan thay thế. Phủ Thống đốc Nam Kỳ đặt
tại Saigon, do Viên Thống đốc cầm đầu, phụ việc có Phó thống đốc, Giám đốc các
sở chuyên môn.
Hai Hội Đồng Tư Vấn là Hội Đồng Tư Mật và Hội Đồng
Quản Hạt như ông Lê Văn Trung là Nghị viên Hội đồng này. Nam Kỳ được chia làm
20 tỉnh trừ đô thành Saigon, Chợ lớn: Đứng đầu mỗi tỉnh là viên Tham Biện Pháp
và Phó Tham biện, chủ sự các phòng chuyên môn và công chức Việt Pháp.
Tỉnh chia ra quận do một Quận trưởng người Pháp cai
trị, một ít quận do Đốc phủ Việt Nam phụ trách như quận Phú Quốc do Quan phủ
Ngô Văn Chiêu trông coi. Tổng thì có Cai tổng, làng có ban Hội tề, đứng đầu là
Hương cả đến Hương chủ, Hương trưởng. (*1)
(*1) NGUYỄN THẾ
ANH, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ - Saigon 1970.
2 .
Các tầng lớp xã hội:
Với chính sách chia để trị này, những vị vua yêu
nước đều bị truất phế hoặc bị đày ra khỏi đất nước như vua Hàm Nghi, Thành
Thái, Duy Tân. Giai cấp xã hội cũng bị đảo lộn, trật tự mới được sắp xếp.
a) Giới trí thức: thì gồm có nhóm chống Pháp thành
lập các Mặt trận hoặc đảng như Đảng Lập Hiến hoạt động mạnh trong vụ bầu cử Hội
đồng thuộc địa (Conseil colonial) thành lập năm 1925 do Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Phan Long (một tín hữu Cao Đài) lãnh đạo. Đảng thanh niên xuất hiện ở Saigon
vào tháng 3 năm 1926 phản đối việc Pháp bắt giam Nguyễn An Ninh và dự đám tang
cụ Phan Chu Trinh. Đảng Phục Việt ra đời ngày 14-7-1925 xin ân xá cho cụ Phan
Bội Châu. Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập năm 1926 do Nhượng Thống và Nguyễn
Thái Học gây cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái - Năm 1925 Nguyễn Ái Quốc lập Thanh Niên
Cách Mạng Đồng Chí Hội chống Pháp. Chính những cuộc nổi dậy này ảnh hưởng nhiều
đến việc thành lập quân đội Cao Đài và Việt Nam Phục Quốc Hội.
Nhóm thỏa hiệp do Pháp đào tạo từ các trường thuộc
địa, phải lẳng lặng nghe lời họ để được vinh thân phì da, họ sống cách biệt với
dân chúng như Hoàng Cao Khải, Trần Bá Lộc. Trong Đạo Cao Đài thì có quan phủ
Vương Quan Kỳ, quan phủ Ngô Văn Chiêu, hai ông này rất mến Đạo, thương dân,
nhưng vẫn sợ Pháp dòm ngó.
b) Giới trưởng giả và điền chủ: toàn là đại phú
gia, họ có ruộng cò bay thẳng cánh, thường sống ở tỉnh, lâu lâu mới về làng
thâu lúa thóc. Có kẻ ác nhưng cũng có người hiền như Bà Lâm Ngọc Thanh là đại
diện điền chủ ở Vũng Liêm, đã giúp phần lớn trong việc tạo tác các Thánh thất.
c) Giới trung lưu gồm có trung nông, tiểu thương,
công tư chức. Các thành phần này theo Đạo Cao Đài đông nhất và cũng là những đệ
tử đầu tiên của nền Tân tôn giáo. Họ làm việc cho Chính phủ bảo hộ làm công
chức như quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Lê Văn Trung, v.v... và làm việc
cho các xí nghiệp tư như Cao Quỳnh Diêu. Tuy họ làm việc với người Pháp, nhưng
đa số đều bất mãn vì hoàn cảnh nước nhà bị đô hộ. Ngày tháng chỉ còn biết làm
bạn với cây cỏ hoặc người khuất mặt, hoặc tham gia cách mạng. Nhờ vậy mà việc
xây bàn (table tournante) được thịnh hành trong thời đó.
d) Giới cần lao gồm có thợ thuyền và nông dân, đời
sống của họ thật cơ cực, sống trong các túp lều xiêu vẹo. Con cái họ thiếu ăn,
thiếu mặc và lẽ đương nhiên là thất học. Kịp khi Đạo Cao Đài khai mở là nguồn
cứu tinh của họ nên xin nhập môn rất đông. Bởi thế ta không lấy làm lạ, tận
trong thôn quê sằn dã đều có Thánh thất.
3 .
Văn hoá thời Pháp thuộc:
a) Ảnh hưởng văn học Tây phương bỏ Hán học, chính
quyền Pháp mở trường Pháp Việt. Số người theo Tây học tăng nhanh vì thấy chữ
quốc ngữ vừa dễ học, vừa đủ khả năng diễn đạt tư tưởng. Chính ông Trương Văn
Tràng (sau là Tiếp Pháp Chơn Quân), thuở nhỏ theo học chữ Hán sau bỏ vào trường
Việt Pháp.
Tuy vậy, quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai. Nhóm
Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí cố gắng làm cho được trơn tru, nhưng đến
thời Tự lực Văn Đoàn mới được như ngày nay. Chính vì thế mà lời văn, từ ngữ
trong Thánh ngôn, Kinh sách đạo thời Khai đạo cũng chịu ảnh hưởng đó.
b) Thơ cổ vẫn được duy trì, điều này là một sự hiển
nhiên trong các văn phẩm Đại Đạo. Nhóm thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư không
trấn áp được thơ cổ của Tản Đà, Á Nam, Đông Hồ. Thuần Đức (Bảo Pháp Chơn Quân )
là một thi sĩ đương thời chuyên về thơ luật.
c) Âm nhạc cổ vẫn còn địa vị, tuy bị âm nhạc cải
cách của giới trẻ lấn át. Hát bội, cải lương, hát chèo, chầu văn cúng tế vẫn
được lưu hành. Tuy cổ nhạc Việt Nam bị hạn hẹp trong nhịp, điệu, thể thức trình
bày phức tạp, nhưng Cao Đài giáo dùng làm âm nhạc chánh. Chèo thuyền là hình
thức hát bội pha hát chèo rất hợp với quan cảm của người Việt Nam. Ông Cao
Quỳnh Diêu (sau là Bảo văn Pháp quân) rất rành về cổ bản, đã chỉ vẽ cho các
nhạc công Bộ Lễ.
d) Kiến trúc ảnh hưởng nhiều Tây phương. Năm 1924
chính quyền Pháp cho mở trường Cao Đẳng Mỹ thuật truyền bá bộ môn hội hoạ, điêu
khắc,(*1) Toà Thánh Tây Ninh là một sự tổng hợp mỹ thuật Đông phương và Tây phương.
Một công trình vĩ đại tiêu biểu cho nghệ thuật Việt Nam trong buổi giao thời.
e) Phong tục thay đổi, những giá trị cố hữu của dân
tộc Việt Nam bị các tư tưởng mới như tự do cá nhân, nam nữ bình quyền đàn áp.
Quyền của cha mẹ bị suy giảm, Thanh niên nam nữ tìm cách thoát ly gia đình.
Cách phục sức từ thành đến tỉnh cũng thay đổi. Đàn ông cắt tóc, phụ nữ ăn vận
theo lối mới. Các lễ nghi hôn nhân, tế tự được tiết giảm.
Các tôn giáo Phật, Lão, Nho độc tôn từ các triều
Lê, Lý, Trần đến triều Gia Long thêm Đạo Thiên chúa bành trướng mau lẹ, dù bị
tàn sát và cấm theo đạo. Có lẽ dựa vào đó, nhà văn hoá Hồ Hữu Tường, trong loạt
bài trầm tư đã nghĩ rằng mảnh đất duy nhứt có thể thực hiện được nền văn hoá
tổng hợp chính là Việt Nam. Nền văn hoá truyền thống của ta khác biệt với mọi
nền văn hoá trên thế giới, tinh thần Tam giáo trở thành ý thức hệ cho dân tộc,
thêm vào ý thức hệ văn minh khoa học của Thiên Chúa giáo. Do đó người ta hy
vọng nền văn hoá Việt Nam là một nền móng cho thời kỳ Phục Hưng Tôn Giáo của toàn
thế giới. Muốn được điều đó, Việt Nam phải là một quốc gia độc lập, thống nhất
để có đủ thời gian phục hưng cơ sở văn hoá, mà hiện nay ba điều kiện để thành
công, thiên thời, địa lợi, nhân hoà chưa có đủ, chỉ có thiên thời là Đấng
Thượng Đế đã cho khai mở một nền Tân Tôn giáo năm 1926 qui Tam giáo, hiệp ngũ
chi.
(*1) LÊ THÀNH KHÔI, le Việt Nam, Histoire
et civilisation, Paris Les Editions du Mimut 1955
CHƯƠNG
II
CÁC
LỜI TIÊN TRI CAO ĐÀI GIÁO XUẤT HIỆN
1 . Kinh sấm truyền báo
trước Cao Đài giáo xuất hiện:
Trong càn khôn vũ trụ, theo Pasteur không có định
luật ngẫu nhiên, mọi sự việc đều có do lai riêng của nó. Cao Đài giáo trước khi
xuất hiện cũng đã có nhiều kinh sấm truyền báo trước.
a) Lời tiên tri trong sách Phật tông nguyên lý: Đức
Thế Tôn Văn phật đã huấn dụ: "Sau Ngài sẽ có một Đức Phật lớn hơn Ngài ra
đời".
b) Lời tiên tri trong quyển Thanh tịnh Kinh:
"Thanh tịnh Kinh hữu di tích. Công viên quả mãn chỉ thọ đơn thơ Thiên mạng
phương khả truyền đạo Tam Kỳ Phổ Độ". Kinh Thanh Tịnh có dấu tích để lại
rằng: công đầy quả đủ sẽ được lãnh thọ đơn thơ. Người có mạng Trời khá nên
truyền đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
c) Lời tiên tri trong quyển Vạn Pháp qui tông:
"Cao Đài tiên bút thi văn tự". Trong Đạo Cao Đài mai sau này sẽ có
thơ văn của chư Tiên do thần diệu cơ bút viết ra.
d) Chúa Jésus Christ đã phán trong Thánh kinh
(Thesalonians I5: 2): "Ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong ban đêm
vậy".
e) Sự tiên tri trong Đạo Tam Thanh, Vào thế kỷ XV
bên Trung Hoa có vị đạo sỹ tên Ngô Chi Hạc lập phái Tam Thanh, thờ giáo chủ 3
đạo lớn: Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Thích Ca. Đạo này là bước đầu tiên của
nền Đại Đạo.
f) Lời tiên tri của Chi Minh Sư. Khi nhà Thanh
(Trung Hoa ) chiếm ngôi nhà Minh, một số vong thần chạy sang Việt Nam và một
nhóm lên núi lập ra chi Minh sư, Minh Đường (hai chi trong ngũ chi của Đại Đạo
sau này). Ngoài bìa sách kinh của các chi ấy có 2 câu thơ:
Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng.
Đài tại Nam phương đạo thống truyền.
Đã tiên đoán cho việc khai đạo Cao Đài tại phương
Nam nước Tàu tức Việt Nam.
g) Lời tiên tri trong "Minh Thánh Kinh linh
sám": "Mạng hữu Cao Đài minh nguyệt chiếu". Danh của Đức Cao Đài
sáng tỏ như trăng sáng.
h) Lời tiên tri trong sách "Ấu học tầm
nguyên": "Đầu Thượng viết Cao Đài" trên đầu mọi người gọi là Cao
Đài.
i) Lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Trong quyển "Bạch Vân Am thi tập" có ghi:
Con
mừng búng tít con quay,
Vù vù chong chóng gió lay trên đài.
Nhà cha cửa đóng then cài,
Ầm ầm súng dậy, hỏi người đông lân.
Hai câu đầu ám chỉ chữ "Vạn" trên nóc các
Thánh Thất đạo năm 1939-1945, cũng gọi là đài. Biểu hiện này trùng với hiệu
đảng Đức quốc xã nên người Pháp ra lịnh đóng cửa các Thánh thất, hợp ý với 2
câu sau. Rồi sau nhờ Nhật đảo chánh (1945) các Thánh thất được mở cửa lại tức "ầm ầm súng dậy hỏi người đông
lân".
j) Lời tiên tri trong quyển "Giác mê ca":
Hữu
duyên mới gặp Tam kỳ phổ độ,
Muôn
đời còn Tử phủ nên danh.
k) Lời tiên tri trong quyển "Kinh Tỉnh thế ngộ chơn":
Đại
thiên tiên hoá hoằng chơn đạo,
Trợ
quốc cứu dân tích thiện luân.
Nam
Hải Từ Hàng chân vận tế,
Tây
Phương tiếp dẫn, Phật Đông Lâm.
Trước khi có cuộc thay đổi lớn sẽ có một nền đạo
chân chánh xuất hiện giúp nước cứu dân, làm điều thiện đáng khen. Biển Nam có
Phật Từ Hàng đi khắp nơi để độ rỗi. Phương Tây có Phật Tiếp Dẫn đưa người đến Đông
độ.
l) Lời tiên tri trong quyển "Kinh Vạn diệu
thiên thư cổ bổn":
Tam
giáo kim tùng cổ hoá sanh,
Tiên
thiên phương hữu thi Tam Thanh.
Phật
pháp Nho hề quy nhứt bổn,
Tự
nhiên tả đạo thống trương tranh.
Vạn
ức sơn hà giai hữu thử,
Tổng
quy nhất phái đắc an thành.
Xà
vĩ, mã đầu khai đại hội,
Tam
Kỳ hậu thế hiển phương danh.
m) Lời tiên tri tại Trung phần trước năm 1926:
Canh
dần, Mậu dần niên,
Kỷ
mão, Canh thìn tiền.
Tự
nhiên Thiên phú tánh,
Cao
đài tận chân truyền.
Lời tiên tri trong kinh các tu sĩ tại Trung phần
theo phái Minh Sư có câu:
Con
cầu Phật tổ Như Lai,
Con
cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ông.
n) Lời tiên tri của cụ Thủ Khoa Huân: Vào ngày 3
tháng 1 năm 1913 tại Cao Lãnh (Kiến phong) các kỳ hào hợp tại nhà ông Lê Quang
Hiển, nhạc phụ của ông Diệp Văn Kỳ để thỉnh tiên. Chơn linh cụ Thủ Khoa Huân có
cho 2 bài thơ sau:
Dung
tất Cao Đài nhiệm khuất thân,
Tứ
triêm đào lý nhứt môn xuân.
Cánh
tân bôi bức giang sang cựu,
Trừ
cựu thời thiêm tuế nguyệt thân.
Cửu
thập thiều quang sơ bán lục,
Nhất
luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa
nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục
đỗ Cao Đài tráng chí thân.
Cụ lại thích nôm luôn:
Co
dũi Cao Đài khoẻ tấm thân,
Dạo
xem đào lý đượm mùa Xuân.
Giang san chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ thay một chữ tân.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vùng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao Đài khoẻ tấm thân. (*1)
Chữ Cao Đài được nhắc
đi nhắc lại 4 lần, nhưng mãi đến năm 1927, chức sắc đi truyền đạo tại Cao Lãnh,
ông Hiển đem 2 bài thơ trên ra mới rõ lẽ mầu nhiệm của nền
Tân tôn giáo.
o) Lời tiên tri của Tào
Quốc Cựu ở Miếu Nổi: Tại Miếu Nổi (Gò Vấp) đêm 17-6-Quí Hợi (dl 30-7-1923 ) Tào Quốc Cựu giáng cơ dạy:
"Chư nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo ở
kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Hữu
duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ.
Trên Thánh điều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân"
(*2)
p) Lời tiên tri của Huê Quang tại chùa Ngọc Hoàng
(ĐaKao): Vào đêm 22-7-Quí Hợi (2-9-1923), Huê Quang Đại Đế giáng đàn tại chùa
Ngọc Hoàng ở Đất Hộ cho bài thi quán thủ như vầy:
HUÊ
phát Tam Kỳ Đạo dĩ khai,
QUANG
minh tứ hướng thướng tam tài.
ĐẠI
phước kêu đau thân đắc ngộ,
ĐẾ
Quân giáng hạ, nhữ vô tai. (*3)
Câu hai tiên tri bốn phương đều kéo cờ ba màu vàng
xanh đỏ (tứ hướng thướng tam tài).
(*1) TRẦN VĂN
QUẾ, Cao Đài giáo sơ giải Saigon Thanh Hương 1963
(*2) và (*3)
Nguyễn Trung Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên, Saigon 1930 tr.9
2 .
Hoàn cảnh xã hội Việt Nam chung đúc cho nền Tân Tôn giáo:
Đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo cực thịnh, được xem
như là quốc đạo. Trong gần 1.000 năm, từ thế kỷ X, đến cuối thế kỷ thứ XIX, các
triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Hậu Lê và Nguyễn đã dùng chữ Nho trong các
công văn, trong sự học hành, các khoa thi, và hành chánh. Trong triều nhà Trần
mở khoa thi Tam giáo (Nho, Thích, Lão) được gọi là Tam giáo đồng nguyên và được
tôn sùng ngang hàng. Tinh thần Tam giáo chẳng những biểu lộ trong văn chương từ
cú mà còn là những gì linh động được thể hiện qua mọi lề lối sinh hoạt của dân
tộc. Tinh thần Tam giáo đã trở thành một ý thức hệ đơn thuần trong xã hội Việt
Nam, tạo cho dân tộc một tinh thần bất khuất biết lý hoà đồng để làm cơ giới
tranh đấu. Đó là một thần trí đặc thù mà người Việt Nam lấy làm hãnh diện. Đã
bao nhiêu lần Bắc thuộc, kế đến Pháp thuộc mà phong tục dân tộc vẫn không mất
bản sắc, bất khả đồng hoá, chính là nhờ cái thế Tam giáo đồng nguyên Thích,
Nho, Lão.
Nền văn hoá Việt Nam lại phải đương đầu với sự du
nhập văn minh vật chất Tây phương, kèm ý thức hệ tâm linh Thiên Chúa giáo. Sóng
gió đạo lý đã nổi loạn, nền luân lý cổ truyền Khổng Mạnh bị lung lay, nhưng rồi
với thời gian đâu vào đấy, bước đến chỗ hoà đồng tôn giáo. Dù đông hay tây, cổ
kính hay tân thời đã kết tinh lại tạo thành một ý thức hệ tổng hợp, dung hoà
mọi bất đồng tiểu dị trên mảnh đất nhỏ bé bất hạnh nhưng nhiều diễm phúc và
hồng ân Thiêng Liêng này. Do đó, người ta hy vọng rằng Việt Nam sẽ là nơi Đại
phục hưng Tôn giáo trên toàn thế giới.
3 . Đấng Chí Tôn dành ân
sủng do dân tộc Việt Nam:
Đàn đêm 24-4-1926 Đấng Chí Tôn đã dạy:
"Vốn từ trước thầy đã lập ra Ngũ chi Đại Đạo
là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Tùy theo phong hóa của
nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc
duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận
thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới
nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay
phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau
đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt
kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con,
chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể,
có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến
nơi Bồng Ðảo.
.... Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói
rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì
mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không
đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho
khỏi điều rối loạn". (TNHT Q1/10) (*1)
Đức Lý Giáo Tông chủ trì về hồn toàn đạo cũng giảng
đàn đêm 13 tháng 1 năm 1927 như sau:
"Hiện nay nhân loại đang trải qua một thời kỳ
khủng hoảng trầm trọng, trật tự và thanh bình thuở xưa không còn nữa. Luân lý
sụp đổ, nhân tâm sa đoạ. Đối với những kẻ hoài nghi, Thượng Đế chỉ còn là một
tiếng suông. Họ không biết rằng trên Cao Đài kia ngự trị của Đấng Chí Tôn, Chúa
tể cả vũ trụ và cả số phận loài người".
(*1) THÁNH NGÔN
HIỆP TUYỀN (quyển I) Tây Ninh 1964.
4 . Tổng tắt:
Xem như thế, việc xuất hiện Cao Đài giáo là Thiên
thơ dĩ định, mở Kỳ Ba tam chuyển này để độ 92 ức nguyên nhân và truyền đạo đến
thất ức niên.
Bởi lẽ, đạo Cao Đài hợp với mọi thời đại vì
"Tân luật trong một thời gian nữa sẽ phải thay đổi cho phù hợp với dân
trí". (Pháp Chánh Truyền chú giải, Paris Gasnier 1952, tr.25), sinh động
với mọi thời đại, với mọi cuộc sống và mọi xứ sở.
"Ngày kia, Đạo sẽ xuất dương ra ngoại quốc thì
sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Việt Nam" (PCT, Sđd, trang
52) thì sẽ thể hiện một đạo Cao Đài kiểu Pháp, kiểu Mỹ, nhưng có cùng chung một
giáo lý là nhìn nhận chỉ một Đấng Cha Chung, một cộng đồng huynh đệ cùng nguồn
gốc.
CHƯƠNG
III
KHÁI
LUẬN VỀ THÁNH ĐỊA CAO ĐÀI VÀ TÔN GIÁO CAO ĐÀI
1 .
Vị trí và diện tích:
Thánh địa Cao Đài nằm về phía Đông tỉnh lỵ Tây
Ninh, Toà Thánh cách Tỉnh lỵ 5 cây số và cách Saigon 99 cây số về phía Tây: Bắc
giáp núi Bà Đen, Đông giáp quận Khiêm Hanh, Nam giáp Vàm Cỏ Đông và Tây giáp
ranh tỉnh lỵ. Toà Thánh nằm thiên về phía Tây gần cửa số 2 quen gọi cửa Hoà
Viện.
Diện tích 20.383 mẫu. Khởi tiên, khai phá khu bàu
Cà Na và sân bay. Lúc đó (1926) còn là rừng già, âm u chướng khí. Nước hết sức
độc. Thú dữ như cọp, gấu, beo, v.v... nhiều vô kể. Loài người và loài thú tranh
nhau thế đất. Những địa danh như Bàu Cóp, Trảng Dài,... nghe qua đã rợn người.
Khu khai phá đầu tiên này trong vùng Cây Ba Nhánh
gồm 96 mẫu của Hội Cựu Chiến Sĩ Pháp. Vị trí như sau: Bắc giáp lộ Liên tỉnh 13,
Đông giáp sân bay chiến lược của Pháp (chưa sử dụng), Nam giáp Ao Hồ, Tây giáp
đường Mít Một (đường giây thép cũng gọi là đường trên (route haute) là đường
Tây Ninh đi Saigon theo ngã Truông Mít, đối với đường đi Saigon bây giờ ngã
Giang Tân gọi là đường dưới (route haute). Dọc theo đường trên buổi trước có
trồng trụ giây thép sở Bưu Chánh nên gọi là đường giây thép.
Số tín đồ ngày càng đông, Hội Thánh phải mượn thêm
phía Đông Bắc 70 mẫu, tức khu Nghĩa địa giáp ngã ba Suối Đá. Đến năm 1927 tăng
thêm 11 mẫu, 1932 tăng thêm 70 mẫu. Vào 8-9-1966 Hội Thánh Cao Đài được Chính
phủ đệ nhị Cộng Hoà hợp thức hoá sử hữu chủ 3.355 mẫu. Trên thực tế, vùng Thánh
địa rộng đến 20.383 mẫu, có đạo hữu quần tụ.
Khung cảnh rừng rậm núi non đượm vẽ mầu nhiệm. Đại
Nam Thống Nhất Chí ghi về núi Linh Sơn: "Ở phía Bắc huyện Tây Ninh 20 dặm,
hình núi cao ngất làm trấn sơn cho tỉnh hạt; Tây Nam giáp ranh giới Cao Miên,
lưng chừng núi có Chùa Đá ít ai đi đến". Sách Gia Định Thông Chí chép:
"Núi Bà Đinh đá mọc lởm chởm, cây cối xanh rậm, nước ngọt rất tốt, trên có
chùa Linh Sơn, dưới có hồ nước, rừng khe u bao la, cảnh trí nhàn nhã, có thôn
lạc, người đồng quê và người Mọi ở. Nhân dân nhờ lợi trong núi, có đồ kim thạch
cổ quí, người ta đôi khi lượm được. Tương truyền ở trong hồ có thấy cái chiêng
vàng cũng như việc tứ tân phù khánh giang thuỷ đắc chung (*1), nhưng lại gần
không thấy nữa. Đêm nào trời trong tạnh thấy thuyền rồng bơi lượn múa hát du
dương, lại còn có rùa vàng khi nổi, khi lặn, dài một trượng dư, đó là linh khí
chung tụ, không phải là việc quái đâu. Núi này còn có một tên nữa là núi Điện
Bà Sơn. Năm Tự Đức thứ ba đổi tên Linh Sơn có đặng vào tự điển" (điển lễ
tế tự).
(*1) Khánh đá
nổi lên ở bến Tứ và được chuông trong sông.
2 .
Quản trị:
Toà Thánh và Thánh Địa do Hội Thánh Cao Đài quản
trị.
1)- Hội Thánh Cửu Trùng Đài: còn gọi là Hành chánh
Đạo dưới có Cửu Viện trông coi mọi việc. Phái Thái (vàng) chưởng sự các viện:
Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện. Phái Thượng (xanh): Học Viện, Y Viện, Nông
Viện. Phái Ngọc (đỏ): Hoà Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
Cửu Trùng Đài do Giáo Tông chưởng quản, dưới có:
Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh, tín đồ.
2)- Hội Thánh Hiệp Thiên Đài: là cơ quan lập pháp
và tư pháp của Toà Thánh, thông công cùng các Đấng, phụ thuộc có ba chi: Chi
Pháp, Chi Đạo, Chi Thế.
Hiệp Thiên Đài do Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng
Sanh chưởng quản chi Thế, hữu có Thượng Phẩm chưởng quản chi Đạo.
Dưới có Thập Nhị Thời Quân cũng chia làm 3 chi.
Ngoài ra có Thập Nhị Bảo Quân và Ban Thế Đạo, Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Chức
sắc Ban Thế Đạo.
3)- Hội Thánh Phước Thiện: là cơ quan lo về việc xã
hội, cứu khổ (Corps de charité). Trước là một chi của Hiệp Thiên Đài, nay thành
Hội Thánh nhưng vẫn dưới quyền thống quản của Hiệp Thiên Đài.
Chức sắc Phước Thiện gồm 12 phẩm gọi là Thập Nhị
Đẳng Cấp Thiêng Liêng, cao nhất là Phật Tử, thấp nhất là Minh Đức (đạo hữu).
Đó là 3 Hội Thánh chính gọi chung là Hội Thánh Cao
Đài chủ sự mọi việc từ trung ương đến địa phương.
3 . Tôn giáo Cao Đài:
Tôn Giáo Cao Đài thoát thai do việc cầu cơ thỉnh
tiên ở Phú Quốc năm 1920 và ở Saigon năm 1925. Một tôn giáo mặc khải toàn diện
do huyền diệu Thiêng Liêng. Trong giai đoạn khai pháp vì mới nên cách tế tự,
hành sự, từ ngữ giống Phật giáo chấn hưng (Boudhisme rénové). Về sau dần dần đủ
đúng đường hướng một tôn giáo hoàn cầu: thống Tam giáo, hiệp Ngũ chi. Trong tài
liệu tham khảo của Đại Học Đường Mississipi Bác sĩ Quinter Lyon dịch là The
GREAT RELIGION (Đại Đạo).
Tôn giáo Cao Đài thành chánh pháp tại Toà Thánh Tây
Ninh sau lần lần chia ra 12 phái đạo, rồi nhiều Thánh Thất tự trị. Theo thống
kê 1954, Toà Thánh Tây Ninh và các Thánh Thất phụ thuộc các tỉnh: Nam, Trung,
Bắc Tông Đạo là 2 triệu rưởi, nếu kể các chi phái lên gần 4 triệu. Việc truyền
giáo hải ngoại bị ngưng trệ vì ảnh hưởng tình trạng chiến tranh của xứ sở.
1) -
Tam Kỳ Phổ Độ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đại ân xá kỳ ba (Troisième Amnistie). Từ khi
có loài người Đức Chí Tôn cho mở 3 kỳ ân xá.
a)
Nhất kỳ phổ độ: Tức Nhứt Thiết Long Hoa Thiên Khai Tý Hội, các hàng giáo chủ sau đây ra
đời cứu thế:
Phật đạo: Nhiên Đăng Cổ Phật
Tiên Đạo: Thái Thượng Lão Tổ
Thánh Đạo: Văn Tuyên Đế Quân
b) Nhị kỳ phổ độ: tức Nhị Thiết Long Hoa Thiên Khai
Sửu Hội. các vị sau đây lần lượt ra đời:
Phật đạo: Thích Ca
Tiên đạo: Lão Tử
Thánh đạo: Khổng Tử
c)
Tam Kỳ phổ độ: tức Tam Thiết Long Hoa Thiên Khai Huỳnh Đạo hay Dần Hội do Đức Thượng Đế
giáng điển quang lập Đạo qui hiệp các tôn giáo lại làm một và không giao chánh
giáo cho tay người phàm.
Đức Chí Tôn chọn ba vị sau đây thay mặt cho Tam
giáo là Tam Trấn Oai Nghiêm: Lý Thái Bạch (Tiên); Quan Thế Âm (Phật) và Quan
Thánh Đế Quân (Thánh).
2) -
Tam giáo qui nguyên: Trong danh hiệu "Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát" đã hàm ý sự qui nguyên.
- Cao Đài: thuộc đạo Nho vì sách Nho có câu: Đầu
thượng viết Cao Đài.
- Tiên ông: thuộc Đạo Tiên (phẩm chót của Tiên
gia).
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: chỉ về Phật giáo.
a)
Về hình thức: Cao Đài giáo nhận các phần sau đây:
- Phật giáo: chuông trống, lễ cầu siêu, trai giới.
- Lão giáo: Lễ dâng Tam Bửu; bông, rượu, trà (tinh,
khí, thần). Trên Thiên bàn có Thái Cực đăng tượng trưng ngôi Thái Cực.
- Nho giáo: Lễ nhạc, sự thờ phụng tổ tiên và các lễ
quan, hôn, tang, tế cùng đạo ngũ thường.
- Ki-Tô-Giáo: cách lấy dấu 3 ngôi, đổi lại là Phật,
Pháp, Tăng. Hình thức tắm thánh, giải oan. Các Thánh thất tương tự như nhà thờ.
b)
Về phương diện triết lý: hay hình nhi thượng học, Cao Đài Giáo nhìn nhận những
nguyên tắc này của các Tôn giáo:
- Phật giáo: Luật nhân quả tức nghiệp báo và luân
hồi, Bát Chánh Đạo để thoát vòng luân hồi, từ bi, bác ái, tam qui ngũ giới và
minh tâm kiến tánh, tham thiền nhập định.
- Lão giáo: thuyết Tam Bửu, Ngũ Hành, và phương tu
luyện tâm lý, sinh lý để thoát trần, tu tâm luyện tánh, vũ trụ quan và phép tu
tiên (đơn).
- Nho giáo: Nhân, Trí, Dũng; tu thân, tề gia, trị
quốc và bình thiên hạ, thuyết trung thứ (dung), ngũ luân, ngũ thường, tồn tâm
dưỡng tánh, sinh động nhập thế.
- Ki Tô Giáo: Lòng bác ái, khoan dung, đức tin
tuyệt đối để đạt Đạo.
3) -
Phần chuyên biệt của Cao Đài giáo:
- Việc thờ Thiên nhãn trên Thiên bàn có tính cách
tượng trưng. Đức Chí Tôn giáng cơ: Nếu không có Hư vô chi khí thì không có
Thầy. Nếu không Thầy thì không có chi trong Càn khôn vũ trụ. Còn chư Phật, chư
Tiên, Thầy hỏi ai tạo ra các đấng ấy, đó là Đạo.
- Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ấn định sự tổ chức
Hội Thánh, việc dùng Thiên phục ba màu (tam thanh): vàng, xanh, đỏ và những
điều luật người theo Đạo phải noi giữ.
- Chuông thì gọi là Bạch Ngọc Chung và trống thì
gọi là Lôi Âm Cổ. Khi có Đại Đàn thì đánh Ngọc Hoàng Sấm.
- Việc dâng lễ phẩm chỉ có bông, rượu, trà và 5 cây
nhang, tuyệt đối không dùng các món nấu và không đốt vàng mã.
- Kinh cúng nơi Thánh Thất gọi là kinh Tứ Thời hay
kinh Thiên Đạo; kinh cúng vong linh người chết thì gọi là kinh Thế Đạo, gọi
chung là Tân Kinh hay Kinh lễ.
- Hai Đại Lễ chánh là Vía Đức Chí Tôn vào mồng 9
tháng Giêng âm lịch và vía Đức Phật Mẫu vào ngày 15 tháng 8 âm lịch. Trong
những ngày lễ Mẹ, tất cả tín đồ đều bình đẳng, không có áo mão phân cấp bậc.
Hai lễ này, tất cả chức sắc hành đạo địa phương phải về chầu Lễ nơi Toà Thánh.
- Ba
Hội lập quyền Vạn Linh là: Hội nhơn sanh do các đại biểu tín đồ nhóm họp;
Hội Thánh do các Chức Sắc họp tại Nội Điện Toà Thánh; Thượng Hội gồm chức sắc
Đại Thiên Phong; bên Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông và ba vị Chưởng Pháp; ba vị
Đầu Sư; bên Hiệp Thiên Đài thì Hộ Pháp Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
- Toà Thánh và Thánh Thất cất phải gồm đủ ba đài:
Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài.
Trên đây chỉ là những nét cương yếu chuyên biệt, đi
sâu và còn nhiều tiểu tiết phức tạp.
4 -
Sinh hoạt: Dân vùng Thánh Địa có 185.000 tín hữu (năm 1960) (toàn quận Phú Khương
trừ xã Thái Hiệp Thạnh là tỉnh lỵ Tây Ninh) được mệnh danh là "dân tứ
xứ". Vì các tín hữu Cao Đài do nhiều nơi trên toàn quốc qui tụ về Tây
Ninh, bắt đầu từ năm 1926, sức mạnh Tôn giáo giúp toàn đạo đẵn gỗ, phá rừng,
làn sóng di dân mạnh nhất vào khoảng năm 1947-1950, tức là sau lúc Đức Hộ Pháp
được trả tự do. Kế đến là khoảng 1953-1954, chiến tranh Việt Pháp đến hồi quyết
liệt. Họ chạy về Thánh Địa sống dưới bóng Đạo Kỳ tránh bị thiêu thân vào các
trận tuyến. Vào năm 1966-1967 mặt trận miền Trung sôi động, các tỉnh Bình Định,
Quảng Ngãi, dân Đạo dời gia đình về Toà Thánh lập nghiệp vùng trên Vườn Điều
(xã Ninh Thạnh).
Dù là dân tứ xứ họ không ở theo tỉnh. Lúc đầu chưa
quen phong thổ thì tá túc nhà người cùng xứ quen thuộc. Sau một thời gian họ
tìm đất sống cho hợp với công việc làm ăn. Nên khó mà tìm được một vùng thuần
nhất dân của một tỉnh, mà các gia đình mất hút trong nghiệp Đạo, lòng tin về
Thượng Đế. Chỉ còn Tổ Đình là Toà Thánh, bên cạnh niềm an ủi tổ tông là nhà thờ
họ, không có địa phương
Chín mươi phần trăm (90%) theo Đạo Cao Đài là giai
cấp nông dân hoặc làm nghề lao động. Hiện có khuynh hướng đi vào thành phố và
phát triển trong giới trí thức.
Y Phục các tín đồ thường nhật giống mọi người dân
Việt Nam khác. Người lao động vận quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng màu
trắng, ở thôn quê dùng màu đen. Dự các buổi tế tự thì mặc quần áo bà ba ngoài
choàng áo dài trắng. Chức sắc thì mặc tràng y theo sắc phái. Những người thuộc
hàng trí thức, công chức, sinh viên thì vận âu phục, nhưng khi đãnh lễ Đức Chí
Tôn đều mặc toàn trắng theo lễ phục Đạo.
Người phụ nữ có nhiều đức tánh tốt, ảnh hưởng Nho
giáo và truyền thống đạo đức, họ lo buôn bán tảo tần, cày cấy, chịu cực hy sinh
cho chồng con. Các người con gái gần chợ búa thì ăn vận theo lối mới, làm nghề
mới: lập tiệm may, bán hàng, công chức, v.v...
Họ giàu trực giác, ham điều đạo đức, ưa chuộng kinh sách Đạo và tôn trọng
các vị lãnh đạo tinh thần.
Phái nam thì đã trưởng thành hoặc đã sống trong
chiến tranh nên có tinh thần quật khởi, có lý luận chính trị thường xuyên. Họ
là thành phần nòng cốt xây dựng Đạo và bảo vệ Đạo. Họ có thể liều chết vì Đạo
để bảo vệ danh dự Cao Đài được tròn vẹn, quá trình đã chứng tỏ điều đó. Họ chịu
khó cạnh tranh, họ tôn sùng thần tượng và các "tướng Trời", nhưng khó
bị lợi dụng. Thà chết với tấm lòng trong sạch, chớ không quỳ lạy để hưởng bổng
lộc mà nô lệ kẻ khác.
PHẦN
THỨ NHỨT
THỜI
KHAI PHÁP (1920-1926)
CHƯƠNG I
ẤN
CHỨNG THIÊNG LIÊNG
1 .
Người đệ tử Cao Đài đầu tiên:
Người Việt Nam đầu tiên được diễm phúc làm đệ tử
Cao Đài là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, người Chợ Lớn. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1920,
ông phủ Ngô Văn Chiêu được đổi ra Hà Tiên, một tỉnh thuộc miền duyên hải Tây
Nam Sài gòn. Hà Tiên từ thuở xưa vẫn được nổi tiếng là có thắng cảnh thu hút
nhiều du khách. Trên đất liền thì có các núi như núi Lăng trông thẳng ra biển
sẽ thấy mộ phần Mạc Cửu, thân sinh Mạc Thiên Tích, nổi tiếng nhờ 10 bài
"Hà Tiên Thập Vịnh Cảnh", một cựu thần nhà Minh, rồi núi Thạch Động,
núi Đá dựng. Phía trước châu thành Hà Tiên có núi Tô Châu gồm có Đại Tô Châu và
Tiểu Tô Châu, ngó thẳng ra Đông Hồ, xa hơn nữa thì có Mũi Nay, Hòn Phụ Tử,
v.v... Các núi này toàn đá vôi nên lắm động, nhiều hang tạo thành khung cảnh
huyền bí, thần tiên. Nhờ non sông chung đúc dân chúng ở đây sớm biết cách phò
cơ thỉnh tiên.
Vốn là người mộ đạo, ông phủ Ngô Văn Chiêu thường
lên núi Thạch động để phò cơ thỉnh tiên nhờ hai đồng tử. Một vị tiên cô xưng là
Ngô Kim Liên giáng cho ông thi:
I . Văng vẳng
nhạc kêu bạn giữa thu,
Rằng
Trời cùng đất vẫn xa mù.
Non
Tây ngảnh lại đường gai gốc,
Gắng
chí cho thành bực trượng phu.
II . Ngần ngần
trăng tỏ giữa trời thu,
Cái
cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
Mắt
mẹ nào ai trông thấy đấy,
Lắm
công trình mới đúng công phu.
Ngô tiên cô khuyên tu nhưng ông phủ Ngô Văn Chiêu
chưa thấm nhuần chơn đạo.
Ngày 26 tháng 10 năm 1920, ông được lệnh đổi ra đảo
Phú Quốc. Phú Quốc về phía Tây tỉnh Kiên Giang, trông hình một tam giác chiều
dài nằm trong vĩ tuyến 10°6 đến 11°56 (50 cây số); chiều rộng nằm trong kinh
tuyến 113°74 đến 114° (30 cây số). Xung quanh Đảo về phía Nam còn một số đảo
nhỏ. Phú Quốc có 99 ngọn núi, phần nhiều núi nhỏ và đồi chỉ có một vài ngọn núi
cao. Diện tích 66.000 mẫu tây. Dân số đông vào khoảng 10 ngàn người đa số là
người Việt Nam rồi đến Hoa Kiều và người Kampuchia. Giữa đão có núi Đường Đưng
cao hơn trăm thước. Chính trên đỉnh núi này mà ông phủ Ngô Văn Chiêu lập đàn
thỉnh tiên.
Từ khi ông ra trấn nhậm đảo hễ ông lập đàn thì có
tiên giáng không như trước kia cầu cơ rất khó khăn. Một hôm có một vì Tiên ông
giáng chẳng chịu xưng danh, bảo ông phải chịu làm đệ tử thì sẽ dạy đạo và bảo
bỏ kinh Minh Thánh đừng tụng nữa. Về sau, ông mới biết vị Tiên ông đó là Ngọc
Hoàng Thượng Đế. Rồi bữa kia, Tiên ông giáng cơ bảo ông phải lo tu và ăn chay
thêm cho đủ 10 ngày trong một tháng.
Ông nghĩ rằng: "Mình đương làm quan, nay người
này mời, mai người khác thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày, rồi sau rủi quên ăn mặn
thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy mà được có kết quả thì cũng
rán mà ăn. Nếu ăn chay 10 ngày khi chết còn phải chịu luân hồi thì thà ăn 2
ngày còn hơn. Miễn là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm trái với lương tâm
thì thôi". Ông định, khi cầu tiên sẽ bạch lại như vậy.
Vào đêm mồng 1 tết Tân Dậu (8-2-1921) có người thợ
bạc có chuyện muốn cầu tiên, đến mời ông chứng đàn. Tiên ông giáng cơ chưa kịp
bạch hỏi chi thì cơ viết như vầy: "Chiêu, tam niên trường trai".
Thấy vậy, ông rất bối rối vì ông chưa chịu ăn chay
10 ngày mà nay Tiên ông lại ra lịnh trường chay 3 năm. Ông mới bạch rằng:
"Bạch Tiên ông, Tiên ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, mong xin Tiên ông
phải bảo hộ đệ tử chớ trường trai 3 năm lâu quá chẳng biết đệ tử có chịu nổi hay
không và xin Tiên ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có chứng
quả chi mới được". Tiên ông bảo cứ theo lời dạy thì sau sẽ rõ.
Ông phủ Ngô Văn Chiêu khởi sự trường trai và học
đạo kể từ đây. Tiên ông thường giáng cơ truyền đạo cho ông tu và dặn phải giữ
bí truyền chừng nào tới thời kỳ khai đạo thì Tiên ông sẽ dạy.
2 .
Thiên Nhãn hiển hiện lần đầu tiên:
Tuy ông đã làm đệ tử của Tiên ông chớ chưa lập bàn
thờ vì không biết phải thờ ra sao. Một buổi sáng lối 8 giờ, ông đương ngồi trên
võng bỗng đâu thấy trước mắt cách xa độ 2 thước lộ ra con mắt thiệt lớn, rất
tinh thần, chói ngời như mặt trời ông lấy làm sợ hãi lấy hai tay đậy mắt lại
chừng 30 giây ông mở mắt ra thì thấy con mắt cũng còn và lại chói sáng hơn nữa.
Ông liền chấp tay vái rằng: "Bạch Tiên ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như
phải Tiên ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong
thì con mắt lu dần rồi mất.
Dù vậy, ông vẫn chưa thiệt tin nên chưa tạo Thiên
Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau, ông cũng thấy như lần trước nữa. Ông khấn
nguyện sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ, tự nhiên con mắt biến mất.
Sau khi thấy Thiên Nhãn hiện 2 lần ông cầu cơ hỏi
cách thờ phượng thì Tiên ông đã dạy vẽ con mắt như đã thấy mà thờ và xưng danh
là: "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và dạy ông chỉ kêu Tiên
ông bằng Thầy mà thôi. Từ đó, ông chính thức trở thành người đệ tử đầu tiên của
Đức Cao Đài. (*1)
Lần lần Đức Cao Đài truyền đạo cho ông tu. Ông
quyết chí tu hành, trường trai giới sát và ông thệ nguyện rằng: "Nếu độ
ông thành Đạo thì ông sẽ lo độ lại chúng sanh tuỳ theo phước đức của mỗi
người". Khi tu được 3 năm thì Thầy khuyên ông: "Ba năm lao khổ độ
nhất nhân, mắt Thầy xem rõ lòng đã chắc, thương vì con trẻ gắng chí tầm phương
biết Đạo mầu". Sau vì nhiều người ganh tỵ xúi dân kiện thưa, ông đắc lịnh
đổi về Saigon ngày 30 tháng 7 năm 1924, âu cũng là Thiên cơ dĩ định vậy.
(*1) Lịch sử
quan phủ Ngô Văn Chiêu, Saigon 1962 , trang 28-29
CHƯƠNG
II
CƠ
PHONG THÁNH
1 . Đấng A, Ă, Â giáo đạo:
"Trong năm Ất Sửu, các Thầy, các Ông, từ hàng
Thông Phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo lộn trong
giới trí thức đương thời là: "Con người có thể thông công cùng các Đấng
Thiêng Liêng Vô Hình được". Nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi
nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần Linh Học và Thông
Thiên Học đã khảo cứu một cách rõ rệt: "Loài người có thể sống với cảnh
Thiêng Liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy". Cái triết lý ấy làm cho
nhiều người, nhứt là hạng người học thức muốn tìm tàng thấu đáo.
Nơi hạng học thức ấy có một cố tâm hơn hết là Đức
Cao Thượng Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương pháp bên Âu Châu hay
bên Pháp là Xây Bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền năng
Thiêng Liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền vi bí mật
thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ". (Thuyết đạo của
Đức Phạm Hộ Pháp ngày 13-10 Giáp Ngọ, 1954). (TĐHP Q6-2/19)
Mặt khác, vốn là những nhà thi sĩ và chất chứa nơi
tâm nỗi câm hờn vì nước nhà bị đô hộ, ba vị này (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và
Cao Hoài Sang) mượn thú xây bàn mời vong linh những người quá vãng để cầu hỏi
về vận mạng tương lai của tổ quốc (Lời xác nhận của Đức Cao Thương Sanh về Đạo
sử xây bàn ngày 22 -12 Đinh Mùi, 1968).
Ngày nay, dù sao chúng ta cũng không thể phủ nhận
lòng ái quốc chân thành của các nhà lãnh đạo Cao Đài... (Phạm Văn Sơn, chế độ
Pháp thuộc ở Việt Nam, Sài gòn 1972, tr.178).
Do đó, vào ngày 25-7-1925 (ngày 5-6-Ất Sửu) hai ông
Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà ông Cao Hoài Sang, bên cạnh chợ Thái Bình
(Saigon) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya có lẽ
vì thần linh thúc giục, các ông mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba ông đem ra trước
hiên nhà một cái bàn vuông 4 chơn kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn
khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ
tối đến 2 giờ đêm có nhiều vong linh nhập bàn viết tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ.
Cũng có 1 vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chửng
chạc, khi lựng khựng đường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do
đó các ông nản lòng ngưng xây bàn.
Việc xây bàn thật vất vả vì chỉ có khẩu ước với
đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp một lần "A" hai lần là
"Ă" và 3 lần là "Â", v.v...
khi chân bàn ngừng chỗ nào thì người ngồi ngoài biên chữ ấy, rồi nhiều
chữ ghép thành 1 tiếng nhiều tiếng mới ghép thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về
sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng
càng mau lẹ và rõ ràng.
Qua đêm thứ nhì (26-7-1925) ba ông lại xây bàn thì
đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi bát cú đường
luật:
THI
Ly
trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi
mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng
mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình
thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên
màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi
thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót
nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp
nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ký tên Cao Quỳnh
Tuân (*1)
Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân phụ ông Cao Quỳnh Cư qua
đời đã 25 năm. Ông Cư đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi. Cả 3 cảm phục ý nghĩa
của bài thơ.
Đến đêm 30-7-1925 (10-6 Ất Sửu), ba ông lại họp
nhau tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm nay có một nữ vong linh
giáng đàn cho thi:
THI
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng
bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những
ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào
dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng
sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ
tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn
dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai.
Ký tên ĐOÀN NGỌC
QUẾ
HOẠ VẬN
1 - Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai.
Trời
xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình
thâm một gánh còn dương thế,
Oan
nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Để
thảm xuân đường như ác xế,
Gieo
thương lữ khách ngóng tin mai.
Hềm
gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn
bút hoà thi tủi phận ai.
PHẠM CÔNG TẮC
2 - Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ
người quốc sắc đấng thiên tài.
Nhìn
văn độ phẩm hàng khuê các,
Xót
bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn
dặm hoa trôi, sầu cụm trước,
Một
mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu
tuyền hồn Quế linh xin chứng,
Rằng
liễu khóc oanh có mấy ai.
CAO QUỲNH CƯ
3 - Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông
nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc
thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng
rơi riêng chạnh khách chương đài.
Những
ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hại
nỗi xương tàn xũ giậu mai.
Một
dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa
chừng xuân gãy tủi thân ai.
CAO HOÀI SANG
Ba ông hoạ lại 3 bài. Riêng ông Cư hỏi cô Quế hồi
còn sống ở đâu - Cô đáp: "ở Chợ Lớn". Cô tên thật là Vương Thị Lễ kêu
ông Vương Quan Kỳ bằng chú (*2)
Hôm sau thì ông Cư mời ông Tắc và ông Sang qua nhà
ông để xây bàn mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Ba ông hỏi cô Quế về việc
thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các ông càng thêm học hỏi. Cô gọi ông Cư
là anh cả, ông Phạm Công Tắc là Nhị ca, ông Cao Hoài Sang là Tam ca còn cô là
Tứ muội.
Đến hạ tuần tháng bảy năm đó, ba ông lại xây bàn
bỗng có một ông giáng xưng là A, Ă, Â cho bài tứ tuyệt.
THI
Ớt
cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối
mặn ba năm muối mặn dai.
Túng
lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn
bòn chẳng chịu tấp theo ai.
Ông Cư hỏi ông A, Ă, Â mấy chục tuổi, ông gõ bàn
hoài không ngừng, nên ông Cư không dám hỏi nữa. Từ đó về sau, hễ cơ ai giáng
xuống cho thi thì ba ông cầu ông A, Ă, Â giải nghĩa.
Đến cuối tháng đó, cô Đoàn Ngọc Quế giới thiệu các
tiên nương: Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương. Các ông rất mừng được thêm
bạn thi thơ, nên mời các cô ngày rằm trung thu đến, Cô Quế nói rằng: "Ba
anh muốn cầu thì ngày đó phải ăn chay, cầu mới được". Ba ông đồng ý.
(*1) Do lệnh Đại
ân xá "nhất nhân chứng ngộ, thất tổ siêu thăng" nên Cụ Cao Quỳnh Tuân
đắc vị "xuất bộ tinh quân".
(*2) Xem thêm
"Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật".
2 .
Hội Yến Diêu Trì Cung:
Tại nhà ông Cao Quỳnh Cư số 143 Bourdais (nay là
Calmette) Sài gòn vào ngày 15-8 Ất Sửu (1-9-1925) lập bàn hương án, chưng những
hoa thơm và xông trầm trọn ngày. Đến 12 giờ (khuya) thì 4 cô giáng cho thi, chỉ
trích một bài.
THI
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gío
dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương
lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa
vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ
ngọc trau gương đậm vẻ làu.
Non
nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn
quê cảnh úa giục cơn sầu.
LỤC NƯƠNG
Sau đó, Đức Chí Tôn mới hạ lệnh bảo làm một yến
tiệc. Ngài dạy sắp đặt để đãi các Đấng vô hình, đãi 10 người: Đức Phật Mẫu và
Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 ông. Việc lo cỗ bàn do bà Nguyễn Thị Hiếu
(tức bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu), trên bàn thờ Phật Mẫu, dưới sắp 9 cái ghế. Ba
ông thì ngồi ăn, còn bà Hiếu thì đi gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn
thờ Phật Mẫu. Đó là bí pháp truyền thống của Đạo Cao Đài. Hiện nay hằng năm đều
tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung để tán tụng công đức của chư vị Tiên Nương, có
đại công trong việc khai đạo, vào 15-8-âm lịch.
Khi Hội yến xong, ông Cư và Tắc hỏi Đức Chí Tôn:
- Khi nãy Diêu Trì cung đến Ngài có đến không?
- Có chớ, Ta ở đây từ lúc ban sơ, Đức Chí Tôn trả
lời. Ông Tắc lại hỏi:
- Như em tôi Thất Nương (Cô Đoàn Ngọc Quế) có thể
đạt đạo đặng chăng?
- Phải tu, bằng không thì chẳng được.
Sau đó, các ông học đạo với Cửu vị Tiên Nương.
Vái
van xin quí Cửu Thiên nương,
Tâu
với Ngọc hư tỏ ngọn nguồn.
Vì
nghĩa ......... mang trọng tôi,
Nghĩ
tình đồng đạo để tình thương.
Vào đầu tháng 12-1925, ông Nguyễn Trung Hậu nghe
đồn tại nhà 3 ông Cư, Tắc, Sang có Tiên về cho thi hay lắm mới đến nhà ông Cư
xem coi thiệt giả. Ông A, Ă, Â gõ bàn cho thi:
THUẦN
văn chất Đức tài cao,
Tên
tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non
nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến
hồi búa Việt giục cờ Mao.
Nhờ điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên ông Hậu
mới chịu theo Đạo, rồi lần lượt độ các ông trong hàng Thập Nhị Thời Quân.
Nhắc lại lúc ông Nguyễn Trung Hậu đến xem đàn cơ
xin thỉnh ông Huỳnh Thiên Kiều tự Quí Cao, bạn thân về thi, thơ của ông lúc còn
sanh tiền. Ông Quí Cao nhập bèn cho bài thơ tứ tuyệt sau đây:
Âm
dương tuy cách cũng chung trời,
Sinh
tịch đời người có bấy thôi.
Chén
rượu đồng tâm nghiêng ngửa đổ,
Thương
nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ông Hậu xem bài thi, nhưng còn nửa tin nửa nghi,
ông liền nói rằng: "Tôi sẵn có làm một bài thi đem theo đây, xin đọc cho
anh nghe và xin anh hoạ lại chơi cho vui". Ông Quí Cao gõ bàn hai cái, có nghĩa
là đồng ý. Ông Hậu xướng thi:
Mấy
năm vùng vẫy cũng tay không,
Đường
thế chiêm bao một giấc nồng.
Nặng
nghiệp phong trần buồn với phận,
Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng,
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc,
Đất túng càng khinh chốn chậu lồng.
Chừ gặp cố nhân lời dám hỏi,
Hỏi ra cho
biết vận cùng thông. (Đạo Sử Hương Hiếu)
Ông Quí Cao liền gõ bàn
họa lại một cách suông sẽ như vầy:
Một
tiếng u minh gióng cửa không,
Phồn
hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi
thuyền Bát nhã qua tình biển,
Mượn
nước nhành dương rưới lửa lòng.
Cuộc
thế lạnh lùng làn gió lọt,
Đường
đời ngán ngẩm bụi trần lồng.
Kiếp
tu xưa tiếc chưa nên Đạo,
Oan
trái phủi rồi phép Phật thông. (ĐSHH)
Sau đó ông Phạm Minh Kiên và ông Lê Thế Vĩnh (sau
thọ phong Tiếp Thế) là nhà báo đến viếng ông Cao Quỳnh Cư, đang lúc Đấng A, Ă,
 giáng. Ông Cư xin cho mỗi người một bài thi để kỷ niệm, Đấng A, Ă,  đáp:
"Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi".
Một
viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng
xua trước giặc vạn binh lang.
Đạo
Đời ví biết Đời là trọng,
Dạy
dỗ sao cho đặng mở mang.
Người người đều thán phục, bài thi chỉ có 4 câu mà
gồm đủ hình trạng, tâm sự của hai nhà báo.
Một hôm khác, Ông Cao Quỳnh Cư bàn với các bạn
rằng: "Bình sanh tôi lấy làm khâm phục thi văn ông Lý Bạch. Vậy chúng ta
cầu thử người coi". Sau khi dâng lễ, khấn vái, thi sĩ Lý Bạch về cho thi:
THI
Đường
trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng
vị công khanh chỉ hưởng nhàn.
Ly
rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh
Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một
bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy
túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng
Đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
(ĐSHH)&(TNHT)
Sau đó quí ông mời nhà
thơ
Đỗ Phủ về hoạ như vầy:
HOẠ
Chẳng
kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng
lai vui Đạo hưởng thanh nhàn.
Thi
Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu
Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng
hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng
thu Đất cảm đổ mưa chan.
Vân
du thế giái vui mùi đạo,
Mơi
viếng Kỳ san, tối Cẩm san. (TNHT)
Nhờ cầu vị tiên nào được vị tiên ấy, nên các ông
lấy làm đắc chí. Âu cũng là Thượng Đế an bày để thâu phục các vị Tông Đồ đầu
tiên.
Dầu vậy, ông Cao Hoài Sang cũng rất thận trọng để
đặt niềm tin đúng chỗ. Ông có làm một bài thi tự thuật cho các thi sĩ hoạ chơi.
Rồi cũng xây bàn thỉnh Tiên, vong linh cụ Cao Hoài Ân (thân sinh ông Sang)
giáng đàn. Ông Cao Quỳnh Cư thưa rằng: "Sẵn dịp anh về đây, sẵn có bài thi
tự thuật của Sang, cậy mấy anh em tôi hoạ. Vậy anh hoạ chơi luôn thể". Ông
Cao Quỳnh Diêu tiếp lời nói rằng: "Anh đề thi mà khuyên dạy nó và lấy vần
voi, mòi, còi, roi, thoi, của bài "Từ Thứ Qui Tào" mà hoạ lại",
Chơn linh cụ Cao Hoài Ân cho thi:
THI
Thuyền
khơi gió ngược khá nương voi,
Vận
thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn
cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng
tòng buổi trước một cây còi.
Hồng
nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa
ruỗi đường hòe há nhọc roi.
Nín
nẳm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn
lòng chừng có lượng đôi thoi. (Đại Đạo Truy Nguyên)
Từ đó ông Cao Hoài Sang mới thật tin và theo tiếng
gọi thiêng liêng mà hành đạo.
Hết người này đến kẻ khác nghi, Ông Trương Hữu Đức
(sau thọ phong Hiến Pháp) cho các các bạn cố ý giả ngộ chơi. Thế nên ông về nhà
đem bàn ra một mình đặt tay lên, miệng vái các vong linh ứng hiện cho thi. Tức
khắc có vong linh của lệnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh
(mà ông đã mắc trên 20 năm). Sau có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho thi:
THI
Minh
Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng
còn ao ước cái không hay.
Mừng
cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng
nậu côn đồ đã chịu chay.
Từ đó ông Trương Hữu Đức hết sức tin tưởng và ăn
chay trường luôn.
Ngay cả ông Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp)
cũng giải rõ tâm sự của mình trong bài Thuyết Đạo ngày 15-7 Nhâm Thân (1932)
như sau:
"Tệ đệ vốn là người ít tin cơ bút hơn hết,
cũng tại Đại Từ Phụ đề nghị nên cứ theo thử mãi, thử rồi lại sợ mang tội cùng
Thầy, vái cho bị một phen rầy thì hoạ may phải tởn, mà Thầy cũng chưa hề rầy.
Đôi phen cũng vì nhẹ đức tin mà cải mạng lịnh của Thầy; chừng biết tội vái cho
bị rầy mà chừa cải. Thầy cũng không rầy. Nhiều khi nói lớn vái to lên ai cũng
đều nghe biết hết, mà Thầy chỉ cười rồi bỏ chớ cũng không chịu quở phạt lấy một
lần.
Để lòng nghi cho đồng tử không huyền diệu, về nhà
chấp bút một mình, kể tội từ buổi Tam Hoàng, bày oan từ đời Ngũ Đế. Đêm khuya
leo lét một bóng một hình, đưa ngòi bút lên đặng đợi Thầy, Thầy vừa giáng đà lo
khóc trước.
Đôi khi thấy khóc quá, Thầy lại chọc cười, rồi
chuyện vãn một hồi, nào là dạy đức tánh của Thiêng liêng, nào là huyền bí cơ
Tạo, nói thôi bao la thế giái, học thôi nát óc nát đầu. Coi lại mấy điều phải
cầu không một lời nói đến."
Ông Cao Quỳnh Cư và ông là cặp cơ Phong Thánh đầu
tiên. Buổi đầu, ông thường cho ông Cư tự nhịp bàn chớ không phải Tiên Thánh
giáng. Ông yêu cầu Ông Cư để hai tay vừa chạm trên mặt bàn, mà bàn vẫn nhịp và
cho thi. Ông Cư rất khó chịu cho sự nghi hoặc đó, nhưng chưa có dịp giải bày.
Một hôm tại Vĩnh Nguyên Tự, cây cơ treo trên tường bỗng lay động nhịp nhịp. Ông
Cư mới gọi Ông Tắc chỉ và nói: "Tắc, em coi qua nhịp hay cơ nhịp".
Ông Tắc cười mà không đáp, và khi cơ chuyển như vậy
chắc chắn có các Đấng muốn giáng đàn dạy việc chi, nên khi cầu cơ thì Tiên
Thánh giáng liền. Những điều đó ông Phạm Công Tắc thố lộ trong bài Thuyết Đạo
đêm 17-8-Quí Tỵ (1953).
"Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới Khai Đạo,
thật ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ
tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh Lớn ngày nay là Chức Sắc
của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái
của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi
chơi, ... ... ...
... ... ... Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của
Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to
tác". (TĐHP Q.6-1/28)
3 . Lập đàn cầu đạo:
Vào ngày 27-10 năm Ất Sửu, bà Cữu Thiên Huyền Nữ
giáng cơ bảo: "Mùng 1 này tam vị Đạo hữu Vọng Thiên cầu đạo". Hôm sau,
3 ông cầu Thất Nương (Đoàn Ngọc Quế) chỉ vẻ cách cầu đạo, Thất Nương bảo đó là
nhiệm vụ của ông A, Ă, Â.
Ngày 30 tháng 10 năm đó, ông A, Ă, Â giáng dạy
rằng: "Ngày mùng 1 tháng 11 này (16-12-1925) tam vị phải Vọng Thiên cầu
đạo. Tắm gội cho tinh khiết, qùi giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái rằng:
Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui
chánh".
Sáng ngày mồng 1 ông Cao Quỳnh Cư qua nhà ông Tý
mượn Đại Ngọc Cơ theo lời dạy của Đức Chí Tôn, như vậy việc xây bàn đến đây
thay bằng phò cơ (*1). Đến giờ ba ông thiết lễ, tịnh tâm mặc niệm như lời ông
A, Ă, Â dạy dù ngoài đường kẻ hiếu kỳ tới coi. Bỗng đâu thi sĩ Bồng Dinh (*2)
đến vịn cái bàn chỗ 3 ông quì mà ông ngâm thi. Người ta càng đến đông hơn. Cúng
bái xong vào nhà cầu cơ. Đức Cao Đài giáng viết chữ Nho 3 ông không hiểu, nên
thỉnh ông A, Ă, Â xin giải thích. Ông A, Ă, Â nói Đấng Cao Đài khuyên quí vị
nghĩ cho thấu đáo lý tạo đoan rồi cho thi.
THI
Cứ
níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự
nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt
hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn
lấy nhành dương hưởng Đạo nhàn.
Thuở trước, khi cầu cơ thì đọc bài: Trời còn và
Mừng thay!
BÀI TRỜI CÒN
Trời
còn sông biển đều còn,
Khắp
xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh
minh trong tiết vườn xuân,
Phụng
chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Đường
đi trên núi dưới đèo,
Lặng
tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận
làm con thảo há nài,
Biết
thương Tiên, Phật, Bồng lai mà tìm.
Xem
qua xét lại cổ kim,
Một
bầu trời đất thanh liêm chín mười.
Vàng
trao ngọc chuốc càng tươi,
Bền
lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần
Tiên vốn chẳng xa chi,
Có
lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.
Và khi Thần, Thánh, Tiên Phật giá lâm phải đọc bài:
BÀI MỪNG THAY
Mừng
thay chi xiết nổi mừng,
Hào
quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn khôn thế giới cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kính chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Đèn
lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.
Đến khi khai đạo tại Gò Kén thì không còn đọc hai
bài này nữa.
Trong năm khai Đạo nhiều cặp cơ được đắc phong.
Nhưng về sau chỉ còn 4 cặp cơ được lịnh đi phổ độ và truyền Đạo mà thôi.
Cặp cơ thứ nhứt là quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm
Công Tắc; thứ nhì là Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu; thứ ba là Nguyễn Trung
Hậu và Trương Hữu Đức; thứ tư là Trần Duy Nghĩa và Trương Văn Tràng. Mấy cặp cơ
này đều do cặp cơ quí ông Cư Tắc phong.
Ngoài các cặp cơ trên còn có các cặp sau:
Tươi-Chương, Kim-Đãi, Mai-Nguyên, Mạnh-Phước, Thâu-Vĩnh.
Tuy nhiên chỉ có 4 ông: Tươi-Chương, Kim-Đãi chấp
cơ được. Đặc biệt là ông Phạm Tấn Đãi (sau đắc phong Khai Đạo) là đồng tử bên
tích cực, đủ khả năng chấp cơ truyền Đạo. Hai ông Mai và Nguyên vì không đến
hầu đàn phong Thánh tại Gò Kén, nên hai ông Lê Thế Vĩnh và Cao Đức Trọng (vị
này được thọ phong tại Campuchia năm 1927) thế vị trong hàng Thập Nhị Thời
Quân.
Cầu cơ hay là phò loan gồm có hai vị đồng tử, ngồi
hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau, điển các Đấng giáng rồi
Ngọc cơ tự động mà viết ra? Chính vì đó, người ta có thể ngỡ người bên trái
hoặc bên phải viết ra? Thế nên, cơ bút cũng có thiệt mà cũng có giả. Người
trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.
Khi chấp cơ, Ngọc cơ rung động trên bàn viết, nhưng
nếu không có thần của bản thân đồng tử thì Ngọc cơ chỉ rung động mà không viết
được chữ gì hết. Lúc đó tinh thần của đồng tử nảy ra ý định viết chữ. Nhờ hoàn
cảnh của đàn cơ do các vị hầu đàn hết lòng khẩn nguyện, nên ý nghĩ của đồng tử
chỉ chăm chú về điều Thánh thiện. Nhờ đó, khi viết ra thấy toàn ý từ Thần Tiên
và lời lẽ đạo đức.
Khiếu của đồng tử ngồi chấp cơ cũng như dây điện có
dây nóng dây nguội. Bên nóng là bên tích cực (positif), bên nguội là bên tiêu
cực (négatif). Chính bên tích cực mới phát sanh ý tưởng mà viết ra văn còn bên
tiêu cực chỉ nâng cơ trợ điển mà thôi. Cơ bút viết ra hay hay dở đều do bên
tích cực, nếu có kẻ tự ám thị thì cũng do bên tích cực mà ra.
Nhờ kinh nghiệm và tâm lý, ta có thể phân biệt các
cặp phò loan trên như sau: cặp cơ quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc thì bên
ông Tắc là tích cực, vì ông cầu cơ với ai đều có kết quả còn ông Cư không hề
chấp cơ được với ai hết, nghĩa là cơ không viết ra chữ.
Cặp cơ thứ nhì là quí ông Cao Hoài Sang và Cao
Quỳnh Diêu, bên ông Sang là tích cực. Cặp cơ thứ ba quí ông Nguyễn Trung Hậu và
Trương Hữu Đức thì bên ông Đức là tích cực. Cặp cơ thứ tư quí ông Trần Duy
Nghĩa và Trương Văn Tràng thì bên ông Nghĩa là tích cực.
Nhờ phân tích khiếu đồng tử, mới thấy rõ ông Phạm
Công Tắc là 1 chơn linh vượt hạng, đủ năng lực xây nền Tân Tôn giáo, đáng liệt
vào hàng sư tổ của việc cầu cơ chấp bút.
Vì lẽ đó, khi cầm quyền Chưởng quản Nhị Hữu Hình
Đài, Đức Hộ Pháp mới ra Thánh lịnh số 21 ngày 22 tháng 2 Tân Mão (29-3-1951) có
đoạn:
"Nghĩ vì cơ bút là một cơ quan thuộc về Huyền
Linh Pháp nên vẫn là hư hư thiệt thiệt, vì bất kỳ mọi sự chi mà có tánh phàm
của con người phối hợp vào đó, đều giả nhiều mà thiệt ít.
Nghĩ vì cơ bút đã đủ quyền tạo Đạo đặng thì nó cũng
đủ quyền diệt Đạo đặng, vì cớ mà Đức Chí Tôn đã cấm cơ phổ độ." (Khảo Luận
Xây Bàn & Cơ Bút Soạn giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng)
Nhằm trong sự chặn đứng lợi dụng cơ bút, chức sắc
Hiệp Thiên Đài có lập bản "Hiến pháp cơ bút" chỉ chấp cơ nơi Đền
Thánh. Bởi lẽ, có nhiều người cầu cơ xúi giục các đồng tử non lòng nhẹ dạ vô
trách nhiệm đưa ra những lời đường mật mê hoặc nhân sanh, lôi cuốn họ theo
đường mê tín, chia chi phân phái.
Dưới đây là Thánh danh các Đấng giáng cơ giúp việc
khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Ất Sửu bằng phương pháp xây bàn hoặc cơ
bút: 1) Xuất Bộ Tinh Quang; 2) A, Ă, Â; 3) Cửu Vị Tiên Nương; 4) Cửu Thiên
huyền nữ; 5) Thiên Hậu; 6) Liên Huệ Tiên; 7) Đại Tiên Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký; 8)
Nhàn Âm Đạo Trưởng; 9) Hớn Thọ Đình Hầu Quan Công; 10) Thần Sơn Quan, Diệu Võ
Tiên Ông; 11) Đỗ Mục Tiên; 12) Minh Nguyệt Tiên Ông; 13) Bách Nhẫn Đại Tiên;
14) Thánh Pierre; 15) Huệ Mạng Trường Phan; 16) Lê Văn Duyệt; 17) Quí Cao; 18)
Thổ Địa Tài Thần; 19) Lý Thái Bạch; 20) Ông Môn; 21) Cao Xuân Lộc; 22) Cao
Quỳnh Tuân (thân sanh ông Cao Quỳnh Cư); 23) Cao Hoài Ân (thân sanh ông Cao
Hoài Sang).
Vào đêm Noel năm 1925, Thất Nương giáng cơ truyền
phải chỉnh đàn cho nghiêm trang để tiếp giá. Ba ông Cư, Tắc, Sang nghe vậy nửa
mừng nửa lo, liền thiết lễ chỉnh đàn trang nghiêm. Rồi hai ông Cư, Tắc phò cơ.
Cơ viết:
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ
Tát Ma Ha Giáo Đạo Nam Phương.
Muôn
kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui
lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo
mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên.
(*1) Cơ: là giỏ
đan bằng tre, ngoài phất giấy vàng, có cần bằng cây dương liễu hay cây dâu, đầu
chạm hình chim loan, ở cổ chim loan có cây cọ bằng tre hoặc mây để viết chữ
xuống mặt bàn cơ. Người đứng ngoài có thể đọc được.
(*2) Tức ông
Giáo Sỏi.
4 .
Các vị tông đồ đầu tiên và Cơ phổ hoá:
Vào đêm 25-12-1925, nhân lễ Noel của Chúa Jésus
Christ, ông A, Ă, Â giáng:
Đức Cao Đài đã hiểu lòng của 3 đệ tử: Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang. Ngài đã ban đầy ơn cho mỗi người, đêm nay phải
vui mừng vì là ngày của Thượng Đế xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).
Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như
vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. (Nhà
của M. C...). Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu
đặng kính mến Ta hơn nữa. (TNHT)
Đêm 31-12-1925 Đấng A, Ă, giảng dạy:
Ba con thương Thầy lắm há? Con thấy đặng sự hạ mình của A.Ă. như thế nào
chưa?
Con có thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa? Người quyền thế nhứt như vậy
có thể hạ mình bằng A.Ă. chăng?
A.Ă. là Thầy. Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy
không? (ĐSHH)
Như
vậy, từ đây các ông biết Đấng A, Ă, Â là ông Trời là Ngọc Hoàng Thượng Đế, là
Đức Cao Đài, xưng là Thầy.
Đến ngày 1-1-1926, Thầy giáng cơ phủ dụ và báo
trước nhiệm vụ cao trọng của 2 ông trong nền Tân tôn giáo:
"Cư, Tắc! Hai con đừng lấy làm việc chơi nghe;
Thầy dặn hai con một điều, nhứt nhứt phải đợi lệnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng
mà phán đoán nghe. Phận sự hai con, trách nhậm hai con Thầy đã định trước song
ngày giờ chưa đến phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây, Thầy khởi sự dạy Đạo cho. (2
Janvier 1926) (ĐSHH)"
"Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí
Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải mở Đạo Cao Đài, tới chừng Ngài
biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi thâu Môn đệ. Trọng yếu
của Ngài là thâu mấy vị Tông Đồ có sứ mạng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này đã
giáng sanh trước, đặng làm môi giới độ Đạo sau nầy. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi
Phò Loan, đặng Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kêu gọi mấy vị Tông Đồ đó. Quả
nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị
Thời Quân ấy, có Cao Tiếp Đạo ở tại Kiêm Biên chớ không phải ở Saigon. Đi thâu
Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng
tôi biết rằng: Có một người thờ Ngài rồi là Ông Ngô Quang Chiêu, tức nhiên Đức
Chí Tôn muốn thâu Ông làm Giáo Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ
không ra nguyên cớ là Đức Chí Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu may sắc
phục Giáo Tông cho Người, kỳ hẹn trong 10 ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo
Tông, trong thời gian 10 ngày, chỉ có 10 ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu
nguyên cớ nào Ông Ngô Quang Chiêu không hưởng được địa vị ấy." (Phạm Hộ
Pháp thuyết đạo đêm 13-10-Giáp Ngọ). (TĐHP Q6-2/19)
Ngày 9-1-1926 hai ông Cư, Tắc vào độ ông Lê Văn
Trung trong Chợ Lớn. Mãi đến ngày 11, ông Trung mới nhập môn. Ngày 31 khai đàn
với sự chứng đàn của Ngài Ngô Minh Chiêu.
"... buổi nọ Ông Lê Văn Trung đang làm Thượng
Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng Trưởng.
Đời Pháp thuộc chức Nghị Viên lớn lắm, Ông là người Nam làm đến bực đó thôi, mà
nghe ra Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút
nào, chính thật ra buổi nọ tôi nghe tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó
được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tưởng tượng. Một Ông
Quan mất nước không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức
Chí Tôn độ Ngài, mục đích chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi, khi
vô tới nhà thú thật với Ngài rằng: Chúng tôi được lịnh của Đức Chí Tôn, biểu
chúng tôi đến nhà anh Phò Loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo, anh tính sao anh tính.
Ngộ quá chừng quá đổi, Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết. Lo sắp đặt bàn ghế,
sửa soạn buổi Phò Loan, rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông nhập
môn đủ hết, chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí Tôn không? Có khi tưởng
Ông không tin nơi Đức Chí Tôn nữa chớ. Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi
tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó, hai cha con kiếm đâu được ra một cây
Cơ không biết, vái Đức Chí Tôn rồi cầu Cơ. Khi Phò Loan thằng nhỏ kia cầm đến
cây Cơ thì ngủ, Ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí Tôn dạy Ông nhiều lắm,
không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai Người biết
với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin Đức Chí Tôn.
Từ khi Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi
mới xuất hiện ra Hội Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng, thì chúng tôi có thể nói
rằng: Do nới Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài đó
vậy.......... Bởi vì chính mình Đức Chí Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành
Hội Thánh. Ngài đi đến đâu, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo Phò Loan để Đức Chí
Tôn thâu môn đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo Trung Thượng
Trung Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn Đức Chí Tôn thâu môn đệ, ...
... ...
Khi đó Đức Chí Tôn thâu Ông Nguyễn Ngọc Thơ, tức là
Phối Sư Thái Thơ Thanh làm môn đệ, Thái Thơ Thanh là bạn chí thân, tức là chồng
của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành thử mỗi người đều có Thiên Mạng nơi
mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ Phái đó vậy. (TĐHP Q6-2/19)
Vào đêm mồng 1 tết năm Bính Dần (13-2-1926) giờ Tý
tái cầu thì Đức Thượng Đế giáng dạy rằng:
"Chiêu buổi trước hứa lời truyền Đạo, cứu vớt
chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức
đến buổi chúng nó thành công, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt cho Ta mà dạy
dỗ chúng nó. Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu đi độ người.
Nghe và tuân theo. (ĐĐCN)
Đó là lời Thánh giáo đầu tiên và là Ngày kỷ niệm
Khai đạo Cao Đài về Cơ phổ hoá. Đến ngày 9-1 năm đó (21-2-1926) nhằm vía Đức
Ngọc Hoàng Thượng Đế ông phủ Vương Quan Kỳ có thiết đàn riêng tại nhà số 80
đường Lagrandière (nay là đường Gia Long). Đêm ấy có mời chư nhu và mấy vị đạo
hữu hầu đàn. Đức Thượng Đế dạy rằng:
Bửu
tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung
hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền
lòng son sắt đến cùng Ta.
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài; ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân
trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con; các con tức là
Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe. Các con giữ phận làm
tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ ý muốn của Thầy". (ĐĐCN)
Khi ấy, ông Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử đầu tiên mà cho một
bài thi kỷ niệm. Đức Thượng Đế liền cho thi:
Chiêu,
Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản
đạo khai Sang, Quí Giảng thành.
Hậu,
Đức, Tắc, Cư Thiên địa cảnh,
Qườn,
Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Nguyên 12 chữ xiêng trong 4 câu trên là tên của 13
vị môn đệ đầu tiên của Đức Thượng Đế vì Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang, Thầy điểm
danh chung 1 tên. Còn 3 chữ câu chót là tên 3 vị hầu đàn, chưa nhập môn. Đức
Chí Tôn lại dạy riêng nhóm xây bàn.
"Kể từ nay là ngày phát khởi Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
Thầy tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát" (*1)
Sau đây là vài nét, thứ tự theo bài thi, về quí vị
nêu tên trên.
1)
NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932): Đạo hiệu Ngô Minh Chiêu dòng dõi quan thị lang
triều đình Huế, di cư vào Nam lập nghiệp ở khu Hoà Hưng (Sài gòn).
Ngài sinh ra ở Bình Tây (Chợ Lớn) trong 1 căn nhà
lá nhỏ, không chịu bú sữa. Lớn lên kết tình với bà Bùi Thị Thân, sinh được 3
gái, 6 trai. Sau khi đậu bằng Thành Chung, Ngài vào làm tại Toà Tân Đáo (1899),
đến năm 1903 thì đổi về dinh Thượng Thơ rồi Toà Hành Chánh Tân An. Đến năm 1917
thi đỗ tri huyện. Đầu năm 1920 thân mẫu tạ thế, Ngài buồn nên xin đổi ra Hà
Tiên. Tại đây Ngài ngộ Đạo Cao Đài. Nhưng chuộng lối tu đơn, Ngài tách rời cơ
phổ độ về Cần Thơ lập phái Chiếu Minh vô vi.
2)
VƯƠNG QUAN KỲ: ông làm tri phủ, sau được đắc phong Giáo Sư, chức sắc thuộc Toà Thánh Tây
Ninh. Về sau tách về Cầu Kho (Sài gòn) nay là Thánh Thất Nam Thành hợp với ông
Đoàn Văn Bản chuyên lo phổ thông giáo lý.
Đức Chí Tôn cho ông bài thi, nhân đêm Tết năm Ất
Sửu (12-2-1926 ):
Nhựt
nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên
đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô
lao công quả tu đương tác,
Niên
quá niên hề đạo tối tân. (ĐĐCN)
3)
LÊ VĂN TRUNG (1876-1934): Ngài sanh ở Mỹ Lâm (Chợ Lớn) nhờ thông minh, mới
17 tuổi đã được bổ vào ngạch thư ký Soái phủ Sài gòn. Năm 1906, Ngài ra ứng cử
Hội đồng quản hạt, Quận Nhì. Ngài chống dự thảo luật "Lục hạng điền"
của Thống Đốc Nam Kỳ Outrey.
Năm 1911, Ngài cổ động và đề xướng trường Nữ Học
Đường Áo Tím (nay là Trường Gia Long, Sai gon). Ngày 6-10-1925, Ngài đệ đơn từ
chức Thượng Nghị viên để thừa hành thiên mạng. Lúc quan thống đốc Le Fol trấn
nhiệm xứ Nam Kỳ, vào ngày 22-1-1926 Ngài phế đời hành Đạo. Ba tháng sau được ân
phong Đầu Sư, năm 1930 được Đức Chí Tôn ân phong Quyền Giáo Tông.
Đức Chí Tôn ban cho Ngài thi, nhân tết Ất Sửu:
Đã
thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo
cao phó có tay cao độ,
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường. (ĐĐCN)
4)
NGUYỄN VĂN HOÀI tức Hội đồng Hoài, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu, Đức Chí Tôn cho ông thi
nhân tết Ất Sửu:
Vô
vi tối yếu đạo đương cầu,
Đệ
tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế
sự vô duyên, vô thế sự,
Tiêu
tư bất xuất ngoại gian đầu. (ĐĐSC)
5)
ĐOÀN VĂN BẢN tức Đốc học Bản, khởi tiên ông lập Tiểu Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông) lo
phổ thông giáo lý. Thầy cho thi nhân tết Ất Sửu:
Thương
thay trung tín một lòng thành,
Chẳng
kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt
thòi bấy phận không con nối,
Thấy
rứa lòng Ta cũng chẳng đành. (ĐĐSC)
6)
CAO HOÀI SANG (1900 - 1971) người xã Thái Bình (Tây Ninh). Sau khi đỗ bằng
Thành Chung, Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (Quan thuế Sài gòn) cho đến
chức Tham Tá Thương Chánh rồi về hưu. Ngài là 1 trong ba vị chức sắc Đại Thiên
Phong Hiệp Thiên Đài, đắc phong Thượng Sanh. Thực sự hành đạo và cầm quyền
Chưởng quản Hiệp Thiên Đài năm 1957 (khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang
Campuchia) đến ngày qui thiên 1971.
7)
VÕ VĂN SANG, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu, Đức Chí Tôn có cho ông bài thi nhân tết Ất
Sửu như sau:
Tân
dân hỉ kiến đắc tân niên,
Phổ
độ tam kỳ bá thế hiền.
Nhứt
tịnh chủ tâm chơn đạo lý,
Thăng
Thiên hượt địa chỉ như nhiên. (ĐĐSC)
8)
LÝ TRỌNG QUÍ, người Cần Thơ, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu. Nhân tết Ất Sửu Đức Chí Tôn
cho bài thi:
Lỡ
một bước, lướt một ngày,
Một
lòng thành thật chớ đơn sai.
Lôi
thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp
lửng đừng làm tội bữa nay. (ĐĐSC)
9)
LÊ VĂN GIẢNG làm ở hãng Ippolito (Sài gòn) được Thiên phong Giáo Sư phái Thượng. Đức
Chí Tôn cũng cho thi nhân tết Ất Sửu:
Trần
tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe
nơi Đại Đạo rán nghe luôn.
Ở
trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách
nạn chi chi cũng chảy tuôn. (ĐĐSC)
10)
NGUYỄN TRUNG HẬU (1892-1961) tự Thuần Đức, người Gia Định, thọ thiên
ân Bảo Pháp. Năm 1957 về Toà Thánh làm giám đốc Hạnh Đường và tái lập Đạo Đức
Văn Đàn.
11)
TRƯƠNG HỮU ĐỨC (1892-1976) người Chợ Lớn thọ thiên ân Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài. Sau khi
Đức Thượng Sanh qui thiên, ngài được bầu lên Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
(1971).
12)
PHẠM CÔNG TẮC (1890-1959) sanh tại làng An Hoà, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây
Ninh (trong khai sanh ghi sanh ở Long An). Năm 20 tuổi làm thơ ký Sở Thương
Chánh (Sài gòn). Ngài theo đuổi cách mạng và cộng tác với các báo như La cloche
fêlée, La voie libre, Lục tỉnh Tân văn, v.v...
Năm 1925 để tìm hiểu huyền vi của Tạo hoá. Ngài
cùng hai ông Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang họp nhau xây bàn. Nhờ đó nền Tân tôn
giáo mới xuất hiện. Ngài thọ phong Hộ Pháp đêm 14 trạng 15 tháng 3 Bính Dần,
tức trước khi khai đạo.
Ngài bị đày đi sang Mã Đảo (1941-1946) 5 năm, 2
tháng, 3 ngày. Cuối năm 1955, Ngài lại lưu vong sang Miên quốc và triều thiên
nơi đây (*2)
Vào đêm 30-12-Ất Sửu (12-2-1926) quí Ngài Ngô Văn
Chiêu, Cao Quỳnh Cư và Ngài đi đến mỗi nhà các bạn tu để chúc xuân và phò cơ
xin thi (Các bài thi cho mỗi vị đã dẫn trên ).
Trước tiên là nhà ông Võ Văn Sang cuối cùng là nhà
ông Lê Văn Trung. Bài thi cho Ngài như sau:
Ngao
ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy
thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn
giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái
của cái công phải trả đồng.
13)
CAO QUỲNH CƯ (1887-1929) sinh tại làng Hiệp Ninh, Tây Ninh. Ngài cầu cơ thỉnh
tiên một lượt với ông Phạm Công Tắc và đắc phong Thượng Phẩm cùng lượt.
Ngài là người phế thân hành Đạo trước nhất và chịu
khổ cực nhất trong buổi đầu tiên để xây dựng tổ đình. Đức Chí Tôn cho thi nhân
tết Ất Sửu.
Sắp
út thương hơn cũng thế thường,
Cái
yêu cái dạy ấy là thương.
Thương
không nghiêm trị là thương dối,
Dối
dạ vì chưng yếu dạ thương.
(*1) HUỆ CHƯƠNG,
Đạo Mạch Truy Nguyên , Sàigòn 1929, trang 23.
(*2) Xin xem
CHÂN DUNG HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC cùng một soạn giả.
* Lễ
nhập môn và khai đàn buổi đầu
Việc nhập môn cầu Đạo buổi đầu do Đức Chí Tôn độ
hoặc các vị ngộ đạo trước hướng dẫn, như 13 vị có tên trong bài thi tứ tuyệt
trên, nơi các tư gia hoặc chùa miếu, chớ chưa có Thánh Thất. Ngày 27-1-1926
khai đàn tại tư gia ông Cao Quỳnh Cư, Đức Chí Tôn giáng dạy:
Đã
để vào toà một sắc hoa,
Từ
đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung
thành một dạ thờ cao sắc,
Sống
có Ta, thác cũng có Ta.
Về sau hễ có người nào nhập môn, thì mở ngay cuộc
khai đàn tại nhà đó và chư tín hữu khác cũng được tham dự mà làm lễ nhập môn.
Có một vị đạo hữu xin được nhập môn và khai đàn tại nhà, nhưng gia cảnh nghèo
không sắm đủ lễ. Đức Chí Tôn giáng cho bài thi an ủi:
Bạch
Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng
cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.
Buổi đầu, các môn đồ khi nhập môn được Đức Chí Tôn cho thi. Những người nào
được phê chữ Thâu, Thượng thì
nhận là tín đồ, còn người nào không ghi gì cả, kể như không thâu nhận. Như buổi đàn cơ do Giáo Sư Thái Đạt Thanh chứng đàn và
hai ông Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức phò cơ, có 1 bài thi cho bà tên Bộn
như sau:
Bộn
bàng kẻ tới với người lui,
Lui
khỏi ngoài vòng tính cuộc vui.
Vui
Đạo không vui vui thế sự,
Sự
hay sự dở chửa phân mùi.
Bà ấy vốn là mụ tú bà nên không được thâu làm môn
đệ.
Một người tên Tích đến cầu Đạo thì Đức Chí Tôn cho
bài thi:
Tích đức cho con, Tích hỡi con,
Con còn lăn líu lắm nghe con.
Con thương con cháu là thương Đạo,
Đạo
chẳng ở xa ở tại con.
Thâu
Xem thế, ông Tích là 1 người hung bạo nhưng vì
thương tính mộ Đạo cũng được Thâu.
Ngày 20-10- Bính Dần (25-11-1926) lúc khai Đạo tại
Gò Kén (Tây Ninh) Đức Chí Tôn cho 1 người mới cầu Đạo tên Ngô Trung Bình một
bài thi và ghi chữ Thượng.
Nguồn
Đạo tìm vào đã tận nơi,
Rán
đưa chơn tục chí đừng vơi.
Bao
nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn
mạng nên Ta phải để lời.
Thượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét