Nữ Trung Tùng Phận - 1 / 13 (Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút)


bài giáng cơ đầu tiên:
Nữ Trung Tùng Phận
Phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Thế
Giáo Tông Đường,
đêm 26-2- Quí Dậu (dl 21-3-1933).
Hầu đàn: Đức Q. Giáo Tông,
Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh,
Giáo Hữu Thượng Trí Thanh.
Hầu bút: Sĩ Tải Võ thành Quốc.

Giới thiệu Tác phẩm
Nữ Trung Tùng Phận
Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút
Năm Quí Dậu - 1933
Tác giả Đức Nguyên: Giới thiệu & Chú thích
Nữ Trung Tùng Phận là một tác phẩm độc nhứt vô nhị trong kho tàng văn chương Việt Nam, vì nó không do một con người bằng xương bằng thịt nơi cõi phàm trần sáng tác, mà do một Đấng Nữ Tiên nơi Thượng giới dùng huyền diệu Tiên gia trong Đạo Cao Đài giáng cơ viết ra.
          Đấng Nữ Tiên đó là Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mà Chơn linh là một Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung của Đức Phật Mẫu.
          Đây là một tác phẩm giáo dục, dạy Nữ phái về Nhơn đạo và Thiên đạo. Nhơn đạo gồm Tứ Đức và Tam Tùng. Khi Nhơn đạo xong thì người phụ nữ cần tiến lên tu Thiên đạo, cầu sự giải thoát khỏi luân hồi.
         Trong thời Hạ nguơn Mạt kiếp, khoa học tiến bộ vượt bực, làm cho nền văn minh vật chất lấn át cả tinh thần, đưa nhơn loại xu hướng vào đường vật dục hơn là đạo đức tinh thần, làm cho nền tảng đạo lý suy đồi, luân thường điên đảo.
        May mắn cho nhơn loại, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần mở Đạo Cao Đài để cứu vớt nhơn sanh, lập nên 5 nấc thang tiến hóa cho nhơn loại, mà khởi đầu là Nhơn đạo, tiến lên kế trên là Thần đạo, rồi Thánh đạo, Tiên đạo và nấc thang thứ năm là Phật đạo.
         Trong phần Nhơn đạo, Đức Chí Tôn chủ trương "Nho Tông Chuyển Thế", nghĩa là lấy tinh hoa của giáo lý Nho giáo làm căn bản để giáo hóa nhơn sanh, chỉnh đốn kỷ cương xã hội, khiến cho đời dần dần trở nên thuần lương đạo đức, đưa xã hội loài người tiến đến hòa bình Đại đồng Huynh đệ.
         Trong chiều hướng đó, nhiều Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, giáng cơ giảng dạy về Nhơn đạo, trong đó có Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ viết nên tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận có mục đích giáo hóa Nữ phái, lấy Nhơn đạo làm nền tảng. Người phụ nữ cần phải trau giồi Tứ Đức, thực hành Tam Tùng, giúp chồng làm nên sự nghiệp, dạy dỗ con cái thành nhơn chi mỹ, hữu ích cho xã hội. Khi đã xong phần Nhơn đạo thì nương theo bóng Đức Chí Tôn tìm lên những nấc thang tiến hóa cao hơn là Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo, mà vượt qua bể khổ, thoát đọa luân hồi.
         Nữ Trung Tùng Phận là một áng văn chương tuyệt tác siêu phàm, được Đoàn Tiên Nương giáng cơ viết ra gồm 1401 câu thơ song thất lục bát, cùng một thể thơ với tác phẩm Chinh Phụ Ngâm. Đó là một lối thơ Việt Nam rất sở trường của Bà.
         Tiên Nương Đoàn Thị Điểm viết Nữ Trung Tùng Phận với tất cả kinh nghiệm sống của Bà trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần: Làm con trong gia đình phụng dưỡng cha mẹ già, làm em giúp đỡ lo lắng cho anh chị và các cháu, rồi làm vợ, làm mẹ (mẹ nuôi), cộng với sự thông huệ của một bậc Thiên Tiên nơi cõi thiêng liêng, nên tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận xuất sắc hơn nhiều so với Chinh Phụ Ngâm về phương diện nhẹ nhàng thanh thoát, đầy lòng bác ái vị tha.
         Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ viết Nữ Trung Tùng Phận, khởi đầu vào đêm 26-2 - Quí Dậu (dl 21-3-1933) tại Giáo Tông Đường Tòa Thánh Tây Ninh, sau đó Bà yêu cầu hai vị Phò loan là Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Tiếp Thế Lê thế Vĩnh tiếp tục phò loan mỗi đêm để Bà tiếp tục viết cho xong tác phẩm.
        
Xin chép ra sau đây bài giáng cơ đầu tiên:
            Phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Thế 
            Giáo Tông Đường, đêm 26-2- Quí Dậu (dl 21-3-1933).
            Hầu đàn: Đức Q. Giáo Tông,
            Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh,
            Giáo Hữu Thượng Trí Thanh.  
            Hầu bút: Sĩ Tải Võ thành Quốc.          
            Đoàn Thị Điểm Tiền trào Nữ sĩ

            Đức Quyền Giáo Tông hỏi: Có phải Bà viết ra quyển Chinh Phụ Ngâm chăng?
            - Phải. Tùng Thất Nương.
            Đức Quyền Giáo Tông hỏi tiếp: Sao trong quyển Quốc Văn Trích Diễm ghi Bà họ Nguyễn?
            - Chánh tông Đoàn, cải tông Nguyễn.
            Đức Quyền Giáo Tông nói: Anh em tôi rất mừng Bà và sẵn đây xin Bà cho thi đặng dạy Nữ phái.
            - Xin nghe: Nữ Trung Tùng Phận.
Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.

Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.

Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

            Xin phò loan kỳ sau tiếp, Thăng.
             
         Qua nhiều lần phò loan cho Bà viết tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận, khi thì phò loan ở Giáo Tông Đường, khi thì ở Hộ Pháp Đường, Bà viết được khoảng 1000 câu thơ thì cơ không viết được nữa. Đức Phạm Hộ Pháp biết rằng Bà đã viết xong phần Đời (Thế), bắt đầu viết sang phần Đạo, cần phải có một vị Thời Quân chi Đạo phò loan thì Bà mới viết được. Do đó, Đức Phạm Hộ Pháp hỏi Bà để đánh điện tín qua Nam Vang gọi Ngài Cao Tiếp Đạo về Tòa Thánh phò loan cho Bà viết tiếp, thì Bà trả lời là khỏi cần đánh điện tín, ngày mai Tiếp Đạo sẽ về tới Tòa Thánh.
         Quả thật, chiều hôm sau, Ngài Cao Tiếp Đạo về tới Tòa Thánh, và ngay tối hôm đó, Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan với Đức Phạm Hộ Pháp, thì Bà viết tiếp Nữ Trung Tùng Phận cho đến hết, gồm tất cả 1401 câu thơ, hoàn thành tác phẩm vô cùng giá trị nầy.
         Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo ngày 26-10-Tân Mão (dl 24-11-1951) có nói về Bà Đoàn Thị Điểm như sau:
         "Khi Bà Đoàn Thị Điểm qui vị, bị ngồi nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, nhờ Cô Thất Nương xuống độ Bà về Lôi Âm Tự, rồi nhờ Bà viết ra một cuốn Nữ Trung Tùng Phận, Bà mới siêu thoát được."
         Như vậy, dù nguyên căn là một vị Nữ Tiên nơi Diêu Trì Cung, Bà Đoàn Thị Điểm vì thiếu công quả cứu độ chúng sanh, nên khi qui liễu, Bà không được trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
         Bà phải chờ đợi 178 năm sau, đến khi Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926), mở ra thời kỳ Đại Ân Xá, rồi Bà phải chờ đợi thêm 7 năm nữa, tức đến năm 1933, Bà mới có dịp lập công quả bằng cách giáng cơ viết ra tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận để giáo hóa và cứu độ các tín đồ Nữ phái, nhờ đó, Bà mới được trở về ngôi vị cũ là một Nữ Tiên nơi Diêu Trì Cung. (Bà Đoàn Thị Điểm mất năm Đinh Mão (1748), tính đến năm Khai Đạo Bính Dần (1926) là 178 năm. Xem phần Tiểu sử).
         Sau đó, vào năm Ất Hợi (1935), Tiên Nương Đoàn Thị Điểm được lịnh Ơn Trên giáng cơ ban cho Đạo Cao Đài 8 Bài Kinh Thế đạo dùng để tụng trong tang lễ, kể ra sau đây:
            1 . Kinh tụng khi Vua thăng hà.
            2 . Kinh Tụng khi thầy qui vị.
            3 . Kinh cầu Tổ Phụ đã qui liễu.
            4 . Kinh tụng Cha Mẹ đã qui liễu.
            5 . Kinh cầu Bà con Thân bằng Cố hữu đã qui liễu.
            6 . Kinh tụng Huynh đệ mãn phần.
            7 . Kinh tụng khi chồng qui vị.
            8 . Kinh tụng khi vợ qui liễu.
         * Trong tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn Thị Điểm xác nhận trong kiếp sanh của Bà, Bà đã viết ra tác phẩm Chinh Phụ Ngâm qua 4 câu thơ trong phần mở đầu từ Câu 9 đến Câu 12:
Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
        
* Chúng ta còn nhận thấy rằng, trong Nữ Trung Tùng Phận có một vài câu thơ với những từ ngữ có ý nghĩa rất giống với các câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm:
Nữ Trung Tùng Phận:  
            Câu 224: Phụ thân thế phận cho chàng dạy khuyên.
            Câu 228: Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.
            Chinh Phụ Ngâm: Câu 159: Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam.
            Câu 160: Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
        
* Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm chỉ có 412 câu thơ song thất lục bát, so với tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận 1401 câu thơ, cũng song thất lục bát, thì Nữ Trung Tùng Phận vĩ đại hơn nhiều.
         Chinh Phụ Ngâm đã đưa Bà Đoàn Thị Điểm lên địa vị thứ nhứt trong các Nữ sĩ của văn đàn Việt Nam, đứng trên Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Sương Nguyệt Anh, vv...
         Do đó, trước khi đi vào nội dung tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận, chúng ta tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp, tài năng văn chương và tâm trạng của Bà khi diễn Nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm.          
Thi:
Nữ Trung Tùng Phận của Đoàn Nương,
Giáng bút đề thi mấy tháng trường.
Giáo hóa hồng nhan giồi bá hạnh,
Luyện rèn tâm tánh trở thiên lương.
Nho Tông Chuyển Thế tùng Nghiêu Thuấn,
Đại Đạo Tam Kỳ kiến Phật Vương.
Công quả đủ đầy qui cựu vị,
Hồng Hà * Tiên Nữ trước làm gương.
                                                                                              Đức Nguyên
(* Hồng Hà : Bút hiệu của Bà Đoàn Thị Điểm)

Tiểu sử
Bà Đoàn Thị Điểm
(1705-1748)
Thân thế:
         Bà Đoàn Thị Điểm, hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Hiến Phạm (còn gọi là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng. Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì Bà lấy chồng họ Nguyễn (Ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép Bà là Nguyễn Thị Điểm. Đây là một sai lầm đáng tiếc. Bà sanh năm Ất Dậu (1705), thời nhà Lê Trung Hưng, đời vua Lê Hy Tông, Chúa Trịnh là Định Vương Trịnh Căn và Chúa Nguyễn ở phương Nam là Nguyễn Phúc Chu.

         Theo gia phả họ Đoàn, Tằng tổ của Bà Điểm là Ông Lê Công Nẩm, làm quan võ tới chức Thái Thường Thị Thiếu Khanh, được tước phong Thiêm Hào Tử; Nội tổ là Ông Lê Doãn Vi (có bản viết là Lê Công Vị), người có tài văn học, làm quan đến chức Xã quan; Thân phụ là Ông Lê Doãn Nghi, từng theo học với các vị Tiến Sĩ như Nguyễn Hanh (ở Hoa Cầu, huyện Văn Giang), Đoàn Tuấn Hòa (ở Cự Đồng huyện Siêu Loại), đậu Hương Cống (Cử Nhân) năm 21 tuổi, nhưng rớt kỳ thi Hội ở Thăng Long, bèn kiếm chỗ dạy học ở kinh kỳ để dồi mài kinh sử thêm nữa chờ khóa thi sau.
         Ông Lê Doãn Nghi nằm mộng thấy một vị Thần linh bảo Ông đổi sang họ Đoàn thì mới hiển đạt. Do đó, từ đây, Ông đổi qua họ Đoàn, gọi là Đoàn Doãn Nghi.
         Hiện nay ở huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng còn có ngôi thờ nhà họ Đoàn. Năm 1944, Trúc Khê Ngô Văn Triện (người ở ngoại thành Hà Nội) có tới thăm ngôi thờ nầy và có ghi được đôi câu đối:
Vũ liệt văn khôi quang thế phả,
Lê tiền Đoàn hậu ký Thần ngôn.
                                   Tạm dịch:
Võ giỏi văn tài ngời phả họ,
Lê xưa Đoàn mới nhớ lời Thần.
        
            Năm Ông Đoàn Doãn Nghi được 20 tuổi, ở tại quê nhà, Ông có lấy một người vợ họ Nguyễn, sanh được một người con trai tên Đoàn Doãn Sỹ, sau Đoàn Doãn Sỹ cũng thi đậu Hương Cống và làm Tri Huyện tại Châu Hoan (Nghệ An).
         Khi Đoàn Doãn Nghi dạy học ở Thăng Long, Ông có lấy thêm một bà vợ nữa là con gái của quan Thái Lĩnh Bá họ Vũ, nhà ở phường Hà Khẩu, gần Hồ Hoàn Kiếm. Nguyên vào một buổi tối rằm Trung Thu, Ông Hương Cống họ Đoàn cùng mấy người bạn đi xem bày cỗ triển lãm Trung Thu ở kinh thành, thấy nơi đây có một cô gái xinh đẹp rất có duyên thì đâm ra mê mẩn, liền cậy người mối lái đến hỏi cưới.
         Năm 1703, người vợ họ Vũ nầy sanh được một con trai đầu lòng, đặt tên là Đoàn Doãn Luân; qua 2 năm sau, năm 1705, sanh thêm một đứa con gái đặt tên là Đoàn Thị Điểm.
         Hai anh em Luân và Điểm, từ bé được nuôi dưỡng ở gia đình Ông Bà ngoại là quan Thái Lĩnh Bá. Quê của họ Vũ ở làng Vũ Điện, huyện Nam Sang (còn gọi là Nam Xương), nên ngay từ tấm bé, hai anh em thường được nghe mẹ và bà ngoại kể chuyện Thiếu phụ Nam Xương là nàng Vũ Thị Thiết nổi danh tiết liệt.
         Cô Điểm, mặc dầu là gái nhưng rất được gia đình nâng niu, ngay từ thuở nhỏ được học chữ nghĩa giống hệt như anh Luân, học đủ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Ngoài ra Cô Điểm còn được mẹ dạy nghề Nữ công làm những món khéo léo đặc biệt để tham dự hội Triển Lãm như: Những khúc mía được làm thành lầu cao gọi là Đài Chín Từng, những trái hồng ngâm dùng làm hình các Cô Tiên múa nón trong đêm Hội Long Trì, những vỏ trái bưởi được cắt xếp thành hình hoa quỳnh, v.v...
         Hai anh em Luân và Điểm lớn lên đều có dáng người đẹp đẽ, tư chất thông minh vượt bực và có văn tài đặc biệt.
         Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến khi 5 tuổi thì biết ráp thành câu, đến năm 10 tuổi thì học thông Kinh Sử, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống, nhưng sau đó lại rớt kỳ thi Hội.
         Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học cho con trai của mình. Bạn học ấy tên là Lê Hữu Hỷ, có bản chép là Lê Hữu Mưu. Hỷ và Mưu là 2 anh em ruột. Con gái của Hỷ tên là Lê Thị Vy. Sau lễ Hỏi ít lâu, chẳng may Cô dâu bị bệnh đậu mùa, cứu sống được nhưng mặt bị rỗ hoa và chân tay lóng cóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân nầy vì e rằng không đảm bảo hạnh phúc vợ chồng. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhứt quyết giữ hạnh người quân tử, một dạ thủy chung, không đổi Ó vì sắc đẹp, làm mọi người đều kính phục.
         Lê Thị Vy về nhà họ Đoàn, gặp hoàn cảnh nhà chồng mẹ hiền em thảo, hết lòng giúp đỡ mọi việc trong nhà.
         Năm 1726, vợ Doãn Luân sanh đặng con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương, 3 năm sau sanh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y. Ngay từ khi lọt lòng, 2 cháu Khương và Y đều được Cô ruột là Điểm chăm sóc tận tình.
         Đoàn Thị Điểm là một giai nhân đức độ, có tư cách cao thượng, văn tài càng lúc càng thêm lỗi lạc.
         Năm 16 tuổi, Cô Điểm nổi tiếng là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng Lê Anh Tuấn, vốn đã quen biết nhiều với Đoàn Doãn Nghi, mến tài văn chương và đức hạnh của Cô Điểm nên nhận Cô làm con nuôi. Kể từ đó, Cô Điểm về ở nhà của dưỡng phụ tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long. Quanh đây toàn là dinh thự của các quan lớn trong triều như dinh quan Tham Tụng Nguyễn công Hãn,... Quan lại khắp nơi đều luôn luôn lui tới các nhà quan Đại Thần ở phường Bích Câu để cầu cạnh chức tước bổng lộc; còn các văn nhân lui tới nơi đây để tìm thầy và tìm bạn luyện tập văn bài, chờ khi ứng thí. Đó là dịp để Cô Điểm quen biết nhiều người có danh vọng, có khoa bảng, và cũng chính vì vậy mà tiếng tăm về tài ứng đối văn chương và về hoa tay khéo léo của tài nữ họ Đoàn được đồn vang.
         Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thơ Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc:
Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu,
Truy tùy tả hữu cổ quăng thần.
                                   Dịch nghĩa:
Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn,
Đi theo trái phải, tay chân là bờ tôi.
        
            Ông Hãn đã đỗ Tiến Sĩ năm 21 tuổi, thường tự phụ về tài mẫn tiệp của mình, nay thấy Cô Điểm chưa đầy 20 tuổi mà làm được như vậy thì Ông vô cùng kinh ngạc, khen ngợi luôn miệng, thưởng cho Cô 10 quan tiền và chúc mừng Lê Anh Tuấn có phước.
         Trong thời gian ở nhà dưỡng phụ, Cô Điểm có dịp đọc được rất nhiều sách quí báu trong kho sách của quan Thượng Thơ, nhờ vậy mà kiến thức của Cô Điểm trở nên rộng rãi hơn trước nhiều. Dưỡng phụ của Cô muốn cho Cô có dịp đem tài năng thi thố nên tiến cử Cô vô cung Chúa Trịnh để dạy các cung nữ, nhưng Cô nhứt định từ chối, vì không muốn bị gò bó trong chốn triều đình.
         Cô Điểm có thêu 3 cái túi đựng trầu cau rất đẹp để đeo bên cạnh dây lưng: Chiếc túi thứ nhứt thêu hình 3 cây Tùng Trúc Mai, phía dưới có thêu 2 chữ Tam Hữu; chiếc túi thứ nhì thêu hình Bát Quái, đặc biệt chiếc túi thứ ba thêu 2 câu thơ của Lý Bạch đời Đường:
Đãn sử chủ nhân năng túy khách,
Bất tri hà xứ Thị tha hương.
                                   Dịch nghĩa:
Chỉ cốt chủ nhân say nổi khách,
Chẳng hay đâu nữa chốn quê xa.

         Chiếc túi thêu 2 câu thơ nầy, Cô Điểm rất quí, luôn luôn đeo bên mình. Có người xin đổi chiếc túi ấy với ngôi nhà bằng gỗ soan nhưng không được.
         Tài nữ công của Cô Điểm được các Tiểu thư phường Bích Câu rất khâm phục, nên nhiều cô đến xin học tập.
         Thân phụ của Cô Điểm, Ông Đoàn Doãn Nghi được bạn bè khuyên nên nhận một chức quan nhỏ, nhưng Doãn Nghi với tính phóng khoáng, không quen gò bó luồn lụy, nên không chịu nhận, và Ông chọn con đường dạy học. Hơn nữa, Ông thấy con là Doãn Luân đã đỗ Hương Cống rồi, tuy rớt thi Hội, nhưng còn trẻ, chắc sau nầy có thể đậu được, còn con gái là Cô Điểm thì đã có nơi quyền quí để nương tựa, bề gia thất sau nầy cũng dễ, nên Đoàn Doãn Nghi chuyển đi dạy học ở thôn Lạc Viên, huyện An Dương, nay thuộc Hải Phòng.
         Dạy học ở Lạc Viên được vài năm, Đoàn Doãn Nghi đau bịnh và mất tại đây, vào năm 1729. Anh em Luân và Điểm đưa xác cha về an táng tại quê nhà. Nhiều học trò của Ông Nghi góp tiền làm một nhà thờ, và dựng mộ bia cho thầy học. Bia dựng năm Kỷ Dậu (1729), thời vua Lê Vĩnh Khánh.
         Nhân tiện chuyến nầy, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại gần bên.
         Lúc nầy, Đoàn Thị Điểm cũng xin với dưỡng phụ cho phép về quê nhà đặng săn sóc mẹ già, giúp anh và chị dâu quán xuyến công việc gia đình.
         Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học. Chị dâu trước đây là một tiểu thư khuê các, nhưng vì bịnh đậu mùa làm cho gương mặt trở nên xấu xí, tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế chị dâu lo việc tề gia nội trợ, lại giúp anh trong việc giao thiệp với bên ngoài. Cô Điểm tỏ ra rất đảm đang và lịch thiệp trong mọi công việc. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh Luân giảng sách cho đám học trò.
         Nhiều giai thoại văn chương rất lÓ thú xảy ra trong giai đoạn nầy còn ghi chép trong sách vở. (Xem ở phần sau).
         Gia đình họ Đoàn đang sống an vui như thế thì Đoàn Doãn Luân bị bạo bịnh đột ngột từ trần, để lại 2 đứa con thơ chưa đầy 10 tuổi với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Năm đó là năm 1735.
         Đoàn Thị Điểm đọc một bài văn tế trước quan tài của anh rất lâm ly thống thiết, nhắc lại cảnh gia đình đơn chiếc, ai nấy đều cảm động không cầm được giọt lệ. Cô Điểm và chị dâu đưa xác anh về an táng nơi quê nhà, kế mộ phần của cha.
         Gia cảnh bây giờ rất hiu quạnh, chị dâu thì thiếu đảm đang, lại mất sinh kế nuôi sống gia đình. Cô Điểm phải mở tiệm xem mạch và hốt thuốc Bắc cho dân chúng quanh vùng. Cô có tay phục dược, nên người đến xem mạch hốt thuốc khá đông, nhờ vậy có đủ tiền nuôi mẹ và lo cho 2 cháu và chị dâu được tươm tất.
         Đối với mẹ thì Cô Điểm được trọn hiếu, đối với chị dâu thì trọn nghĩa, nuôi dạy 2 cháu Lệnh Khương và Doãn Y khôn lớn nên người.
         Trong thời gian nầy, nhiều người đem lễ vật trọng hậu tới cầu hôn, nhưng Cô Điểm nhứt định từ chối. Cô rất kén chồng vì Cô gồm đủ tài sắc và đức hạnh. Cô kén một người chồng có tài đức tương xứng với Cô, chớ không nghĩ đến giàu sang hay chức tước. Cô rất ghét bọn giàu có mà dốt nát. Nhiều người có quyền thế tìm cách bắt ép Cô phải ưng họ, nhưng Cô cương quyết không chấp nhận và tìm cách tránh né. Việc nầy đã làm Cô bực mình không ít. Một việc đáng ghi nhớ là quan Bính Trung Công Vũ Tất Thận, cậu ruột của Chúa Trịnh Doanh định làm lễ rước dâu bắt cóc Cô Điểm. Ông tổ chức một lễ rước dâu với đầy đủ nghi tiết mà không cho gia đình Cô Điểm biết trước, thình lình đi đến nhà Cô Điểm. Ông sắp đặt sẵn với đám gia nhân, xông đại vào nhà, bắt ép Cô Điểm mặc áo Cô dâu vào, rồi đỡ Cô ra kiệu rước về phủ. Cô Điểm như đã có chuẩn bị trước, liền bình tỉnh đi ra nhà sau, mặc giả dạng là đầy tớ đi mò cua, bùn đất dính đầy quần áo, mặt mày tèm lem, đội nón rách đi thẳng ra cổng rồi lánh mặt sang làng bên. Thế là quan Bính Trung Công bị một phen mắc lỡm.
         Nhân dịp có người tiến cử Cô Điểm vào cung Chúa Trịnh để dạy học, Cô Điểm không từ chối như lần ở với dưỡng phụ, liền nhận lời để khỏi phải lo đối phó với những kẻ không xứng đáng đến cầu hôn hoài.
         Trong thời gian làm việc trong cung, Cô luôn luôn liên lạc với gia đình để cung cấp tiền bạc nuôi mẹ già, chị dâu và 2 cháu. Nhưng khi ở trong cung, Cô lại thấy rõ những điều xấu xa bỉ ổi trong đám quan lại, sự thối nát của triều đình, nên Cô chán nãn xin trở về quê nhà.
         Lúc bấy giờ, giặc giã nổi lên đánh phá khắp nơi, Cô Điểm cùng mẹ, chị dâu và 2 cháu phải bỏ làng Vô Ngại, tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Năm ấy là năm 1739, Cô Điểm được 35 tuổi.
         Cô không muốn làm nghề xem mạch hốt thuốc nữa, vì nó không phải là chí hướng của Cô, mà chí hướng của Cô là mở trường dạy học, mong đem hết sở học bình sanh truyền lại cho thế hệ sau, đào tạo lớp người mới, vừa có kiến thức cao, vừa có đạo đức để giúp dân giúp nước. Cô rủi sanh làm phận Nữ lưu, nên dù học hành tài giỏi đến bực nào đi nữa cũng không được phép ra ứng thí để thi thố tài năng, nên việc mở trường dạy học là một lối thoát cho tinh thần của Cô, và Cô cũng nhận thấy, từ trước tới nay chưa có một phụ nữ nào dạy học mà có học trò thành đạt cả. Cô quyết tâm làm nên sự lạ, nên xin mở trường dạy học đào tạo nhân tài. Đúng với lòng mong ước của Cô, trong số học trò, có Ông Đào Duy Doãn ở làng Chương Dương, sau nầy thi đậu Tiến Sĩ năm 1763 (nhưng rất tiếc Cô Điểm không hưởng được niềm vui nầy vì Cô đã mất năm 1748).
         Trong thời gian Cô Điểm dạy học, Ông Nguyễn Kiều nhiều lần đến xin cầu hôn. Năm đó Cô Điểm 37 tuổi.
         Ông Nguyễn Kiều, hiệu là Hạo Hiên, sanh năm 1695 (lớn hơn Cô Điểm 10 tuổi), tại làng Phú Xã huyện Hoài Đức, 18 tuổi đậu Giải Nguyên, 21 tuổi đậu Tiến Sĩ, là người có tài văn học lỗi lạc.
         Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Ông là bậc danh nho nổi tiếng từ thời còn trẻ, văn hay chữ tốt, sớm đỗ đại khoa nên tính khí có phần kiêu ngạo. Nhiều nhà quyền quí gọi Nguyễn Kiều đến gả con gái cho. Vợ đầu tiên của Nguyễn Kiều là Cô Lê Thị Hằng, con gái của quan Thượng Thơ Lê Anh Tuấn, dưỡng phụ của Cô Điểm. Cô Hằng mất sớm và không có con. Người vợ kế là Cô Đoan, con gái của quan Tham Tụng Nguyễn Quí Đức. Cô Đoan sanh được 2 con trai và 1 con gái, rồi cũng qua đời lúc chưa tới 30 tuổi.
         Sách Đoàn Thị Thực Lục chép việc Ông Nguyễn Kiều cầu hôn Cô Điểm như sau: "Một hôm Cô đang giảng bài cho học trò thì từ ngoài có một người vén rèm bước vào, theo sau có vài đầy tớ mang cái quả sơn son thếp vàng, trong quả có một phong thơ dán kín. Bức thơ nầy là của quan Thị Lang, người làng Phú Xã, tên là Nguyễn Kiều gởi thơ đến cầu hôn. Cô Điểm chép miệng than rằng: Lúc trẻ ta mong được người nầy đến cầu hôn. Đã trải qua hơn 20 năm, ta không bao giờ nghĩ tới nữa. Ta từng nhủ lòng, hạng người tài tử giai nhân rất hiếm trên đời nầy. Tốt hơn ta nên rửa lấy lòng trần, an nhàn nuôi lấy khí tượng thanh bình."
         Cô Điểm còn đang suy nghĩ chưa vội trả lời thì chừng 10 ngày sau, Nguyễn Kiều lại sai một người mang thơ đến nữa. Trong bức thơ kỳ nầy, lời lẽ rất khẩn thiết chân thành, có đoạn như sau: "Tôi rất bận việc quan, lại phải lo chuẩn bị lên đường, việc nhà không ai coi sóc và cai quản. Tôi nghĩ rằng Cô cùng nội trợ tôi vốn trước có tình nghĩa chị em, nếu Cô vui lòng đùm bọc cho nội trợ tôi thì thật là may mắn cho cả nhà tôi đó."
         Cô Điểm đọc thơ lần nầy có vẻ cảm động, nhưng vẫn chưa muốn đem mình vào cuộc hôn nhơn muộn màng, gây thêm phiền nhiễu, nhưng mẹ già và cả gia đình đều muốn Cô chấp nhận, cả đám học trò cũng hoan nghinh, nên Cô Điểm chấp nhận kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Cô Điểm được 39 tuổi.
         Bà Đoàn Thị Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu Ó hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng chưa đầy một tháng sau thì quan Thị Lang Nguyễn Kiều được lịnh vua làm Chánh Sứ sang triều cống nhà Thanh. Ông phải từ giã Bà để phụng chiếu ra đi. Lệ thường, đi sứ như vậy trong vòng 2 năm thì trở về tới nhà, nhưng lần nầy, khi sứ bộ trở về tới Quảng Tây, gặp lúc dân chúng vùng nầy nổi lên chống nhà Thanh nên bị nghẽn đường. Sứ bộ Việt Nam  phải lưu lại cả năm trời, chờ cho đến khi yên giặc. Trong thời gian nầy, Nguyễn Kiều làm nhiều bài thơ, gởi hồn mộng nhớ nhung đến người vợ mới cưới nơi quê nhà, nhứt là trong những ngày Tết tha hương:
            Tứ thơ niềm khách bên đèn mộng,
Tiếng pháo hò xe rộn ngõ ngoài.
         Trong lúc Nguyễn Kiều đi sứ Trung Hoa, ở nhà, Bà Đoàn Thị Điểm, khi thì ở bên nhà chồng săn sóc 3 đứa con của chồng trong đời vợ trước, khi trở về nhà mẹ ruột thăm hỏi mẹ già, cùng chăm nom 2 đứa cháu kêu bằng Cô ruột.
         Trong khoảng thời gian nầy, Ông Đặng Trần Côn có gởi đến cho Bà xem thi phẩm của Ông: Chinh Phụ Ngâm viết bằng Hán văn. Bà đọc say mê, vì tác phẩm nầy hay quá! Bà cảm thấy nỗi lòng của nàng chinh phụ trong tác phẩm giống hệt tâm trạng của Bà trong lúc nầy. Cho nên Bà đem hết sự rung động trong lòng về nỗi cô đơn, nhớ nhung, lo lắng cho chồng mà dịch ra thơ Nôm bản Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn. (Xem phần sau: Tâm trạng Bà Đoàn Thị Điểm khi diễn nôm Chinh Phụ Ngâm).
         Chính tác phẩm Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm nầy đưa tên tuổi của Bà Đoàn Thị Điểm lên đỉnh cao trong nền văn học nước nhà.
         Ngày Nguyễn Kiều đi sứ trở về, vợ chồng sum họp sau hơn 3 năm xa cách nhớ nhung, Bà Đoàn trao cho chồng xem bản diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm như là bức tâm thơ bày tỏ với chồng tất cả nỗi niềm thương nhớ sau hơn 3 năm dài xa cách. Nguyễn Kiều xem xong vô cùng cảm động và kính phục tài năng của vợ.
         Chuyến đi sứ thành công, Nguyễn Kiều được vua khen thưởng và cho thăng quan tiến chức. Ít lâu sau, Ông được bổ làm Tham Thị ở Nghệ An.
         Thế là Nguyễn Kiều chuẩn bị đi vào Nghệ An nhậm chức. Ý của Bà Đoàn không muốn theo chồng vào Nghệ An, vì ở nhà còn mẹ già và các cháu thiếu ngưềi chăm sóc, cũng như linh tính báo cho Bà biết có điều gì không lành trong chuyến đi nầy xảy đến cho Bà, nhưng Nguyễn Kiều hết lời nài nỉ đem Bà đi theo. Cuối cùng Bà phải chiều chồng, làm bổn phận người vợ tùng phu, xuống thuyền cùng chồng đi vào Nghệ An, với nỗi lòng lo âu buồn bã.
         Thuyền xuôi dòng sông Nhị Hà, theo cửa bể Thần Phù để vào sông Chính Đại. Lúc thuyền đến bến Đền Sòng, nơi thờ Công Chúa Liễu Hạnh, Bà bị cảm rất nặng. Biết mình không thể sống được, Bà trăn trối cùng chồng: "Chàng nên cố gắng lo tròn việc nước để trở về kinh sớm ngày nào tốt ngày đó, chớ nên ở lâu nơi chốn biên thùy nầy mà dấn thân vào nơi gió bụi hiểm nguy."
         Trối xong, Bà từ trần, lúc đó là ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748), hưởng được 44 tuổi. Bà chưa có con với Nguyễn Kiều.
         Nguyễn Kiều vô cùng thương tiếc người vợ tài ba lỗi lạc mà lại vắn số. Ông quàn quan tài vợ tại Nghệ An đến một tháng sau mới đưa linh cữu trở về quê nhà của Bà an táng.
         Trong thời gian nầy, Ông lập đàn cúng tế rất nghiêm bên bờ sông để tế lễ Bà. Ông đọc một bài văn tế rất bi ai thống thiết bằng Hán văn, được Ông Hoàng Xuân Hãn diễn Nôm trong cuốn Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo, chép ra sau đây:
Ô hô! Hỡi nàng! Huệ tốt Lan thơm!
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngõ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận,
Gấm vóc, ấy văn chương.
Nữ trung, rất hiếm có như nàng.
Sao mà lại,
Gia thất chậm hơn Mạnh Quang,
Con cái hiếm hơn Trang Khương,
Dứt tuổi Từ Phi, vui tài Ban Nương.
Sao hóa cơ khó đoán,
Mà Thiên mệnh phi thường lắm thay!
Xưa nghe được tiếng nàng,
Bèn kết thân hai họ.
Nàng về nhà tôi, vẹn tròn đạo vợ,
Việc bút nghiên tài lạ hằng chuyên,
Nghề kim chỉ tay sành chẳng bỏ.
Thường thường đàm luận cổ thi,
Ngày ngày xướng thơ họa phú.
Ba năm đi sứ Bắc, mày liễu buồn chau,
Năm Sửu trở về nhà, mặt hoa cười nở.
Lúc rảnh việc, cùng vui thú văn hàn,
Mới có chỉ sai trở vào xứ Nghệ.
Non sông chẳng ngại đường dài,
Tần tảo quyết theo nội trợ.
Đường sông nghìn dặm gian nan,
Doanh liệt ba tuần tới đó.
Một bệnh càng thêm, trăm phương khó chữa,
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn chèo thuyền lan mà sớm phát,
Đưa giá liễu chóng về,
Hẹn lại quê nhà an táng.
Dốc đem Ó hậu theo đi.
Nhưng, nghĩa cùng thời trái việc hẳn lòng tùy,
Nửa bước khó dời trấn sở.
Một thân khó vẹn công tư.
Lối về trên bến, tạm dựng bàn thờ,
Lệ tiễn hai hàng chan chứa,
Tình thương một lễ đơn sơ,
Sóng gió xin đừng kinh sợ,
Đường đi chớ ngại rũ rờ.
Hương hồn nàng yên nghỉ,
Cố ấp tôi hằng mơ.
Thượng hưởng!
Sự nghiệp văn chương:
         1 . Những bài thơ xướng họa:
         Bà Đoàn Thị Điểm, những khi nhàn hạ lúc thiếu thời, Bà thường ngâm vịnh với phụ thân và với anh trai Đoàn Doãn Luân. Khi có chồng thì ngâm vịnh với chồng.
         Các bài thi ngâm vịnh nầy có đến mấy trăm bài, thường viết bằng chữ Hán, hiện nay hầu như thất lạc hết cả.
         Có vài đoạn còn sót lại, do Ông Bùi Hạnh Cẩn sưu tầm và dịch ra thơ Nôm:
           
Hứng Thu
Thu về gió mát nhẹ mưa bay,
Muôn mảng thơm trong ắp chén đầy.
Trời biển chừng nhiều đàn sáo nổi,
Cuộc đời may có chuyến chơi nay.

Niềm vui dạo đêm
Sao nhỉ! Đêm Xuân đốt đuốc chơi,
Sáng như ngày hửng, quế thơm trời.
Cầu Ngân bến Hán treo cao nhịp,
Phách ngọc đầu thu tỏa ánh ngời.
Đồng nội trước nay nhìn chả khác,
Phồn hoa vua chúa đất xưa thôi.
Hứng về chẳng quản sông hồ lạ,
Một mái chèo thênh chuốc rượu mời.

         2 . Văn phẩm:
         Sau khi thân phụ mất, Bà Đoàn Thị Điểm về quê nhà săn sóc mẹ già, sống chung với anh và chị dâu. Trong thời gian nầy, Bà có viết tập sách Truyền Kỳ Tân Phả hay Tục Truyền Kỳ bằng Hán văn, viết nối tiếp sách Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Tác phẩm nầy được biên soạn rất công phu, nội dung viết về những người phụ nữ tài giỏi và tiết liệt, được anh của Bà là Đoàn Doãn Luân, hiệu là Tuyết Am, tự là Đạm Như Phủ, viết lời phê bình.
        
            Tác phẩm Tục Truyền Kỳ, gồm có 6 truyện, kể ra:
Bích Câu Kỳ Ngộ, chuyện nàng Tiên trong tranh là Giáng Kiều và chàng hàn sĩ Tú Uyên ở phường Bích Câu. (Chuyện nầy về sau được viết lại bằng văn Nôm theo thể văn vần, không biết tác giả).
            Hải khẩu Linh Từ (Nữ Thần Chế Thắng).
            Hoành Sơn Tiên Cục (cuộc cờ Tiên trên núi Hoành Sơn).
            Vân Cát Thần Nữ (Công Chúa Liễu Hạnh).
            An Ấp Liệt Nữ (chuyện người vợ của Tiến Sĩ Đinh nho Hoàn).
            Nghĩa khuyển khuất miêu (chó khôn bắt mèo).
         Trong quyển "Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí", Ông Phan Huy Chú ca ngợi tác phẩm Tục Truyền Kỳ như sau: Lời văn trau chuốt, Ý chuyện dồi dào.
         Về sau, Bà có chồng là Ông Nguyễn Kiều, trong thời gian Ông Nguyễn Kiều đi sứ sang Tàu và bị kẹt ở bên đó 3 năm, Bà ở nhà diễn Nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn. Văn chương trong tác phẩm nầy rất hay, lời thơ đẹp đẽ đầy âm điệu, diễn tả sống động hình ảnh của nàng chinh phụ.
         Khúc ngâm Chinh Phụ nầy chỉ có 412 câu thơ song thất lục bát, nhưng thể hiện được tài năng xuất chúng của Bà Đoàn Thị Điểm, đưa Bà lên địa vị cao trong nền văn học Việt Nam.

Tâm Trạng của Bà Đoàn Thị Điểm khi diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm:
         Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của dưỡng phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn. Côn nhỏ hơn Cô Điểm chừng hai tuổi, con nhà quí tộc, quê ở Kẻ Mục Hạ Đình. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống. Côn rất quí mến Cô Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gởi đến Cô Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn.

         Cô Điểm không trả lời nhưng có nói đùa với các chị em bạn:
         - Cái Ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng.
         Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng miệt mài đèn sách, cố đậu cho được Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.
         Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh ly loạn, trai tráng bị bắt đi lính đáng giặc phương xa, gây cảnh biệt ly đau đớn cho nhiều gia đình, Ông Đặng Trần Côn cảm xúc, đem hết sức học bình sanh viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ xưa Cổ Nhạc phủ.
         Khi viết xong, Đặng Trần Côn đưa tác phẩm nầy cho Ông Ngô Thời Sĩ xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."
         Ông Đặng Trần Côn sau đó gởi tác phẩm nầy đến cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà Điểm biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to. Lúc nầy Bà Điểm đã lấy chồng là Ông Nguyễn Kiều, và Ông Kiều đang đi sứ sang Tàu, bị kẹt ở lại bên đó vì giặc giã cắt đứt đường giao thông, nên chưa trở về Việt Nam được. Bà Điểm xem xong tác phẩm Hán văn của Ông Đặng Trần Côn thì rất phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm giống y hệt tâm sự của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.
         Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đem hết sự xúc cảm của tâm hồn, diễn Nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát.
         - Lòng nhớ nhung của Bà đối với chồng khi chồng phụng mạng đi sứ sang Bắc Kinh, giống hệt tâm trạng của nàng Chinh phụ nhớ mong chồng đang đánh giặc ngoài quan ải, nên Bà diễn Nôm đoạn nầy rất tuyệt diệu:
                                   169.     Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gởi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.

                                   173.     Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gởi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
                                   233.     Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nương song.
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
                                   253.     Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ,
Chua cay nầy há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bờ.

                                   257.     Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
        
            - Trong lúc vắng chồng, Bà ở nhà lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy đàn con thơ của chồng, giống y như người Chinh phụ ở nhà nuôi dạy con thơ và săn sóc mẹ già đầu bạc:

153. Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa vả đương phù trì.

157. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân.

161. Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẻ biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới, đông nào còn dư.
        
            - Sau 3 năm, Ông Nguyễn Kiều thành công trong nhiệm vụ sứ thần, trở về triều được vua khen thưởng và được thăng quan tiến chức, thì cũng giống hệt như người Chinh phu đã bình xong giặc nơi biên ải, ca khúc khải hoàn, trở về được vua phong thưởng tước lộc, vinh hiển gia đình:
381.     Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại thần kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
. . . . . . . . . . . . . . . . .

389.     Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ơn Trên tử ấm thê phong,
Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương Trời.
        
            - Rồi chàng trở về sum họp gia đình, viếng thăm mẹ già, nâng niu con cái. Chàng sẽ kể cho nàng nghe chiến công và nỗi nhớ gia đình, còn nàng thì kể lể nỗi hiu quạnh nhớ nhung mong đợi:
401. Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.

405. Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén từng thiên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

409. Cho bỏ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gữi chữ tình,
412. Dường nầy âu hẳn tài lành trượng phu./.
             
Những giai thoại văn chương:
         1 . Đối chữ sách:
         Cô Điểm, khi lên 6 tuổi, đang học Sử Ký Trung Hoa, anh là Đoàn Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối:
            Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
       
 Cô Điểm liền lấy một câu cũng trong Sử Ký đối lại:
            Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
Nghĩa là:
. Rắn trắng giữa đường, Ông Quý (Lưu Bang) tuốt gươm mà chém.
. Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ (Hạ Vũ) ngửa mặt lên Trời mà than.
        
            2 . Đối chữ bóng:
         Anh Luân thấy Cô Điểm đang soi gương trang điểm nơi cửa sổ, liền ra câu đối:
            Đối kính họa mi, nhứt điểm phiên thành lưỡng điểm.
         Cô Điểm liền đối lại:
            Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Nghĩa là:
. Trước gương vẽ mày, một điểm hóa thành hai điểm, cũng có nghĩa là một Cô Điểm hóa thành hai Cô Điểm.
. Tới ao xem trăng, một vừng tròn chuyển thành hai vừng, cũng có nghĩa là một anh Luân chuyển thành hai anh Luân.
         Sự tài tình ở đây là cảnh rất thực, dùng được tên 2 người đúng với cảnh vẽ mày và ngắm trăng.
         
            3 . Có lần Đoàn Doãn Luân từ ngoài đi vào nhà, thấy em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
            Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt.
(Anh trai đến nhà trên tìm 2 mặt trăng)
         Song nguyệt là 2 mặt trăng, mà theo chữ Hán, 2 chữ Nguyệt (*1) ghép lại là chữ Bằng (*1): Bè bạn, bằng hữu, nên câu trên còn có nghĩa là: Anh trai đến nhà trên tìm bạn.
         Cô Điểm liền đối lại:
            Muội đáo song tiền tróc bán phong.
(Em gái đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió)
         Bán phong là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân nửa chữ Phong (*2) tức là chữ Sắt (*2) nghĩa là con rận. Nên câu đối trên có nghĩa là : Em gái đến trước cửa sổ bắt con rận.
        
           
            4 . Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng trong đêm rộn rịp vui mừng, Cô Điểm đùa với anh, đọc rằng:
            Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
(Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định)
         Đoàn Doãn Luân liền đối lại:
            Lưỡng tình tương phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành.
(Hai tình phối hợp, Kỷ Dậu 2 hợp mà thành)
         Với lối chơi chữ, 2 chữ Hợi (*3) và Tý (*3) ghép lại thành chữ Hài (*3); chữ Kỷ (*4) và chữ Dậu (*4) ghép lại thành chữ Phối (*4).
       
            5 . Vịnh nước Đằng bỡn ông hai vợ:
         Có lần ở Chương Dương, Bà Đoàn đang giảng sách cho học trò, tới đoạn: Đằng là nước nhỏ, lại lọt vào giữa 2 nước lớn là Tề và Sở, nên việc ngoại giao với 2 nước lớn rất khó khăn. Vào lúc ấy, ông hàng xóm có 2 vợ gây lộn om sòm. Bà tức cười, bảo học trò lấy đầu đề nước Đằng làm thơ bỡn ông hai vợ. Học trò có nhiều đứa làm bài, nhưng bài của Đoàn Lệnh Khương (con của anh Luân) là có ý hay hơn cả, được Bà chỉnh văn lại, ghi ra như sau đây:
Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen,
Lại thêm Tề, Sở ép hai bên.
Quay đầu với Sở, e Tề giận,
Ngảnh lại sang Tề, sợ Sở ghen.
         Đó đúng là hoàn cảnh của ông hàng xóm có 2 bà vợ hay ghen.
        
            6 . Thách đối kén chồng:
         Nhiều người khoa bảng thời bấy giờ nghe tiếng Cô Điểm hương sắc vẹn toàn, văn chương lỗi lạc, nên đều có ý muốn đến thử tài và cầu hôn, nhưng tất cả đều chịu thua tài Cô Điểm và rút lui.
         Chuyện thứ nhứt là Ông Vũ Diệm, bạn của Nhữ Đình Toản, đỗ Hoàng Giáp năm 1739, đến viếng Cô Điểm. Biết được dụng Ó của người khách tài hoa nầy, Cô Điểm liền ra tay trước, bằng cách sai con hầu bưng ra một khai trầu mời khách, rồi Cô sẽ ra sau, nhưng trên khai trầu Cô để sẵn một tờ giấy, trên đó Cô viết một câu đối nhờ khách đối giúp:
            Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang.
         Câu nầy có nghĩa đen là: Trước sân gió thoảng phất cây cau. Thiếu nữ là cơn gió nhẹ, tân lang là cây cau; nhưng nghĩa bóng của câu nầy theo cách đồng âm: Trước sân, người con gái mời chàng rể mới. (Thiếu nữ: Con gái. Tân lang: Chàng rể).
         Vũ Diệm thấy câu thách đối khó quá, không thể đối nổi nên đành rút lui, không dám trêu vào giai nhân nữa.
         Chuyện thứ nhì được truyền khẩu nhiều trong dân gian là Cô Điểm nhiều lần thách đối với Trạng Quỳnh, vì Trạng Quỳnh dò dè trêu Cô và lần nào Trạng Quỳnh cũng đành chịu thua.
         - Một hôm, Cô Điểm đang ngồi bên cửa sổ thì Trạng Quỳnh tới, Cô liền đọc một câu thách đối:
            Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song.
         Trạng Quỳnh đối không được, chịu thua rút lui.
         - Lần khác, Cô Điểm gặp Trạng Quỳnh đi theo Cô lên phố Mía Sơn tây, Cô đứng lại chờ Quỳnh tới đọc một câu thách đối:
            Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường.
         Trạng Quỳnh lại chịu thua nữa, vì câu thách đối ra toàn là mía, đường, mật, kẹo, nên không thể kiếm ra chữ để đối lại.
         - Lần khác nữa, Trạng Quỳnh lại gần chỗ Cô Điểm tắm, Cô biết vậy liền ra một vế thách đối:
            Da trắng vỗ bì bạch.
         Bì là da, bạch là trắng, bì bạch là da trắng, nhưng hai tiếng nầy theo nghĩa nôm là để tượng thanh, tiếng vỗ vào da thịt. Trạng Quỳnh cũng đành chịu thua keo nữa.
         - Lần cuối, nhân buổi Hội Xuân, Cô Điểm thuận tay bẻ một nhánh xương rồng, chợt thấy Quỳnh đi tới, liền đọc:
            Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long.
         Long, chữ Hán là rồng, mà tiếng nôm nghĩa là không chặt. Lần nầy, Quỳnh đối lại được, chữ nghĩa rất chỉnh mà lại biểu lộ tánh ngang ngạnh của mình:
            Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử.
         Thử là con chuột, nhưng tiếng nôm nghĩa là làm thử, chưa phải làm thiệt.
         Tương truyền, sau lần đối nầy, Trạng Quỳnh và Cô Điểm chia tay, không còn gặp nhau nữa.
         7 . Sứ Tàu bị lỡm:
         Thời xưa, mỗi lần có đoàn sứ bộ của nước Tàu sang nước ta, triều đình thường kén chọn những người tài giỏi, lanh lợi, văn hay chữ tốt, thạo việc ứng đối, để giả làm các công việc: Bán hàng, đưa đò, hoặc làm việc nơi các Công quán, mục đích là để đối đáp với Sứ Tàu làm cho họ kính phục nước Nam ta.
         Sử có chép, đoàn Sứ Mãn Thanh sang nước ta, 2 vị đứng đầu là: Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi. Trong số những người bán hàng trên đường Sứ Tàu đi qua, có Cô Điểm và chú bé Trần Quang Trạch, con trai của Ông Hoàng Giáp Trần Danh Ninh, mới hơn 10 tuổi mà đã giỏi văn thơ ứng đối. Bộ điệu Sứ Tàu hống hách, thấy có cô bán hàng xinh đẹp thì nói đùa một câu:
            Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày)
         Cô Điểm đứng đó liền đáp lại rằng:
            Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.
(Nước Tàu phương Bắc các bậc đại phu đều bởi đường ấy mà ra)
         Hai câu đối trên, nếu giải nghĩa thanh thì đối nhau rất thanh, giải nghĩa tục thì đối nhau rất tục, Ó nghĩa hơn hẳn Sứ Tàu, thật xuất sắc tài tình. Bọn Sứ Tàu tưởng nói bỡn như vậy là bóng gió cao kỳ để hạ nhục Cô bán hàng, nào dè Cô hiểu ý, lanh trí trả lời đích đáng, đem cái nhục trả lại chúng, làm chúng hổ thẹn rút lui, phục tài gái nước Nam, không còn dám bỡn cợt gái nước Nam nữa.
        
            Kết luận:
         Bà Đoàn Thị Điểm đứng hàng đệ nhứt trong các Nữ sĩ tên tuổi trên văn đàn Việt Nam như: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ xuân Hương, Sương Nguyệt Anh,... Bà là một Nữ sĩ có thi tài lỗi lạc, lời thơ tao nhã, đài các, bóng bẩy đầy âm điệu. Bà còn là một phụ nữ mẫu mực Nho phong, đầy đủ hiếu thảo, nghĩa khí, Tứ Đức, Tam Tùng.
         Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Bà được các nhà văn trong nhóm Mercure de France của nước Pháp dịch ra tiếng Pháp, xuất bản năm 1939 tại Ba-lê (Paris) nhan đề là: "Les Plaintes d une Chinh phụ."
         Bà Đoàn Thị Điểm là một vị Nữ Tiên trên Thượng giới giáng trần. Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Bà không đầu kiếp xuống trần, mà chỉ dùng huyền diệu cơ bút, nhờ 2 vị đồng tử trong Đạo Cao Đài phò loan để Bà giáng cơ viết tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận có mục đích giáo dục Nữ phái Việt Nam trong chủ trương Nho Tông Chuyển Thế của Đạo Cao Đài.
         Đức Chí Tôn có nói trước rằng: "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong." nghĩa là: Nền Phong hóa của người Việt Nam ngày ấy sẽ trở thành nền Phong hóa của nhơn loại, tức là nhơn loại ngày sau sẽ học tập và làm theo Phong hóa Việt Nam.
         Do đó, cần phải củng cố và chấn chỉnh nền Phong hóa nước nhà cho tốt đẹp vẹn toàn thì mới làm gương mẫu được.
         Nền Phong hóa đó phải bắt đầu từ gia đình, mà người phụ nữ là người đảm nhiệm vai tuồng quan trọng nhứt. Cần phải hướng dẫn người phụ nữ trở lại nền nếp tốt đẹp thời xưa với Tứ Đức, Tam Tùng, nhưng chỉ nên giữ lai phần tinh hoa tốt đẹp, bỏ bớt những điều làm giảm nhân cách phụ nữ và bất bình đẳng với Nam phái, cho hợp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh ngày nay.
         Nữ Trung Tùng Phận của Tiên Nương Đoàn Thị Điểm nhứt định sẽ đóng góp một phần tích cực và quan trọng trong chiều hướng giáo dục nầy.

(*1) Chữ Nguyệt (     ), chữ Bằng (    )
(*2) Chữ Phong (    ), chữ Sắt (    )
(*3) Hợi (    ) và Tý(    ) ghép lại thành chữ Hài (    )
(*4) Kỷ (    ) và chữ Dậu (    ) ghép lại thành chữ Phối (    )

Mục đích Giáo dục
của Nữ Trung Tùng Phận.

        Nội dung của tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận là lời tự thuật của một phụ nữ có sắc đẹp, có tài năng và đức hạnh, kể từ lúc tuổi thanh xuân, rồi có chồng theo về nhà chồng, phục vụ cho chồng và gia đình chồng, sanh con đẻ cái, nuôi dạy con cho khôn lớn, đến lúc tuổi già răng long đầu bạc, qui y lo việc tu hành và thoát xác về Tiên.

165. Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,

168. Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.

         Tiên Nương Đoàn Thị Điểm mượn lời tự thuật nầy để giáo dục Nữ phái lúc tuổi trẻ phải lo cho tròn Nhơn đạo, giữ vững Tứ Đức, Tam Tùng, giúp chồng và gia đình nhà chồng, nuôi dạy con cái lớn khôn nên người. Đến lúc trung niên thì xong phần Nhơn đạo, người phụ nữ cần tiến lên tu phần Thiên đạo thì mới mong giải thoát khỏi kiếp luân hồi. (Thiên đạo là đạo tu giải thoát để lên cõi Trời. Đó là Tiên đạo và Phật đạo).
         Tác phẩm nầy được Bà giáng cơ bắt đầu viết vào ngày 26-2-Quí Dậu (1933), nên nội dung tác phẩm cũng căn cứ vào hiện tình xã hội của nước Việt Nam ta thời đó. Đó là thời mà miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ) là thuộc địa của nước Pháp, Trung Kỳ thì vẫn do vua quan nhà Nguyễn cai trị, nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, xã hội vẫn còn phong kiến như thuở Bà Đoàn Thị Điểm sanh tiền, Nữ chưa được bình quyền cùng Nam.
         Mở đầu tác phẩm, Tiên Nương Đoàn Thị Điểm thúc giục Nữ phái phải lo học tập văn hóa trong lúc tuổi còn niên thiếu, vì Bà cho rằng phụ nữ chưa được bình quyền cùng nam là vì dốt nát, nên bị khinh rẻ.
01 . Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
02 . Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
13 . Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
14 . Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
         Tiên Nương còn thúc đẩy Nữ phái học cả võ nghệ nữa để giúp Nam phái bảo vệ non sông tổ quốc:
03 . Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
15 . Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

         Người phụ nữ thời đó vẫn còn bị phái nam khinh rẻ vì dốt nát thiếu học, nên hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng:
05 . Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.

19 . Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.

         Nếu thời niên thiếu không lo học tập thì đến tuổi trưởng thành, có chồng con rồi thì đâu còn thì giờ và tâm trí thảnh thơi để học tập.
33 . Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

         Trong gia đình, người mẹ gần gũi thân cận với con nhiều hơn cha, nên việc giáo dục của mẹ đối với con lúc con còn thơ bé rất là quan trọng.
         Trong phần tiếp theo là lời Mẹ dạy con trai và con gái.
Mẹ dạy con trai: (từ câu 357 đến 592: 236 câu)
         . Dạy con trai phải lo thờ cúng Tổ tông:
375 . Định hương hỏa hằng bày quí tế,
Lập pháp gia tự kế phụng thờ.
Con chàng thiếp trả khi thơ,
Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.

         . Lựa chọn nghề nghiệp cho con học tập để lớn lên có nghề nghiệp thích hợp bảo đảm cuộc sống gia đình:
361. Lựa chọn học các công các nghệ,
Tính cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.

         . Dạy con đạo Nhơn luân, gồm Ngũ luân: Cách cư xử đối với quốc gia, đối với cha mẹ, đối với vợ, đối với anh em và đối với bạn bè.
         . Đối với quốc gia dân tộc, phải có lòng yêu nước và lòng trung thành (Trung):
381 . Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
397 . Nào quốc thể người khi kẻ thị,
Nào dân đen phép quỉ hớp hồn.
Nấu sôi cái máu anh phong,
An bang tế thế một lòng lo âu.

         . Dạy con phải có hiếu với cha mẹ (Hiếu):
485 . Con ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

         . Dạy con phải biết tôn kính thầy (Kính):
449 . Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
473 . Con nhờ thầy công danh mới toại,
Như nhờ cha mới giỏi hình dung.
Hai ơn ấy gẫm so đồng,
Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.

         . Dạy con phải thương yêu dạy dỗ em út trong nhà:
493 . Còn em út trong nhà thơ bé,
Trai dạy khuyên, gái để khép khuôn.
Con đừng quen tánh luông tuồng,
Các em hư nết gieo buồn song thân.

         . Dạy con phải biết chọn bạn mà chơi:
501. Ngoài gia tộc nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
Đời như trận giặc đua tranh,
Dầu tài một ngựa một mình khó nên.
517 . Trong võ trụ hiệp hào là mạnh,
Phận đồ thơ phải gánh non sông.
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

         . Dạy con trai khi lớn lên có vợ thì phải biết thương yêu giúp đỡ vợ nhà, ăn ở cho có tình nghĩa thủy chung:
525 . Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.
529 . Bạn trăm tuổi thân hòa làm một,
Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.
Cùng nhau giữ vẹn hương nguyền,
Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.

         . Dạy con phải lo xây dựng nền văn hóa cho dân tộc mình và phát triển nền kinh tế cho văn minh tiến bộ:
393 . Giang sơn bốn nghìn năm tổ nghiệp,
Văn hóa so cũng kịp tha bang.
Xa thơ nay gãy giữa đàng,
Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
461 . Học cho thấu máy linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu tài hay nhập nước mình,
Làm cho dân hưởng thái bình giàu sang.

         . Dạy con trai không được đam mê sắc dục, ăn chơi trác táng:
581. Có chi trọng đàn ong xóm bướm,
Nơi phồn ba đậm nhuộm màu gian.
Đừng quen kết lũ vầy đoàn,
Cửa thanh lâu những nhộn nhàng gió trăng.
            Mẹ dạy con gái: (từ câu 593 đến 712: 120 câu).
         Con gái phải lo trau giồi Tứ Đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh, và giữ lấy Tam Tùng: Tùng phụ, Tùng phu, Tùng tử.
         . Mẹ dạy con gái về Dung:
621 . Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
         . Mẹ dạy con gái về Ngôn:
625 . Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng, phục người mới ngoan.
         . Mẹ dạy con gái về Công:
629 . Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
         . Dạy con gái về Hạnh:
633 . Sửa từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
         . Dạy con gái lúc chưa chồng thì ở nhà phải tùng Cha (Tùng phụ) và phải hiếu thảo với cha mẹ:
637 . Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

641 . Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu,
Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương cha nên phải bán mình kêu oan.
      
            . Dạy con gái phải lựa chọn tấm chồng cho xứng đáng với tài sắc của mình:
653 . Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc,
Đừng đổ đường rời bốc đóa hoa.
Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hòa mới nên.
         
. Dạy con gái khi có chồng thì phải tùng chồng (Tùng phu) và giữ lòng chung thủy với chồng:
673 . Đến lúc đã chung phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.
701 . Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,
Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.
         Hai đoạn: Mẹ dạy con trai và Mẹ dạy con gái rất quan trọng, tính theo số câu thì chiếm 1/4 tác phẩm.
         Người Mẹ cần lợi dụng sự thương yêu gần gũi các con để nhỏ to dạy dỗ và khuyên nhủ con. Bởi vì nuôi một đứa con thì dễ, chớ việc dạy một đứa con nên người đạo đức hữu ích cho nhơn quần xã hội là một việc muôn vàn khó khăn, đòi hỏi người cha, nhất là người mẹ phải tế nhị, sâu sắc và nhẫn nại.

   
  Home   [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét