Nữ Trung Tùng Phận - 10 / 13 (Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút)


1037 . Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.

Chú thích:
Mặt hoa: Gương mặt của người phụ nữ. Ủ dột: Buồn bã héo úa. Hình cốt: Hình hài xương cốt. Héo don: Héo úa như mất hết sự sống. Xuân mai ba bảy: Cây mai mùa xuân có quả mai rụng hết 7 phần còn 3 phần. Ýnói người phụ nữ đã quá tuổi xuân rồi, nhưng chưa già lắm. Kinh Thi, bài thơ Phiếu Mai (Mai rụng): "Phiếu hữu mai, kỳ thực thất hề,..
., kỳ thực tam hề." (Quả mai rụng, 10 phần quả còn 7, 10 phần quả còn 3.) Cội thu: Chỉ người phụ nữ đã luống tuổi, đồng nghĩa với: Phòng thu, Rèm thu. Hoàn: Viên tròn. Mấy hoàn anh nhi: Mấy đứa con còn bé nhỏ. Anh nhi: Anh là đứa bé mới lọt lòng mẹ, nhi là đứa con. Anh nhi là đứa con nhỏ bé.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1037 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1041 . Tay bồng con, tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

Chú thích:
Hương thề: Cây nhang đốt lên để van vái Trời Phật thề nguyền hai người thương yêu và sống với nhau trọn đời. Vị bài: Bài vị, tấm thẻ bằng giấy ghi tên họ người chết, năm sanh, chức phận và ngày chết, đặt lên bàn để thờ. Châm đề: Châm đèn cho sáng để thấy rõ những chữ đề trên bài vị. Biệt phu: Xa cách chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1041 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1045 . Cặp liễn tang còn câu long ám,
Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả như chàng có chốn nầy,
Tưởng khi đổ lụy châu mày với duyên.

Chú thích:
Cặp liễn tang: Hai câu đối đặt 2 bên bàn thờ người chết. Long: Rồng. Ám: Che. Hạc: Chim Hạc. Qui: Trở lại. Hồi: Trở về. Lãnh đạm: Lạnh nhạt. Trần ai: Chỉ cõi trần. Đỉnh hồ: Vua Huỳnh Đế, đúc cái đỉnh có hình cái bầu, ở núi Kinh sơn, đỉnh đúc xong thì vua cỡi rồng lên cõi Tiên. Đời sau dùng chữ Đỉnh hồ để chỉ vua chết. Hoa biểu: Cột trụ đá trên đầu có làm hình búp sen dùng đặt quanh lăng mộ. Châu mày: Nhíu cặp chưn mày lại, chỉ sự đau buồn hay nghĩ ngợi. Hỏi đon thử: Hỏi dò thử cho biết.

Hai câu 1045-1046: Nhằm vào 2 câu thơ cổ, cũng là 2 câu trong Bài thài hiến lễ hàng vong thường trong tang lễ.
Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn.
Nguyệt minh hoa biểu, hạc qui trì.
Nghĩa là:
Mây che đỉnh hồ, rồng đi xa,
Trăng soi trụ hoa, hạc trở lại muộn.
Ý nói người chết, linh hồn cỡi rồng hay cỡi hạc bay lên cõi Tiên.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1045 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1049 . Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
Oán hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.

Chú thích:
Câu 1051: Oán ghét cái thân phận của người phụ nữ.
Câu 1052: Theo giáo lý Phật giáo, người nào có công tu thì kiếp sau đầu thai làm đàn ông con trai, còn nếu không tu hay tu ít thì kiếp sau làm đàn bà con gái.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1049 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1053 . Giọt lụy đổ không chi ngăn nổi,
Thương thân nàng chung với thân mình.
Thương chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối thương khó lấy gáo tình đem đong.

Chú thích:
Khối thương: Tình thương chồng rất nhiều, có thể tụ lại thành một khối, giống như khối tình. Gáo tình: Cái gáo tình cảm để múc khối nước tình cảm mà đong coi nhiều hay ít.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1053 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1057 . Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hòa chung.
Thề nhau trọn kết dải đồng,
Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.

Chú thích:
Đôi mặt cách: Hai gương mặt khác nhau, chỉ 2 người vợ. Khác tông môn: Khác dòng họ, không bà con thân thích. Hài cốt: Hình hài xương cốt, ý nói thể xác con người. Dải đồng: Chỉ sự thương yêu khắn khít giữa vợ chồng. (Xem lại Chú thích câu 194).
Câu 1059: Vợ lớn cùng vợ nhỏ thề nguyền kết dải đồng tâm, tức là thề nguyền thương yêu nhau suốt đời.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1057 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1061 . Chia gia nghiệp trong cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy là vẹn giống trọn dòng,
Nàng sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.

Chú thích:
Gia nghiệp: Sản nghiệp của một gia đình, tức là toàn bộ của cải, nhà cửa, ruộng vuờn của gia đình.
Qua mấy câu thơ nầy, chúng ta thấy được tấm lòng thương yêu quảng đại và cao cả của người vợ lớn. Mọi hờn ghen không còn nữa, bây giờ chỉ có tình thương mà thôi.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1061 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1065 . Lập gia thất làm giàu con trẻ,
Định lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng thì an phận an nơi,
Con thì đáng mặt đáng người với ai.

Chú thích:
Lập gia thất: Dựng vợ gả chồng cho con cái. (Xem Chú thích câu 356). Định lứa đôi: Đồng nghĩa: Lập gia thất.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1065 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1069 . Khi thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

Chú thích:
Tuế nguyệt: Năm tháng, chỉ thời gian. Căn sanh: Cái gốc rễ của kiếp sống. Đó là những việc làm thiện ác của kiếp trước, tạo thành cái nghiệp ảnh hưởng lên kiếp nầy, làm cho kiếp nầy hạnh phúc hay đau khổ, giàu sang hay nghèo hèn. Căn sanh là cái số phận của mỗi người.
Hai câu 1071-1072: Ngắm cảnh vật núi non sông nước là điều hay hơn hết để phôi pha lòng sầu muộn, mượn dòng thời gian để cởi bỏ sự hờn giận cái số phận không may.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1069 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1073 . Cỏ huyên cắm kềnh kềnh đầu tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

Chú thích:
Cỏ huyên: Chỉ người mẹ. Cắm kềnh kềnh: Cắm lên mà không vững. Đầu tuyết: Đầu bạc trắng như tuyết. Lảng tai: Lỗ tai không còn nghe rõ vì tuổi già. Thất tuần đã quá: Đã hơn 70 tuổi. ƒu xuân: Bé nhỏ non nớt.
Câu 1074: Kéo lê cây gậy đi làm nó mòn, khuyết vào hết nửa cây. Ý nói tuổi già sống dai.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1073 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1077 . Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ,
Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.
Tính niên rồi lại tủi thầm,
Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.

Chú thích:
Dò đon hỏi: Dò hỏi thăm chừng. Rừng thiền: Chữ Hán là Thiền lâm. Thiền là yên lặng suy tưởng. Thiền là pháp môn trọng yếu của Phật giáo, tu đốn ngộ, tạo thành một tông phái đặc biệt gọi là Thiền Tông. Các nhà sư tu Thiền thường đi vào rừng, tìm chỗ thanh vắng mát mẻ đặng Thiền định, nên Rừng Thiền là chỉ cảnh chùa, nơi tu hành. Ngụ: Cư ngụ. Lôi Âm: Lôi Âm Tự, chùa Lôi Âm. Đây là ngôi chùa rất lớn ở tại kinh đô của cõi Cực Lạc Thế giới, là nơi ngự của Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A-Di-Đà. Tính niên: Tính năm. Con đường Cực Lạc: Con đường tu hành đặng đắc đạo lên cõi Cực Lạc Thế giới.

Hai câu 1079-1080: Tính tuổi rồi lại tủi thầm, vì đã già hơn 70 tuổi mà mới bắt đầu đi tìm con đường tu hành. Tủi thầm vì nghĩ đến 2 câu thơ của Đức Phật Thích Ca:
Mạc đãi lão lai phương học đạo,
Cô phần tận thị thiếu niên nhơn.

Nghĩa là:
Đừng chờ đến lúc già mới lo học Đạo,
Những nấm mồ hoang thấy rõ là những kẻ trẻ tuổi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1077 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1081 . Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,
Trước mặt xem những chỗ sầu than.
Nầy là hình ảnh của chàng,
Nầy là tiếng khóc của đàn trẻ con.

Chú thích:
Nhẫng: Những, cứ. Vơ vẩn: Ở trạng thái lơ lơ lửng lửng, không biết làm gì. Bến khổ: Chỉ bể khổ, cõi trần.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1081 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1085 . Nầy là chỗ thiếp còn niên thiếu,
Nầy là nơi chàng níu thiếp trì.
Nầy là buổi hiệp hồi ly,
Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.

Chú thích:
Niên thiếu: Ít tuổi, chỉ tuổi trẻ. Níu trì: Níu kéo và ghì lại. Buổi hiệp hồi ly: Lúc sum họp, lúc chia ly. Cười mơn: Cười nịnh, cười để lấy lòng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1085 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1089 . Nầy là chỗ lời hơn tiếng thiệt,
Nầy là nơi cách biệt sanh ly.
Nầy là chỗ thiếp chẳng vì,
Nầy nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.

Chú thích:
Lời hơn tiếng thiệt: Cãi cọ với nhau để giành phần thắng về mình, không ai chịu thua ai. Cách biệt sanh ly: Sống mà xa cách chia lìa nhau. Thiếp chẳng vì: Thiếp không vị nể chàng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1089 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1093 . Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp,
Nầy là nơi vừa kịp hòa vui.
Nầy là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.

Chú thích:
Tái hiệp: Sum họp trở lại sau những ngày chia ly. Vừa kịp hòa vui: Vừa kịp lúc hòa thuận vui vẻ với nhau. Qui hồi: Qui là trở về, hồi là trở về. Qui hồi là trở về. Tiên bang: Cõi Tiên. Bang là một nước, một cõi.
Câu 1096: Nghe tin chàng đã trở về cõi Tiên. Trở về cõi Tiên tức là chết, linh hồn xuất ra khỏi thể xác, bay trở về cõi Tiên.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1093 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1097 . Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,
Càng ở gần khó nhín sầu than.
Cam tâm nín nẩm gia đàng,
Vì con chưa giữ vững vàng qui mô.

Chú thích:
Thảm tín: Tin buồn. Tín là tin tức, thảm là buồn. Khó nhín sầu than: Khó bớt buồn rầu. Nhín là bớt lại. Cam tâm: Đành lòng, cam lòng chịu vậy. Nín nẩm: Nén lòng chờ đợi. Gia đàng: Gia đình nhà cửa. Qui mô: Phép tắc và khuôn mẫu phải theo. Qui là cây thước tròn của thợ mộc. Mô là cái khuôn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1097 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1101 . Nay tuyết đóng song hồ động lãnh,
Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn.
Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,
Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

Chú thích:
Song hồ: Cái cửa sổ phất bằng giấy hồ. Song là cửa sổ. Động lãnh: Động là hang núi, lãnh là cái núi. Cửa không: Cửa chùa. (Xem Chú thích câu 978). Giấc huỳnh lương: Ý nói xem công danh phú quí của cuộc đời như là một giấc mộng. (Xem Điển tích câu 949). Thuyền huệ: Thuyền Bát Nhã. (Xem Chú thích câu 1000). Đường Vĩnh sanh: Con đường hằng sống, tức là đắc đạo, sống hạnh phúc mãi nơi cõi Tiên. Vĩnh sanh là hằng sống.
Câu 1101: Nay thì tới mùa đông, trời rất lạnh nên có tuyết đóng ở cửa sổ, và trên núi. Gợi ý muốn nói rằng lòng lạnh lẽo, không còn muốn đua chen danh lợi.
Câu 1102: Đành vào chùa tu hành.
Câu 1103: Tiếng chuông chùa làm thức tỉnh giấc mộng huỳnh lương.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1101 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1105 . Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,
Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.

Chú thích:
Cảnh tịnh: Cảnh chùa, ngôi chùa. Tịnh là trong sạch, nơi tu hành thì phải thanh tịnh, trong sạch. Qui y: Qui là trở về, y là nương theo, dựa vào. Nói đầy đủ là Qui y Tam bảo: Qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Qui y Tam bảo là trở về nương theo Phật, Pháp, Tăng. Tóc qui y: Người lập nguyện qui y vào cửa Phật thì phải thí phát, tức là cạo tóc cho thành đầu trọc. Tóc qui y là tóc cạo ra trong buổi lễ qui y. Phồn hoa: Nơi dân cư đông đảo đua chen danh lợi. Xa mã rộn ràng: Xe ngựa nhộn nhịp. Kiếp căn: Đồng nghĩa với Căn sinh (trong câu 1072).
Câu 1105: Đành bước vào chùa xin qui y tu hành.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1105 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1109 . Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.

Chú thích:
Nhẫng là: Chỉ là. Đeo thảm chác sầu: Đeo mang phiền não, chuốc lấy buồn rầu.
Hai câu 1109-1110: Ý nghĩa giống với 2 câu 949-950:
Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sanh đặng thất nơi thân.

Câu 1112: Từ lúc trẻ tuổi cho tới lúc tuổi già đầu bạc, việc đời cũng in hệt nhau, nghĩa là chỉ biết chạy theo danh lợi rồi phải mang lấy phiền não.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1109 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1113 . Nào là phép giựt giành quyền lợi,
Nào là phương chuộng quới cầu vinh.
Thử đem sánh khổ kiếp sanh,
Chưa ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.

Chú thích:
Phép: Cách thức. Phương: Phương cách. Chuộng quới: Ưa thích giàu sang. Quới là nói trại chữ Quí, là giàu sang.
Hai câu 1115-1116: Trong kiếp sống của mỗi người, thử đem so sánh cái đau khổ và cái hạnh phúc, chưa ai thấy cái hạnh phúc chiếm phần nhiều hơn. (Cho nên, Đức Phật mới nói rằng: Đời là biển khổ.)

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1113 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1117 . Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy.
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.

Chú thích:
Chịu tớ làm thầy: Chịu nhịn nhục vì gặp kẻ không ra gì mà lên mặt làm thầy dạy đời. Dứt hơi ba tấc: Hết thở, chết. Ba tấc hơi không có nghĩa là cái hơi thở dài 3 tấc, mà đây chỉ là một cách nói, giống như nói: Tấc lòng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1117 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1121 . Nào là lúc ăn cay uống đắng,
Nào là khen rồi mắng bao phen.
Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.

Chú thích:
Ăn cay uống đắng: Chỉ sự khổ cực đau đớn.

Câu 1124: Bướm cũng như các con thiêu thân khác, chỉ những kẻ tầm thường; ánh đèn chỉ cuộc danh lợi. Người đời thấy chỗ nào có danh lợi thì rộn rịp nhào vô, giống như con buớm kia thấy ánh đèn thì bu lại để rồi bị sức nóng của đèn đốt chết.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1121 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1125 . Nào chửa đẻ biết bao khổ nhọc,
Nào hơn thua theo học sách đời.
Tang thương lúc biến khi dời,
Trăm năm e cũng một đời thế thôi.

Chú thích:
Chửa đẻ: Người phụ nữ có chồng thì có chửa và đẻ ra đứa con. Đó là nhiệm vụ cao quí mà Trời giao phó cho phụ nữ để di truyền nòi giống loài người. Sách đời: Cuộc đời ví như một cuốn sách, có đủ các bài học, đủ các môn học thiện ác, chánh tà, từ thấp lên cao. Tang thương: Do thành ngữ "Tang điền thương hải": Ruộng dâu biến thành biển xanh. Theo Thần Tiên Truyện, Tiên Nữ Ma Cô nói với Vương phương Bình rằng: Từ khi tôi hầu tiếp ông đến nay, đã từng thấy biển xanh 3 lần biến thành ruộng dâu. Do đó, các thành ngữ: Tang thương, Tang hải, Bể dâu,... là để chỉ sự biến đổi luôn luôn xảy ra trong cuộc đời.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1125 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1129 . Nào tranh đấu thắng rồi lại thất,
Của phù du chứa chất gọi giàu.
Thân còn đã quí là bao,
Dứt hơi của cải thế nào không hay.

Chú thích:
Phù du: Phù là nổi, du là lông bông trên mặt nước. Con phù du là loại côn trùng nhỏ, bay từng đàn trên mặt nước, tối lại khi thấy ánh đèn thì bay tới bu quanh ngọn đèn rồi chết. Kiếp phù du là kiếp sống ngắn ngủi của con phù du, sáng sanh ra chiều thì chết. Của phù du: Của cải không bền, thấy có đó rồi mất đó.
Hai câu 1131-1132: Tấm thân của con người, mình phải xem là quí trọng biết bao, vì có thân mới tạo ra của cải. Khi thân chết rồi thì của cải đâu có đem theo được, lại lọt vào tay kẻ khác mà mình đâu còn hay biết.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1129 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1133 . Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ,
Mãn căn sanh chưa mở dây oan.
Kìa là vua, nọ là quan,
Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.

Chú thích:
Căn sanh: Cái số phận của kiếp sông con người. (Xem Chú thích câu 1072). Mãn căn sanh: Hết một kiếp sống. Dây oan: Sợi dây oan nghiệt. Mình làm người ta thù giận mình thì sự thù giận ất tạo thành sợi dây oan nghiệt ràng buộc mình, kiếp nầy phải đền trả theo đúng luật nhân quả. Khi trả xong thì sợi dây oan nghiệt nầy mới tiêu mất. Hý tràng: Hý trường, rạp hát. Bán vui: Bọn đào kép thì bán vui, người đi coi hát thì mua vui.
Câu 1133: Người đời thường vô minh, nên cái thiệt thì bỏ đi, lại ham thích cái giả, tìm kiếm cái giả để mà vay mượn nên phải mắc nợ. Vì mắc nợ nên con người cứ mãi trầm luân trong cõi trần để vay vay trả trả, hết kiếp nầy sang kiếp khác.

Vậy cái nào là Thiệt? Cái nào là Giả?
Đức Chí Tôn có dạy rằng: "Việc chi do người đều phàm cả, nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống. Các con nên tìm phẩm tước nơi cõi thiêng liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn. ... Các con nên tìm sự giàu có trong đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới là vĩnh cửu. Của quí ấy không ai ăn cướp đặng cả. ... Danh quyền nơi Trời là bền nhứt, và danh quyền ấy mới chịu đựng nổi bao thử thách. Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung bạch: Mấy con phải làm sao mà tìm được phẩm tước, của cải, danh vọng nơi Trời? Thầy trả lời: Tu." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 1, trang 136)

Như vậy, tất cả danh vọng, của cải nơi cõi thế gian nầy đều là giả tạm, chúng ta chỉ mượn nó để học hỏi và làm nấc thang để tiến hóa. Chỉ có của cải và danh vọng nơi Trời mới thiệt, vì nó tồn tại vĩnh viễn với thời gian.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1133 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1137 . Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,
Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.
Cũng như ác thú nhốt hầm,
ˆn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.

Chú thích:
Lưỡi thọc tay đâm: Miệng thì nói lời đâm thọc gây ác cảm chia rẽ, tay thì toan cầm gươm đâm chém.
Câu 1137: Người nầy sống thấy người khác chết thì cười, trong lúc thân nhân của người chết thì khóc.
Hai câu 1139-1140: Cũng như đám thú dữ bị nhốt chung trong một cái hầm, chúng không biết thương nhau, mà lại ăn thịt nhau cho thỏa sự thèm khát, nào cần biết mạng sống của nhau.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1137 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1141 . Muốn lấy đạo làm đao hại thế,
Toan dùng văn gọi kế sanh nhai.
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.

Chú thích:
Đạo: Tôn giáo. Đao: Cây gươm. Hại thế: Hại đời. Nghiệt đài: Nghiệt là cái mầm ác, nghiệp ác; đài là nơi cất cao. Nghiệt đài tức là Nghiệt Cảnh Đài. Nơi đây có một tấm kiếng huyền diệu dành cho những người tội lỗi, nhìn vào thấy diễn ra trở lại hành vi tội lỗi của mình. Người thiện không bao giờ được đến Nghiệt Đài. "Đài Nghiệt Cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đày đọa đời đời kiếp kiếp. ƒy là buổi chung qui của khách trần đó." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 1, trang 90)
Hai câu 1141-1142: Muốn dùng tôn giáo làm món khí giới sắc bén để hãm hại người đời, lại tính dùng văn chương để mê hoặc người đời, gọi đó là phương cách để sanh sống.
Hai câu 1143-1144: Đi vào con đường hung ác, hay đi vào những nẻo chông gai khó khăn nguy hiểm, chẳng khác chi chen lấn vào chốn Nghiệt Cảnh Đài, gây ra lắm oan nghiệt tội tình, thế mà gọi là ngoan!
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1141 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1145 . Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.
Nhẫng lo chác oán mua hờn,
Hại nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.

Chú thích:
Gan hung bạo: Lòng hung dữ bạo ngược. Gươm giáo là hơn: Chỉ biết dùng võ lực hay gươm giáo là hơn hết.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1145 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1149 . Thấy cảnh thế mà đau với thế,
Biết thương đời mấy kẻ vì đời.
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.

Chú thích:
Bến Phạm: Ý nói cửa chùa, nơi tu hành. Phạm là Phật.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1149 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1153 . Thay đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

Chú thích:
Đạo phục: Quần áo của tu sĩ mặc trong tôn giáo. Bước xăng: Bước nhanh đi. Lánh thế: Xa lánh cõi đời. Giọt nhành dương: Nước Cam lồ do Đức Quan Âm Bồ Tát luyện thành, dùng cành dương liễu rải nước Cam lồ. Nước Cam lồ có tác dụng rất huyền diệu, tiêu trừ các ô trược, các oan nghiệt tội chướng nơi cõi trần, và cải tử huờn sanh. Lau thanh: Lau sạch. Trái chủ: Người chủ nợ. Nghiệt căn: Cái gốc rễ của nghiệp ác, tức là những việc làm ác độc trong kiếp trước, khiến kiếp nầy phải chịu nhiều nỗi đau đớn khổ sở. Nghiệt là cái nghiệp ác; căn là cái gốc rễ từ kiếp trước.
Hai câu 1153-1154: Mau bước lánh đời, qui y vào đạo, mặc áo đạo tu hành, sáng chiều tụng niệm kinh kệ, cởi bỏ lòng trần tục.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1153 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1157 . Đoạn tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.

Chú thích:
Đoạn: Cắt đứt. Quăng: Ném đi. Bứt: Giật cho đứt. Hồng duyên: Tơ duyên, mối dây ràng buộc vợ chồng. Hồng là chỉ sợi tơ đỏ, tơ hồng. Non thề: Cái núi mà 2 người lúc mới yêu nhau chỉ nó mà thề nguyền với nhau. Bờ tục & Bến mê: Đồng nghĩa với Bến mê, chỉ cõi trần. Bờ tục tức là cõi tục, cõi trần; Bến mê chữ Hán là Mê tân, chỉ cõi trần, vì con người sống trong cõi trần đều mê muội. Trái với Mê là Giác. Còn Mê thì còn là chúng sanh, Giác thì thành Phật. Ngươi: thế cho chữ Bờ tục hay Bến mê.
Hai câu 1157-1158: Quyết tâm cắt đứt tình yêu vợ chồng hay tình yêu nam nữ để đi tu.
Câu 1160: Quyết tâm đi tu, nhứt định không thối bước

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1157 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1161 . Vì thấy đó phải cười lộn khóc,
Sách của ngươi chẳng học mà say.
Cửa ngươi cửa đọa cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.

Chú thích:
Sách của ngươi: Sách của cõi trần. Buổi ni: Buổi nầy.
Câu 1162: Nói ví theo nghĩa đen của từ ngữ Mê. Mê thì đi liền với chữ Say: Mê say, Say mê. Sách của Bờ tục Bến mê không học mà cũng say.
Câu 1163: Cõi trần là cõi đọa cõi đày. "Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. ƒy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả chơn linh, là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là Khách trần." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 2, trang 3)

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1161 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1165 . Lần chuỗi hột từ bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
Nước non để bước ta-bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.

Chú thích:
Gió thanh trăng tỏ: Chữ Hán là "Thanh phong minh nguyệt": Gió mát trăng sáng, chỉ cảnh thanh tịnh nên thơ. Ta-bà: Chữ Phạn là Saha, phiên âm là Ta-bà hay Sa-bà, nghĩa là nhẫn nhục. Cõi Ta-bà là cõi mà người tu phải chịu đựng sự nhẫn nhục vì cõi nầy có nhiều ác độc và ô trược. Cõi Ta-bà chính là cõi trần nầy. Để bước Ta-bà: Bước đi khắp nơi trên cõi trần. Sô xiêm: Quần áo bằng vải thô. Sô là vải thô, xiêm là xiêm y, quần áo. Màu dà: Màu nâu. Gọi duyên: Gọi là có duyên tu hành.
Câu 1165: Lần chuỗi hột bồ đề, niệm câu từ bi của Phật, tụng kinh Cứu Khổ cầu cho chúng sanh bớt khổ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1165 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1169 . Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ khiên.
Lấy thân rửa thảm lau phiền,
Đem công chuộc khách thuyền quyên lụy tình.

Chú thích:
Trương thẳng cánh: Giương thẳng cánh buồm. Thuyền Bát Nhã: Thuyền Trí huệ. (Xem Chú thích câu 1000). Cổi đau thương: Cổi bỏ hết các nỗi đau thương. Giải quả: Cởi bỏ hết các kết quả xấu do các ác hành đã gây ra trong kiếp trước. Đó là Nghiệp quả xấu cần phải cởi bỏ ra. Trừ khiên: Trừ diệt các tội lỗi trong kiếp trước gây ra. Lấy thân: Dùng cái tấm thân tu hành nầy. Đem công: Lấy cái công quả lập được do tu hành. Thuyền quyên: Người phụ nữ xinh đẹp. Lụy tình: Khốn khổ vì tình yêu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1169 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1173 . Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú riêng.
Khi động Thánh, lúc non Tiên,
Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.

Chú thích:
Túi gió trăng: Bầu trời có gió mát trăng thanh, chỉ cảnh thanh nhàn thơ thới. La Hồng Tiên viết: "Thanh phong minh nguyệt nhất thi nang." nghĩa là: Gió mát trăng trong, thơ một túi. Thinh thinh: Rộng lớn thênh thang. Hạc cầm: Con hạc và cây đàn, chỉ cảnh nhàn hạ thanh bạch. Điển tích: Ông Triệu thanh Hiến đời Tống, được vua bổ nhậm làm quan, khi đi phó nhậm, ông chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, không có vợ con hay đày tớ chi cả. Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm và nhân hậu. Vui hạc cầm: Ý nói sống vui vẻ tự nhiên, không bận tâm đến việc đời. Thú riêng: Thú vui riêng của mỗi người. Động Thánh: Cái động đá làm nơi ở của các vị Thánh. Non Tiên: Cái núi dùng làm nơi ở của các vị Tiên. Hải đảo: Cái đảo ngoài biển, nơi ở của các vị Tán Tiên. Thiên Thai: Tên một hòn núi ở tỉnh Triết giang bên Tàu, chỉ cảnh Tiên. Tương truyền, Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi hái thuốc, lạc vào núi nầy, gặp hai Tiên Nữ, rồi cùng hai nàng kết duyên thành vợ chồng. Lưu Thần và Nguyễn Triệu vì lòng trần chưa dứt nên sau khi ở cảnh Tiên được nửa năm thì lòng chợt nhớ quê nhà, hai người đòi về thăm. Khi trở lại quê hương thì phong cảnh hoàn toàn đổi khác, hỏi ra mới biết đã đến đời cháu thứ sáu rồi. Không còn ai quen thuộc, lòng buồn bã hối hận, hai chàng trở lại núi Thiên Thai nhưng không tìm được đường lên cõi Tiên nữa. (Chuyện nầy giống như chuyện Từ Thức ở nước ta).
Hai câu 1175-1176: Đi chơi vui thú nơi nầy nơi khác, thật thảnh thơi nhàn hạ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1173 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1177 . Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

Chú thích:
Giày cỏ: Chữ Hán là Thảo hài. Thảo là cỏ, hài là giày. Đây là giày của các đạo sĩ thời xưa làm bằng loại cỏ mền kết lại. Giày cỏ có hình dáng thô kệt, nhưng không tốn tiền mua, đi cũng được êm chân. Đây là giày của người tu. Gậy bá: Cây gậy làm bằng cây trắc. Áo tơi: Áo đi mưa làm bằng lá cọ, không có tay áo. Trần cấu: Trần là bụi, cấu là cáu ghét dơ bẩn. Trần cấu là chỉ những xấu xa dơ bẩn nơi cõi trần. Xủ: Rủ xuống. Phất trần: Phất là quét, trần là bụi. Phất trần là cây chổi Tiên để quét các thứ bụi dơ dáy của cõi trần bám vào Chơn thần, làm cho Chơn thần được trong sạch nhẹ nhàng, có thể bay lên cõi Tiên. Phất trần còn được gọi là Phất chủ, là bửu bối đặc biệt của các vị Tiên, nên Phất trần được dùng làm Cổ pháp tượng trưng Đạo Tiên (Tiên giáo). Biển trí: Trí là sự sáng suốt hiểu biết. Biển trí là sự hiểu biết rộng như biển, đó là Trí huệ. Người có trí huệ thì hết mê lầm, tức là giác ngộ, mà giác ngộ thì đắc thành Tiên, Phật. Ở đây, biển trí chỉ cõi Tiên hay cõi Phật. Quen bờ biển trí: Thường đi đến cõi Tiên. Non nhân: Nhân là lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh. Non nhân là lòng thương người lớn như núi. Đó chính là lòng từ bi bác ái của Phật. Ở đây, non nhân là chỉ cõi Phật.
Câu 1179: Dùng cây Phất trần để quét sạch các thứ dơ bẩn của cõi trần đã bám vào Chơn thần.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1177 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1181 . Đến phồn hoa thân gần tục lự,
Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.
Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

Chú thích:
Phồn hoa: Nơi đông đúc dân cư đua chen danh lợi. Tục lự: Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần; lự là suy nghĩ lo lắng. Tục lự là những lo lắng phiền não của con người nơi cõi trần. Lầu hồng: Chữ Hán là Hồng lâu, chỉ nhà ở của con gái đẹp và giàu sang. Thơ của Lý Bạch: "Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc, Giao chỉ hồng lâu thị thiếu gia." nghĩa là: Người đẹp liền cười, kéo rèm châu nhìn ra. Tay chỉ lầu hồng đó là nhà em. Trái căn: Trái là món nợ, căn là gốc rễ từ kiếp trước. Trái căn là món nợ đã gây ra từ kiếp trước. Chuỗi bồ: Xâu chuỗi bồ đề, làm bằng những hột của cây bồ đề. Nghiệt: Cái mầm ác, cái nghiệp ác. Gió trăng: Chữ Hán là Phong nguyệt, chỉ sự lã lơi chung chạ không đứng đắn giữa nam và nữ. Linh đơn: Thuốc Tiên. Linh là thiêng liêng, đơn là thuốc. Liễu hoa: hay Hoa liễu, là những chứng bịnh nơi bộ sinh dục và lây lan do giao hợp, như bịnh lậu, bịnh giang mai, v.v... Kẻ khổ phần liễu hoa: Những người bị đau khổ vì chứng bịnh do sắc dục bừa bãi và quá độ gây ra.
Câu 1181: Đi đến chốn phồn hoa là đem thân vào nơi phiền não.
Hai câu 1183-1184: Việc tu hành trừ bỏ được các oan nghiệt gây ra do sự quan hệ không đứng đắn giữa nam nữ, và như liều thuốc Tiên để cứu vớt những kẻ đau khổ vì sắc dục bừa bãi quá độ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1181 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1185 . Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy hơi hòa nhã dẹp lần bỉ thô.

Chú thích:
Gót nhân ái: Bước chân của người có lòng nhân ái, luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh. Giọng từ bi: Lời nói từ bi. Náo loạn: Ý nói lúc cang thường điên đảo, đạo đức suy đồi, mạnh ai nấy tranh đua giựt giành danh lợi. Trổi cầm: Trổi lên tiếng đàn. Bỉ thô: Thô bỉ, xấu xa đáng khinh rẻ.
Hai câu 1187-1188: Giữa cuộc đời đang lúc náo loạn, người tu cần phải nói lên lời đạo đức giống như trổi lên khúc nhạc hòa nhã để thức tỉnh người đời, dẹp lần điều xấu xa bỉ ổi.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1185 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1189 . Giúp những kẻ ôm mồ thủ hiếu,
Dỗ những trang bận bịu khối tình.
Dọn đường phước giúp mày xanh,
Đưa con thuyền hạc đến gành thiên lương.

Chú thích:
Ôm mồ thủ hiếu: Đây là nói về Vương Bầu, mỗi khi nghe sấm nổ thì chạy ra ôm mồ của mẹ mà vái rằng: "Có con ở đây, mẹ đừng sợ." Vì lúc mẹ còn sống, bà rất sợ tiếng sấm. Đây là một gương hiếu thảo trong Nhị thập tứ Hiếu. Khối tình: Ý nói tình yêu dữ dội giữa trai và gái. Đường phước: Con đường tạo ra phước đức, đó là con đường tu hành. Mày xanh: Chỉ người phụ nử trẻ tuổi. Thuyền hạc: Thuyền được ví duyên phận của người con gái (Thuyền với 12 bến nước); Hạc được ví với vóc dáng của con gái (Mình hạc xương mai). Thuyền hạc là chỉ người phụ nữ. Gành: Ghềnh, ở đây có ý chỉ nơi chốn. Thiên lương: Cái tốt đẹp mà Trời ban cho người để khuyên nhủ con người làm điều hay sự phải. Đến gành thiên lương: Đến nơi mà Thiên lương tỏ rạng, hết vô minh, ý nói đến bờ giác ngộ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1189 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1193 . Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.

Chú thích:
Hoa chạ: Bông của cây mọc hoang, chỉ những người con gái làng chơi, vô giá trị. Vô chủ: Không có ai làm chủ. Giậu thưa: Hàng rào thưa thớt. Cúc xủ mai xào: Hoa cúc hoa mai héo xào, chỉ những phụ nữ đang gặp hoạn nạn sầu thảm. Dệt: là kết lại. Nâu sồng: Màu nâu và màu sồng, là màu quần áo của tăng ni nhà Phật, chỉ việc tu hành. Nâu sồng cậy phép: Dựa vào việc tu hành. Anh hoa: Cái bông đẹp đẽ nhứt, chỉ người phụ nữ đẹp.
Hai câu 1193-1194: Mở lòng nhân ái cứu giúp những người con gái làng chơi bạc phận, và những phụ nữ hoạn nạn thảm sầu.
Câu 1195: Buộc chặt lòng sầu thảm và lòng đau khổ, ý nói đè nén lòng sầu thảm đau khổ.
Câu 1196: Người phụ nữ trút bỏ lớp quần áo đẹp, để mặc nâu sồng lo việc tu hành.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1193 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1197 . Câu tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
Khi kinh Thánh, lúc kệ Thần,
Đoạn trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.

Chú thích:
Tư dục: Lòng tham lam ích kỷ. Nghiệp oan khiên: Sự hờn giận và tội lỗi do mình gây ra tạo thành cái nghiệp xấu ảnh hưởng lên đời mình, làm cho mình phải chịu nhiều đau đớn sầu khổ. Hồng ân: Ơn huệ to lớn do Trời ban cho. Theo Giáo lý của Đạo Cao Đài, sau khi nhập môn cầu đạo, người tín đồ được hưởng Phép Giải Oan, cởi bỏ hết các oan khiên nghiệp chướng, lại hưởng được hồng ân của Đức Chí Tôn, mà dốc chí tu hành.
Câu 1200: Tiêu diệt hết sạch những nỗi đau khổ trong tình trường và những oan trái của người phụ nữ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1197 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1201 . Lầu xanh giặm màu tu trở vẻ,
Cửa không môn mở hé chơn hồng.
Thu phòng học chước thu không,
Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.

Chú thích:
Lầu xanh: Thanh lâu, ở đây không có nghĩa là nhà chứa gái điếm, mà chỉ nhà giàu có sang trọng. Điển tích: Tấn Thư có câu: "Nam khai chu môn, bắc vọng thanh lâu." nghĩa là: Phía Nam mở cửa đỏ, phía bắc trông lầu xanh. Giặm: Điểm thêm vào. Màu tu trở vẻ: Thay đổi màu sắc để có cái vẻ là nơi tu hành. Chơn hồng: Gót son, chỉ người phụ nữ đẹp. Thu phòng: Chỉ người phụ nữ luống tuổi. Thu không: Chiều tối. (Xem câu 966). Phòng tiêu: Phòng của người vợ.
Câu 1201: Người phụ nữ ở trong cái nhà sang trọng kia nay biết lo tu hành thì cái vẻ ngoài của nó đổi khác trước.
Hai câu 1203-1204: Người phụ nữ lo tu hành rồi nên chiều tối là đốt hương niệm Phật.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1201 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1205 . Đưa tuổi hạc quen chiều non nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê đời.
Nâng bầu nhựt nguyệt lưng vơi,
Dành gương liệt nữ để lời trinh phu.

Chú thích:
Liệt nữ: Người phụ nữ tiết nghĩa, có khí phách anh hùng. Trinh phu: Người đàn ông chính đính, giữ trọn thủy chung. Trinh phu ở đây đồng nghĩa với Trinh nhân.
Câu 1205: Đưa tuổi già quen sống với cảnh vật thiên nhiên.
Câu 1206: Dùng lời văn để chê cõi đời là phù du mộng ảo.
Câu 1207: Ý nói ngày tháng dần dần trôi qua.
Câu 1208: Gìn giữ để làm người liệt nữ nêu gương tốt và để lời nói cùng các trinh phu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1205 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1209 . Nắm huệ kiếm định thâu trái chủ,
Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.
Nơi bến khổ để bước già,
Xuân xanh noi dấu xây tòa anh phong.

Chú thích:
Huệ kiếm: Gươm trí huệ. Kinh Duy Ma Cật: "Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc." nghĩa là: Lấy kiếm trí huệ phá tan giặc phiền não. Ý nói: dùng cái trí huệ của mình có được do tu hành làm thành cây kiếm để trừ diệt lục dục và tam độc Tham Sân Si, vì chúng là giặc gây ra phiền não, cũng như chặt đứt các mối dây oan nghiệt trói buộc mình vào Luân hồi. Trái chủ: Người chủ nợ. Nợ đây là nợ oan nghiệt. Đạo y: Đạo phục, quần áo của người tu. Sạch giũ: Giũ cho rơi sạch hết các bụi bặm. Phồn hoa: Chỉ danh lợi. Bến khổ: Chỉ biển khổ, tức là cõi trần. Xuân xanh: Người trẻ tuổi. Tòa anh phong: Tòa nhà truyền thống tốt đẹp. Anh là đẹp nhứt, phong là phong tục.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1209 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1213 . Cột thân ái cậy lòng đạo đức,
Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.
Nung trang trí thức nữ lưu,
Biết thân giữ mặt hảo cừu giai nhân.

Chú thích:
Cột thân ái: Gây tình thương yêu giữa mọi người. Từ tâm: Lòng lành. Ôn nhu: Ôn hòa mềm mỏng. Nung: Nung đúc, xây dựng và thúc đẩy. Hảo cừu: Đẹp đôi. Hảo là tốt đẹp, cừu là kết đôi. Giai nhân: Người con gái đẹp. Kinh Thi: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cừu. (Người con gái yểu điệu nết na, đẹp đôi cùng người quân tử.)
Câu 1216: Người con gái phải biết thân phận của mình, giữ gìn cho xứng đáng là một giai nhân, để được sánh duyên cùng người quân tử.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1213 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1217 . Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.
Vinh thì chuộng, nhục thì từ,
Cân cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.

Chú thích:
Giồi trí thức: Trau giồi sự hiểu biết cho sâu rộng. Tinh thần: Phần vô hình tốt đẹp nhất của con người để điều khiển các hoạt động của thể xác. Nếu phân tích theo Giáo lý của Đạo Cao Đài thì tinh thần gồm: Chơn thần và Chơn linh. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển thế xác. Tài ba: Ba là cái hoa. Tài ba tức là Tài hoa, là tài giỏi về nghệ thuật và văn chương. Vẹn vẻ: Vẻ đẹp trọn vẹn. Anh thư: Anh là tài giỏi xuất chúng, thư là con gái. Anh thư là người phụ nữ tài giỏi xuất chúng. Vinh thì chuộng: Cái nào là vinh hiển thì mến thích. Nhục thì từ: Cái nào nhục nhã thì từ bỏ.
Câu 1220: Cân đo tính toán cao thấp, hơn thiệt kỹ lưỡng để có hành động đúng đắn thích hợp.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1217 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1221 . Nước Ma-Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi bồ đề gìn giữ hồng nhan.
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.

Chú thích:
Nước Ma Ha: Chữ Hán là Ma Ha thủy, nghĩa đen là nước sông Ma Ha tức là nước của sông Gange (sông Hằng) linh thiêng bên Ấn Độ. Ở đây Nước Ma Ha là nước Thánh dùng trong Phép Tắm Thánh và Phép Giải Oan. Khi Luyện Ma Ha thủy, vị Chức sắc hành pháp niệm câu Chú: "Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa." Nghĩa là: Nước Ma Ha có khả năng tiêu hủy sự đọa đày do các oan nghiệt và các tội chướng. Rửa hờn: Rửa sạch sự hờn giận. Nhi nữ: Đàn bà con gái. Chuỗi bồ đề: Xâu chuỗi làm bằng các hột bồ đề, các tăng ni thường vừa lần từ hột chuỗi vừa niệm Phật. Hồng nhan: Má đỏ, chỉ người phụ nữ đẹp. Cây trăm thước: Cây bồ đề, chỉ sự tu hành. Kinh Phật có câu: "Bồ đề bách xích thụ, Liên tọa tứ thời hoa." Nghĩa là: Bồ đề là cây trăm thước, Tòa sen là hoa 4 mùa. Theo lịch sử Phật giáo, Thái Tử Sĩ Đạt Ta thiền định dưới cội cây bồ đề và thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Do đó, cây bồ đề là chỉ sự tu hành. Hương tàn: Hương tàn phấn lợt, chỉ người phụ nữ trở về già. Đổi hương tàn: Thay vào chỗ hương tàn. Y bá nạp: Cái áo làm bằng hàng trăm miếng vải vụn may lại. Y là cái áo, bá là trăm, nạp là vá lại cho lành. Thường nói là Bá nạp y. Theo giới luật của Phật giáo, các nhà sư phải lượm các miếng vải bỏ của người đời, may kết lại thành áo mà mặc. Mặc như thế để tỏ ý rằng: Không phải mặc cho đẹp, mà mặc cho ấm, và khỏi tốn tiền mua vải. Do đó, Bá nạp y là cái áo của các nhà sư Phật giáo. Phòng the: Cái phòng có treo màn bằng the, đó là phòng ở của phụ nữ, chỉ người phụ nữ. The là loại vải mỏng, mịn và đẹp.
Câu 1221: Nước Thánh Ma Ha (trong Phép Giải Oan) có khả năng rửa sạch các oan nghiệt của người phụ nữ.
Câu 1223: Nghĩa đen: Đem cây bồ đề thay vào chỗ hương tàn phấn lợt. Ý nói người phụ nữ trở về già lo tu hành.
Câu 1224: Lấy áo bá nạp treo thế cho màn the, ý nói người phụ nữ khoát áo bá nạp, làm ni cô tu hành.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1221 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1225 . Để chuông mõ dựa kề son phấn,
Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

Chú thích:
Tâm ẩn ái: Lòng trắc ẩn thương người. Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Đức Chí Tôn. Biển mê: Biển khổ, chỉ cõi trần. Thuyền tình: Chiếc thuyền của tình thương, của từ bi, bác ái, để cứu vớt những người đang chìm đắm trong biển khổ. Độ nhân: Cứu giúp người.

Hai câu 1225-1226: Ý nói: Dẹp son phấn qua một bên, dẹp nhơn tình qua một bên, tức là dẹp hết việc đời, chuyên tâm gõ mõ tụng kệ tụng kinh, niệm Phật tu hành.

Hai câu 1227-1228: Hai câu nầy đã có dẫn để giải thích hình bìa (Phần 6), ý nói: Lấy lòng trắc ẩn thương người giúp Đức Chí Tôn, làm thành chiếc thuyền bác ái cứu giúp người đang chìm đắm trong biển khổ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1225 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1229 . Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
Chông gai vạch bước thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ người trầm luân.

Chú thích:
Tâm chánh: Chánh tâm, cái tâm chánh trực. Cầm phương cứu khổ: Nắm giữ phương pháp cứu khổ. Độ: Cứu giúp. Trầm luân: Trầm là chìm, luân là chìm đắm. Trầm luân là chìm đắm trong biển khổ.
Câu 1229: Lấy chánh tâm để xác định giá trị thực của những thứ hiện diện trong cõi đời.
Câu 1231: Chỉ cho thấy những nẻo chông gai của cuộc đời, vạch ra con đường đưa đến cảnh thảnh thơi nhàn hạ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1229 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1233 . Vẹn nhơn đạo, đi lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch như rừng,
Đon đường Thánh đức, hỏi chừng Như Lai.

Chú thích:
Nhơn đạo: Đạo làm người. Đây là nấc thang thấp nhứt trong 5 nấc thang tiến hóa của con người. Sách Nho có viết rằng: "Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ." Nghĩa là: Muốn tu Tiên đạo, trước tu Nhơn đạo. Nhơn đạo không tu, Tiên đạo xa vời lắm vậy. Theo Nho giáo, Nhơn đạo gồm: Tam cang và Ngũ thường (đối với Nam) và Tứ Đức Tam Tùng (đối với Nữ). Nẻo chánh: Con đường chánh, tức là Chánh đạo. Vô ưu: Không phiền não. Đến vô ưu: Đến cõi không phiền não, tức là đến cõi Cực Lạc Niết Bàn. Muốn đến được cõi nầy thì phải tu. Đặng lánh: Đặng đi xa khỏi chỗ đó. Nhơn luân: Ở đây có nghĩa là Luân hồi nhơn quả. Sự luân hồi là thể hiện luật nhơn quả. Trong kiếp trước mình gây ra nhiều mối nợ oan nghiệt thì mình bị luân hồi lại kiếp nầy để lo đền trả các món nợ ấy cho xong, đúng theo lẽ công bình tuyệt đối của Trời Đất. Thuyền con: Chiếc thuyền bé nhỏ, ý so sánh con người nơi cõi trần như chiếc thuyền bé nhỏ lênh đênh trên biển khổ. Đon: Hỏi thăm chừng. Đường Thánh đức: Con đường Đạo, rèn luyện con người có đức tốt như của bực Thánh. Như Lai: Phật. Kinh Kim Cang: Phật vốn không do đâu lại, cũng không đi đâu, nên gọi Như Lai. Hỏi chừng Như Lai: Hỏi thăm chừng nơi nào là cõi Phật.
Câu 1235: Con người nơi cõi trần như chiếc thuyền bé nhỏ lênh đênh trên biển khổ, mờ mịt như đi trong rừng, không biết phương nào thoát ra.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1233 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1237 . Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
Oan trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.

Chú thích:
Am tự: Am là cái chùa nhỏ, tự là cái chùa lớn. Am tự là chỉ chung các chùa thờ Phật. Chặt gài: Gài chặt cái cánh cửa, không cho mở ra. Tục: Thầm thường thấp kém, chỉ cõi trần. Bước tục: Bước vào cõi trần. Nước Cam lồ: Nước sương ngọt. Cam là ngọt, lồ là giọt sương. Cũng gọi là nước nhành dương, vì nước Cam lồ được đựng trong cái bình, có nhành dương gác ngang miệng bình. Nước Cam lồ do Đức Quan Âm Bồ tát chế luyện, được đựng trong Tịnh bình, Đức Quan Âm dùng cành dương liễu để rải nước Cam lồ nầy cứu sống người hay vật, hay rửa sạch các ô trược bám vào Chơn thần, để được trong sạch tinh tấn. Phúc tiêu diêu: Điều may mắn tốt đẹp được thung dung tự tại. Phúc là điều may mắn tốt đẹp, Tiêu diêu là thảnh thơi vui thú không vướng bận việc đời. Oan trái: Trái là món nợ. Oan là oan nghiệt, là những việc làm ác độc gây thù giận tạo thành nghiệp ác. Nghiệp chướng: Sự ngăn trở của nghiệp. Chướng là ngăn trở. Ở đây là nói nghiệp dữ hay nghiệp ác. Nghiệp ác ảnh hưởng làm kiếp nầy phải chịu nhiều hoạn nạn đau khổ. Cảnh vui Cực Lạc: Cõi Cực Lạc hoàn toàn an vui hạnh phúc. Mỹ miều vẻ tâm: Cái tâm tốt đẹp.
Câu 1237: Đóng chặt cửa chùa, không cho các tu sĩ thối bước trở lại cõi trần. Ý nói khuyên người tu dứt khoát việc đời, chuyên tâm tu hành, không cho hoàn tục.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1237 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1241 . Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
Biến thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn, mở đàng Lôi Âm.

Chú thích:
Bợn tục: Những thứ dơ bẩn ô trược nơi cõi trần. Tình thâm: Tình cảm sâu đậm như tình vợ chồng, tình mẫu tử, tình phụ tử,... Trần gian: Cõi trần, cõi thế gian.

Hạc nội mây ngàn: Ý nói tự do, thung dung tự tại như con hạc ngoài đồng, muốn bay đâu thì bay; như đám mây trên rừng, bay tự do theo gió. Nội là đồng cỏ, ngàn là rừng.

                        Lý Bạch viết:
Lung kê hữu mễ than oa cận,
Dã hạc vô lương thiên địa khoan.

Nghĩa là:
Con gà trong lồng có lúa đầy bụng mà nồi nước sôi kế bên;
Con hạc ngoài đồng túng thiếu lương thực nhưng Trời Đất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.
Ý nói chẳng thà làm con hạc ngoài đồng bữa đói bữa no mà được tự do thoải mái, hơn là làm con gà bị nhốt trong lồng, mất tự do mà nồi nước sôi kế bên, không biết bị cắt cổ làm thịt lúc nào.

Phan Tiếp Dẫn: Cây phướn Tiếp Dẫn của vị Phật gọi là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, dùng để hướng dẫn các chơn hồn đắc đạo đến Cực Lạc Thế giới. Nơi kinh đô của Cực Lạc Thế giới có chùa Lôi Âm (Lôi Âm Tự), là nơi ngự của Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A-Di Đà. Phan là cây phướn dẫn đường.
Câu 1243: Biến cái thân của mình thảnh thơi như con chim hạc ngoài đồng, như đám mây trên rừng, không còn vướng bận việc đời.
Câu 1244: Theo cái phướn Tiếp Dẫn của vị Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mở đường để đi đến chùa Lôi Âm ở cõi Cực Lạc Thế giới.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1241 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1245 . Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
Thong dong quạt gió trăng đèn,
Nhành dương làm bạn, sách hiền gọi quen.

Chú thích:
Cảnh tịnh: Cảnh chùa, nơi tu hành. Tịnh là trong sạch. Tấm tình: Cái tấm tình cảm yêu thương vợ chồng. Đài sen: Tòa sen, nơi Đức Phật ngự. Ngụ: Ở, cư ngụ. Để ngụ đài sen: Ý nói đem gởi cho Phật. Nhành dương: Cành dương liễu của Đức Quan Âm Bồ Tát dùng để rải nước Cam lồ. Nhành dương làm bạn: Làm bạn với cành dương liễu, ý nói làm đệ tử của Phật. Sách hiền: Kinh sách của các bậc Thánh Hiền. Sách hiền gọi quen: Ý nói thường đọc kinh sách của Thánh Hiền.
Câu 1246: Đem cái tấm ái tình đặt lên tòa sen gởi cho Phật, để lòng được yên ổn lo việc tu hành.
Câu 1246: Thung dung nhàn hạ sống với cảnh vật thiên nhiên, dùng gió làm quạt, dùng trăng làm đèn.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1245 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1249 . Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.

Chú thích:
Ngũ quan: Năm giác quan của con người: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da của thân thể).

Lục trần: Sáu thứ dơ bẩn nơi cõi trần. Trần là bụi, chỉ cái dơ bẩn. Nhà Phật cho là dơ bẩn vì làm cho cái tâm dơ bẩn, nhưng lại rất hấp dẫn đối với con người đời. Lục trần gồm: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp (Sắc đẹp, Âm thanh, Mùi thơm, Đồ ăn ngon ngọt, Sự tiếp xúc trên da thịt, Ý tưởng).

Lục trần khêu gợi các giác quan của con người, làm con người ham muốn, tạo thành Lục dục: Sáu điều ham muốn.
Lục dục gồm: Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Pháp dục.
- Mắt nhìn thấy Sắc đẹp thì sanh ra Sắc dục.
- Tai nghe âm thanh êm diệu, lời ngon ngọt thì sanh ra Thinh dục.
- Mũi ngữi mùi thơm dễ chịu thì sanh ra Hương dục.
- Lưỡi nếm sự ngon ngọt béo bùi thì sanh ra Vị dục.
- Da thịt tiếp xúc sự mềm mại thì sanh ra Xúc dục.
- Ý tưởng thích được mến khen sanh ra Ý dục.
Bế ngũ quan: Đóng 5 giác quan lại, không cho lục trần cám dỗ. Không kiêng: Không nể sợ. Tục tánh: Cái tánh tầm thường của người phàm, thích vật chất. Diệt lục trần: Tiêu diệt sự cám dỗ của Lục trần, chớ không thể tiêu diệt được Lục trần, vì Lục trần là ngoại cảnh. Phàm tâm: Cái tâm phàm tục, nhiều tham vọng và ích kỷ, thích hưởng thụ vật chất. Trái với Phàm tâm là Thánh tâm. Mệnh Thiên: Mệnh Trời, mệnh lệnh của Trời. Đoạt phương tự diệt: Đoạt được phương pháp để tự mình diệt hết cái phàm tâm của mình, để phàm tâm không còn che lấp Thánh tâm, Tâm sáng tỏ, có được trí huệ, đắc đạo. Giải phần hữu sanh: Giải là cởi bỏ; phần hữu sanh là phần có sống, tức là phần thể xác của con người. Giải phần hữu sanh là cởi bỏ thể xác, để chơn linh và chơn thần xuất ra đi lên cõi thiêng liêng.

Câu 1251: Giữ vững Mệnh Trời. Muốn giữ vững Mệnh Trời thì phải biết Mệnh Trời. Điều nầy rất khó, vì Đức Khổng Tử tới 50 tuổi mới biết được mệnh Trời. (Ngũ thập nhi tri Thiên mệnh). Khi đã biết được mệnh Trời thì cứ sống vui theo mệnh Trời, chớ lập ý riêng, lần lần tạo được năng lực mẫn huệ, đắc đạo tại thế.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1249 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1253 . Linh linh, hiển hiển, khinh khinh khứ,
Sắc sắc, không không, sự sự tiêu.
Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,
Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.

Chú thích:
Linh: Thiêng liêng. Hiển: Hiện ra. Khinh: Nhẹ. Khứ: Đi. Sắc: Cái có hình dạng thấy được bằng mắt thường. Không: Không có gì cả, trống không. Sự: Việc. Tiêu: Mất. Xuất dương: Đi ra khỏi cõi trần. Xuất là đi ra. Dương là cõi dương gian, tức là cõi trần. Triều: Chầu. (Chầu vua) Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung nơi cõi thiêng liêng. Đây là nơi nắm giữ Thiên điều, điều hành tất cả các hoạt động của Càn khôn Vũ trụ.

Câu 1254: Sắc và Không chỉ là hai trạng thái nối tiếp của một sự vật. Vật có hình thể là Sắc, lần hồi theo thời gian, vật bị hủy hoại tiêu mất để trở về Không. Rồi từ cái Không, sẽ tạo trở lại vật có hình thể tức là Sắc. Sắc Không cứ thế luân chuyển. Thể xác của con người cũng thế, luân chuyển trong vòng Sắc Không. Khi thể xác già yếu thì sẽ chết, tức là bị hủy hoại, Chơn linh và Chơn thần xuất ra khỏi thể xác, bay lên cõi thiêng liêng, tức là trở về Không.
Câu 1255: Nhờ tu hành, Chơn linh của người tu đẹp đẽ.
Câu 1256: Chơn linh đi ra khỏi cõi trần, bay lên Ngọc Hư Cung để chầu Đức Chí Tôn.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1253 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

1257 . Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế, đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.

Chú thích:
Ngũ khí: Năm chất khí gồm: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Thân thể con người có Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Ngũ tạng sanh ra Ngũ khí, giống như 5 dòng điện.

- Tâm là trái tim, thuộc Hỏa.
- Can là lá gan thuộc Mộc.
- Tỳ là hai lá lách thuộc Thổ.
- Phế là hai lá phổi thuộc kim.
- Thận là hai quả thận thuộc Thủy.

Ngũ Tạng, nếu được nuôi dưỡng bằng thức ăn mặn, tức là cá thịt, thì Ngũ Khí sanh ra ô trược và năm dòng điện phát ra có tần số thấp; trái lại nếu được nuôi dưỡng bằng những thức ăn chay, tức là rau quả, thì Ngũ Khí thanh nhẹ, và năm dòng điện phát ra có tần số cao. (Thanh là trong sạch nhẹ nhàng).

Người tu luyện đạo, luyện cho năm luồng điện nầy điều hòa hiệp lại làm một trở nên mạnh mẽ, gọi là Ngũ Khí triều nguơn; kế đó luyện cho Tam Huê tụ đỉnh, tức là luyện cho Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì đắc đạo thành Tiên Phật tại thế.

Muốn luyện cho Ngũ Khí triều nguơn thì phải dụng công phu định cái tâm, gìn cái ý, bế Ngũ quan, thì Ngũ Khí hiệp về. Còn muốn luyện Tam huê tụ đảnh thì luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần và luyện Thần huờn Hư.

Các phép luyện đạo chỉ được truyền dạy trong Tịnh Thất dưới dự chăm nom của một Tịnh Chủ.

Quả kiếp: Cái kết quả của kiếp trước tạo thành cái Nghiệp để theo báo đáp lại trong kiếp nầy. Khi diệt trừ hết quả kiếp, tức là hết Nghiệp, hết nợ, tu hành rất mau đắc đạo. Linh quang: Điểm linh quang của Đức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm Chơn linh. Đầy: Đủ sự tốt đẹp. Hồng ân: Ơn huệ to lớn của Đức Chí Tôn ban cho. Ba mươi sáu cõi: Còn gọi là Tam thập lục Thiên: Ba mươi sáu cõi Thiên Tào. Linh Thiên: Ông Trời, Đức Chí Tôn Thượng Đế.
Câu 1259: Tuy còn mang xác phàm tại thế nhưng đã đắc đạo, thành bực Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1257 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
 Home   1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét