Nữ Trung Tùng Phận - 8 / 13 (Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút)


605 . Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách,
Đừng trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm.
Đừng đề thi lá thơ chim,
Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

Chú thích:
Sông Tương: (Xem Chú thích câu 598). Nhắn khách: Nhắn gởi người yêu. Cung Thiềm: Cung trăng, vì nơi cung trăng có con thiềm thừ, họng có chữ son, sống rất lâu năm.

Đề thi lá: Viết thơ trên chiếc lá cây. Điển tích: Nàng Hàn Thúy Tần, một cung nữ đời Đường, ở trong thâm cung buồn bực, bèn đề thơ trên chiếc lá đỏ, thả xuống dòng nước từ trong cung chảy ra ngoài. Thơ của Hàn Thị đề rằng:
Nước chảy sao mà vội,
Cung sâu cả buổi nhàn.
Ân cần nhờ lá thắm,
Mau đến chốn nhơn gian.

Vu Hựu là môn khách của Hàn Vinh, nhân đi chơi, bắt được chiếc lá có bài thơ đó, rồi cũng bắt chước cách ấy, lấy một chiếc lá khác đề thơ, rồi chờ cho dòng nước chảy trở vào cung thì thả lá xuống. Bài thơ của Vu Hựu:
Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương,
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường.
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước,
Gởi cho ai đó nói không tường.

Cách ít lâu sau, vua Đường hạ chiếu thải cung nữ hơn 3000 người cho trở về nhà lấy chồng làm ăn, trong đó có Hàn Thị. Nàng đến ngụ nơi nhà của người bà con là Hàn Vinh. Hàn Vinh làm mai gả Hàn Thị cho Vu Hựu. Vu Hựu thấy trong rương của vợ có chiếc lá đề thi của chàng, rồi Vu Hựu cũng lấy chiếc lá đề thơ của Hàn Thị ra khoe. Cả hai vợ chồng đều rất mừng rỡ cho là có duyên tiền định. Hàn Vinh mở tiệc chúc mừng. Hàn Thị làm một bài thơ tạ ơn Lá Thắm làm mai:
Câu thơ tuyệt diệu theo dòng nước,
Ôm hận mười năm ngỏ với ai?
Nay được vui vầy loan phượng sánh,
Khen thay Lá Thắm khéo làm mai!

Thơ chim: Viết thơ rồi buộc vào chân chim cho nó mang đi. Điển tích: Nàng Túy Tiêu là vợ của Dương nhuận Chi, bị quan Trụ Quốc thấy đẹp, sai quân bắt về làm thiếp. Nhuận Chi sợ thế lực của quan Trụ Quốc nên không dám thưa kiện, chỉ biết ôm hận trong lòng. Nàng Túy Tiêu và Nhuận Chi chỉ còn biết viết thơ qua lại và nhờ chim yến mang đi. Phụng đến tìm cung loan: Đôi chim loan phụng được ví với một cặp vợ chồng: Phụng là con chim trống ví người chồng, loan là con chim mái ví người vợ. Phụng đến tìm loan là ý nói để cho con trai tìm đến cầu hôn con gái.
Câu 605: Đừng yêu ai trước, rồi thương nhớ, nhắn gởi.
Câu 606: Đừng mơ mộng lãng mạn như xem trăng rồi hỏi con thiềm thừ ở chỗ nào.
Câu 607: Đừng đề thi lá thơ chim, ý nói con gái đừng có tánh lãng mạn, đề thơ trên lá gởi theo dòng nước, hay viết thơ buộc vào chân chim gởi đi mông lung.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 605 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

609 . Con khá nhớ hồng nhan phận mỏng,
Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân.
Hồng quần tài sắc đa truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.

Chú thích:
Hồng nhan: Má hồng, chỉ con gái. Phận mỏng: Bạc phận. Bóng trăng xuân: Ánh trăng mùa xuân rất đẹp, chỉ sự trong sáng tốt đẹp. Đa truân: Nhiều nỗi truân chuyên.
Câu 610: Đừng làm điều gì nhơ nhớp mà phải hổ thẹn với sự trong sáng của ánh trăng xuân.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 609 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

613 . Hoa phong nhụy cung Tiên cũng mến,
Gấm lót đường trọng tiếng cũng nhơ.
Nhà vàng phận quí khi thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.

Chú thích:
Hoa phong nhụy: Cái hoa còn đóng kín nhụy hoa, chưa có con ong con bướm nào đến hút mật (Phong là gói kín), ý nói: Con gái mới lớn, còn trinh nguyên. Gấm lót đường: Ý nói nhà giàu nhiều của cải. Trọng tiếng: Tiếng tăm nặng nề (Trọng là nặng), ý nói: tiếng tăm không tốt. Nhơ: Dơ, nhơ nhuốc. Nhà vàng: Chữ Hán là Kim ốc: Nhà làm bằng vàng, ý nói quí báu lắm. Điển tích: Hán Võ Đế, lúc còn là Thái Tử, Trưởng Công chúa muốn đem con gái là A Kiều gả cho Thái Tử, nên kêu Thái Tử đến hỏi. Thái Tử rất bằng lòng nên đáp: "Nếu cưới được A Kiều thì con sẽ cất một cái nhà bằng vàng cho A Kiều ở."  Do đó, dùng chữ Nhà vàng để chỉ người con gái quí phái, có phẩm giá cao. Gót sen: Chỉ người con gái đẹp quí phái. Điển tích: Vào thời Nam Bắc Triều, vua Nam Tề là Đông Hôn Hầu có người vợ yêu là nàng Phan Phi. Vua cho lót hoa sen bằng vàng trên nền gạch trong cung của Phan Phi, để khi Phan phi đi, mỗi bước chân như có nở bông sen dưới đất. Dầu lịch: Dầu có lịch sự, đẹp đẽ. Vẻ xuân: Vẻ đẹp trẻ trung.
Câu 613: Con gái còn trinh nguyên, các vị Tiên đều thương mến. (Tức nhiên con gái phải giữ gìn tiết trinh của mình).
Câu 614: Nhà giàu có mà con gái trong nhà có tiếng tăm không tốt thì cũng nhơ danh.
Câu 616: Người con gái quí phái, dầu có sắc đẹp, nhưng cũng phải nhờ đến vẻ tươi đẹp trẻ trung.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 613 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

617 . Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
Vườn thu giấu dạng Hằng Nga,
Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.

Chú thích:
Nhiễm lấm: Nhiễm là nhuốm vào, lấm là dính chất dơ. Thục nữ: Người con gái hiền hậu nết na. Phòng the: Phòng dành riêng cho phụ nữ. Xủ: Buông xuống. Rèm là: Tấm rèm bằng lụa. Là: Lụa, thường nói lụa là. Vườn thu: Chỉ người phụ nữ đã luống tuổi. Giấu dạng: Giấu kín hình bóng của mình. Hằng Nga: Nàng Tiên ở Cung trăng, ở đây ý nói người con gái có sắc đẹp. Hải đường: Tên một loài hoa đẹp, chỉ con gái đẹp. Ái phong: Cái dáng điệu dễ thương. Ái là thương yêu, phong là dáng dấp, phong cách.
Câu 619: Dù người con gái đẹp đã lớn tuổi rồi, nhưng cũng phải giấu kín hình bóng của mình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 617 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

621 . Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

Chú thích:
Bốn câu 621-624: Mẹ dạy con gái về Dung.

Phàm: Hễ là (ý nhấn mạnh). Khuê các: Buồng và gác, chỉ nơi ở của con gái quí phái. Trau tria: Sửa sang tô điểm cho tốt đẹp hơn. Tướng hạc hình mai: Đồng nghĩa: Mình hạc xương mai, ý nói hình dáng mảnh khảnh thanh nhã của con gái đẹp.
Câu 623: Phải giữ gìn con gái thật cẩn thận chắc chắn.
Câu 624: Đi ra bên ngoài thì phải nghiêm nghị, không được cười giỡn, bên trong nhà thì giữ tánh nết đoan trang.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 621 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

625 . Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.

Chú thích:
Bốn câu 625-628: Mẹ dạy con gái về Ngôn.
Ngôn từ: Lời nói. Thanh tươi: Thanh nhã vui tươi. Tiếng tiêu khải phụng: Tiếng tiêu thổi lên rất hay, có mãnh lực khiến cho chim phụng bay đến nhảy múa và hót theo (giống như tiếng tiêu của Tiêu Sử và Lộng Ngọc). Ý nói: Lời nói phải có sức thuyết phục để người nghe vâng theo lời mình. Phục người: Làm cho người ta phục và nghe theo mình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 625 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

629 . Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.

Chú thích:
Bốn câu 629-632: Mẹ dạy con gái về Công.
Nhà lan: chữ Hán là Lan thất, nghĩa là nhà có mùi thơm của hoa lan. Ý nói nhà có đạo đức. Dệt văn Tô Huệ: Tức là Tô Huệ chức cẩm hồi văn: Tô Huệ dệt bài thơ lộn quanh trên gấm. Tô Huệ: có tài về nghề dệt, có chồng là Đậu Thao. Đậu Thao phải đi lính chinh chiến phương xa. Nàng Tô Huệ quá nhớ chồng, đặt ra bài thơ tả nỗi lòng mình, rồi xin vua tha cho chồng trở về sum họp với nàng. Nàng dệt bài thơ lộn quanh trên bức gấm (gọi là Chức cẩm hồi văn), dâng lên vua. Vua đọc bài thơ , lòng cảm động, lại thương tài dệt của nàng, nên tha cho Đậu Thao trở về sum họp cùng nàng. Gỡ đày: Gỡ ra khỏi nạn lưu đày. Chinh phu: Người lính đánh giặc ở phương xa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 629 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

633 . Sửa từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

Chú thích:
Bốn câu 633-636: Mẹ dạy con gái về Hạnh.
Ngày thâu: Suốt ngày. Điều thô: Điều vụng về, không lịch sự. Rách rưới lõa lồ: Nghèo nàn mặc quần áo rách rưới để hở cả da thịt. Đoan nghiêm: Đoan trang nghiêm nghị. Gái lành: Con gái nhà lương thiện đạo đức.

Hai câu 635-636: Dầu cho không đẹp, lại nghèo nàn, nhưng giữ đức hạnh cho đoan trang nghiêm nghị thì cũng được khen là con gái nhà lương thiện đạo đức.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 633 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

637 . Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

Chú thích:
Bốn câu 637-640: Mẹ dạy con gái Tùng phu.
Học lễ học văn: Do câu: Tiên học lễ, hậu học văn. Trước hết là học về lễ nghĩa phép tắc xử thế, sau đó mới học văn chương thơ phú. Tùng phụ: Theo cha. Con gái lúc còn nhỏ, chưa chồng, ở nhà thì tùng cha, nghĩa là phải nghe lời cha mẹ. Cội tử: Cội cây thị. Kinh Thi: Duy tang dữ tử, tất cung kính chi. Nghĩa là: Nơi có cây dâu và cây tử, tất phải cung kính. Bởi vì cây dâu và cây thị nầy do cha mẹ trồng, nay cha mẹ mất rồi, thấy nó thì tưởng nhớ đến cha mẹ. Dựa thân cội tử: Sống dựa vào cha mẹ. Trượng phu: Người đàn ông tài giỏi đáng kính trọng. Trượng phu cũng là tiếng vợ gọi chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 637 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

641 . Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu,
Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương cha nên phải bán mình kêu oan.

Chú thích:
Bốn câu 641-644: Mẹ dạy con gái về chữ Hiếu.
Đạo thờ thân: Bổn phận của con đối với cha mẹ: Phải nghe lời dạy của cha mẹ, phải phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, phải thờ kính cha mẹ lúc cha mẹ mất. Chầm khíu: Vá víu lại cho lành.
Hai câu 641-642: Thánh Hiền xưa dạy về chữ Hiếu, tức là dạy về bổn phận làm con đối với cha mẹ, tạo thành sách gọi là Hiếu Kinh.
Hai câu 643-644: Nhắc sự tích nàng Đề Oanh rất có hiếu với cha.

Đề Oanh: Theo Liệt Nữ truyện, Đề Oanh là con gái út của Thuần Vu Ý đời nhà Hán. Thuần Vu Ý không con trai, chỉ có 5 con gái. Vu Ý phạm tội, bị vua xử chết chém. Vu Ý than rằng: Vì không có con trai, nên trong lúc nguy cấp không biết trông cậy vào đâu được.

Nàng Đề Oanh nghe cha than thở thì theo cha vào kinh đô, rồi dâng sớ lên vua, trong đó có câu: "Kẻ thác rồi không sống lại được, vậy xin Bệ hạ cho tiện nữ vào hậu cung, nguyện làm tôi mọi trọn đời để chuộc tội cho cha."
Vua Hán Văn Đế cảm động trước sự hiếu thảo của nàng Đề Oanh, nên xuống chiếu tha tội chết cho Thuần Vu Ý.

Sự tích nàng Đề Oanh là để tượng trưng con gái có hiếu thảo với cha mẹ. Con gái hay con trai, con nào hiếu thảo với cha mẹ thì giúp được cha mẹ nhiều việc quan trọng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 641 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

645 . Bến nước gái mơ màng trong đục,
Đếm mười hai họa phúc khó lừa.
Xem cha cư xử mà ngừa,
Phòng sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.

Chú thích:
Mười hai bến nước: Tục ngữ có câu: 12 bến nước, trong nhờ đục chịu. Trong Truyện Lục Vân Tiên có câu:
Lênh đênh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình về đâu?

Thời xưa, các cụ ví thân con gái như chiếc thuyền, xã hội như biển mênh mông, các hạng người trong xã hội như 12 bến nước. Thuyền sẽ chọn một bến nước để ghé vào đậu thuyền. Nếu gặp bến nước trong thì hưởng sự tốt đẹp, nếu gặp bến nước đục thì phải chịu lắm khổ cực nhọc nhằn.

Thường người ta cho rằng, 12 bến nước là chỉ 12 hạng người trong xã hội, có thể kể ra: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, Nho, Y, Lý, Bốc (hoặc là Công, Hầu, Khanh, Tướng). Nho là người có học thức Nho văn. Y là thầy thuốc, Lý là thầy địa lý, Bốc là coi bói. Thật ra thì Nho, Y, Lý, Bốc cũng nằm trong chữ Sĩ. Cũng có người cho rằng 12 bến nước là 12 tuổi: Tý, Sửu, Dần, ..., Tuất, Hợi.

Kể 12 hạng người như trên thì không ổn lắm vì còn nhiều hạng người nữa. Chúng ta nên nghĩ rằng, người xưa dùng số 12 là để chỉ một số nhiều và cho đẹp lời. Hơn nữa, trong dân gian thường có sự giải thích theo kiểu liên tưởng từ ngữ "Thập nhị nhân duyên" của nhà Phật là 12 cái nhân duyên của người con gái, từ đó nảy sanh từ ngữ 12 bến nước.

Khó lừa: Khó lừa lọc, khó lựa chọn. Lừa là lựa chọn. Đổ thừa: Đổ lỗi cho người khác để tránh trách nhiệm. Lỡ duyên: Lỡ làng duyên phận.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 645 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

649 . Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
Sự đời thấu rõ dạng hình,
Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.

Chú thích:
Cao niên: Người lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm sống. Tuyển hiền: Tuyển lựa người tài giỏi có đạo đức. Đáng mặt: Người xứng đáng. Phong tình: Lẳng lơ tình tứ, không đứng đắn trong giao tiếp giữa nam và nữ. Kẻ giặc phong tình: Kẻ phong tình được xem như là giặc phá hoại luân lý đạo đức. Trá ngôn: Lời nói giả dối. Lánh chước: Xa lánh phương cách đó. Trá ngôn lánh chước: Xa lánh phương cách dùng lời nói giả dối. Gia đình pháp nghiêm: Phép tắc nghiêm khắc trong gia đình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 649 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

653 . Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc,
Đừng đỗ đường rời bốc đóa hoa.
Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hòa mới nên.

Chú thích:
Thức ngọc: Thức là thứ, món. Ngọc là loại đá quí. Thức ngọc là chỉ người con gái đẹp. Đỗ đường: Dừng lại giữa đường. Lường tài cân sắc: Đo lường cái tài năng của người trai có cân xứng với cái sắc đẹp của mình không.
Câu 654: Đừng đi ra ngoài đường mà đem cái duyên của mình trao cho người trai.
Hai câu 655-656: Xem xét chàng trai để so sánh với mình, cái tài của chàng trai và cái sắc đẹp của mình phải cân xứng nhau thì mới hoà hiệp nên việc vợ chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 653 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

657 . Ai nam tử giữ bền tơ tóc,
Nhiều người hay lừa lọc câu thề.
Trước khen sau ắt có chê,
Ghi tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.

Chú thích:
Nam tử: Đàn ông con trai. Giữ bền tơ tóc: Giữ gìn cho lâu bền cái duyên vợ chồng. Lừa lọc: Không có nghĩa là chọn lọc cẩn thận, mà ở đây, trong trường hợp nầy, lừa lọc có nghĩa là lừa gạt người bằng mánh khóe xảo trá. Lừa lọc câu thề: Con trai thề thốt dối trá để lường gạt con gái nhẹ dạ dễ tin. Ghi tâm: Ghi khắc vào lòng. Tánh đức: Đức tánh, tánh tốt. Kiếm bề: Tìm cách. Phụ nhau: Đối xử tệ bạc với nhau.
Hai câu 659-660: Người con trai giả dối, trước mặt con gái thì khen nào là đẹp, nào là có duyên, nhưng khi người con gái đi khuất rồi thì lại chê; bên ngoài thì giả bộ ghi tâm tánh đức, nhưng trong lòng thì kiếm cách bỏ nhau.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 657 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

661 . Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.

Chú thích:
Tiết hạnh: Ý nói cái trinh tiết của người con gái. Nhẹ tánh: Có tánh dễ tin người nên thường bị lừa gạt. Hẫng hờ: Hờ hững, lạnh nhạt trong quan hệ tình cảm, không chút chăm nom hay lưu ý đến. Lứa đôi: Vợ chồng.
Câu 662: Tránh không khỏi cái tánh nhẹ dạ dễ tin người mà đâm ra nghi ngờ chuyện nọ chuyện kia.
Hai câu 663-664: Con gái mà để con trai tóm thâu tiết hạnh dễ dàng rồi thì nó sẽ hững hờ trong việc tiến tới hôn nhân.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 661 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

665 . Nét xuân sắc mấy hồi là trọng,
Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
Thà cho đáng mặt thuyền quyên,
Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.

Chú thích:
Xuân sắc: Vẻ đẹp trẻ trung của con gái. Chữ Xuân thường được dùng để chỉ tuổi trẻ. Thuyền quyên: Người con gái xinh đẹp dịu dàng. Cầm sắt: Cây đàn cầm và cây đàn sắt, hai thứ đàn nầy hòa âm thì nghe rất hay, nên cầm sắt được ví đôi vợ chồng hòa hợp. Bĩ bàng: Bĩ là bế tắc, bàng là tiếng đệm. Duyên bĩ bàng: Cảnh 2 người yêu nhau đến hồi tan rã.

Câu 666: Tuổi xuân đã lỡ qua rồi thì khó mà mơ ước tuổi xuân nguyên vẹn trở lại. (Tuổi trẻ qua rồi thì không trở lại).

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 665 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

669 . Khi gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
Thì toan giữ vẹn chung tình,
Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.

Chú thích:
Trang: Tiếng gọi với ý kính trọng người có tài đức. Trang tài mạo: Người tài giỏi và có hình dáng đẹp đẽ. Đưa thoi: Do câu: Nhựt nguyệt như thoa, nghĩa là ngày tháng qua mau như cái thoi dệt vải, đưa qua đưa lại rất mau. Nữ trung: Trong giới phụ nữ.
Câu 670: Người con gái yêu người con trai, nàng có thể lấy cây trâm cài tóc hoặc chiếc áo trao cho chàng để làm vật đính ước hôn nhân.
Hai câu 671-672: Đã đính ước cùng nhau thì phải lo gìn giữ chữ thủy chung, dầu ngày tháng qua mau nhưng phận gái đừng để cho lỗi ước.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 669 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

673 . Đến lúc đã chung phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.

Chú thích:
Bốn câu 673-676: Mẹ dạy con gái xuất giá Tòng phu.
Tùng phu: Khi có chồng phải tùng theo chồng. Đây là một trong Tam Tùng của người phụ nữ. Điều nầy rất tự nhiên, vì người chồng làm chủ gia đình, lo làm lụng nuôi sống vợ con, nên người vợ giữ vai trò phụ tá chồng, tùng theo chồng. Tề mi: Do câu: Cử án tề mi, nghĩa là nâng mâm cơm lên ngang mày, dâng cho chồng ăn, tỏ ý kính phục chồng. Vẹn đạo: Trọn vẹn đạo làm vợ. Chẳng nài: Không nề hà.

Mạnh Quang: Thời Đông Hán, ở huyện Bình Lăng có một thư sinh tên là Lương Hồng, học trong nhà Thái Học, có học lực uyên bác, nhưng nhà nghèo, phải đi chăn heo mướn kiếm sống qua ngày, đặng lo học tập, bụng vẫn nuôi chí lớn.

Ở cùng huyện có người con gái họ Mạnh tên Quang, tuy không có sắc đẹp như nhưng có đủ tứ đức. Nhiều người trọng đức khinh sắc hỏi cưới nàng, nhưng nàng không chịu. Đến năm 30 tuổi, cha mẹ nàng buồn rầu thấy con gái chưa chịu lấy chồng, thì nàng nói: Con có lấy chồng thì chồng phải có đức hạnh và khí tiết như Lương Hồng mới chịu.

Lương Hồng nghe được chuyện đó, biết nàng Mạnh Quang là tri kỷ của mình, nên đến hỏi cưới nàng làm vợ.

Khi làm lễ thành hôn, nàng Mạnh Quang mặc quần áo lộng lẫy, trang sức vàng ngọc quí giá, cốt làm tăng vẻ đẹp để vừa ý chồng. Lương Hồng thấy vợ như thế thì không bằng lòng, nhưng không nói gì.

Đám cưới đã qua 7 ngày đêm mà chàng chưa chịu giao bôi hợp cẩn. Mạnh Thị dò xét mới biết được ý chồng, liền bỏ hết lụa gấm, trang sức quí giá, mặc quần áo vải bô, dùng cây gai làm thoa giắt tóc (Kinh thoa bố quần). Lương Hồng thấy vậy vui mừng nói: Như vậy mới đúng là vợ của Lương Hồng. Hồng nầy không màng danh lợi, không ham tiền của bạc vàng, chỉ muốn sống thanh bần giữ tròn khí tiết và đức hạnh, cùng với vợ tương kính thương yêu.

Lúc bấy giờ triều chính thối nát, quan lại nhũng nhiễu, vợ chồng Lương Hồng vào ở ẩn tại Bá Lăng, tỉnh Thiểm Tây, là nơi thâm sơn cùng cốc, chồng cày cấy, vợ dệt vải, lúc rảnh rang thì cùng đọc sách, đánh đàn, ngâm thơ, vợ chồng kính ái lẫn nhau, đời sống thật vui vẻ hạnh phúc.

Sau đó, vợ chồng Lương Hồng lại đến cư ngụ ở Lạc Dương. Lương Hồng thấy triều đình quá hủ bại, mới làm bài ca nhan đề "Ngũ Y." Có người xấu bụng đem bài ca nầy tâu với vua, vua truyền lịnh bắt Lương Hồng. Chàng phải trốn đi, thay tên đổi họ, chạy sang đất Ngô, tạm làm nghề giã gạo thuê cho một nhà giàu để tạm sống qua ngày.

Mỗi lần chàng giã gạo thuê xong, trở về nhà, thì nàng Mạnh Quang sửa soạn cơm nước xong xuôi, dọn lên một cái mâm, nâng mâm lên ngang mày, dâng lên cho chồng ăn cơm.

Người nhà giàu tình cờ trông thấy được, nghĩ rằng: Người giã gạo thuê nầy được vợ kính trọng như thế ắt không phải là kẻ tầm thường. Do đó, người nhà giàu mời vợ chồng Lương Hồng đến ở luôn trong nhà và trọng đãi.

Nàng Mạnh Quang để lại cho đời một tấm gương sáng về đạo tùng phu. Nhưng nàng Mạnh Quang sống vào thời quân chủ, trọng nam khinh nữ, nên cách thức "Cử án tề mi" của nàng đối với thời dân chủ ngày nay, nam nữ bình quyền thì không còn phù hợp nữa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 673 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

677 . Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang,
Vợ lo canh cửi cơ hàn tấm thân.

Chú thích:
Tám câu thơ 677-684: Nói về sự tích của Vợ Ông Châu Công Đán, đời nhà Châu.
Đình thần: Bề tôi của vua nơi triều đình, tức là quan lớn trong triều. Mạng phụ: Vợ của quan được vua phong tước. Lam lụ làm ăn: Làm ăn vất vả cực nhọc. Triều nội cao sang: Quan lớn cao sang trong triều đình.  Canh cửi: Nghề dệt vải thủ công. Cơ hàn: Đói lạnh.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 677 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

681 . Giúp chồng trọn ân cần nhiếp chánh,
Mới nên trang chúa thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng kim tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.

Chú thích:
Ân cần: Quan tâm săn sóc chu đáo. Nhiếp chánh: Nhiếp là kiêm nhiệm, thay thế; chánh là việc chánh trị sắp đặt trị an trong nước. Nhiếp chánh là thay thế vua (vì vua còn nhỏ tuổi chưa đủ sức nắm quyền trị nước) giữ việc chánh trị trong nước. Chúa thánh tôi hiền: Vua thì có đức độ và sáng suốt như bực Thánh, bề tôi thì tài giỏi và có đạo đức. Tham nhũng: Lợi dụng quyền hành của một vị quan để hoạnh hẹ dân đòi tiền hối lộ. Kim tiền: Vàng và tiền bạc. Trọn đạo: Làn tròn bổn phận của mình. Chăn dân: do chữ Hán là Mục dân, vì người xưa cho rằng, vua quan cai trị dân chúng giống như mục đồng chăn gia súc. Chăn dân là từ ngữ xưa, chỉ việc cai trị dân chúng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 681 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

685 . Phạm trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
May duyên gặp đặng vợ hiền,
Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

Chú thích:
Nợ quân vương: Món nợ đối với vua vì hưởng lộc vua. Quân là vua, vương cũng là vua, quân vương là chỉ ông vua. Truân chuyên: Nhiều nỗi gian nan vất vả. Thanh liêm: Trong sạch và không tham lam. Chánh trực: Ngay thẳng. Lòng son: Chữ Hán là Đan tâm, nghĩa là lòng ngay thẳng trung thành trước sau như một.

Bốn câu thơ 685-688: Nói về sự tích của Phạm Trọng Yêm.
Phạm Trọng Yêm: Tự là Hy Văn, người xứ Tô Châu, tánh tình cương trực nhưng ôn hòa. Ngay từ lúc thi đậu Tú Tài, họ Phạm đã nghĩ rằng chuyện chánh trị quốc gia là trách nhiệm của ông. Ông thường nói: "Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ." Câu nói nầy được truyền rộng rãi từ đời Tống đến nay. Sau đó ông thi đậu Tiến Sĩ, làm quan dưới triều Tống Nhân Tông đến chức Lại Bộ Viên Ngoại Lang, từng giữ chức Tri Châu ở Hàng Châu. Ông có tánh trọng nghĩa khinh tài, đối xử với bà con rất có hậu. Ông mua vài trăm mẫu ruộng dùng làm nghĩa địa cho dòng họ và lấy huê lợi châu cấp cho bà con khi đau ốm hay ma chay.

Ông có người con tên Nhân Đức, tánh cũng háo nghĩa như ông. Lúc ông làm quan ở Khai Phong, để dành được 500 thùng lúa, sai con chở về quê. Nhân Đức đến Đan Dương, gặp bạn cũ của cha là Thạch Man Kha, đang lúc cùng quẩn, lại chẳng may bị 3 cái tang cùng lúc. Nhân Đức liền lấy 500 thùng lúa cho Man Kha lo việc ma chay và lại cho luôn chiếc ghe bán lấy tiền gả 2 đứa con gái.

Chừng Nhân Đức trở về nhà thuật lại việc làm của mình cho cha nghe thì ông không rầy la mà lại khen con: Vậy mới phải là con của ta.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 685 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

689 . Phải căn nợ cách non cũng gặp,
Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.
Con xem từ trước đến chừ,
Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?

Chú thích:
Căn nợ: Món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, tức là món nợ đã thiếu từ kiếp trước, nay kiếp nầy phải trả. Cách non: Cách xa một cái núi, ý nói xa xôi cách trở núi sông. Trái duyên: Tình duyên ngang trái, đổ vỡ gây đau khổ. Lỡ trái duyên: Khi lỡ gặp cảnh tình duyên ngang trái. Vội gấp: Vội vã gấp rút. Đến chừ: Đến bây giờ. Anh hùng: Người tài giỏi có chí lớn, lập được nhiều công trạng phi thường đối với quốc gia. Anh thư: Người phụ nữ tài giỏi nổi bậc hơn người.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 689 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

693 . Dầu đẹp xấu để đời luận biện,
Vui duyên con, thân miễn an vui.
Đừng chê chồng phận thiệt thòi,
Đáng danh quân tử phải người lang quân.

Chú thích:
Luận biện: Đưa ra nhiều lý lẽ để bàn cãi đúng sai. Quân tử: Người có tài đức hơn người, sẵn sàng đem tài sức ra giúp đời. Người quân tử là mẫu người lý tưởng mà Nho giáo nêu lên để giáo dục thanh niên. Lang quân: Tiếng vợ gọi chồng.
Câu 694: Mẹ khuyên con gái nên an phận, vui vẻ với cuộc sống gia đình mà mình đang có.
Hai câu 695-696: Đừng nên chê chồng là kẻ bất tài, chịu phận thiệt thòi, cũng đừng nên nghĩ rằng, đáng mặt là người quân tử thì mới phải là chồng của mình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 693 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

697 . Chữ hằng dạy thanh xuân bất tái,
Vợ người rồi danh gái hết kêu.
Noi gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.

Chú thích:
Chữ hằng dạy: Sách thường dạy. Thanh xuân bất tái: Tuổi trẻ không trở lại. Thanh xuân là tuổi trẻ, tái là lập lại. Nhị Kiều: Hai nàng Kiều đẹp nhứt của đất Giang Đông nước Đông Ngô. Chị là Đại kiều, gả cho Tôn Sách, vua nước Đông Ngô; em là Tiểu Kiều, gả cho Châu Du, Đại Đô Đốc Thủy Quân của Đông Ngô. Tôn Sách và Châu Du đều chết sớm, hai nàng Kiều ở vậy thờ chồng, thủ tiết nuôi con. Dở dang: Tình duyên dang dở vì chồng chết sớm. Du Sách: Châu Du và Tôn Sách.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 697 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

701 . Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,
Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.

Chú thích:
Thất nghĩa: Mất cái tình nghĩa. Rẻ khinh: Coi thường. Kim cải: Chỉ tình nghĩa vợ chồng. (Xem Chú thích câu 111) Thanh tươi: Xanh tươi. Thanh là xanh. Nhành mai sái mùa: Cành mai chỉ có giá trị trong mấy ngày Tết, ai cũng quí trọng, đem đặt nơi thật trang trọng để cầu sự may mắn đến với gia đình trong năm mới. Nếu cành mai nở sái mùa, không đúng vào dịp Tết, thì giá trị của nó chẳng đáng bao nhiêu. Cành mai sái mùa là ý nói người con gái lỡ thời, đã qua thời xuân sắc tươi trẻ.
Hai câu 701-702: Khi tình nghĩa vợ chồng đã mất rồi thì khó mà hàn gắn lại được như lúc đầu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 701 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

705 . Tri âm ví đáng dây cầm nguyệt,
Đừng đem tình chí thiết giao hoan.
Căn duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở đàng ngại lo.

Chú thích:
Tri âm: Hiểu biết tiếng đàn, chỉ đôi bạn hiểu thấu lòng nhau, theo điển tích Bá Nha-Tử Kỳ. Cầm nguyệt: Cầm là cây đàn, nguyệt là mặt trăng. Cầm nguyệt là cây đàn mà thùng đàn hình tròn như mặt trăng. Tình chí thiết: Tình yêu rất tha thiết. Giao hoan: Chỉ sự ân ái giữa nam nữ hay vợ chồng. Căn duyên: Duyên vợ chồng có gốc rễ từ kiếp trước. Phụ phàng: Đối xử tệ bạc, không nghĩ đến tình nghĩa thuở trước. Tiết giá: Lòng trong sạch ngay thẳng đối với chồng.
Câu 705: Đôi bạn hiểu biết nhau sâu sắc xứng đáng là bạn tri âm.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 705 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

709 . Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
Con coi phận mẹ mỏng mành,
Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

Chú thích:
Gái lộn chồng: Gái bỏ chồng nầy đi lấy chồng khác, chỉ hạng gái hư thân mất nết. Hoại tánh danh: Hư hỏng họ tên. Mỏng mành: Yếu ớt không đủ sức chịu đựng. Chánh thê: Vợ chánh. Thứ thê: Vợ thứ, tức là vợ bé.
Hai câu 709-710: Lấy ý theo câu ca dao: Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng. (Chính chuyên là đứng đắn trung thành). Thời xưa cho phép đàn ông có nhiều vợ (chế độ đa thê), nhưng đàn bà chỉ được có một chồng. Gái nhiều chồng thì bị người ta chê cười là gái lộn chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 709 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

713 . Muốn còn phước dựa kề quân tử,
Phải hạ mình đặng xử vuông tròn.
Chia chồng vì dạ sắt son,
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà.

Chú thích:
Dựa kề quân tử: Gần gũi kế bên chồng. Hạ mình: Tự đặt mình xuống địa vị thấp để mưu cầu việc gì. Xử vuông tròn: Sắp đặt công việc ổn thỏa mọi mặt. Chia chồng: Ý nói để cho chồng có vợ bé.
Câu 716: Nhường nhịn chồng vì còn lo nuôi mấy đứa con trong nhà.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 713 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

717 . May tiểu thiếp biết hòa biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
Rủi ro gặp gái bán thuyền,
Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm cơn.

Chú thích:
Tiểu thiếp: Vợ nhỏ của chồng. Nợ duyên: Duyên nợ. Gái bán thuyền: Con gái đem bán cái duyên của mình, chớ không có tình nghĩa chi hết. Đó là hạng gái chỉ biết có tiền, còn tiền thì còn tình, hết tiền thì hết tình. Loạn gia: Gây ra lộn xộn, rối loạn phép tắc gia đình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 717 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

721 . Thà thấy dạng còn hơn hiu quạnh,
Nên cắn răng nhịn nhín tình thương.
Ai đời thắt dạ mà lường,
Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.

Chú thích:
Cắn răng: Cố gắng chịu đựng âm thầm. Nhịn nhín: Nhịn bớt để chia sớt cho người khác. Thắt dạ: Ép lòng. Bưởi bòng: Trái bòng nhỏ hơn bưởi nhưng chua hơn. Bưởi bòng bụng gái: Ý nói đàn bà con gái có tánh ghen tuông.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 721 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

725 . Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.
Trường đình giục thảm canh thâu,
Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.

Chú thích:
Cội thung: Đồng nghĩa Thung đường, chỉ người cha. (Xem Chú thích câu 489). Tuổi hạc: Tuổi của con chim hạc, ý nói rất lớn tuổi. Hạc là loại chim sống đến cả ngàn năm, nên gọi tuổi hạc là ý muốn cha mẹ sống lâu. Liễu mai: Cây liễu và cây mai được ví với người phụ nữ, vì con gái thì mảnh khảnh như mai, thướt tha như liễu. Chếch mác: Nghiêng ngã xiêu vẹo. Trường đình: Bên nước Tàu thời xưa, những quãng đường gần đô thị thường có trồng cây liễu ở 2 bên đường, rồi cách 5 dặm đường thì dựng lên một cái nhà nhỏ gọi là Đoản đình, 10 dặm đường thì dựng lên một cái nhà lớn hơn gọi là Trường đình. Những người đi xa, cùng những người đưa tiễn, đem nhau vào Đoản đình hoặc Trường đình để uống rượu từ biệt nhau, rồi bẻ cành liễu tặng nhau làm roi ngựa. Do đó, Trường đình là chỗ từ biệt nhau. Canh thâu: Suốt đêm. Canh là chỉ ban đêm, thâu là suốt. Nửa nguyệt: Phân nửa mặt trăng. Đỡ đầu: Kê đầu. Phòng thu: Chỉ người phụ nữ đã luống tuổi. Gối còn nửa nguyệt: Ý nói người chồng đã đi rồi, chỉ còn người vợ ở nhà một mình trong phòng.

Thơ cổ có câu:
Thùy bả kim bôi phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thủy để, bán phù không.
(Ai đem chén vàng chia hai mảnh,
Nửa chìm đáy nước, nửa trên không.)

Truyện Kiều:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Đây là tả cảnh vợ chồng ly biệt rất văn chương tuyệt diệu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 725 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

729 . Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,
Máu đổ quyên đợi mãn kiếp sanh.
Trượng phu hà hải đã đành,
Nỡ nào đày thiếp một mình tương tư.

Chú thích:
Con quốc quốc: Chim đỗ quyên. Chưa âu: Có lẽ chưa. Mãn kiếp sanh: Hết một kiếp sống nơi cõi trần. Đỗ quyên: Là tên của một giống chim, còn gọi là chim Đỗ Vũ, Tử Quy, tiếng nó kêu quốc quốc nên cũng được gọi là chim quốc quốc. Cuối xuân sang hạ thì nó bắt đầu kêu vào đêm trăng thanh vắng, giọng kêu buồn thảm não nuột, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê hương. Điển tích: Tương truyền, vua nước Thục (Thục Đế) tên là Đỗ Vũ, thấy vợ của một người bề tôi là Biết Linh rất đẹp, nên thông dâm. Biết Linh bắt được, buộc Thục Đế nhường ngôi cho mình và dẫn vợ Biết Linh đi để sống cho trọn mối tình với người đẹp. Nhưng thảm cho Thục Đế, người đẹp bỏ Thục Đế trở về với Biết Linh. Thục Đế buồn tủi, nhớ ngai vàng, nhớ người đẹp, đành chịu chết trong rừng, hóa thành con chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu quốc quốc não nuột, như hồn Thục Đế kêu than nhớ tiếc ngai vàng, oán giận người yêu. Trượng phu: Tiếng người vợ gọi chồng. Hà hải: Sông biển, ý nói đi xa. Tương tư: Sự nhớ thương da diết giữa 2 người yêu nhau.
Hai câu 729-730: Nói về con chim Đỗ Quyên để tả nỗi lòng của người vợ vừa thương chồng vừa oán giận chồng đã phụ bạc bỏ nhà ra đi.
Hai câu 731-732: Chồng đã ra đi xa xôi, đã đành cho phận thiếp, nỡ nào đày đọa thiếp trong nỗi niềm thương nhớ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 729 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

733 . Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,
Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.
Thiếp nay cũng giống như nàng,
Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.

Chú thích:
Thân cống Hồ: Tấm thân bị đem dâng nạp cho vua nước Hồ (Rợ Hồ) ở phương Bắc. Ngất ngưởng: Ở thế không vững, lắc lư như chực ngã xuống. Tha bang: Nước khác. Tha là khác, bang là một nước.
Bốn câu thơ trên nói về sự tích: Chiêu Quân cống Hồ.

Chiêu Quân: Tên là Vương Tường, tiểu tự là Hạo Nguyệt Chiêu Quân, con gái của Vương Trung, đang làm quan Tri Phủ Việt Châu. Bấy giờ, quan Nội thần Mao Diên Thọ được lịnh vua Hớn Nguyên Đế đi tuyển gái đẹp đưa vào cung. Diên Thọ tuyển được nàng Chiêu Quân, nhưng vì gia đình Vương Trung không tiền lo lót cho Diên Thọ, nên khi vẽ hình Chiêu Quân dâng lên vua Nguyên Đế, Thọ thêm vào mặt Chiêu Quân một nốt ruồi đen dưới mắt gọi là "Thương phu trích lệ" làm Hán Nguyên Đế không dám đưa nàng vào cung. Thọ lại giả chiếu vua, đem Chiêu Quân giam vào lãnh cung.

Việc đổ bể ra, Diên Thọ bị bắt tội chết, nhưng Thọ lanh chân trốn thoát sang nước Hồ. Chiêu Quân được vua Hớn yêu mến, đưa nàng vào Tây Cung làm Quí Phi. Thọ qua tâu hót với vua Hồ là nàng Chiêu Quân đẹp nhất trên đời, muốn được nàng thì vua Hồ đem quân đánh vào Trung nguyên buộc vua Hán phải đưa Chiêu Quân qua cống Hồ thì mới bãi binh.

Kế ấy thành công vì nhà Hán suy nhược, không có tướng tài đủ sức chống cự quân Hồ. Chiêu Quân được đưa đi, đến Nhạn Môn Quan, nàng lên Nhạn lạc đài, khải một khúc đàn buồn thảm, rồi viết một bức thơ lâm ly thống thiết, buộc vào chân chim nhạn, gởi về Nguyên Đế.

Nàng đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết tên gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung nguyên.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 733 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

737 . Còn Tinh Vệ lấp phiền biển ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
Thiếp thân như ốc mượn hồn,
Sống không biết sống, chết còn ngậm đau.

Chú thích:
Tinh Vệ: Một loài chim nhỏ ở bờ biển. Tương truyền, con gái vua Viêm Đế (Thần Nông) vượt biển, bị sóng đánh chìm chết đuối, hồn mang mối căm hờn, hóa thành chim Tinh Vệ, hằng ngày ngậm gỗ và đá ở núi Tây Sơn đem ra lấp biển Đông cho cạn để trả hờn chết đuối vì sóng biển. Trong văn chương, người ta dùng điển tích nầy để chỉ mối căm hờn hay điều tức giận dữ dội. Biển ái: Biển ái tình, biển tình yêu, đó là biển khổ.

- E mượn hồn: Ý nói ngơ ngơ ngẩn ngẩn, ngây dại như kẻ mất hồn. Trong Lục Súc Tranh Công có câu:
Dại không ra dại, khôn chẳng nên khôn,
Ngất ngơ như ốc mượn hồn.

Sống không biết sống: Sống mà không biết được hạnh phúc và tương lai, sống mà bị đau khổ đến mức như ngây dại. Chết còn ngậm đau: Chết mà trong lòng vẫn còn mang nỗi đau đớn giận hờn như con gái của vua Thần Nông.
Hai câu 737-738: Nỗi tức giận của người vợ như con chim Tinh Vệ, muốn lấp bằng biển tình ái, cho hết phiền não, vì biển tình ái đã nhận chìm người chồng bấy lâu nay, để đem chồng trở lại gia đình.
Hai câu 739-740: Thiếp bây giờ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ mất hồn, sống mà không biết hạnh phúc và tương lai, mà nếu chết thì linh hồn vẫn còn ngậm đau như con chim Tinh Vệ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 737 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

741 . Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
Cũng như thiếp nặng khối tình,
Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

Chú thích:
Phiên quốc: Nước Phiên, còn gọi là Hung Nô hay Rợ Hồ. Lượng thảm: Nhiều nỗi sầu thảm. Lượng là số lượng. Hạnh Nguơn cống Hồ: Hạnh Nguơn (Hạnh Nguyên) là con gái của Trần Đông Sơ, đính hôn với Mai Bích tự là Lương Ngọc, con của Mai Bá Cao. Bá Cao đang làm quan triều nhà Đường, tánh cương trực, nên bị bọn Thái Sư Lư Kỷ và Hoành Trung căm ghét tìm cách hãm hại. Nhân việc quân Phiên xâm lấn ở phía Bắc, thế quân rất mạnh, quân Đường chống cự không lại. Lư Kỷ tâu vua xin bắt Hạnh Nguơn đem cống Phiên xin bãi binh. Vua ưng thuận. Đối với Mai Bá Cao, Lư Kỷ vu vào tội chết, truy bắt cả nhà, may mắn là mẹ con Lương Ngọc trốn thoát được. Nàng Hạnh Nguơn, trên đường đi cống Hồ, nhảy xuống đầm Lâm Trì tự tử để thủ tiết cùng Lương Ngọc. Bà Châu Bá Phù may mắn cứu được Hạnh Nguơn, đem về làm con nuôi. Về sau, vua Đường xét ra tội trạng của bọn gian thần Lư Kỷ, bắt cả bọn đem chém đầu, minh oan Mai Bá Cao. Lương Ngọc gặp lại Hạnh Nguơn, sum họp gia đình. Gãy trâm Lương Ngọc: Ý nói tình duyên gãy đổ. Bể bình Lý Uyên: Ý cũng nói tình duyên gãy đổ. Điển tích: Lý Uyên bắn trúng con mắt chim sẽ vẽ trên tấm bình phong, nên được Ông Đậu Nghi gả con gái là Đậu Thị cho. Hai vợ chồng giữ mãi tấm bình phong làm kỷ niệm. Khối tình: Tình yêu tương tư bị thất vọng, tụ lại thành một khối không tan, gọi là Khối tình. Điển tích: Người con gái chết vì thất tình do người yêu không trở về đúng hẹn. Xác nàng được hỏa táng thì thấy còn lại một khối rắn chắc, đập không bể. Lúc người tình trở về, nghe thuật lại, cầm khối ấy lên xem, rồi khóc nức nở. Nước mắt chàng rơi lên khối tình, làm khối tình vỡ tan thành nước.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 741 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

745 . Dầu chàng có vui riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo tội nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho toại hồng nhan,
Gẫm thân có lúc khốn nàn ốm o.

Chú thích:
Tội nghiệp: Đáng thương hại vì gặp cảnh không may. Đậm hương: Ý nói sắc dục quá độ, chơi bời trác táng. Toại: Thỏa lòng. Hồng nhan: Má hồng, chỉ đàn bà con gái đẹp. Hồng là màu đỏ, nhan là vẻ mặt. Gẫm thân: Suy nghĩ kỹ về cái bản thân mình. Khốn nàn: Khốn đốn khổ sở đến mức thảm hại. -m o: Gầy yếu một cách thảm hại.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 745 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

749 . Thương chi thật con đò đưa khách,
Nghĩa chi nồng những cách bán duyên.
Còn thân còn mến còn quyền,
Hết ưa hết chuộng thì duyên hết nồng.

Chú thích:
Con đò đưa khách: Ví thân phận của gái làng chơi, mỗi lần bán dâm, như con đò đưa khách lấy tiền, không có tình nghĩa chi hết. Nồng: Nồng nàn, tha thiết sâu đậm. Bán duyên: Người con gái đem bán cái duyên của mình, ý nói gái điếm, gái làng chơi.
Hai câu 749-750: Thương mến làm chi những gái làng chơi! Có tình nghĩa nồng nàn gì những kẻ bán duyên!
Hai câu 751-752: Còn thân thiết, còn thương mến khi người đàn ông còn quyền chức bạc tiền. Hết ưa hết chuộng khi hết quyền hết tiền, thì duyên kia cũng hết nồng nàn.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 749 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

753 . Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ không con.
Hai vai gánh nặng thân mòn,
Cơn đau thất nghĩa, hầu hờn giảm thương.

Chú thích:
Bế bồng: Ẵm bồng con trẻ. Giao tình: Ân ái với nhau trong tình yêu vợ chồng. Thân mòn: Thân thể gầy mòn ốm yếu. Thất nghĩa: Mất đi cái tình nghĩa vợ chồng. Hầu hờn giảm thương: Để mà sự hờn giận làm giảm bớt tình thương yêu chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 753 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

757 . Chẳng như thiếp nhớ ơn giải cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu,
Trăm cay ngàn đắng cũng chiều,
Quí thân quân tử, dám liều với thân.

Chú thích:
Giải cấu: Giải là tình cờ, cấu là gặp gỡ. Giải cấu là tình cờ không hẹn mà gặp. Kinh Thi: Giải cấu tương ngộ, thích ngã nguyện hề. Nghĩa là: Tình cờ gặp nhau, thích nguyện ta vậy. Đào yêu: Chỉ con gái tới tuổi lấy chồng. (Xem Chú thích câu 602). Mở nụ đào yêu: Ý nói: Con gái mới vừa lớn lên tới tuổi lấy chồng. Trăm cay ngàn đắng: Ý nói chịu nhiều đau đớn khổ sở. Thân quân tử: Tấm thân của chồng.
Câu 760: Vợ quí trọng chồng đến độ dám liều mình để cứu chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 757 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

761 . Rẻ rúng bấy, hễ cân cũng trọng,
Quí bao nhiêu, hờ hững cũng khinh.
Chàng thì nhẹ thể vì tình,
Thiếp thì lo sợ lụy mình trượng phu.

Chú thích:
Nhẹ thể: Xem nhẹ danh dự của mình. Thể là thể diện. Lụy mình: Tấm thân bị khốn đốn khổ sở vì dính dấp tới chuyện của người khác. Trượng phu: Tiếng vợ gọi chồng.
Hai câu 761-762: Việc coi trọng hay xem khinh là do theo tình cảm thương ghét của mình. Dầu cho người ta coi là rẻ rúng, nhưng vì mình thương yêu nên mình quí trọng; còn người ta cho là quí giá bao nhiêu đi nữa mà mình hờ hững không yêu mến thì mình xem nó cũng tầm thường.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 761 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

765 . Niềm âu yếm ai đâu rõ giá,
Vui trăng hoa dối trá là thường.
Ăn nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.

Chú thích:
Âu yếm: Cử chỉ thương yêu trìu mến. Trăng hoa: Chỉ việc trai gái không đứng đắn hẹn hò nhau ngắm trăng xem hoa đặng đùa giỡn nhau. Hoa tường: Cái hoa bên tường, ai muốn rờ muốn hái cũng được, chỉ gái làng chơi. Hoa tường buôn ong: Gái làng chơi bán thân cho khách. Ong và bướm là chỉ những chàng trai không đứng đắn, thấy con gái thì đến chọc ghẹo.
Câu 765: Tấm lòng yêu mến nhau chân thành, chàng đâu rõ cái giá trị của nó.
Câu 766: Trong xóm làng chơi, sự âu yếm lã lơi, vui đùa nhau thường là dối trá, đâu có lạ gì!

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 765 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

769 . Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
Khối sầu càng chất càng dày,
Chờ năm, năm lụn, đợi ngày, ngày qua.

Chú thích:
Tin nhạn: Tin tức do con chim nhạn mang thơ đưa lại. Thả lá hồng: Viết thơ lên chiếc lá đỏ, thả trôi theo dòng nước, hay thả cho bay theo gió để tìm dịp may hỏi thăm tin tức của chồng. Năm lụn: Năm tàn. Lụn là tàn dần.
Câu 769: Nói theo Điển tích Tô Võ chăn dê:

Tô Võ: Tự là Tử Khanh, làm quan Trung Lang Tướng, đời vua Hán Võ Đế, được cử đi sứ sang Hung Nô. Chúa Hung Nô là Thuyền Vu biểu Lý Lăng và Vệ Luật, tôi nhà Hán đã đầu Hung Nô, dụ Tô Võ đầu Hung Nô luôn. Tô Võ nhứt định không chịu. Thuyền Vu giận, nhốt Tô Võ vào hang đá và bỏ đói 3 ngày cho chết. Tô Võ nhờ vuốt hột sương trên ngù cờ thấm giọng trong 3 ngày nên không chết. Thuyền Vu cho Tô Võ là Thần nên không dám giết, chỉ đày lên Bắc Hải chăn dê, giao hẹn chừng nào dê đực đẻ con thì mới tha về nước.

Tô Võ sống 19 năm nơi Bắc Hải, tuy cực nhọc đói lạnh nhưng tinh thần bất khuất, một lòng vì vua vì nước. Mỗi lần chim nhạn lánh tuyết lạnh, bay về hướng Đông Nam thì Tô Võ viết thơ buộc vào chân nhạn, để nó đem về Trung nguyên báo tin cho vua biết, ông hiện còn sống ở Bắc Hải.

Về sau, Thuyền Vu giải hòa với Hán, Tô Võ mới được tha về. Vua Hán phong thưởng Tô Võ và cho vẽ hình ông nơi gác Lân để ghi công.
Câu 769: Người vợ mòn mỏi trông ngóng tin tức của chồng.
Câu 772: Sự lập lại các từ ngữ: năm và ngày, làm cho thời gian như kéo dài ra theo sự đợi chờ của người vợ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 769 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

773 . Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
Mùi chê dưới mắt chán chường,
Còn duyên chi mộng đến đường tái hôn.

Chú thích:
Soi kính cũ: Lấy cái tấm gương cũ ra soi mặt. Lâu ngày không soi mặt trang điểm nên cái gương đóng bụi cũ kỹ. Mặt hoa đã nhíu: Gương mặt đẹp của người vợ bây giờ đã nhăn nheo, ý nói đã bắt đầu già rồi. Tóc hoa râm: Có những điểm trắng lốm đốm trên tóc. Mày liễu ướm sương: Đôi lông mày như lá liễu có một vài sợi bạc như có điểm sương trắng. Ướm là mới bắt đầu. Mùi: Màu (từ ngữ xưa). Mùi chê: Màu bị chê, màu xấu. Mái tóc và đôi lông mày liễu chuyển sang màu hoa râm, là màu bị đàn ông chê vì nó báo hiệu tuổi già. Chán chường: Chán lắm, không còn thích thú nữa. Mộng: Mơ tưởng. Tái hôn: Lấy chồng một lần nữa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 773 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

777 . Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.

Chú thích:
Tâm hồn gió tuyết: Lòng lạnh lẽo băng giá, không còn sôi nổi trong tình yêu. Tam Tùng: Ba điều phải theo của người phụ nữ theo luân lý của Nho giáo: Tại gia tùng phụ, Xuất giá tùng phu, Phu tử tòng tử. Nghĩa thủy chung: Cách đối xử trước sau như một, không có gì thay đổi. Thủy là lúc đầu, Chung là lúc cuối. Chia dạ: San sẻ nỗi lòng. Não nùng: Buồn rầu sâu đậm.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 777 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

781 . Ngắm đường thế đã mòn vinh nhục,
Đổi thay duyên đặng phúc hạnh gì.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.

Chú thích:
Đường thế: Con đường đời. Đã mòn vinh nhục: Đã từng đi qua nhiều lần vinh và nhục. Đổi thay duyên: Đổi duyên cũ thay duyên mới, ý nói: Bỏ chồng cũ lấy chồng mới. Rẻ duyên kim cải: Coi rẻ cái tình nghĩa vợ chồng. Phấn hương: Ý nói buôn phấn bán hương: gái làng chơi.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 781 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

785 . Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,
Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.
Chừng cơn phấn lạt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

Chú thích:
Trường phong nguyệt: Xóm làng chơi. Phấn lợt hương tàn: Nhan sắc tàn phai.
Câu 786: Theo thành ngữ: Nhứt tiếu thiên kim. Một tiếng cười giá đáng ngàn vàng. Đó là tiếng cười của nàng Bao Tự làm cho Vua U Vương nhà Châu mất ngôi mất nước.

Điển tích: Bao Tự là vợ yêu của U Vương, nàng rất đẹp nhưng luôn luôn ủ đột, không cười. Nàng chỉ ưa nghe tiếng lụa xé. U Vương muốn cho Chánh Hậu vui, mỗi lần xuất kho ra hằng trăm cây lụa, bảo cung nữ xé ra cho Bao Tự nghe, mặt nàng hơi tươi một chút chớ không cười. U Vương nghe theo lời Quách Thạch Phủ, sai đốt lửa Phong Hỏa Đài, các chư hầu thấy hiệu lửa tưởng là có giặc đánh vào kinh đô, liền kéo quân tới cứu, đến nơi mới biết mắc lừa. Bao Tự thấy vậy cả cười. Về sau, lúc có giặc đến thật, U Vương sai đốt lửa báo hiệu, các chư hầu không ai đem quân đến cứu. U Vương bị giặc bắt giết ở Ly Sơn.

Hai câu 787-788: Nấm mồ của kẻ hồng nhan bạc mệnh chôn dựa bên đàng, cỏ mọc dây leo, như nấm mồ hoang. Tả nấm mồ của nàng kỹ nữ Đạm Tiên:
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
                                                                                              (Truyện Kiều)

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 785 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
 Home   1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét