1261 . Hiệp
Tạo hóa cầm quyền chuyển thế,
Dạy
vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui.
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.
Chú
thích:
Tạo hóa: Đấng Tạo hóa là Đấng tạo ra Càn khôn Vũ
trụ và hóa sanh vạn vật. Đó là Đức Chí Tôn, Thượng Đế. Chuyển thế: Làm cho đời
thay đổi, từ xấu thành tốt, từ đời hung tàn bạo ngược trở nên thuần lương đạo
đức. Vạn linh: Toàn thể các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ, gồm đủ Bát hồn.
Vạn linh đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh. Nên nghĩa thông thường của Vạn
linh là Chúng sanh. Diệu huyền cơ tạo: Bộ máy của Đấng Tạo hóa huyền diệu.
Câu 1261: Khi đắc đạo rồi thì trở về cõi Thiêng
liêng, hiệp cùng Đức Chí Tôn lo cơ chuyển thế.
Câu 1263: Sống gởi thác về. Đây là một triết lý
nhân sinh hoàn toàn đúng đắn. Cõi thật sự của con người là cõi Thiêng liêng
Hằng sống. Con người đầu kiếp xuống cõi trần là để học hỏi và tiến hóa. Khi hết
hạn thì trở về cõi Thiêng liêng. Cho nên cõi Trần là nơi tạm mượn, cõi thiệt là
ở thiêng liêng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1261 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1265 . Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn.
Ham phương cứu thế độ nhân,
Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.
Chú
thích:
Chừ: Bây giờ. Nguồn cơn: Đầu đuôi ngọn ngành của sự
việc. Tấc thây phàm: Thể xác phàm. Dùng chữ Tấc là để tỏ sự khiêm tốn. Số căn:
Số phận của con người. Cứu thế độ nhân: Cứu đời giúp người. Giải mê: Cởi bỏ sự
mê muội để được sáng suốt, thông hiểu sự lý, tức là giác ngộ. Khách tục: Khách
trần, chỉ con người đang sống trên cõi trần. (Xem Chú thích câu 972).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1265 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1269 . Lấy
bác ái làm hòa vạn vật,
Đem
thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn
căn đóng chặt Âm cung,
Tòa
sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
Chú
thích:
Làm hòa: Làm cho thuận hòa với nhau. Thiện duyên:
Duyên lành, ý nói cái duyên tu hành. Xây nấc thang hồng: Xây cái thang to lớn
bắc lên Trời cao. Đây là nói ví dụ, sự tu hành ví như là cái thang bắc lên Trời
để người tu đắc đạo đi lên Trời. Hồng là to lớn. Đoạn căn: Đoạn là cắt đứt. Căn
là gốc rễ tức là chỉ những việc làm thiếu đạo đức trong kiếp trước tạo thành
những mối dây oan nghiệt buộc chặt Chơn thần, không cho Chơn thần bứt ra rời
khỏi thể xác khi thể xác chết để đi lên cõi thiêng liêng. Đức Chí Tôn mở Đạo
Cao Đài là đại khai ân xá cho các đẳng linh hồn, nên ban cho Phép Đoạn Căn để
Chức sắc hành pháp cắt đứt bảy dây oan nghiệt, Chơn thần mới được xuất ra đi
lên cõi thiêng liêng. Âm Cung: Các cung điện nơi cõi Âm phủ, chỉ cõi Địa ngục.
Đóng chặt Âm Cung: Đóng chặt cõi Địa ngục. Tòa sen chín phẩm: Cửu phẩm Liên
hoa, là chín phẩm bực nơi cõi Cực Lạc Thế giới. Những chơn linh đắc đạo lên cõi
nầy sẽ tùy công đức nhiều ít mà ở trong chín phẩm liên hoa nầy. Phật tâm: Tâm
từ bi giác ngộ hoàn toàn của Phật.
Câu 1269: Nhờ bác ái mà vạn vật sống hòa bình với
nhau, nếu không bác ái thì vạn vật tranh đấu giết hại nhau.
Câu 1271: Cắt đứt các dây oan nghiệt để chơn thần
thoát ra khỏi thể xác và đóng chặt cửa Địa ngục, ân xá không cho hành hình các
chơn hồn tội lỗi để đưa họ đi học đạo.
Cũng trong thời kỳ ân xá của Đức Chí Tôn, Đức Chí
Tôn cho đóng cửa Địa Ngục, không cho giam giữ và hành phạt các linh hồn tội
lỗi, mà đưa họ qua cõi Âm Quang để học đạo và tự xét mình. Khi họ biết hối ngộ
thì sẽ được cho đi đầu thai lên cõi Trần để trả quả và tu hành, mong có ngày
diệt trừ hết quả kiếp, trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Đồng thời, Đức Chí Tôn cho mở rộng cõi Trời để tiếp
rước những linh hồn đầy đủ đạo đức trở về.
Kinh Giải Oan:
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc dẫn miền Tây phương.
Câu 1272: Cửu phẩm Liên hoa là ngôi vị dành cho
những linh hồn có tâm lành như Phật.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1269 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1273. Trăm
tuổi sống chẳng lầm tuổi sống,
Một
kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.
Thay
thân Tạo hóa là mình,
Nâng
niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.
Chú
thích:
Câu 1273: Một kiếp sống của con người lâu lắm là
một trăm năm, chẳng còn gì để lầm lẫn nữa.
Câu 1274: Trong một kiếp sanh, con người chưa biết
quí trọng kiếp sanh của mình. Con người thường phung phí thời giờ vào các cuộc
tranh giành danh lợi hay các cuộc vui chơi, chỉ biết lo cho phần thể xác giả
tạm, mà quên hẳn phần linh hồn. Đó là chưa biết trọng kiếp sanh của mình. Trái
lại, nếu biết trọng kiếp sanh, phải lo trau tâm luyện tánh cho trở nên tốt đẹp,
và lo phụng sự nhơn sanh thì linh hồn mới mau tiến hóa, mới đạt được phẩm vị
cao trọng nơi cõi Thiêng liêng.
Câu 1275-1276: Thượng Đế tạo ra con người theo hình
ảnh của Ngài, nên Thượng Đế có gì thì người có nấy. Thượng Đế là Đại Thiên Địa
thì người là Tiểu Thiên Địa. Cho nên con người nơi cõi Trần là thay thân cho
Đấng Thượng Đế, làm anh cả của chúng sanh, dìu dắt chúng sanh, xem chúng sanh
là đàn em nhỏ thì mới đúng theo lòng Nhân của Thượng Đế .
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1273 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1277 . Ngồi
mà lóng tiếng đờn vô cực,
Phước
siêu thăng đặng thất nơi ta.
Biết
coi thế giới như nhà,
Sống
nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.
Chú
thích:
Lóng: Lắng tai nghe. Vô cực: Vô là không, cực là
chỗ đầu cùng. Vô cực là không có đầu cùng, chỉ một nơi xa không cùng tận. Tiếng
đờn vô cực: Tiếng đàn từ cõi xa xăm, ý nói tiếng gọi của Đại Hồn vũ trụ. Tiếng
gọi đó cũng chính là tiếng gọi từ chỗ sâu thẩm của tâm hồn con người. Phước:
Điều phước đức. Siêu thăng: Bay vượt lên cõi thiêng liêng. Đặng thất: Được hay
mất, siêu thăng hay đọa lạc. Nơi ta: Do nơi mình, không do nơi người khác. Chí
Thánh: Bực Thánh lớn. Chí là rất. Thác: Chết. Thần Tiên: Chỉ chung các Đấng
Thiêng Liêng gồm: Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Câu 1277: Ngồi yên lặng mà lắng nghe tiếng gọi
thiêng liêng của Đại Hồn (Thượng Đế), kêu gọi các Tiểu Hồn (con người) sớm giác
ngộ, quay trở về con đường tu thì mới mong hiệp nhứt với Đại hồn.
Câu 1278: Có phước đức thì được siêu thăng, siêu
hay đọa là do nơi mình có tu hay không tu.
Câu 1279: Coi thế giới nầy như nhà của mình, tức là
coi nhân loại là anh em một nhà, dù khác tiếng nói hay màu da sắc tóc, vì toàn
cả nhơn loại đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Nếu làm được như vậy thì tạo thành nơi mặt thế nầy
một thế giới đại đồng, một Thiên đường tại thế, gọi là đời Thượng nguơn Thánh
đức.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1277 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1281 . Thiếp
nhờ Đạo giải phiền diệt khổ,
Biết
may duyên lựa chỗ gởi tâm.
Tìm
đâu đặng kẻ tri âm,
Ôm
thương đem gởi cảnh Thần cửa Không.
Chú
thích:
Giải phiền: Cởi bỏ sự phiền não. May duyên: Cái
duyên may mắn gặp Đạo và theo Đạo. Gởi tâm: Gởi trọn tâm hồn vào cửa Đạo. Kẻ
tri âm: Người bạn hiểu được tiếng đàn của mình, ý nói người bạn hiểu rõ lòng
mình. Cảnh Thần cửa Không: Ý nói cảnh chùa cửa Phật.
Câu 1281: Nhờ theo đạo, lo tu hành nên cởi bỏ được
sự phiền não và diệt trừ hết sự đau khổ.
Câu 1284: Ôm cái tấm tình thương yêu vợ chồng đem
gởi vào cửa Phật. Ý nói dứt bỏ tình thương yêu thấp kém ích kỷ, để nuôi lấy lòng
bác ái vị tha.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1281 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1285 . Càng
ngó trái lại miền thế tục.
Lụy
nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.
Ái ân, ân ái là sao?
Đày thân lắm khách má đào gian
truân.
Chú thích:
Ngó trái lại: Ngoảnh nhìn lại phía sau. Thế tục: Cõi đời thấp kém. Lụy nhỏ
dầm: Ý nói đau khổ khóc lóc. Đòi khúc lòng đau: Lòng đau đớn như ruột bị cắt
nhiều khúc (đoạn trường). Đòi là nhiều. Ái ân: Sự giao hợp hạnh phúc giữa vợ
chồng. Đày thân: Đày đọa tấm thân. Má đào: Gò má đỏ hồng như trái đào, chỉ người phụ nữ. Gian
truân: Khó khăn vất vả.
Hai câu 1285-1286: Ngoảnh nhìn lại thấy cảnh đời
khiến cho lòng đau khổ đoạn trường, nước mắt tuôn rơi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1285 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1289 . Chịu mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng
toan lo gìn giữ khối tình.
Trăm
năm dầu sống mảnh hình,
Thì
trong tâm lý đã đành tiêu tan.
Chú
thích:
Khối tình: Khối tình thương yêu sâu đậm giữa nam và
nữ, hay giữa vợ chồng. Mảnh thân, Mảnh hình: Tấm thân của người phụ nữ. Tâm lý:
Cái lẽ biến hóa và tác dụng của lòng dạ con người. Nói cụ thể hơn, tâm lý là
tất cả tình cảm, tư tưởng và ý thích trong lòng. Tiêu tan: Tiêu mất hết.
Bốn câu 1289-1292: Tấm thân nhi nữ phải chịu mòn
mỏi là vì lo toan gìn giữ khối tình. Dầu cho tấm thân nầy có sống được trăm năm
nhưng trong lòng cũng đành phải để cho cái khối tình nầy tiêu tan, bởi vì người
phụ nữ ấy bây giờ đã từ bỏ việc đời, đem thân vào con đường đạo đức.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1289 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1293 . Nào
những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào
những mơ ý hiệp tâm đầu.
Duyên là đâu, nợ là đâu?
Chẳng qua biển khổ bắc cầu sông
mê.
Chú thích:
Mộng: Mơ tưởng. Ý hiệp tâm đầu: Tâm và ý đều hoàn toàn hòa hiệp với nhau. Đầu là
hợp nhau. Biển khổ, Biển mê, Mê tân, Sông mê, Bến mê, Bến khổ: Những từ ngữ nầy
đều đồng nghĩa, chỉ cõi trần.
Câu 1296: Chẳng qua chỉ là việc đi qua khỏi biển
khổ thì đến sông mê, qua được sông mê thì lại đến bể khổ. Ý nói con người phải
chịu đau khổ triền miên nơi cõi trần. Cho nên cõi trần là cõi đọa. Muốn hết khổ
thì phải giác ngộ có được trí huệ. Muốn có trí huệ thì phải Tu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1293 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1297 . Khối
thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt
đau thương quá chén hiệp phu.
Hễ là trí, ấy là ngu,
Càng say âu yếm càng sầu nhớ thương.
Chú
thích:
Bể hẹn: Ý nói Biển hẹn non thề, chỉ sự thề nguyền
đính ước cùng nhau giữa đôi nam nữ yêu nhau tha thiết. Chén hiệp phu: Chén rượu
hiệp cẩn mà người vợ mới cưới uống với chồng. Đây là chén rượu vui mừng hạnh
phúc.
Câu 1298: Giọt nước mắt đau thương của người vợ nếu
lấy cái chén đã đựng rượu hợp cẩn mà đong thì quá đầy dẫy tràn trề. Ý nói:
Trong suốt cuộc sống vợ chồng, người phụ nữ hạnh phúc thì ít mà đau buồn thì
nhiều.
Câu 1299: Sự khôn ngoan đua chen danh lợi trong
trường đời được các nhà đạo đức xem là sự ngu xuẩn trong đường đạo. (Trí là sự
khôn ngoan, Ngu là sự khờ dại).
Câu 1300: Càng thương yêu nhiều chừng nào thì càng
sầu khổ nhớ thương nhiều chừng nấy.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1297 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1301 . Khách
má phấn môi son đậm sắc,
Đặng
đem mồi trêu mặt ác phong.
Đâu
chữ tiết gọi là đồng,
Lời
than tiếng thiết để lòng trăm
năm.
Chú thích:
Ác phong: Do thành ngữ
chữ Hán: "Ác nguyệt đảm phong." Nghĩa là: Cầm trăng gánh gió. Ác
phong là chỉ những người háo sắc, dâm đảng, thích việc gió trăng. Ác là cầm
giữ, đảm là gánh lấy, nguyệt phong là trăng gió. Tiếng thiết: Tiếng kêu đau
đớn. Thiết là cắt.
Hai câu 1303-1304: Đâu là chữ tiết hạnh, đâu là chữ
đồng tâm? Lời kêu than đau đớn giữ mãi trong lòng suốt đời.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1301 / Trở lại Nữ Trung
Tùng Phận mục lục.
1305 . Chẳng
qua khách ăn nằm quán tục,
Vắn
một ngày, lâu chút trọn đời.
Hỏi
ai thỏa chí ai ơi?
Tra
phòng hiệp cẩn, bao hồi khóc riêng.
Chú
thích:
Quán tục: Cõi Trần là quán trọ của khách trần. Người
khách trần tạm ở nơi quán trọ một thời gian rồi cũng trở về quê cũ là cõi
Thiêng liêng Hằng sống. Vắn: Ngắn. Tra: Xem xét, kiểm tra. Phòng hiệp cẩn:
Phòng của vợ chồng mới cưới, chỉ người vợ. Khóc riêng: Khóc một mình.
Hai câu 1305-1306: Con người chẳng qua chỉ là những
khách trần, ăn ở tạm thời nơi cõi trần một thời gian, nếu ngắn thì một ngày,
nếu lâu thì nhiều lắm là trăm năm.
Câu 1308: Kiểm điểm trong cuộc sống vợ chồng, người
phụ nữ âm thầm chịu đựng biết bao đau đớn khổ sở.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1305 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1309 . Một
câu mến gieo phiền muôn tiếng,
Đôi
lời phân ngàn miệng xa xôi.
Hỏi
ai trộm đứng lén ngồi,
Những
cay những đắng cái mùi ra sao?
Chú
thích:
Mến: Thương yêu. Phiền: Phiền não. Phân: Phân trần.
Câu 1309: Một tiếng nói thương yêu gây ra cả muôn
tiếng phiền não. Ý nói vì tình yêu, người phụ nữ phải chịu biết bao phiền não.
Câu 1310: Một vài lời nói phân trần, cả ngàn miệng
nói ra nói vào, nói xa nói gần. (không người thông cảm)
Hai câu 1311-1312: Người con gái về nhà chồng, lạ
người lạ cảnh, chỉ có chồng là thân yêu, nên sống rất ké né, mất tự nhiên, cái
gì cũng ngại cũng sợ (trộm đứng lén ngồi), lại còn chịu nhiều nỗi đắng cay khổ
sở.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1309 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1313 . Tính
để viết khuyên rào tiết ngọc,
Thì
sợ e ghẹo chọc si tình.
Còn
không để trọn lời lành,
Lại
e cho gái nhẹ mình nữ trung.
Chú
thích:
Rào: Giữ gìn, bảo vệ. Tiết ngọc: Cái tiết hạnh quí
báu của con gái. Ngọc: Chỉ sự đẹp đẽ quí báu. Si tình: Tình yêu đắm đuối mê mẩn
như ngây dại. Nhẹ mình: Xem nhẹ giá trị của mình, không biết quí trọng giá trị
của mình. Nữ trung: Trong giới phụ nữ.
Hai câu 1313-1314: Tính đặt bút viết một bài khuyên
bảo người con gái nên gìn giữ tiết hạnh quí báu của mình. Nhưng e sợ làm như
vậy thì cũng như chọc ghẹo kẻ si tình.
Hai câu 1315-1316: Còn không viết ra để lưu lại lời
lành thì e sợ đám con gái không biết quí trọng giá trị của mình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1313 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1317 . Toan
để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì
lại e nghịch nợ tiền khiên.
Còn
không lưu lại lời hiền,
Mưu
chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.
Chú
thích:
Nợ tiền khiên: Nợ nần với nhau từ kiếp trước. Gỡ:
Tháo ra cho hết rối. Thảm phiền: Buồn rầu phiền não. Đạo thê: Bổn phận làm vợ
trong gia đình.
Hai câu 1317-1318: Tính viết ra một bài để khuyên
con gái đừng nên có chồng, thì lại sợ rằng điều ấy đi ngược lại sự vay trả nợ
nần từ kiếp trước.
Hai câu 1319-1320: Còn nếu không viết ra để lưu lại
lời hiền thì người phụ nữ không có cách chi để thoát khỏi những nỗi sầu thảm
phiền não trong bổn phận làm vợ trong gia đình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1317 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1321 . Thấy
trẻ gái dầm dề lụy đổ,
E
cho sau chịu số như già.
Muốn
khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại
e để hại nước nhà khuyết dân.
Chú
thích:
Chịu số như già: Gánh chịu cái số phận như kẻ già
nầy đây. Già là tiếng tự xưng của tác giả. Đầu Phật: Theo Phật. Đầu là theo.
Xuất gia: Đi ra khỏi nhà, tức là từ bỏ gia đình để đi tu. Khuyết dân: Thiếu
dân, không đủ số dân để xây dựng và bảo vệ quốc gia.
Bốn câu 1321-1324: Thấy đám con gái khóc lóc đau
khổ, e rằng chúng nó phải chịu số phận giống như già nầy đây, nên muốn khuyên
chúng xuất gia đầu Phật, nhưng rồi lại sợ con gái không có chồng để sinh sản
con cái, làm cho dân số của quốc gia giảm đi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1321 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1325 . Thấy
nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,
Muốn
binh lời làm mạnh đỡ nâng.
Lại
e lỗi đạo nhơn luân,
Dở
dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.
Chú
thích:
Kiếp căn: Số kiếp, số phận. (Xem Chú thích câu
1108). Đạo nhơn luân: Phép tắc cư xử giữa con người với nhau trong xã hội, gồm
năm bực: Vua tôi, Cha con, Chồng vợ, Anh em, Bè bạn. Gia pháp: Phép tắc riêng
của gia đình. Vương thần: Vua tôi. Loạn ngôi: Đảo lộn ngôi thứ, trật tự.
Bốn câu 1325-1328: Nhận thấy nữ phái có số phận
mỏng manh, nên muốn để lời binh vực mạnh mẽ, nâng đỡ cho nữ phái được bình
quyền cùng nam phái, nhưng sợ e trái với đạo nhơn luân lúc bấy giờ, làm cho gia
pháp không thi hành được và làm đảo lộn phép tắc nơi triều đình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1325 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1329 . Gẫm
thân gái trọn đời cực nhọc,
Tính
buông câu gọi chút nghỉ ngơi.
Lại
e sái thế lỡ thời,
Giúp
nam nhân chẳng có người trọn tâm.
Chú
thích:
Buông câu: Viết ra một câu. Sái thế: Trái với lẽ
thường của cuộc đời. Lỡ thời: Không hợp thời. Nam nhân: Người đàn ông con trai.
Người trọn tâm: Người hết lòng giúp đỡ.
Bốn câu 1329-1332: Ngẫm nghĩ, người phụ nữ trọn đời cực nhọc, nên muốn viết
bài kêu gọi phụ nữ hãy dành thời gian để nghỉ ngơi, nhưng lại sợ rằng làm như thế là trái lẽ
thường và không hợp thời, vì không
có người hết lòng giúp đỡ nam nhân.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1329 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
1333 . Nghĩ phận vợ ngàn trăm đau
đớn,
Sanh đẻ còn nuôi dưỡng nhọc nhằn.
Muốn
khuyên giảm bớt ái ân,
Lại
e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.
Chú
thích:
Giục: Xúi giục. Chia phôi: Chia lìa. Tấn Tần: Chỉ
vợ chồng. Điển tích: Nước Tấn và nước Tần là 2 nước lớn thời Xuân Thu bên Tàu.
Theo Tả Truyện, Huệ Công vua nước Tấn, phụ ước vua Tần, bị Tần đem quân đánh,
bắt được Thái Tử Ngữ đem về Tần làm con tin. Sau vua Tần Mục Công gả Công chúa
Hoài Danh cho Thái Tử Ngữ và hai nước Tấn Tần hòa nhau. Từ đó về sau, luôn năm
đời liền, con cháu hai nước cưới gả cho nhau, đối xử nhau rất tốt đẹp.
Hai câu 1335-1336: Muốn khuyên bảo người vợ giảm
bớt việc ái ân với chồng để giảm bớt việc sanh đẻ, nhưng lại sợ làm như thế là
xúi giục vợ chồng chia lìa nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1333 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1337 . Nên
ngậm thảm đặng ngồi nuốt thảm,
Toan
buông lời, chẳng dám hở môi.
Lén
xem sự thế ngậm ngùi,
Nguyền
trông chỉ đợi phép Trời dạy khuyên.
Chú
thích:
Lén: Không dám ra mặt. Sự thế: Việc đời. Ngậm ngùi:
Buồn rầu thương xót trong lòng. Nguyền: Tự cam kết sẽ làm đúng theo ước vọng
của mình. Trông: Mong mỏi. Phép Trời: Luật Trời, Thiên điều.
Hai câu 1337-1338: Nên phải chịu nhiều nỗi sầu thảm
trong lòng mà không thể tỏ bày ra được, tính nói ra mà lại sợ nên cũng chẳng
dám hở môi. (Bởi vì những điều nói ra cũng không thể đem thi hành được trong
hoàn cảnh xã hội bấy giờ).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1337 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1341 . Tay
lịch sự tự nhiên chê sự,
Lòng
đa tình vẫn cứ vị tình.
Biết
tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm phương
hay gởi lấy mình cửa tu.
Chú
thích:
Tay lịch sự: Người từng trải việc đời. Chê sự: Chê
việc đời. Đa tình: Có nhiều tình cảm thương yêu, dễ xúc động. Tùng quyền, chấp
kinh: Do câu: "Xử thường chấp kinh, ngộ biến tùng quyền." Nghĩa là:
Việc bình thường thì đối xử theo đạo thường, khi gặp biến thì tùy theo tình thế
mà đối phó, không nên khư khư cố chấp mà chịu thất bại.
Hai câu 1341-1342: Người từng trải việc đời thì tự
nhiên chê đời (nếu chưa từng trải thì chưa dám chê đời), người đa tình thì vẫn
cứ vì tình yêu mà làm.
Hai câu 1343-1344: Biết lúc nào phải giữ đạo
thường, biết lúc nào phải quyền biến, để tìm phương hay trong hoàn cảnh thích
hợp mà lánh mình vào cửa Phật.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1341 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1345 . Những
thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm
công phu, tối tụng vãng sanh.
Đã
quen cảnh Phạm lánh mình,
Nên
phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.
Chú
thích:
Thảng mảng: Thỏn mỏn, thời gian dần dần trôi qua.
Tháng thâu: Suốt tháng. Năm lụn: Năm tàn. Công phu: Công việc tụng kinh hay
ngồi thiền. Vãng sanh: Sanh qua cõi khác tốt đẹp hơn. Tụng Vãng sanh: Là tụng
Vãng Sanh Chơn ngôn (Vãng Sanh Thần chú), để cầu cho chúng sanh khi chết được
thoát sanh về cõi Cực Lạc. Cảnh Phạm: Cảnh Phật, cảnh chùa. Nên phương: Cách thức
làm có kết quả. Đoạn tình ái yêu: Cắt đứt ái tình nam nữ, hay cắt đứt tình
thương yêu vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1345 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1349 . Nghe
một sự, hiểu điều khác nghĩ,
Trong
thất tình tiêu hủy không không.
Hết ham danh, chẳng mến công,
Xem hình lẩn lộ, bùi nồng thế gian.
Chú thích:
Thất tình: Bảy tình cảm
gồm: Hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục (Mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui,
muốn). Lẩn lộ: Lẩn là giấu kín, lộ là hiện rõ ra. Đây là hai trạng thái đối
nghịch nhau của một sự việc. Nồng: Cay.
Câu 1349: Nghe một việc, suy nghĩ thì hiểu thêm ra
được nhiều việc khác.
Câu 1350: Tiêu hủy hết Thất tình, để cho lòng không
còn mừng vui hay hờn giận ganh ghét, không còn buồn rầu hay ước muốn, để giữ
cho lòng trống trải không không.
Câu 1352: Ngồi xem cảnh đời biến đổi trong hai
trạng thái đối ngược nhau: Kín hở, bùi nồng, vui buồn, thương ghét.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1349 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1353 . Cây
trăm thước bắc thang bến khổ,
Hoa
bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
Vui
đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non
Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.
Chú
thích:
Cây trăm thước: Cây bồ đề, chỉ sự tu hành. (Xem Chú
thích câu 1223). Về Cây trăm thước, có một Điển tích nữa là: Thiền Sư Cảnh Sầm,
đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng, có làm bài kệ:
Bách
xích can đầu bất động nhơn,
Tuy
nhiên đắc nhập vị vi chơn.
Bách
xích can đầu tu tiến bộ,
Thập
phương thế giới thị toàn thân.
Nghĩa
là:
Trăm thước đầu sào người đứng yên,
Tuy nhiên được nhập chưa là chơn thật.
Đầu sào trăm thước tu hành tiến bộ,
Mười phương thế giới là toàn thân thể.
Theo bài kệ nầy, Cây trăm thước là cây sào trăm
thước, cũng chỉ sự tu hành.
Bến khổ: Ý nói bể khổ, chỉ cõi trần. Bốn mùa: Ý nói
suốt năm. Hoa thơm chỗ nhớp nhơ: Chỉ bông sen, vì gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn. Non Vu: Theo bài phú Cao Đường của Tống Ngọc, vua Sở đi chơi núi Vu sơn,
nằm mơ thấy ân ái với Thần nữ núi Vu sơn. Non Vu lắp nẻo: Ý nói tuyệt dứt đường
ân ái. Đàn tơ: Dây đàn. Dở là đờn không hay, mùi là đờn rất hay. Đàn tơ dở mùi:
Khảy đàn chơi, hay dở gì cũng được.
Câu 1353: Sự tu hành như là cái thang để người tu
trèo lên thoát qua biển khổ.
Câu 1354: Tả cái hoa đèn trên bàn thờ Phật, chân
đèn có hình hoa sen, giữa hoa sen cắm cây đèn sáp. Mỗi khi cúng Phật hay tụng
kinh đều đốt đèn lên, suốt năm đều như vậy. Ngày nay, thay vì cắm đèn sáp,
người ta gắn vào chỗ đó một bóng đèn điện thì tiện lợi hơn và không có khói.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1353 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1357 . Đếm
thử tuổi tám mươi đã quá,
Giấc
Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm
thần mỏi mệt ủ ê,
Khối
sanh khi đã gần kề dứt hơi.
Chú
thích:
Giấc Nam Kha: Giấc mộng ở đất Nam Kha, chỉ cuộc đời
là phù du mộng ảo, công danh phú quí như giấc chiêm bao. Giấc Nam Kha đồng
nghĩa với Giấc Huỳnh lương. Điển tích: Ông Lý Tá đời Đường làm sách Nam Kha, có
thuật lại một chuyện như sau: Thuần Vu Phẩn nằm mộng đi đến nước Hòe An, được
vua nước nầy đem lòng thương gả Công chúa cho, rồi bổ làm quan Thái Thú đất Nam
Kha, công danh thật là hiển hách. Vu Phẩn được vua sai đi đánh giặc, chẳng may
bại trận, trong lúc đó, Công chúa ở nhà bị đau bịnh đột ngột từ trần. Vua nghi
ngờ rồi cách chức đuổi đi. Thuần Vu Phẩn quá buồn bã và uất ức, liền giựt mình
thức dậy, thì thấy mình đang nằm ngủ dưới gốc cây Hòe, nơi cành cây phía Nam,
trên đó có một con kiến chúa trong tổ kiến lớn. Thuần Vu Phẩn nhớ lại giấc mộng
và chợt hiểu rằng: Cây Hòe là nước Hòe An, cành cây phía Nam là đất Nam Kha,
vua nước Hòe An là con kiến chúa. Ông lấy làm chán nãn sự đời, thấy cuộc đời
chẳng khác chi giấc mộng, nên liền đi lên núi, tìm Đạo tu Tiên. Giục giã: Thúc
giục liên tiếp. Tỉnh mê: Tỉnh cơn mê. Tâm thần: Tâm trí và tinh thần. Ủ ê: Chán
chường. Khối sanh: Khối vật chất có sự sống, chỉ thân thể con người lúc còn
sống. Gần kề dứt hơi: Gần kề sự chết.
Bốn câu 1357-1360: Đã sống quá 80 tuổi rồi, thấy
công danh phú quí của cuộc đời như giấc mộng, hãy mau thức tỉnh cơn mê, tâm
thần mỏi mệt ủ ê, gần tới ngày chết rồi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1357 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1361 . Khổ
bịnh thấy trêu người đã quá,
Buổi
vãng sanh giục giã kêu hồn.
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa
thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.
Chú
thích:
Vãng sanh: Chết ở thế giới nầy để linh hồn chuyển
sanh qua thế giới khác tốt đẹp hơn. Vãng là đi qua. Tỉnh say: Lúc tỉnh thức,
lúc mơ màng. Dương môn: Cửa dương gian, đây là cõi trần, cõi của người sống.
Kiếp dương môn: Kiếp sống nơi cõi trần. Cảnh hoàng hôn: Cảnh chiều vàng, ý nói
cảnh của người sắp chết, như buổi chiều sắp tắt. Mộng hình: Mơ thấy hình hài
của mình.
Hai câu 1361-1362: Bịnh tật gây đau khổ quá nhiều,
như kêu réo thúc giục linh hồn chuyển sanh qua thế giới khác.
Câu 1364: Lúc mơ màng thì mộng thấy cảnh sắp chết
của hình hài của mình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1361 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1365 . Muốn
gặp mặt thâm tình gởi trối,
Nhưng
lỡ bề vì buổi đoạn từ.
Khôn
nhạn tín, khó hồng thư,
Viết
quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.
Chú
thích:
Thâm tình: Tình cảm sâu đậm. Gởi trối: Gởi lời trăn
trối trước khi chết. Lỡ bề: Lỡ dịp, dịp tốt đã qua. Buổi đoạn từ: Buổi chia tay
từ giã, cắt đứt tình ái. Đó là buổi ly gia cắt ái để vào chùa tu hành. Khôn:
Không. Nhạn tín: Tin tức do chim nhạn mang lại. Hồng thư: Cái thơ cột vào nách
của con chim hồng để nó mang đi. Hồng là loại chim nhạn nhưng lông màu đỏ. (Xem
Chú thích câu 769). Đề: Là viết vào.
Câu 1368: Cầm viết quơ quào ít chữ mà không nổi,
tấm giấy như né tránh không cho viết chữ vào.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1365 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1369 . Muốn
nhắm mắt một bề cho khỏe,
Những
tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
Khi
thì khóc, lúc thì cười,
Bao
nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.
Chú
thích:
Nhắm mắt: Ý nói chết. Một bề: Chịu an phận như vậy
Tình hình: Tình trạng của các việc xảy ra. Mọi vẻ: Nhiều mặt khác nhau. Trêu
ngươi: Ghẹo chọc một cách cố ý, tỏ ra không kiêng nể.
Hai câu 1369-1370: Muốn an phận mà chết cho khỏe,
nhưng tình hình các mặt chung quanh như có ý trêu ghẹo người sắp chết.
Hai câu 1371-1372: Nằm nhớ đến việc nầy việc kia,
khi nhớ việc vui thì cười, khi nhớ việc buồn thì khóc. Bao nhiêu tình nghĩa
trong cuộc đời, thoáng qua như giấc mộng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1369 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1373 . Tám
chục năm lâu xa cách mấy,
Trong giấc mê xem thấy ngắn thay!
Ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với tuyền đài gần
nhau.
Chú
thích:
Giấc mê: Giấc mộng lúc ngủ mê. Ba vạn sáu ngàn
ngày: là thời gian 100 năm. Dương gian: Cõi của người sống. Tuyền đài: Tuyền là
suối, đài là đền đài cung điện. Tuyền đài là chỉ cõi Âm phủ, cõi của người
chết.
Hai câu 1373-1374: Sống được 80 tuổi là lâu dài
trường thọ lắm, nhưng trong giấc mộng lúc ngủ mê thì thấy rất ngắn ngủi. (như
Giấc Huỳnh lương hay Giấc Nam kha).
Hai câu 1375-1376: Một đời người nhiều lắm là một
trăm năm, cõi của người sống và cõi người chết rất gần nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1373 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1377 . Nhớ
con cháu còn lâu kiếp sống,
Dầu
gặp hình như bóng sá chi.
Dở
hồn phách, yếu thây thi,
Dậy
ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.
Chú
thích:
Còn lâu kiếp sống: Đời sống còn lâu dài. Hình: Hình
hài xác thịt. Bóng: Cái ảnh chụp in trên giấy. Sá chi: Có đáng kể chi. Dở:
Không giỏi. Hồn phách: Linh hồn và chơn thần. Thây thi: Thây là thể xác, thi là
thi hài xác thịt. Thây thi là thể xác phàm bằng xương bằng thịt.
Hai câu 1377-1378: Nhớ đến con cháu, thấy cái kiếp
sống của chúng nó còn lâu dài. Con cháu gặp đặng cái hình hài xác thịt nầy hay
thấy cái hình chụp, việc ấy đâu có sá gì.
Hai câu 1379-1380: Chơn thần và linh hồn dở lắm
rồi, thân thể đã yếu đuối lắm rồi, đứng dậy hay ngồi đều không nổi, bước đi
cũng không được.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1377 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1381 . Gắng
cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề
năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt
tình ái, giải sầu ưu,
Hễ
thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Chú
thích:
Gắng cầm viết: Cố gắng cầm cây viết lên để viết.
Nín hơi: Giữ lấy hơi thở. Sống rốt: Rán sống thêm. Đề năm vần: Viết ra bài thơ
gồm có năm vần. Khắc cốt nữ lưu: Khắc vào xương của nữ phái để ghi nhớ hoài.
Hai câu 1383-1384: Khuyên nữ phái hãy dứt bỏ tình
ái, cởi bỏ sự ưu sầu, mà hễ có yêu ai thì cũng phải lo tìm mưu kế để gìn giữ
tấm thân của mình. (Đừng như già nầy đây, vì chữ ái tình mà phải chịu đau đớn
khổ sở suốt đời.)
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1381 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
Thi:
1385 . Giữ mình
dầu vẹn tấm tình chung,
Danh
tiết nữ lưu ở phụ tùng.
Mặt
biển khổ dồi dào ái thủy,
Đầu
non thề hủy hoại hương hồng.
Chú
thích:
Tình chung: Tình yêu chung thủy trước sau như một.
Danh tiết: Danh là tiếng tăm, Tiết là lòng trong sạch ngay thẳng, không nhơ
bợn. Nữ lưu: Nữ phái. Phụ tùng: Phụ là phụ nữ; tùng là theo, ý nói Tam tùng.
Phụ tùng là đạo Tam tùng của người phụ nữ. Tam Tùng gồm: Tại gia tùng phụ, Xuất
giá tùng phu, Phu tử tùng tử. Ái thủy: Nước ái tình, ấy là nước của biển khổ.
Non thề: Cái núi mà hai người lúc mới yêu nhau chỉ nó mà thề nguyền với nhau là
sẽ yêu nhau suốt đời. Hoại hủy: Hủy hoại, làm hư nát. Hương hồng: Cây nhang
cháy đỏ hồng. Đây là cây nhang đốt lên để hai người vái Trời Đất thề nguyền với
nhau.
Câu 1385: Dầu thế nào cũng phải giữ mình cho toàn
vẹn tình yêu chung thủy.
Câu 1386: Danh giá và tiết hạnh của phụ nữ là ở
trong cái đạo Tam tùng.
Câu 1387: Mặt biển khổ có nhiều nước ái tình. Ý
nói: Những đau khổ của con người nơi cõi trần phần lớn là do ái tình. Càng yêu
nhiều càng khổ nhiều.
Câu 1388: Coi chừng người yêu (hay người chồng) hủy
hoại cây nhang thề nơi đầu núi thề. Ý nói coi chừng người yêu (hay người chồng)
quên hết lời thề nguyền thuở trước, sanh tâm có người yêu khác (hay có vợ bé).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1385 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1389 . Mày
xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc
trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
Khí
tượng anh thư gìn lẫn giá,
Giúp
đoàn nhi nữ mở non sông.
Chú
thích:
Mày xanh: Chữ Hán là Thanh mi, chỉ lúc trẻ tuổi.
Đầu bạc: Chỉ lúc tuổi già tóc bạc. Ngọc trắng: Chỉ cái tiết hạnh của người con
gái trong trắng sáng đẹp như ngọc. Bợn bùn: Bùn dơ. Khí tượng: Cái khí phách
phát ra thành hình tượng có thể nhận biết được qua lời nói và việc làm. Người
có khí phách mạnh mẽ khiến cho lời nói, cử chỉ đều tỏ ra vững vàng, cương
quyết, tự tin. Anh thư: Anh là tài giỏi hơn người, thư là đàn bà con gái. Anh
thư là người phụ nữ tài giỏi hơn người. Gìn lẫn giá: Gìn giữ cái khí tượng anh
thư lẫn cái giá trị cao quí của mình, cũng là gìn giữ cả tài năng lẫn đức hạnh.
Nhi nữ: Chỉ chung giới phụ nữ.
Hai câu 1389-1390: Người con gái lúc trẻ tuổi thì
nên nhớ đến lúc tuổi già đầu bạc, khá gìn giữ tiết hạnh cho tốt đẹp đừng để cho
nhơ nhớp.
Hai câu 1391-1392: Người phụ nữ cần phải gìn giữ
cái khí tượng anh thư lẫn cái giá trị cao quí của mình, để giúp cho nữ phái mở
mang non sông đất nước.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1389 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1393 . Rán
quá sức cẩn phong thí nhạn,
Dường say mê lơ lảng tinh
thần.
Sấn
tay thêm một chữ: Thân,
Để dành
gỡ khổ đoạn tràng hồng nhan.
Chú
thích:
Cẩn phong: Cẩn là cẩn thận; phong là niêm lại cho
kín. Cẩn phong là cẩn thận niêm lại cho kín. Thí nhạn: Nhạn là con chim nhạn;
thí, đáng lẽ là chữ "thi" (thi nhạn tức là thơ nhạn), nhưng vì luật
thơ, chỗ nầy phải là chữ vần trắc, nên đổi lại là"thí". Thi nhạn tức
là Thơ nhạn, nghĩa là gởi thơ nhờ con chim nhạn mang đi. Sấn tay: Đưa tay lướt
tới, với một cử chỉ mạnh dạn. Thân: nghĩa là: tự mình.
Câu 1393: Tác giả rán quá sức viết thành bài thơ
nầy, cẩn thận niêm lại, nhờ chim nhạn gởi đi khắp nơi để khuyên dạy nữ phái rán
lo tròn Nhơn đạo gồm Tứ Đức và Tam Tùng.
Câu 1394: Dường như vì say mê công việc mà tinh
thần có vẻ lơ lơ lảng lảng như để ở đâu đâu.
Câu 1395-1396: Tác giả, Đoàn Tiên Nương đưa tay
lướt tới, với ý chí mạnh mẽ, viết thêm một chữ Thân để lưu ý giới phụ nữ phải
nhớ kỹ rằng: Tự mình mới có thể cứu được mình chớ không ai cứu được mình, tự
mình giải khổ cho mình chớ không ai giải khổ giùm mình, tự mình tu hành để giải
thoát chớ không ai tu giùm mình được, tự mình bước lên nấc thang tiến hóa để
lên địa vị cao thượng chớ không ai bồng ẵm mình lên được.
Sở dĩ Đoàn Tiên Nương phải nhấn mạnh như thế là vì
Bà biết rõ người phụ nữ luôn luôn có tánh ỷ lại, chỉ biết nương dựa chớ ít khi
tự chủ, tự lực cánh sinh. Đó cũng là yếu điểm của đạo Tam Tùng, làm cho người
phụ nữ chỉ biết tùng theo và sống phụ thuộc vào người khác.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1393 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1397 . Buông
ngọn viết vào làn mây trắng,
Hễ
có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh
Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề
câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.
1401 . Đời đời danh chói Cao Đài.
Chú
thích:
Buông ngọn viết: Buông tay bỏ cây viết ra, vì đã
viết xong. Vào làn mây trắng: Ý nói linh hồn siêu thăng, bay vào làn mây trắng,
lên các từng Trời để đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Cảnh Thiên: Ý nói cõi
Trời, tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Tấc: Tiếng dùng để tỏ ý khiêm nhượng.
Hương hồn: Hồn thơm, linh hồn của người chết. Đề câu: Viết ra một câu. Tiết
nghĩa: Lòng ngay thẳng trong sạch và sự ăn ở phải đạo. Vĩnh tồn: Tồn tại lâu
dài. Hậu lai: Thời gian từ đây về sau.
Câu 1397: Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ viết xong tác
phẩm Nữ Trung Tùng Phận thì Bà liền được siêu thăng, linh hồn Bà được đi lên
cõi Tiên, đúng như lời Đức Phạm Hộ Pháp nói: "Thuở xưa, Bà Điểm qui liễu
nhưng chưa siêu thoát được vì Bà thiếu công quả. Nay Bà ra được cuốn Nữ Trung
Tùng Phận rồi, tức nhiên Bà lập được công quả trong buổi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nhờ vậy Bà mới siêu thoát và trở về Tiên Cảnh."
Câu 1399: Gởi linh hồn nơi cõi Trời. Ý nói đắc đạo,
linh hồn được lên ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 1400: Viết ra một câu để khuyên nữ phái phải
giữ gìn tiết nghĩa thì mới được vĩnh tồn hậu lai. Đời đời danh chói Cao Đài.
Phụ
Lục:
Chinh Phụ Ngâm
Đoàn thị Điểm
(Chép theo bản của Văn Bình Tôn thất Lương in năm
1950 Sách Giáo Khoa Tân Việt)
1 . Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy.
5 . Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam tuyền mờ mịt
thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét