117 . May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn người sang ấy của ta,
Chê người ta lại cho là đáng khen.
121 . Chồng sang đặng,
ta hèn chẳng quản,
Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.
125 . Hễ xấu dạng thì nhơ
mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình thương người cũng thương cùng,
Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?
129 . Kiếm xứng mặt mày
râu dưới thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán
thuyền,
Trông chi giữ mảnh
hương nguyền cùng nhau.
133 . Lỡ lối cũ động
đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?
137 . Nhẹ là bức, nặng
chì tình nghĩa,
Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.
141 . Nào có tưởng vợ
nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình mai ủ dột sắc càng héo don.
145 . Hễ càng ngắm hao
mòn đóa ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.
149 . Lo ngại rồi ra cơn
mất nết,
Vì ghen tương hết biết thân mình.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.
153 . Nếu ôm ấp một bên
thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
Nên toan đập nát cung cầm,
Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?
157 . Thương ra giận khó
khuây nỗi nhớ,
Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?
161 . Tả nỗi thảm thêm
đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.
165 . Cầm bút ngọc đề
thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
169 . Khi đầu ấp cùng
khi tay gối,
Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.
173 . Nào là thuở âm
thầm dan díu,
Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.
177 . Nào khi đứng lúc
ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
181 . Nào khi lén vẽ mày
thục nữ,
Nào khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.
185 . Nào khi tựa bên
màn canh lụn,
Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.
189 . Nào khi đổ mây mưa
đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.
193 . Nào khi ước giữ
niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.
197 . Nào khi đứng giữa
đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
201 . Nào khi đến cầu
Lam chưởng ngọc,
Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.
205 . Nào khi cửa then
gài mấy lớp,
Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
Gần cây chim lánh, đến cành gió day.
209 . Nào khi sắc so tài
đẹp dạ,
Nào khi nhen hương hỏa ba sinh.
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.
213 . Nào khi hỏi thăm
hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.
217 . Nào là lúc ngửa
nghiêng đêm quạnh,
Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.
Chừ sao loan phụng chia
lìa,
Con trông vợ nhớ, mắt
kề ngó song.
221 . Càng thấy con khờ
không đủ trí,
Càng thêm lo huyết khí
bên chồng.
Nâng niu lúc ẵm khi
bồng,
Phụ thân thế phận cho
chồng dạy khuyên.
225 . Càng sợ hở thung
huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.
229 . Thấy em dại không
ham đèn sách,
Càng để lòng hỏi hạch kinh luân.
Thay chàng thiếp trả
nghĩa thâm,
Dạy em văn hóa, thiếp
làm trưởng huynh.
233 . Càng nghĩ đến linh
đinh phận thiếp,
Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
Những ngờ nước thấm đầu non,
Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.
237 . Càng đeo đẳng nỗi
phiền nỗi thảm,
Càng thương thân chích bạn lìa đôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.
241 . Càng ngắm đến cỏ
hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
Chim kết cánh, cây liền cành,
Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.
245 . Kìa cá giỡn vẩn vơ
đáy nước,
Nọ kết đôi cưu thước ven trời.
Còn thân thiếp chịu cút côi,
Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.
249 . Kìa oan ương ấp
nhau chẳng hở,
Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
253 . Kìa cầm điểu bẻ
cành kết ổ,
Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
Nầy thân thiếp chịu
gian nan,
Linh đinh đất chiếu,
trời màn không nơi.
257 . Kìa ong kiến tha
mồi dành để,
Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.
261 . Thôi đành kiếp nớt
non gượng sống,
Sống vì con, chẳng sống vì thân.
Đòi phen đổi thảm ra mầng,
Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha.
265 . Đưa giọt sữa ra
hòa giọt lụy,
Trong tình chung huyết
khí đúc hình.
Còn con may đặng giữ
tình,
Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.
269 . Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,
Thấy con đau như đá đập
đầu.
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.
273 . Thấy xuân đến vẻ
hồng khắp chốn,
Nương con thơ sống rốn cùng xuân.
Ru con giọng hát ngập ngừng,
Xuân ôi ! Xuân biết mấy lần đau thương?
277 . Ve kêu hạ như
dường trêu thảm,
Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
Dỗ con lệ ngọc li bì,
Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê?
281 . Chiều thu nhắc ủ ê
cảnh hạn,
Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
Trông thu rầu nhớ thân con,
Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?
285 . Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?
289 . Vắng mặt chồng,
cân hình của trẻ,
Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng.
Cân thương trẻ ấy mà đong,
Thì trong thương ấy, của chồng tám phân.
293 . Kìa máu huyết,
cành xuân nhụy nở,
Khối ái ân đành ở nơi con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy
nhiêu.
297 . Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi,
Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau.
Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.
301 . Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Họa trong giấc mộng
giải phiền giao hoan.
305 . Càng bạc phước càng than con
dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
Còn
cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.
309 . Nhịn ăn mặc ngừa
cơn thiếu thốn,
Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
313 . Lớn một tuổi, mẹ
thêm một khổ,
Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân.
Trí con lần mở nẻo gần,
Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng?
317 . Chẳng lẽ nói cho
chàng đen bạc,
Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
Không đành nói thác ra ma.
Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.
321 . Không lẽ nói mến
anh quên én,
Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.
325 . Không lẽ nói đi
qua Đông Độ,
Không lẽ rằng vô số chinh phu.
Lẽ nào nói bị tội tù,
Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.
329 . Còn nói thiệt rằng
chàng phụ thiếp,
Cũng vì mê theo kiếp làng chơi.
E con đến lớn nên người,
Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.
333 . Riêng chịu thảm không than với trẻ,
Đổ lụy rơi theo khóe miệng cười.
Vui là gắng gượng làm vui,
Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi.
337 . Ngàn dâu ngó ngày
chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
Xem chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy
chầy không cha.
341 . Hột cơm tẻ nhai
ra như cát,
Gan còn nguyên như nát bao chừ.
Nuôi con từ lúc đào thư,
Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.
345 . Chàng đâu rõ khúc
khiu cực nhọc,
Lớn khôn ngoan biết học biết hành.
Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành,
Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi.
349 . Càng thấy lớn,
mầng rồi lại sợ,
Mầng nên hình, còn sợ theo cha.
Dường như con vịt mẹ gà,
Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.
353 . Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con làm ngãi cùng con.
Nỗi lo đôi lứa vuông
tròn,
Còn lo gia thất vĩnh
tồn hậu lai.
357 . Định hương hỏa,
hằng bày quí tế,
Lập pháp gia, tự kế
phụng thờ.
Con chàng thiếp trả khi
thơ,
Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.
361 . Lựa cho học các
công các nghệ,
Tính cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.
365 . Hễ phải mặt văn
nhân tài tử,
Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.
Văn là thượng sĩ danh thần,
Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.
369 . Quan thì phải tận
trung vì chúa,
Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.
Sang thì giữ vững ngai vàng,
Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.
373 . Trọng thì lấy đai
cân làm lịnh,
Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.
Nước non để tuổi cùng tên,
Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.
377 . Con thương mẹ dầu
vâng lịnh dạy,
Thương quê hương trọng ngãi quân thần.
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích chung.
381 . Nếu đề đặng tinh
trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử
để dành.
Rủi cơn loạn quốc
khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
385 . Dầu rủi phận nợ
thân chẳng vẹn,
Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao.
Trung thành giữ cõi Nam trào,
Hùng anh trước đặng Ngụy Tào
khiếp oai.
389 . Trước quốc chánh
chia hai tộc chủng,
Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
393 . Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hóa so cũng kịp tha bang.
Xa thơ nay gãy giữa đàng,
Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
397 . Nào quốc thể, người
khi kẻ thị,
Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn.
Nấu sôi cái máu anh phong,
An bang tế thế một lòng lo âu.
401 . Đấng nam tử đâu
đâu cũng nợ,
Khắp năm châu khai mở
qui mô.
Châu lưu tứ hải ngũ hồ,
Thơ hương đắc vận cậy
nhờ dân sanh.
405 . Vùng Nam Hải uy
linh nhứt quốc,
Cỏ rẽ hai chia đất rấp
ranh.
Trời còn roi nước hùng anh,
Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?
409 . Con cũng đứng mày
râu dưới thế,
Nếu kém phương thiếu thế vận trù.
Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
413 . Con phải nhớ da
vàng máu đỏ,
Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc
triều.
Con Hồng cháu Lạc bao
nhiêu,
Thiếu tài khiếm đức,
định triều an bang.
417 . Mẹ dầu phải suối
vàng nhắm mắt,
Vui thấy con đáng mặt
làm trai.
Nhục con, con chịu chớ nài,
Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.
421 . Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại
nhũng quan gian.
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
425 . Đem chơn chánh phô
bày trừ mị,
Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.
Dân thì biết phận làm dân,
Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.
429 . Trừ đảng dữ tham
gian bạo ngược,
Diệt những phường mưu
chước cầu vinh.
Xem dường cuồng khấu
biên đình,
Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.
433 . Xem lịch sử vĩ
nhân mấy mặt,
Đại trượng phu trước giặc vong thân.
Nên danh khai quốc công thần,
Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.
437 . Muốn hiển tổ vinh
tông báo hiếu,
Học cho hay trọng yếu miếu đường.
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,
Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.
441 . Lựa những mặt tài
tình thọ giáo,
Học cho thông mối đạo quân thần.
Trương Lương dâng dép ba lần,
Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.
445 . Trọng Ni nhận vi
sư Hạng Thác,
Học tinh thần khai phát Nho tông.
Gẫm coi tổn bấy nhiêu công,
Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.
449 . Tôn kỉnh thầy cũng
bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
453 . Học đặng định
chánh tà giả thiệt,
Học cho thông đặc biệt hư nên.
Học gan sắt đá cứng bền,
Học cho đủ chước xây nền Nam phong.
457 . Học cho rộng giao
thông tứ xứ,
Học cho cùng xử sự ngoại lân.
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.
461 . Học cho thấu máy
linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu tài hay nhập nước mình,
Làm cho dân hưởng thái bình giàu sang.
465 . Công dạy dỗ muôn
ngàn khó nhọc,
Ơn của thầy con học nên người.
Tài hay tom góp một đời,
Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.
469 . Thầy lao lực tùy
vừa trí trẻ,
Dạy cho thông mọi lẽ gần xa.
Tuổi xanh con đặng trí già,
Còn thơ con học hóa ra lão thành.
473 . Con nhờ thầy công
danh mới toại,
Như nhờ cha mới giỏi hình dung.
Hai ơn ấy gẫm so đồng,
Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.
477 . Xưa ruộng Thuấn
voi cày chim cấy,
Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.
481 . Mẫn Tử Khiên tích
còn roi dấu,
Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
Sợ đàn em dại u ơ,
Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.
485 . Con ví biết trọng
nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.
489 . Nhìn thung đường
đền ơn cúc dục,
Nhớ công sanh giữ chút hình hài.
Dưỡng nuôi lao khổ đắng cay,
Lửa hương chỉn ước có ngày nối xa.
493 . Còn em út trong nhà thơ bé,
Trai dạy khuyên, gái để khép khuôn.
Con đừng quen tánh luông tuồng,
Các em hư nết, gieo buồn song thân.
497 . Một cục máu chia
phân mấy mảnh,
Hình hài em tượng ảnh thân con.
Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.
501 . Ngoài gia tộc,
nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
Đời như trận giặc đua tranh,
Dầu tài một ngựa một mình khó nên.
505 . Coi gương trước
Thánh Hiền ghi lại,
Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.
Tuy là khác thửa đồng bào,
Mà trong sanh tử một màu sắt son.
509 . Lưu Quan Trương
giữ còn nghiệp Hớn,
Gìn trọn thề chết sống có nhau.
Dầu cơn độc mã đơn đao,
Tâm trung nghĩa khí, Ngô, Tào cũng kiêng.
513 . Sài Triệu Trịnh
cũng nguyền như thế,
Mà nên mưu đủ kế đồ vương.
Tống thâu thiên hạ Đại Đường,
Cũng do bởi học nơi trường hữu giao.
517 . Trong vũ trụ hiệp
hào là mạnh,
Phận đồ thơ phải gánh non sông.
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.
521 . Trai nam tử gió trăng là phận,
Đạp nước non đặng tấn khí hùng.
Đi con đường thế gai chông,
Lớn gan hiu quạnh thì lòng cũng nao.
525 . Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn
ta.
529 . Bạn trăm tuổi thân hòa làm một,
Dầu sanh hèn xấu tốt cũng duyên.
Cùng nhau giữ vẹn hương nguyền,
Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.
533 . Con đừng thấy phụ
nhân nan hóa,
Cầm hồn hoa vầy vã thân hoa.
Vợ con thay phận mẹ
già,
Nuôi con mẹ cậy bóng
ngà nữ dung.
537 . Khi tối sớm lạnh
nồng có kẻ,
Thân mật con đặng dễ
giữ con.
Mẹ lo trong lúc còn non,
Vợ con lo lúc thân mòn
gối run.
541 . Nếu khổ cực chung
cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt
tình nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông
công bà.
545 . Con chớ ỷ mình là
nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử
thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện
tỳ,
Quyền trong nội trợ
cũng bì đồng nhau.
549 . Ai nâng đỡ khi
đau lúc ốm,
Ai dù tròn nắng sớm mưa mơi.
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.
553 . Áo trâu đắp đông
sương lạnh lẽo,
Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.
Lập thân đừng để danh lưu,
Cũng như Bá Lý Hề âu bạc tình.
557 . Chém vợ để cầu
vinh thuở trước,
Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.
Con đừng mượn nét khuynh thành,
Lợi thân mà hại đến mình hồng nhan.
561 . Đừng sang trọng
phụ phàng nghèo khó,
Gặp hầu xinh vội bỏ thê hèn.
Cá kia chung chậu hơi quen,
Ái ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.
565 . Gương đẹp đẽ Mãi
Thần thuở trước,
Trọng nhơn luân sau phước nên quan.
Hiền danh ghi tạc giang san,
Nghĩa trung đi cặp con đàng trượng phu.
569 . Tống Hoằng chí
trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
Từ duyên công chúa giao thân,
Đút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.
573 . Biết tình nghĩa
biết mùi ân ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm.
Kìa ai đã gọi ân thâm,
Hơn niềm chồng vợ âm thầm giúp nhau.
577 . Đừng đến lúc ốm
đau chẳng ngó,
Hương sắc xinh lại bỏ hoa tàn.
Những là anh én nhộn nhàng,
Buôn duyên bán nợ như hàng chợ đông.
581 . Có chi trọng đàn
ong xóm bướm,
Nơi phồn ba đậm nhuộm màu gian.
Đừng quen kết lũ vầy đoàn,
Cửa thanh lâu những rộn ràng gió trăng.
585 . Giấc phong nguyệt
xem bằng túy mộng,
Vợ cùng hầu so sóng đồng thương.
Nhỏ thì trọng, lớn thì nhường,
Nơi cân quân tử ra trường đánh ghen.
589 . Coi thân vợ như em
nhỏ dại,
Đem lòng yêu phận gái đơn cô.
Đặng chồng dường thể đặng mồ,
Chôn thây cửa lạ, cậy nhờ ở ai?
593 . Phải tôn kính cành
mai đương nở,
Đừng xa hoa làm mớ hàng chơi.
Sánh mình mỏng mảnh thương người,
Rủi sanh phận gái khó cười với thân.
597 . Gái mẹ dạy ân cần
cho lắm,
Đừng để mình lụy đến sông Tương.
Bông dầu đẹp, khá gìn hương,
Quí chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.
601 . Đóng chặt cửa giữ
nguyên trinh tiết,
Trọng thân danh bền nét đào yêu.
Phụng lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.
605 . Đừng đứng dựa sông
Tương nhắn khách,
Đừng trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm.
Đừng đề thi lá thơ chim,
Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.
609 . Con khá nhớ hồng
nhan phận mỏng,
Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân.
Hồng quần tài sắc đa truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.
613 . Hoa phong nhụy
cung Tiên cũng mến,
Gấm lót đường trọng
tiếng cũng nhơ.
Nhà vàng phận quí khi
thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.
617 . Đừng cho nhiễm lấm
thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
Vườn thu giấu dạng Hằng
Nga,
Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.
621 . Phàm phận gái đứng
hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then
gài,
Ra ngoài nghiêm nghị,
trong bày đoan trang.
625 . Đối với khách
đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói
giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh
tươi,
Tiếng tiêu khải phụng
phục người mới ngoan.
629 . Gặp cơn rảnh nhà
lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
633 . Sửa từ nết ngày
thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
637 . Còn đương thuở
tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
641 . Thánh xưa dạy từ
câu nói hiếu,
Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương cha nên phải bán mình kêu oan.
645 . Bến nước gái mơ
màng trong đục,
Đếm mười hai họa phúc khó lừa.
Xem cha cư xử mà ngừa,
Phòng sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.
649 . Cao niên biết
tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
Sự đời thấu rõ dạng hình,
Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.
653 . Đợi nơi cửa khách
tìm thức ngọc,
Đừng đỗ đường rời bốc đóa hoa.
Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hòa mới nên.
657 . Ai nam tử giữ bền
tơ tóc,
Nhiều người hay lừa lọc câu thề.
Trước khen sau ắt có chê,
Ghi tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.
661 . Rủi để khách tóm
thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.
665 . Nét xuân sắc mấy
hồi là trọng,
Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
Thà cho đáng mặt thuyền quyên,
Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.
669 . Khi gặp đặng phải
trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
Thì toan giữ vẹn chung
tình,
Đưa thoi đừng để lỗi
mình nữ trung.
673 . Đến lúc đã chung
phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.
677 . Vợ Châu Công đình
thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang,
Vợ lo canh cửi cơ hàn tấm thân.
681 . Giúp chồng trọn ân
cần nhiếp chánh,
Mới nên trang chúa thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng kim tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.
685 . Phạm trọng Yêm mấy
lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
May duyên gặp đặng vợ hiền,
Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.
689 . Phải căn nợ cách
non cũng gặp,
Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.
Con xem từ trước đến chừ,
Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?
693 . Dầu đẹp xấu để đời
luận biện,
Vui duyên con, thân miễn an vui.
Đừng chê chồng phận thiệt thòi,
Đáng danh quân tử phải người lang quân.
697 . Chữ hằng dạy thanh
xuân bất tái,
Vợ người rồi danh gái hết kêu.
Noi gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.
701 . Hễ thất nghĩa rẻ
khinh kim cải,
Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.
705 . Tri âm ví đáng dây
cầm nguyệt,
Đừng đem tình chí thiết giao hoan.
Căn duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở
đàng ngại lo.
709.
Trai bảy thiếp cũng cho
chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại
tánh danh.
Con coi phận mẹ mỏng
mành,
Chánh thê nay lại sánh
mình thứ thê.
713 . Muốn còn phước dựa kề quân
tử,
Phải hạ mình đặng xử vuông tròn.
Chia chồng vì dạ sắt son,
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà.
717 . May tiểu thiếp
biết hòa biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng
nợ duyên.
Rủi ro gặp gái bán
thuyền,
Loạn gia phải chịu thảm
phiền lắm cơn.
721 . Thà thấy dạng còn
hơn hiu quạnh,
Nên cắn răng nhịn nhín tình thương.
Ai đời thắt dạ mà lường,
Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.
725 . Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.
Trường đình giục thảm canh thâu,
Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.
729 . Con quốc quốc chưa
âu đổi bạn,
Máu đổ quyên đợi mãn kiếp sanh.
Trượng phu hà hải đã đành,
Nỡ nào đày thiếp một mình tương tư.
733 . Chiêu Quân chịu giã
từ đất Hớn,
Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.
Thiếp nay cũng giống như nàng,
Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.
737 . Còn Tinh Vệ lấp
phiền biển ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
Thiếp thân như ốc mượn hồn,
Sống không biết sống, chết còn ngậm đau.
741 . Nơi Phiên quốc xôn
xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
Cũng như thiếp nặng khối tình,
Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.
745 . Dầu chàng có vui
riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo tội nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho toại hồng
nhan,
Gẫm thân có lúc khốn
nàn ốm o.
749 . Thương chi thật con
đò đưa khách,
Nghĩa chi nồng những
cách bán duyên.
Còn thân còn mến còn
quyền,
Hết ưa hết chuộng thì duyên hết
nồng.
753 . Đây còn nỗi bế
bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ
không con.
Hai vai gánh nặng thân
mòn,
Cơn đau thất nghĩa, hầu hờn
giảm thương.
757 . Chẳng như thiếp
nhớ ơn giải cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu,
Trăm cay ngàn đắng cũng chiều,
Quí thân quân tử, dám liều với thân.
761 . Rẻ rúng bấy, hễ
cân cũng trọng,
Quí bao nhiêu, hờ hững cũng khinh.
Chàng thì nhẹ thể vì tình,
Thiếp thì lo sợ lụy mình trượng phu.
765 . Niềm âu yếm ai đâu
rõ giá,
Vui trăng hoa dối trá là thường.
Ăn nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.
769 . Trông tin nhạn về
đông mòn mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
Khối sầu càng chất càng dày,
Chờ năm, năm lụn, đợi ngày, ngày qua.
773 . Soi kính cũ mặt
hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
Mùi chê dưới mắt chán chường,
Còn duyên chi mộng đến đường tái hôn.
777 . Thôi đành gởi tâm
hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết
tam tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.
781 . Ngắm đường thế đã
mòn vinh nhục,
Đổi thay duyên đặng phúc hạnh gì.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.
785 . Liếc mắt ngó vào
trường phong nguyệt,
Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.
Chừng cơn phấn lạt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.
789 . Nào những khách
đoạn trường kim cổ,
Bởi trái duyên nên lỡ gót trần.
Bán xuân khi đắt giá xuân,
Thu qua để thẹn hồng quần biết bao.
793 . Hỏi đến khách sớm
đào tối mận,
Đon những trang ngọc cận hương thân.
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?
797 . Bởi thuyền bá sóng
xao biển ái,
Bởi non thề sương trải lạnh lùng.
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.
801 . Bởi nhan sắc không
khoe không mặn,
Bởi hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.
805 . Bởi hoa chạ bên
đường dễ hái,
Bởi buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn hay vặn lắm trục lờn,
Đổi hơi cầm sắt ra trường ca xang.
809 . Bởi vào trướng ra
màn hết vị,
Bởi ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.
813 . Bởi mến cảnh đôi
cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài
hoa.
Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn chong buồn bực lập lòa rèm thu.
817 . Bởi quen mặt đào
châu bớt đẹp,
Bởi nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê vành xuân hết bịu mai.
Kiếm đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.
821 . Bởi cửa tía bóng
trời nồng nực,
Bởi hiên thu gió chật đường ong.
Cánh hồng quen với cuồng phong,
Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.
825 . Bởi cung Quảng
bóng Hằng nhấp nhóa,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.
829 . Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca hay quên hẳn giọng đờn,
Một đêm túy mộng sánh hơn gặp vàng.
833 . Nơi tửu điếm nhà
lang khác hẳn,
Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
837 . Thiếp biết phận
cánh buồm dưới gió,
Đã khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.
841 . Soi bóng nước đặng
nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.
845 . Mảng gượng vui
cùng đàn cháu dại,
Chỉ lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc xanh là bạn mày nhăn,
Nên ba dạy cháu biết bằng năm mươi.
849 . Khóc của mụ pha
cười của trẻ,
Chậm của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.
853 . Nương con gậy ra
vào lụm cụm,
Lưng gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ
tri Thiên.
857 . Bỗng tiếng sấm
gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.
861 . Khi tỉnh giấc còn
trong vòng tục,
Mới biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá chi một mảnh xương tàn,
Đày cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.
865 . Một thân góa tang
y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu sương chất trắng khối tình,
Bao nhiêu ân ái trong mình tử thi.
869 . Ngó vạn vật cũng
kỳ lẽ chết,
Nghe non sông như hết khí sinh.
Hỏi ta có sống thật tình,
Hay là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.
873 . Xem cây cỏ như màu
thảm đạm,
Ngó thú cầm dường cảm đau thương.
Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình chàng như gắn nẻo đường vô ra.
877 . Kìa đào lý tàn già
đã cỗi,
Nhắc tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào là trời lặn bóng tà,
Đêm khuya chờ lụng canh gà thăm em.
881 . Kìa cụm liễu gió
đêm xao xác,
Đám chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
Ấy là nơi thiếp trao lời,
Trăm năm khi hứa nửa đời buổi nay.
885 . Kìa đầu rừng chòm
mai đua nở,
Trước xem màu hớn hở như nay,
Cớ sao như ủ như vày,
Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.
889 . Kìa lũ én dật dờ
cánh liệng,
Dựa chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng ta thân mất hình chôn cớ nào?
893 . Bầy hồng nhạn lao
xao vịnh liễu,
Đám cò ngà bận bịu gành khơi.
Là nơi lúc đứng khi ngồi,
Trông trăng hẹn biển, ngó trời thề non.
897 . Kìa đường cũ bước
mòn lãng tử,
Đám thú nhà dụ dự bước chiều.
Ấy là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.
901 . Kìa bến nước dập
dồn sóng dợn,
Chỗ đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà sao buổi ấy bây giờ khác nhau?
905 . Kìa nhịp cầu bên
đầu khe nhỏ,
Đông chòm cây, Tây có triền bưng.
Ấy nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà nay như nhắc mấy từng tương tư.
909 . Kìa chùa cũ nóc hư
muốn sập,
Nơi đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ sao cảnh tịnh úa xào,
Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.
913 . Bóng hải đường ta
ngồi buổi nọ,
Bồng con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa
mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn
nầy lặng trang.
917 . Kìa cuối xóm mấy
hàng trước tử,
Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.
Ấy là nơi thiếp đến thường,
Thăm chàng đang học nơi trường sân ngô.
921 . Kìa xóm rẫy nấm mồ
lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò đâu phút nổi thình lình,
Nào dè chàng cũng đến giành một nơi.
925 . Để thân thiếp mình
ngồi hiu quạnh,
Còn thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.
929 . Tiếng oan ương bên
tai dan díu,
Gió đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ nghe lời vật thế nào,
Mà ra như tiếng chàng chào buổi xưa.
933 . Nhành dâu khuất,
bóng đưa mờ mệch,
Cội tà dương như hết reo chiều.
Hương tàn gió tối hiu hiu,
Dở chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?
937 . Ai sau gót giây
lâu như nói,
Xin người thương tha lỗi khi xưa.
Giận đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách mình nào có đổ thừa phụ duyên.
941 . Phải buổi trước
đừng phiền đừng oán,
Để nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm chi rẽ nợ ba sinh,
Mà nay phải chịu một mình riêng thương.
945 . Tội chàng trước
tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng
than,
Thương kia bao nả lại
càng thêm thương.
949 . Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn thân sống chịu phong trần,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét