953 . Nếu thiếp trước
biết hòa biết thuận,
Nhẫn ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp
giựt giành chi duyên.
957 . Giọt lệ thiếp vì
phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia
dải đồng tâm.
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.
961 . Vắng mặt chàng
thiếp về kiếm kẻ,
Chia tương tư đặng để nên tình.
Vì chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ câu hải thệ sơn minh với nàng.
965 . Mảng sầu muộn ngổn
ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh về tổ, dế reo tơ,
Đường về vắng bước như tờ canh khuya.
969 . Tiếng U Minh tía lia
gợi thảm,
Giọng kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.
973 . Rốn để bước đến
gần điện Thánh,
Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao đó hiển, sao đó linh,
Phải chăng trước cũng lụy tình như ta?
977 . Đau đớn thế nắn ra
tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ tất cửa không.
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.
981 . Hay sợ khổ sanh ly
tử biệt,
Nên tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết chăng tình ái của người,
Xin cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.
985 . Hay đã sợ thân mòn
gối mỏi,
Mến ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh đinh bể khổ dật dờ,
Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.
989 . Hay đã sợ nắng
nồng tuyết lạnh,
Cảnh đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền tình chịu sóng không kham,
Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.
993 . Buồn tình lóng
nam-mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân còn nương giữa phong trần,
Khổ kia còn đếm mấy lần mới thôi.
997 . Rón rén trước Phật
ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.
1001 . Lui chân kiếm con
đường nhà nội,
Lửa đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.
1005 . Tiếng dế giống như
lời chia thảm,
Ngọn đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng căn là chết ấy đường xưa nay.
1009 . Một ngày sống là
bày bước chết,
Sợ chết nên không tiếc sống thừa.
Đời không mến, thế không ưa,
Lòng thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.
1013 . Vì sợ chết mà người
kiếm sống,
Trong căn oan lại mộng tầm duyên.
Già hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên đau giải thảm cổi phiền của ai?
1017 . Một vật nhỏ cũng
mài cũng gọt,
Của dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá kia nào kể nên chăng,
Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.
1021 . Thấy ai thảm lòng
đau ái ngại,
Nghe kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau giọt lệ, giải tai ương,
Chia cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.
1025 . Thấy ai thảm lòng
vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng hình quân tử với hàng lụy chung.
1029 . Khi ghen ghét
không cùng hiệp mặt,
Nay thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn chi giành én giựt anh,
Thước cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.
1033 . Xem nét thảm, nàng
đau như thiếp,
Trông tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.
1037 . Sầu đã cháy mặt
hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.
1041 . Tay bồng con,
tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ
không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.
1045 . Cặp liễn tang còn
câu long ám,
Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả như chàng có chốn nầy,
Tưởng khi đổ lụy châu mày với duyên.
1049 . Hỏi đon thử lời
nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
Oán hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.
1053 . Giọt lụy đổ không
chi ngăn nổi,
Thương thân nàng chung với thân mình.
Thương chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối thương khó lấy gáo tình đem đong.
1057 . Đôi mặt cách mà
lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hòa chung.
Thề nhau trọn kết dải đồng,
Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.
1061 . Chia gia nghiệp
trong cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy là vẹn giống trọn dòng,
Nàng sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.
1065 . Lập gia thất làm
giàu con trẻ,
Định lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng thì an phận an nơi,
Con thì đáng mặt đáng người với ai.
1069 . Khi thong thả đặt
bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn
non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.
1073 . Cỏ huyên cắm kềnh
kềnh đầu tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.
1077 . Dò đon hỏi bước
rừng thiền cũ,
Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.
Tính niên rồi lại tủi thầm,
Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.
1081 . Nhẫng vơ vẩn vào
ra bến khổ,
Trước mặt xem những chỗ sầu than.
Nầy là hình ảnh của chàng,
Nầy là tiếng khóc của đàn trẻ con.
1085 . Nầy là chỗ thiếp
còn niên thiếu,
Nầy là nơi chàng níu thiếp trì.
Nầy là buổi hiệp hồi ly,
Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.
1089 . Nầy là chỗ lời hơn
tiếng thiệt,
Nầy là nơi cách biệt sanh ly.
Nầy là chỗ thiếp chẳng vì,
Nầy nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.
1093 . Nầy là chỗ đôi ta
tái hiệp,
Nầy là nơi vừa kịp hòa vui.
Nầy là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.
1097 . Các chỗ ấy dẫy
tràn thảm tín,
Càng ở gần khó nhín sầu than.
Cam tâm nín nẩm gia đàng,
Vì con chưa giữ vững vàng qui mô.
1101 . Nay tuyết đóng
song hồ động lãnh,
Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn.
Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,
Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.
1105 . Bước cảnh tịnh đã
đành để cẳng,
Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.
1109 . Ngắm thế cuộc
chẳng bằng một giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc
đầu cũng in.
1113 . Nào là phép giựt
giành quyền lợi,
Nào là phương chuộng quới
cầu vinh.
Thử đem sánh khổ kiếp sanh,
Chưa ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.
1117 . Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy.
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.
1121 . Nào là lúc ăn cay
uống đắng,
Nào là khen rồi mắng
bao phen.
Tuồng đời trọng trọng
hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn
xôn xao.
1125 . Nào chửa đẻ biết
bao khổ nhọc,
Nào hơn thua theo học sách đời.
Tang thương lúc biến khi dời,
Trăm năm e cũng một đời thế thôi.
1129 . Nào tranh đấu
thắng rồi lại thất,
Của phù du chứa chất gọi giàu.
Thân còn đã quí là bao,
Dứt hơi của cải thế nào không hay.
1133 . Thiệt thì bỏ, giả
vay nên nợ,
Mãn căn sanh chưa mở dây oan.
Kìa là vua, nọ là quan,
Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.
1137 . Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,
Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.
Cũng như ác thú nhốt hầm,
Ăn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.
1141 . Muốn lấy đạo làm
đao hại thế,
Toan dùng văn gọi kế sanh nhai.
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.
1145 . Mạnh hiếp yếu
lấy gan hung bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.
Nhẫng lo chác oán mua hờn,
Hại nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.
1149 . Thấy cảnh thế mà
đau với thế,
Biết thương đời mấy kẻ vì đời.
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
1153 . Thay đạo phục bước
xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.
1157 . Đoạn tình ái đem
quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.
1161 . Vì thấy đó phải
cười lộn khóc,
Sách của ngươi chẳng học mà say.
Cửa ngươi cửa đọa cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.
1165 . Lần chuỗi hột từ
bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
Nước non để bước ta-bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
1169 . Trương thẳng cánh
con thuyền Bát Nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ khiên.
Lấy thân rửa thảm lau phiền,
Đem công chuộc khách thuyền quyên lụy tình.
1173 . Túi gió trăng
thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú
riêng.
Khi động Thánh, lúc non
Tiên,
Sớm thì Hải đảo, tối
miền Thiên Thai.
1177 . Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.
1181 . Đến phồn hoa thân
gần tục lự,
Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.
Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.
1185 . Gót nhân ái đến
nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy hơi hòa nhã dẹp lần bỉ thô.
1189 . Giúp những kẻ ôm
mồ thủ hiếu,
Dỗ những trang bận bịu khối tình.
Dọn đường phước giúp mày xanh,
Đưa con thuyền hạc đến gành thiên lương.
1193 . Tưới hoa chạ bên
đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.
1197 . Câu tư dục biến ra
bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
Khi kinh Thánh, lúc kệ Thần,
Đoạn trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.
1201 . Lầu xanh giặm màu
tu trở vẻ,
Cửa không môn mở hé chơn hồng.
Thu phòng học chước thu không,
Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.
1205 . Đưa tuổi hạc quen chiều non nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê đời.
Nâng bầu nhựt nguyệt lưng vơi,
Dành gương liệt nữ để lời trinh phu.
1209 . Nắm huệ kiếm định
thâu trái chủ,
Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.
Nơi bến khổ để bước già,
Xuân xanh noi dấu xây tòa anh phong.
1213 . Cột thân ái cậy
lòng đạo đức,
Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.
Nung trang trí thức nữ
lưu,
Biết thân giữ mặt hảo
cừu giai nhân.
1217 . Giồi trí thức
tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh
thư.
Vinh thì chuộng, nhục thì từ,
Cân cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.
1221 . Nước Ma-Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi bồ đề gìn giữ hồng nhan.
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn
phòng the.
1225 . Để chuông mõ dựa
kề son phấn,
Chất nhơn tình chồng
cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí
Linh,
Biển mê chèo chiếc
thuyền tình độ nhân.
1229 . Lấy tâm chánh
làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế
dìu đời.
Chông gai vạch bước
thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ
người trầm luân.
1233 . Vẹn nhơn đạo, đi
lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh
nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch
như rừng,
Đon đường Thánh đức,
hỏi chừng Như Lai.
1237 . Am tự đóng chặt
gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
Oan trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.
1241 . Lánh bợn tục tình
thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
Biến thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn, mở đàng Lôi Âm.
1245 . Nơi cảnh tịnh âm
thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
Thong dong quạt gió trăng đèn,
Nhành dương làm bạn, sách hiền gọi quen.
1249 . Bế ngũ quan, không
kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.
1253 . Linh linh, hiển
hiển, khinh khinh khứ,
Sắc sắc, không không, sự sự tiêu.
Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,
Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.
1257 . Ngũ khí thanh diệt
trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế, đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.
1261 . Hiệp Tạo hóa cầm
quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui.
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.
1265 . Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn.
Ham phương cứu thế độ nhân,
Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.
1269 . Lấy bác ái làm hòa
vạn vật,
Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn căn đóng chặt Âm cung,
Tòa sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
1273 . Trăm tuổi sống
chẳng lầm tuổi sống,
Một kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.
Thay thân Tạo hóa là mình,
Nâng niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.
1277 . Ngồi mà lóng tiếng
đờn vô cực,
Phước siêu thăng đặng thất nơi ta.
Biết coi thế giới như nhà,
Sống nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.
1281 . Thiếp nhờ Đạo giải
phiền diệt khổ,
Biết may duyên lựa chỗ gởi tâm.
Tìm đâu đặng kẻ tri âm,
Ôm thương đem gởi cảnh Thần cửa Không.
1285 . Càng ngó trái lại
miền thế tục.
Lụy nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.
Ái ân, ân ái là sao?
Đày thân lắm khách má đào gian truân.
1289 . Chịu mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng toan lo gìn giữ khối tình.
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu tan.
1293 . Nào những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu.
Duyên là đâu, nợ là đâu?
Chẳng qua biển khổ bắc cầu sông mê.
1297 . Khối thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp phu.
Hễ là trí, ấy là ngu,
Càng say âu yếm càng sầu nhớ thương.
1301 . Khách má phấn môi
son đậm sắc,
Đặng đem mồi trêu mặt ác phong.
Đâu chữ tiết gọi là đồng,
Lời than tiếng thiết để lòng trăm năm.
1305 . Chẳng qua khách
ăn nằm quán tục,
Vắn một ngày, lâu chút
trọn đời.
Hỏi ai thỏa chí ai ơi?
Tra phòng hiệp cẩn, bao
hồi khóc riêng.
1309 . Một câu mến gieo
phiền muôn tiếng,
Đôi lời phân ngàn miệng
xa xôi.
Hỏi ai trộm đứng lén
ngồi,
Những cay những đắng
cái mùi ra sao?
1313 . Tính để viết
khuyên rào tiết ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si
tình.
Còn không để trọn lời
lành,
Lại e cho gái nhẹ mình
nữ trung.
1317 . Toan để bút ngăn
vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ
tiền khiên.
Còn không lưu lại lời hiền,
Mưu chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.
1321 . Thấy trẻ gái dầm
dề lụy đổ,
E cho sau chịu số như già.
Muốn khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại e để hại nước nhà khuyết dân.
1325 . Thấy nhi nữ kiếp
căn mỏng mảnh,
Muốn binh lời làm mạnh đỡ nâng.
Lại e lỗi đạo nhơn luân,
Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.
1329 . Gẫm thân gái trọn
đời cực nhọc,
Tính buông câu gọi chút nghỉ ngơi.
Lại e sái thế lỡ thời,
Giúp nam nhân chẳng có người trọn tâm.
1333 . Nghĩ phận vợ ngàn
trăm đau đớn,
Sanh đẻ còn nuôi dưỡng nhọc nhằn.
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.
1337 . Nên ngậm thảm đặng
ngồi nuốt thảm,
Toan buông lời, chẳng dám hở môi.
Lén xem sự thế ngậm ngùi,
Nguyền trông chỉ đợi phép Trời dạy khuyên.
1341 . Tay lịch sự tự
nhiên chê sự,
Lòng đa tình vẫn cứ vị tình.
Biết tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm phương hay gởi lấy mình cửa tu.
1345 . Những thảng mảng
tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng vãng sanh.
Đã quen cảnh Phạm lánh mình,
Nên phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.
1349 . Nghe một sự, hiểu
điều khác nghĩ,
Trong thất tình tiêu hủy không không.
Hết ham danh, chẳng mến
công,
Xem hình lẩn lộ, bùi
nồng thế gian.
1353 . Cây trăm thước
bắc thang bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
Vui đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.
1357 . Đếm thử tuổi tám
mươi đã quá,
Giấc Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.
1361 . Khổ bịnh thấy trêu
người đã quá,
Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.
1365 . Muốn gặp mặt thâm tình
gởi trối,
Nhưng lỡ bề vì buổi đoạn từ.
Khôn nhạn tín, khó hồng thư,
Viết quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.
1369 . Muốn nhắm mắt một
bề cho khỏe,
Những tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
Khi thì khóc, lúc thì cười,
Bao nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.
1373 . Tám chục năm lâu
xa cách mấy,
Trong giấc mê xem thấy
ngắn thay!
Ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với
tuyền đài gần nhau.
1377 . Nhớ con cháu còn
lâu kiếp sống,
Dầu gặp hình như bóng sá chi.
Dở hồn phách, yếu thây thi,
Dậy ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.
1381 . Gắng cầm viết nín
hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Thi:
1385 . Giữ mình dầu vẹn
tấm tình chung,
Danh tiết nữ lưu ở phụ tùng.
Mặt biển khổ dồi dào ái thủy,
Đầu non thề hủy hoại hương hồng.
1389 . Mày xanh khá nhớ
cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
Khí tượng anh thư gìn lẫn giá,
Giúp đoàn nhi nữ mở non sông.
1393 . Rán quá sức cẩn
phong thí nhạn,
Dường say mê lơ lảng tinh
thần.
Sấn tay thêm một chữ: Thân,
Để dành gỡ khổ đoạn tràng hồng nhan.
1397 . Buông ngọn viết
vào làn mây trắng,
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.
1401 . Đời đời danh chói
Cao Đài./.
Nữ Trung Tùng Phận
Chú thích
01 . Dụng văn
hóa trau tria nữ phách,
Lấy
kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm
thư giúp sức gươm hùng,
Điểm
tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
Chú
thích:
Văn hóa: Văn là vẻ đẹp, hóa là biến đổi. Nghĩa đen,
văn hóa là biến đổi trở nên tốt đẹp. Nghĩa tổng quát, văn hóa là tất cả những
công trình vật chất và tinh thần của con người đã sáng tạo ra để làm cho cuộc
sống được tốt đẹp hơn. Nghĩa hẹp, văn hóa là văn chương để giáo hóa con người.
Trau tria: Giồi mài cho trở nên tốt đẹp và tài giỏi hơn. Nữ phách: Phách là tinh
thần, khí phách. Nữ phách là khí phách của người phụ nữ, tinh thần của người
phụ nữ. Kinh luân: Trong công việc của người thợ dệt, chia các sợi tơ ra gọi là
Kinh, so các sợi tơ lại cho bằng đầu thì gọi là Luân. Kinh luân, dùng theo
nghĩa bóng là sắp đặt, sửa sang các việc chánh trị trong nước một cách khéo léo
tài giỏi như việc kéo tơ dệt lụa. Thúc thách: Thúc giục và thách đố. Quần hồng:
Cái quần màu đỏ, chỉ đàn bà con gái. Thời xưa ở bên Tàu, các nhà giàu thường
cho con gái mặc quần màu đỏ. Gươm thư gươm hùng: Thường nói là Gươm thư hùng
hay Thư hùng kiếm. Gươm thư là cây gươm mái, chỉ người vợ; gươm hùng là cây
gươm trống, chỉ người chồng. Cặp gươm thư hùng có đủ âm dương, nếu dùng một cây
thì tác dụng của nó bình thường, nhưng nếu dùng 2 cây thư và hùng phối hợp thì
tác dụng của nó tăng lên gấp bội, vì có đủ âm dương. Gươm thư hùng là chỉ một
cặp vợ chồng đồng tâm nhứt trí, vợ tài giỏi giúp chồng làm nên sự nghiệp vẻ
vang. Điểm tô: Tô điểm, bồi đắp cho tốt đẹp thêm. Nghiệp cả: Sự nghiệp lớn. Cả
là lớn. Con Rồng cháu Tiên: Đồng nghĩa với con Hồng cháu Lạc, chỉ dân tộc Việt
Nam. (Hồng: Hồng Bàng; Lạc: Lạc Long Quân).
Theo
truyền thuyết trong cổ sử nước ta, vua Đế Minh, cháu 3 đời của vua Thần Nông,
đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh tỉnh Hồ Nam, gặp một nàng Tiên, rồi
lấy làm vợ, sanh ra Lộc Tục. Vua Đế Minh có 2 người con: Con lớn là Đế Nghi
được cho làm vua ở phương Bắc, còn Lộc Tục được cho làm vua ở phương Nam, lấy
hiệu là Kinh Dương Vương. Vua Kinh Dương Vương lấy nàng Long Nữ, con gái của
Động Đình Quân, sanh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm lên nối ngôi Kinh Dương Vương, lấy
hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ, con của vua Đế Lai, sanh
ra một cái bọc 100 trứng, nở ra 100 người con trai. Lạc Long Quân bảo Bà Âu Cơ
rằng: "Ta là dòng dõi Long Quân (vua Rồng), nàng là dòng dõi Thần Tiên, ăn
ở với nhau lâu không đặng, nay được 100 đứa con, nàng đem lên núi 50 đứa, còn
50 đứa ta đem xuống miền Nam Hải." Lạc Long Quân phong con trưởng làm vua
nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương, lập ra họ Hồng bàng, truyền được 18
đời, đều xưng là Hùng Vương, tính cả thảy được 2622 năm. (Theo Việt Nam Sử Lược
của Trần Trọng Kim)
Dân tộc Việt Nam là con cháu của Lạc Long Quân (Vua
Rồng) và Bà Âu Cơ (Tiên Nữ), nên thường tự hào là "con Rồng cháu
Tiên."
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 01 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
05 . Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu
chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh
thần cao thấp nhờ thi,
Dục
tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.
Chú
thích:
Rẻ rúng: Coi thường, coi không có giá trị gì hết.
Thuyền quyên: Xinh đẹp dịu dàng, chỉ con gái hay đàn bà đẹp. Thiếu học: Không
được học hành. Chí thân: Rất gần gũi thân thiết. Chí là rất, thân là gần gũi thương
yêu. Tơ tóc: Xe tơ kết tóc, ý nói kết thành vợ chồng. Cũng khi: Cũng khinh rẻ,
cũng coi thường. Tinh thần: Phần vô hình sáng suốt tốt đẹp nhất trong con
người. Chính cái tinh thần nầy làm chủ thể xác và điều khiển các hoạt động của
thể xác. Thi: Thơ, ý nói văn chương thơ phú. Dục tài: Chữ Hán, Dục là nuôi
nấng; tài là khả năng làm được việc. Dục tài là nuôi nấng tài năng cho phát
triển. Nữ sĩ: Người phụ nữ có học thức, có tài viết văn và làm thơ. Sánh bì: So
sánh để có thể cân bằng được. Nam: Đàn ông con trai.
Hai câu 5-6: Theo tục lệ thời xưa, con gái không
được phép đi học nên phải chịu phận dốt nát, khiến cho con trai khinh rẻ. Do
đó, dầu là vợ chồng với nhau rất gần gũi thương yêu mà người chồng cũng không
tránh khỏi khinh khi vợ.
Hai câu 7-8: Nhờ học văn chương thơ phú mà tinh
thần của con người được trổi cao. Cần phải nuôi dưỡng tài năng của các Nữ sĩ để
Nữ phái vương lên đứng ngang hàng cùng Nam phái.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 05 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
09 . Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng
văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm
duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
Chú thích:
Chinh phụ: Vợ của người lính đi đánh
giặc phương xa. Chinh là đánh giặc, phụ là vợ. Trong Câu 9, Chinh phụ là chỉ
tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm" do Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm viết ra hồi Bà
sanh tiền. Giá quí: Giá trị cao quí. Áng văn: Một bài văn, một khúc thi văn.
Nhuệ khí: Cái vẻ mạnh mẽ toát ra ngoài. Cầu vinh: Cầu mong sự vẻ vang. Vinh là
vẻ vang. Duyên: Cái vẻ hài hòa tế nhị đáng yêu tạo cho người con gái một sức
hấp dẫn tự nhiên. Chước quí: Cách sắp đặt khôn khéo rất hay. Giao tình: Tình
cảm bạn bè giao tiếp với nhau. Mỹ ngôn: Lời nói đẹp. Mỹ ngôn không phải là lời
nói văn chương bóng bẩy, mà là lời nói thanh nhã dịu dàng, gây được sự hòa hảo
giữa mọi người trong gia đình. Nương ý: Dựa theo các ý kiến để dung hòa cho được
tốt đẹp giữa mọi người.
Hai câu 9-10: Bà Đoàn Thị Điểm, trong kiếp sanh, đã
diễn nôm, viết nên tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm". Đó là một áng văn
chương có giá trị cao quí để lấy đó làm thế mạnh cầu mong đạt đến sự vinh hiển.
Hai
câu thơ nầy, một lần nữa xác nhận chính Bà là người diễn nôm tác phẩm Chinh Phụ
Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, bởi vì học giả Hoàng Xuân Hãn đưa ra thuyết nói
rằng: "Bản diễn nôm nầy là của Ông Phan Huy Ích, nhưng còn có chỗ hồ
nghi."
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 09 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
13 . Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
Chú
thích:
Kinh sử: Kinh là sách do các bậc Thánh Hiền viết
ra, thí dụ như Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu,...; sử là sách chép lại các
việc xảy ra trong nước theo thời gian. Nấu Kinh sử: Do thành ngữ "Nấu sử
xôi kinh", ý nghĩa là học tập kinh sử một cách nhuần nhuyễn để đi thi. Bút
nghiên: Cây viết và bình mực. Bút nghiên là chỉ việc văn chương. Thắm: Có màu
sắc đậm và tươi. Má đào: Gò má ửng hồng như màu hoa đào, chỉ con gái đẹp. Thắm
má đào: là làm cho con gái thêm xinh đẹp. Quần xoa: Cái quần và cái trâm cài
tóc, chỉ giới phụ nữ. Xoa tức là Thoa: Cái trâm cài tóc. Đỡ: Chống đỡ. Ngọn
binh đao: Cái mũi nhọn của khí giới và của cây đao. Đỡ ngọn binh đao là ý nói
chống ngăn quân giặc. Thục nữ: Người con gái hiền lành, nết na. Thục là đức
tánh hiền lành. Kinh Thi: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cừu. (Người con gái nết
na xinh đẹp, xứng đôi cùng người quân tử.) Giặm: Kết thêm vô chổ thiếu sót.
Giặm màu nước non: Ý nói thêm cái công chống giặc bảo vệ tổ quốc.
Hai câu 13-14: Người con gái sẵn có sắc đẹp, lại
được trang bị thêm kiến thức văn chương thì vẻ đẹp càng cao quí hơn nữa.
Hai câu 15-16: Phụ nữ cũng phải biết chống giặc để
bảo vệ tổ quốc. Phải xây dựng người phụ nữ hiền lành xinh đẹp có thêm cái công
bảo vệ tổ quốc. "Xây hình thục nữ giặm màu nước non" gợi lên một bức
tranh sơn thủy, nếu chỉ có non và nước thì bức tranh có vẻ thiếu sót, nếu giặm
thêm vào đó bóng dáng người thục nữ thì bức tranh mới toàn bích.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 13 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
17 . Cửa
Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn
quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật
chơi ở chốn khuê phòng,
Đã
cam phận vợ để chồng cầm duyên.
Chú
thích:
Thánh miếu: Miếu thờ Đức Thánh Khổng Tử và các vị
Thánh Hiền của Nho giáo. Cửa Thánh miếu: Chỉ giới Nho sĩ thời xưa, tức là giới
trí thức khoa bảng. Hỡi: Từ ngữ biểu thị ý muốn kêu lên để than thở. Quyền môn:
Cửa quyền, nơi làm việc của quan lại. Chốn quyền môn: Ý nói giới quan lại cầm
quyền cai trị dân chúng. Vật chơi: Món đồ chơi. Khuê phòng: Nơi đàn bà con gái
ở. Khuê là cái cửa buồng nhà trong. Cam: Đành chịu vậy. Duyên: Mối dây ràng
buộc thành vợ chồng.
Hai câu 17-18: Trong giới trí thức khoa bảng, cũng
như trong giới quan lại (thời xưa) vẫn không có phụ nữ góp mặt vào. (Đây là một
thiệt thòi rất lớn cho phụ nữ).
Hai câu 19-20: Thời xưa quan niệm trọng Nam khinh
Nữ, cho rằng "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một đứa con trai
gọi là có, 10 đứa con gái gọi là không), vì con trai mới được nối dõi tông
đường, thờ cúng tổ tiên; lại cho phép đàn ông cưới nhiều vợ, chồng chúa vợ tôi.
Do đó: Người phụ nữ chỉ được xem là món đồ chơi nơi khuê phòng, cam đành chấp
nhận số phận làm vợ tùy thuộc hoàn toàn vào chồng, và người chồng cầm quyền
định đoạt tất cả các công việc trong gia đình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 17 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
21 . Phần nội
trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo
phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?
Chú thích:
Nội trợ: Lo liệu sắp
đặt các việc sinh hoạt hằng ngày trong gia đình để giúp đỡ người chồng. Nội là
bên trong. Trợ là giúp đỡ. Trăm phiền: Trăm thứ phiền phức, bực bội. Đeo đẳng:
Theo đuổi mãi, không dứt bỏ được. Đạo: Nguyên tắc, đường lối phải theo trong
cuộc sống chung đụng trong xã hội. Phụ: Vợ. Cơ: Người đàn bà đẹp, vợ
nhỏ. Đạo phụ cơ: Đường lối mà người vợ trong gia đình phải theo để cư xử
cho đúng phép. Duyên may: Số phận may mắn dành cho mình. Nghĩ tình: Nghĩ đến
tình thương yêu mà dành cho sự tốt đẹp. Đành: Cam chịu. Phận: Bổn phận.
Câu 22: Cái bổn phận làm một người vợ trong gia đình
đã là nặng nhọc lắm rồi.
Câu 23-24: Có được cái số phận may mắn là chồng
nặng tình thương yêu, nhưng còn có cha mẹ chồng thì làm con dâu đâu có đành
lòng mà không lo tròn bổn phận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét