Nữ Trung Tùng Phận - 2 / 13 (Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút)


 Người phụ nữ, nếu gặp phải số phận bạc bẽo, gãy gánh giữa đường thì điều cao quí nhất vẫn là giữ lòng chung thủy với chồng, ở vậy nuôi con và dạy dỗ con, hy sinh bản thân mình để tạo sự nghiệp cho con, hơn là tái giá, bước thêm bước nữa (Tùng tử):
777 . Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết Tam Tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.
        
Khi con đã khôn lớn nên người, người phụ nữ cần nên hướng về đường đạo đức tu hành:
969 . Tiếng U Minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

997 . Rón rén trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh tâm xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

         Nhìn lại cuộc đời đã qua, thấy rõ như là một giấc mộng, có chồng có con, mưu cầu danh lợi chỉ là chuốc thảm đeo sầu.
1109 . Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
         Người phụ nữ lúc bấy giờ nên xuất gia tu hành, tầm đường Thiên đạo thì mới mong giải khổ và thoát khổ.
1153 . Thay đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

1233 . Vẹn Nhơn đạo đi lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch như rừng,
Đon đường Thánh đức hỏi chừng Như Lai.
         Tu thì nên luyện đạo và sẽ được đắc đạo tại thế:
1249 . Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt, giải phần hữu sinh.

1257 . Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần linh Thiên.
         Rán cầm viết ghi lại những kinh nghiệm sống của đời mình để lưu lại khuyên dạy Nữ phái:
1381 . Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
         Nhiệm vụ đã xong, linh hồn thoát xác về Tiên, hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn:
1397 . Buông ngọn viết vào làn mây trắng,
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.

1401. Đời đời danh chói Cao Đài./.

         Tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận của Tiên Nương Đoàn Thị Điểm viết ra vào năm 1933, lúc đất nước ta còn phong kiến và Pháp thuộc, nên thích hợp với hoàn cảnh xã hội thời đó, nhưng so với hoàn cảnh của người phụ nữ thời nay có nhiều đổi mới thì tác phẩm có một số chi tiết không còn thích hợp nữa.
         Tuy nhiên, đứng trên mặt tổng quát, đặt nặng phần căn bản mà xem nhẹ chi tiết, thì tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận nầy rất có giá trị về 2 phương diện: văn chương và giáo dục.
         - Lời thơ bóng bẩy, đầy âm điệu, ý tứ thanh cao, góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam.
         - Nội dung giáo dục chủ yếu dành cho Nữ phái, nhưng không phải không có dạy Nam phái, góp phần củng cố nền tảng đạo đức gia đình, đúng theo chủ trương Nho tông Chuyển thế của Đạo Cao Đài, để từ đó xây dựng nền phong hóa Việt Nam càng lúc càng tốt đẹp, làm gương mẫu cho toàn nhơn loại, đúng theo Thánh ngôn của Đức Chí Tôn:
"Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong."

Những giới hạn thời gian
trong Nữ Trung Tùng Phận.

         Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ viết tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận vào 1933, trong một hoàn cảnh lịch sử của đất nước Việt Nam vô cùng rối ren và đen tối.
         Người Pháp đã đặt ách đô hộ hoàn toàn lên Nam Kỳ và Bắc Kỳ (Miền Nam và miền Bắc Việt Nam), còn Trung Kỳ thì người Pháp bảo hộ, họ duy trì chế độ vua quan nhà Nguyễn làm bù nhìn cho chúng, để chúng thẳng tay đàn áp các phong trào Cách mạng hay Cần Vương của các sĩ phu yêu nước.
         Người Pháp đã đem nền văn minh cơ khí tiến bộ của họ và nền văn hóa Thiên Chúa giáo sang khai hóa dân tộc ta, khiến người dân Nam cảm thấy rất xa lạ, thấy nó như các phép thuật của ma quỉ, nên người Việt Nam yêu nước gọi người Pháp là đám Bạch quỉ (quỉ da trắng).
398.

Nào dân đen phép quỉ hớp hồn.
         Người Việt Nam phải chịu trong cảnh nô lệ, tù đày:
412 . Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
         Một số người Việt Nam bị Pháp dụ dỗ bằng miếng mồi danh lợi nên chạy theo ủng hộ Pháp, được Pháp cho làm quan, trở lại đàn áp các phong trào yêu nước chống Pháp, được Pháp dung túng cho bọn họ tham nhũng, bốc lột dân chúng:
421 . Thất xã tắc dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại nhũng, quan gian.
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
         Do đó, Bà Đoàn Thị Điểm đã viết trong phần Mẹ dạy con trai phải tận trung với vua và tham gia phong trào Cần Vương:
369 . Quan thì phải tận trung vì chúa.
371 . Sang thì giữ vững ngai vàng.
378 . Thương quê hương trọng ngãi quân thần.
379 . Ngọn rau tấc đất là ân.
380 . Ưu quân ái quốc, vua cần dân nghinh.
386 . Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao.

         Đây là điều giới hạn về thời gian của tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận, vì thời xưa, dưới chế độ quân chủ, vua cai trị dân một cách độc đoán, còn nay thì đã tiến đến thời tự do dân chủ, dù có vua đi nữa thì vua chỉ để tượng trưng cho nước, giữ phần nghi lễ, chớ không tham dự vào việc cai trị dân, mà quyền cai trị dân nằm trong tay của Chánh Phủ do dân trực tiếp hay gián tiếp bầu ra, dưới sự giám sát của Quốc Hội, một cơ quan hoàn toàn dân cử.
         Vào năm 1933, xã hội Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng nặng nề tính chất của thời quân chủ, nên quan niệm các vấn đề như:
            - Trung với vua một cách cứng ngắt, hẹp hòi.
            - Trọng Nam khinh Nữ, không cho phụ nữ đi học và làm quan.
            - Duy trì chế độ đa thê, chồng chúa vợ tôi.
         Đó là 3 vấn đề mà tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận còn bị giới hạn đối với xã hội Việt Nam tiến bộ ngày nay. Chúng ta đi chi tiết từng điểm một:
         a) Vấn đề trung với vua:
         Bà Đoàn đã viết như đã trình bày ở phần trên.
         b) Vấn đề trọng Nam khinh Nữ:
         Thuở đó, phụ nữ không được đi học và ra làm quan.
05 . Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học.
06 . Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
17 . Cửa Thánh miếu hãy còn thiếu gái.
18 . Chốn quyền môn Nữ lại vẫn không.
35 . Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
36 . Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

         Ngày nay, Nam Nữ đã hoàn toàn bình đẳng với nhau, con gái được học hành y như con trai, lại còn có phần giỏi hơn con trai, số học trò Nữ thường đông hơn Nam. Có nhiều phụ nữ đậu các bằng cấp rất cao như: Thạc Sĩ, Bác Sĩ, Tiến Sĩ.
         Phụ nữ được làm tất cả các công việc, các ngành nghề y như Nam phái, kể cả các ngành Chánh Trị, Kinh Tế, Văn Hóa. Nhiều phụ nữ đã làm Dân Biểu, Nghị Sĩ, Bộ Trưởng, Thủ Tướng, Quản trị kinh doanh, Luật Sư, Bác Sĩ, Dược Sĩ, v.v...
         c) Vấn đề đa thê, chồng chúa vợ tôi:
         Trong Nữ Trung Tùng Phận Bà Đoàn Thị Điểm đã viết:
         - Người đàn bà bị xem như món đồ chơi:
            19 . Vật chơi ở chốn khuê phòng.

         - Chồng chúa vợ tôi, người vợ không có quyền quyết định các việc trong gia đình:
113. Thân lòn cúi vợ tôi chồng chúa.

119. Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.
         - Người đàn ông được xã hội cho phép lấy nhiều vợ:
139 . Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê, bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.
709 . Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại.
         Ngày nay, luật pháp nước Việt Nam cấm hẳn đa thê, chỉ cho phép một vợ một chồng. Tân Luật của Đạo Cao Đài cũng không cho phép đa thê.
         Phụ nữ ngày nay được hoàn toàn bình đẳng với Nam phái trong mọi lãnh vực, về quyền lợi cũng như về trách nhiệm, đối với Đời cũng như về mặt Đạo, không còn cảnh chồng chúa vợ tôi, cử án tề mi.
         Trong quan niệm chồng chúa vợ tôi của thời đó, Bà Đoàn Thị Điểm đã xây dựng một mẫu người vợ với đạo Tùng Phu (trong Tam tùng) một cách quá mức đến độ người vợ mất hẳn cá tính, giống như một nữ kịch sĩ chỉ lo diễn xuất cho trọn vẹn vai tuồng làm vợ, chớ không hề có chút gì sống thực với chính bản thân mình:
61 . Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
62 . Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
67 . Chiều vui dưới trướng ngoài màn.
78 . Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
81 . Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
82 . Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
91 . Dầu chàng đổi dạ én anh,
92 . Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
93 . Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
94 . Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
95 . Chàng vui thiếp cũng vui càn,
96 . Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.
111 . Trăm năm kim cải cũng chồng,
112 . Trái duyên vẫn vẹn đạo tòng mà thôi.

         Người phụ nữ thời nay, khi đọc những đoạn thơ có nội dung chồng chúa vợ tôi, chắc chắn rất lấy làm bất mãn trước bao nỗi bất công mà người phụ nữ thời xưa phải gánh chịu, và cảm thấy lòng vừa đau đớn vừa thương xót.
         Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy Bà Đoàn đã thấy rõ những nỗi bất công đó, nên có lúc Bà muốn đứng lên tranh đấu mạnh mẽ cho quyền lợi của phụ nữ:
1325 . Thấy nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,
Muốn binh lời làm mạnh đỡ nâng.
         Nhưng bà lại sợ, vì luân lý xã hội với truyền thống lâu đời lúc bấy giờ chưa cho phép:

1327 . Lại e lỗi đạo nhơn luân,
Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

         Bà nhận thấy rằng, nguyên nhân chủ yếu của các bất công đó là do phụ nữ ít học, dốt nát, thiếu tài năng, nên Bà khuyến khích phụ nữ, việc đầu tiên là phải lo học tập, trau giồi kiến thức:
01 . Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Bà cũng muốn đòi hỏi bình quyền giữa vợ và chồng:

85 . Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.

113 . Đạo phu thê như đủa nên đôi.
         Nhưng đứng trước một xã hội còn nặng nề đầu óc quan liêu phong kiến, tiếng nói đòi hỏi của Bà trở thành tiếng than uất ức:
160.

Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?
         Và khi Bà viết đoạn Mẹ dạy con trai cách đối xử với vợ, phải thương yêu vợ, đối xử bình đẳng với vợ và giữ lòng chung thủy với vợ, thì chúng ta thấy rõ Bà vốn chủ trương vợ chồng bình đẳng với nhau:
533. Con đừng thấy phụ nhân nan hóa,
Cầm hồn hoa vày vã thân hoa.
Vợ con thay phận mẹ già,
Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

537 . Khi sớm tối lạnh nồng có kẻ,
Thân mật con đặng để giữ con.
Mẹ lo trong lúc còn non,
Vợ con lo lúc thân mòn gối rung.

541 . Nếu khổ cực cùng chung chia sớt,
Dầu sang hèn đừng bớt tình nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông công bà.

545 . Con chớ ỷ mình là nam tử,
Chiếm chủ gia, hẹp xử thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.

         Tóm lại, đứng trên mặt tổng thể của tác phẩm, 3 điểm giới hạn vừa nêu trên chỉ là một phần nhỏ mà thôi. Ngoài những điểm hạn chế nhỏ nầy ra, toàn bộ phần lớn còn lại của tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận đều có tánh cách phi thời gian và không gian, tức là có giá trị bất hủ trong mọi trường hợp.
         Do đó, tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận vẫn có giá trị giáo dục rất cao. Đương nhiên khi áp dụng vào việc giáo dục phụ nữ thời nay, hay thời sau nầy nữa, dù là sự giáo dục trong cửa Đạo Cao Đài hay là sự giáo dục ngoài xã hội, cần phải bớt đi những phần hạn chế không thích hợp, giữ lại và phát huy tất cả những phần thích hợp. Điều đó là cần thiết vì sự tiến hóa tất nhiên của nhơn sanh.

Tứ Đức & Tam Tùng
đối với phụ nữ thời nay

         Khi mở đề nói về Tứ Đức và Tam Tùng đối với người phụ nữ thời nay, có một số không ít chị em khoát tay lia lịa cho rằng cái đó là cổ hủ, lỗi thời rồi. Đời tự do dân chủ, Nam Nữ bình quyền, thời khoa học văn minh tiến bộ, Nữ còn giỏi hơn Nam mà đem chuyện Tứ Đức và Tam Tùng cách đây hơn 25 thế kỷ ra bàn luận áp dụng cho phụ nữ có phải là trật đường rầy chăng?
         Nhưng xin thưa rằng, trước khi chúng ta nặng lời phê phán, chúng ta cũng nên bình tâm dành chút ít thời gian tìm hiểu trở lại một cách rõ ràng Tứ Đức, Tam Tùng là gì, hay dở ra làm sao, để tránh những điều ngộ nhận sai trái đáng tiếc.

I . Tứ Đức:
         Tứ Đức là 4 đức tốt của người phụ nữ. Tứ Đức gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
         1 . Công:
         Công là chăm sóc việc nhà cho sạch sẽ, trật tự, vén khéo; thêu thùa may vá, nấu nướng món ăn, nuôi dạy con cái.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn Thị Điểm dạy về Công:
629 . Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ, gỡ đày chinh phu.

         Trong phần Công, Bà Đoàn còn dạy phụ nữ nên dành thì giờ lo học tập, trau giồi kiến thức.
         Nếu người phụ nữ trong nhà để cho nhà cửa dơ dáy đầy rác bẩn, đồ đạc vứt bỏ lung tung, không biết nấu ăn, áo đứt nút không biết cầm kim kết lại, con cái mặt mày lem luốc, quần áo dơ dáy, thử hỏi người ta sẽ đánh giá trị người phụ nữ ấy ra sao?
         2 . Dung:
         Dung là vẻ mặt và dáng dấp bề ngoài. Phụ nữ cần chăm sóc dung nhan cho tươi tắn, tướng đi dịu dàng, cử chỉ từ tốn đoan trang, thân thể sạch sẽ, quần áo tươm tất gọn gàng.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Dung:
621 . Phàm phận gái đứng hàng khuê các.
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
         3 . Ngôn:
         Ngôn là lời nói phải thành thật, ngay thẳng, dịu dàng, xác đáng, gây được tình cảm tốt đẹp trong mọi người; tránh lời thị phi, đâm thọc, xảo trá lợi mình hại người.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Ngôn:
625 . Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng, phục người mới ngoan.

         Nếu người phụ nữ không giữ gìn lời nói, phát ngôn bừa bãi, chua ngoa, gian xảo, nói lời thô tục, người ta sẽ đánh giá trị người phụ nữ ấy như thế nào?
         4 . Hạnh:
         Hạnh là tánh nết hiền lành, hòa nhã, hiếu thảo, kính trên nhường dưới, khoan dung, đoan chính.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Hạnh:
633 . Sửa từ nết, ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

         Nếu người phụ nữ không giữ tánh nết cho hoà nhã đoan chánh, để cho buông lung lăng loàn, hay cãi lẫy bướng bỉnh, ác độc, ích kỷ, thì người ta sẽ đánh giá trị người phụ nữ ấy thế nào?
         Đó là ý nghĩa của Tứ Đức, nó là tiêu chuẩn để định giá trị của phụ nữ. Như thế, chúng ta nhận thấy ai ai trong giới phụ nữ cũng đều đang có Tứ Đức, nhưng có điều là ở mức độ nhiều ít, đầy đủ hay thiếu sót thế thôi.
         Tứ Đức là 4 điều hết sức cần thiết, đến độ xem là tự nhiên sẵn có của phụ nữ. Nhờ Tứ Đức mà giá trị của phụ nữ được nâng cao. Không cần phải giàu sang quyền quí hay là trí thức mới có đủ Tứ Đức, người nghèo khó, dốt nát, quê mùa cũng vẫn có Tứ Đức. Chính Tứ Đức mới định giá trị thực sự của phụ nữ. Giá trị nầy không do phấn son, nước hoa hay quần áo đắt tiền đúng kiểu thời trang.
         Chỉ có hạng phụ nữ bị xã hội chê bỏ mới không có Tứ Đức mà thôi.

II . Tam Tùng:
         Tam Tùng hay Tam Tòng là 3 điều nên theo của phụ nữ. Tam Tùng gồm: Tùng phụ, Tùng phu, Tùng tử, tức là:
            - Tại gia tùng phụ,
            - Xuất giá tùng phu,
            - Phu tử tùng tử.
         1 . Tại gia tùng phụ: Ở nhà thì tùng theo cha.
         Điều nầy rất đúng đắn và tự nhiên, bởi vì cha mẹ sanh ra mình, nuôi mình lớn lên, dạy cho biết điều hay lẽ thiệt, thì mình phải vâng lời cha mẹ là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, tùng cha mẹ nhưng phải ý thức là tùng theo lẽ phải và đạo đức, chớ không phải tùng theo một cách mù quáng máy móc.
         Phần cha mẹ thì phải là người hiền lương chơn chất, hết lòng thương con, lo lắng cho con, dạy dỗ con thành người tốt hữu ích cho gia đình và xã hội.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Tùng Phụ:
637 . Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

         Chỉ không tùng cha khi nào lời dạy bảo của cha không hợp với luân lý đạo đức và trái với lẽ phải. Trong trường hợp nầy, người con cần phải hết sức khiêm tốn, nhỏ nhẹ nhưng cương quyết, năn nỉ cha xét lại, tranh đấu cho lẽ phải bằng tình thương yêu một cách tế nhị để khuyên lơn cha.
         2 . Xuất giá tùng phu: Có chồng thì tùng theo chồng.
         Trời phú cho người đàn ông một sức khỏe mạnh mẽ, một ý chí cương quyết, nên người chồng đảm nhận trách nhiệm kinh tế, lo làm việc sanh lợi nuôi sống gia đình gồm vợ và các con. Do đó, một cách rất tự nhiên, người vợ nhường cho chồng quyền làm chủ gia đình, làm chỉ huy trưởng, còn vợ thì phụ tá, làm chỉ huy phó. Mọi việc trong gia đình, người vợ cần đóng góp ý kiến cho chồng giải quyết, nhưng dành cho chồng quyền quyết định sau cùng.
         Đó là tùng theo chồng, với điều kiện chồng sáng suốt và tài năng, chớ không phải như thời xưa qui định chồng chúa vợ tôi, chồng xem vợ như kẻ nô tỳ.
         Nữ Trung Tùng Phận:
673 . Đến lúc đã chung phòng hòa hợp.
Phải tùng phu là phép xưa nay.

         Sự tùng theo chồng là hình thức phân chia trách nhiệm giữa vợ và chồng trong gia đình.
         Trong công bằng xã hội, Nam Nữ bình quyền, phong tục và tạp quán thời nay cũng như Luật pháp chỉ cho phép một vợ một chồng. Người đàn ông chỉ được có một vợ, và người phụ nữ chỉ được có một chồng, và vợ chồng phải sống chung thủy với nhau.
         3. Phu tử tùng tử: Chồng chết thì theo con.
         Tùng theo con, không có nghĩa là nghe lời con hay bị con chỉ huy, mà ý nói rằng, khi chồng chết thì người vợ nên ở vậy, thủ tiết với chồng, quên mình mà lo tạo dựng cho con.
         Thật ra, đây không phải là điều bắt buộc, thời xưa cũng như thời nay, mà chỉ là lời khuyên. Nếu người vợ còn trẻ tuổi, luân lý và luật pháp không cấm người vợ tái giá khi mãn tang chồng.
         Việc người quả phụ bước thêm bước nữa là việc bình thường, và chúng ta cũng thường thấy như thế. Nhưng nếu người phụ nữ ấy thủ tiết với chồng đã chết, ở vậy thờ chồng nuôi dạy con khôn lớn thì đó mới là điều phi thường, đáng tôn trọng. Cái khó khăn mà người ta không làm được, mình làm được thì mới đáng quí, đáng bậc tiết liệt, vì nó thể hiện lòng cứng cỏi bất khuất, chiến thắng dục vọng tầm thường.
         Không có chiến công vẻ vang nào bằng tự thắng được dục vọng của mình.
         Tôn giáo thì luôn luôn mong muốn người phụ nữ sống cao thượng, cho nên khuyến khích người phụ nữ khi chồng chết thì không nên tái giá, ở vậy thờ chồng nuôi con và xây dựng cho con. Tuy nhiên, đây chỉ là sự chỉ vẽ đường lối có tánh cách khuyến khích, chớ không bắt buộc. Người phụ nữ tùy ý lựa chọn con đường mình đi, muốn mình sống bình thường như bao nhiêu phụ nữ khác hay muốn trở nên bực phi thường. Người phụ nữ có quyền tự do lựa chọn và định đoạt cuộc đời mình.
         Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn viết về Tùng tử:
777. Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết Tam Tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.

III . Tứ Đức & Tam Tùng của phụ nữ Cao Đài:
         1 . Thể Pháp và Bí Pháp của Nhơn đạo:
         Phần I (Tứ Đức) và phần II (Tam Tùng) vừa trình bày bên trên là Thể Pháp của Nhơn đạo của người phụ nữ.
         Nếu người phụ nữ nào làm tròn được Thể Pháp nầy thì được bước vào Thần vị. Riêng người tín nữ Cao Đài cần tiến lên một nấc thang kế tiếp là Bí Pháp của Nhơn đạo.
         Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như sau:
         "Tam Tùng, Tứ Đức là về phần Nữ phái:
         - Tùng phụ: Như người con gái phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ phải giữ tròn danh Đạo.
         - Tùng phu: Như bóng với hình, tức nhiên phải ví mình như một trong Thánh thể, tùng Hội Thánh vậy.
         - Tùng tử: là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo nên sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức sắc vậy.
         - Công, Dung, Ngôn, Hạnh: tức là việc làm cho cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ để treo gương mặt thế, tức là phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Đức Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên là làm nền móng cho Đại đồng Thế giới."
         Người nữ tín đồ Cao Đài thực hành trọn vẹn Thể Pháp và Bí Pháp của Nhơn đạo thì đắc Thánh, bước vào Thánh vị.
         2 . Tam Tùng và Tứ Đức theo Thiên đạo:
         Khi đã làm trọn được Tam Tùng và Tứ Đức ở Thể Pháp và Bí Pháp của Nhơn đạo, người nữ tín đồ Cao Đài cần tiến lên một nấc thang cuối nữa, cho Tam Tùng và Tứ Đức thăng hoa lên đến tột bực để bước vào Thiên đạo, thì mới được giải thoát khỏi vòng luân hồi.
         - Tùng phụ: Tùng Cha, Cha đây là Đấng Cha Trời, là Đại Từ Phụ. Phải tuân theo lời dạy của Đấng Cha Trời, siêng năng tu tiến thì linh hồn mới trổi bước lên phẩm vị cao sang.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1251 . Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt, giải phần hữu sanh.
         - Tùng phu: Theo chồng, chồng thuộc Dương, vợ thuộc Âm, vợ chồng hòa hợp thì cũng như sự tu luyện làm cho 2 khí Âm Dương trong cơ thể tương hiệp nhau, tức là đạt được Ngũ Khí triều nguơn, Tinh Khí Thần hiệp nhứt, đắc đạo tại thế.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1257 . Ngũ Khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi, đặng gần Linh Thiên.

         - Tùng tử: Sau khi đắc đạo rồi, còn phải trở lại dìu dắt những đứa con đang dại khờ chìm đắm trong vòng vật dục, để chúng sớm giác ngộ mà quay trở lại con đường Đạo.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1261 . Hiệp Tạo Hóa cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui,
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.

         - Công: Từ chỗ chăm làm việc nhà, phát triển lên làm việc cho xã hội, truyền bá kinh sách giáo hóa người đời, phụng sự nhơn sanh, để tạo công đức tu hành mau tinh tấn.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1267 . Ham phương cứu thế độ nhơn,
Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.

         - Dung: Tiến lên bồi đắp sắc đẹp tinh thần, thể hiện bằng tình thương bao la cứu giúp chúng sanh thoát khổ.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1269. Lấy bác ái làm hòa vạn vật,
Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn căn, đóng chặt Âm cung,
Tòa sen chín phẩm để cùng Phật tâm.

         - Ngôn: Từ chỗ nói năng đoan chính đem lại hòa ái cho mọi người, tiến lên nói điều đạo đức, thuyết minh giáo lý khai mở tâm tánh cho nhơn sanh thức tỉnh, học đạo tu hành.
         Nữ Trung Tùng Phận:
1185. Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy hơi hòa nhã dẹp lần bỉ thô.

         - Hạnh: Từ đức tánh hiền hòa khiêm tốn, tiến lên đến mức khiêm tốn tối đa để chinh phục người đời, phổ độ người đời vào đường đạo đức, lập hạnh từ bi cứu vớt chúng sanh đồng thoát khổ.
      Nữ Trung Tùng Phận:
1229 . Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
Chông gai, vạch bước thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ người trầm luân.

         Tóm lại, Tứ Đức và Tam Tùng trong Thiên đạo chỉ là sự thăng hoa đến mức cao tột của Tứ Đức và Tam Tùng trong Nhơn đạo của người phụ nữ Đạo Cao Đài.

Giải thích
hình bìa, tên sách, khảo đính
I . Giải thích hình bìa:
         Bên trên là những con chim, đó là những con Hạc Đạo. Bên dưới là chiếc Thuyền Tình lướt trên Khổ hải.
         Hình vẽ trên ứng với 2 câu thơ:
1227. Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.
Tâm ẩn ái: Lòng trắc ẩn thương yêu.
Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Đức Chí Tôn.

Biển mê: Mê là mờ hồ lầm lạc. Trái với Mê là Giác. Mê là còn khổ, còn phiền não, nên là chúng sanh; Giác là hết khổ, an lạc, nên là Phật. Biển mê chính là Biển khổ (Khổ hải). Chúng sanh đang trầm luân trong Biển mê, gây ra lắm oan nghiệt mà không biết nên cứ mãi mãi luân hồi chuyển kiếp nơi cõi trần ai phiền não.
Độ nhân: Cứu giúp người.
Thuyền tình: Trong văn chương, Thuyền tình được dùng với ý nghĩa là chiếc thuyền chở tình yêu của đôi Nam Nữ theo câu thơ cổ: "Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn." nghĩa là: Một chiếc thuyền tình đã đến bờ, ý nói tình yêu của đôi Nam Nữ đến bờ hạnh phúc, kết hôn với nhau thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau.
         Theo nghĩa nầy, trong Truyện Kiều có câu:
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gãy, bình rơi bao giờ.
         Ở đây, Đoàn Tiên Nương dùng chữ Thuyền Tình với ý nghĩa được thăng hoa lên thành chiếc thuyền của tình thương yêu, thuyền bác ái, chiếc thuyền từ bi, mà Đức Quan Âm Bồ Tát chèo trên Biển khổ để cứu độ nhơn sanh đưa qua Bờ giác.
         Tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận nầy được ví như chiếc Thuyền Tình thương yêu cứu giúp chị em Nữ phái vượt qua Khổ hải đến nơi Bờ giác, đắc đạo, thung dung tự tại như những con Hạc đạo tự do bay liệng trong không trung.
             
II . Giải nghĩa tên sách:
         Nữ Trung Tùng Phận.
         Nữ: Đàn bà con gái, phụ nữ. Trung: Ở giữa, ở trong.
         Nữ trung: Trong giới phụ nữ, tức là chỉ giới phụ nữ.
         Tùng: Theo. Phận: Bổn phận.
         Nữ Trung Tùng Phận là những bổn phận mà phụ nữ phải tùng theo.
         Người phụ nữ muốn được mau tiến hóa về tâm linh, thì phải lo làm tròn các bổn phận của mình trong phần Nhơn đạo.
         Sách Nữ Trung Tùng Phận vẽ đường cho người phụ nữ làm tròn Nhơn đạo. Nhơn đạo xong thì tiến lên Thiên đạo.
         Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn đại khai Ân Xá, nên không cần phải tu luyện, chỉ cần lo lập công quả phụng sự nhơn sanh. Người phụ nữ lập công quả một thì Đức Phật Mẫu cho hưởng hai, nên phụ nữ nếu chịu lo tu thì mau đắc đạo hơn Nam phái rất nhiều.
             
III . Khảo đính một số từ ngữ:
         Chúng tôi có 3 bổn Nữ Trung Tùng Phận do Hội Thánh xuất bản:
            1) Bổn năm Nhâm Thìn (1952).
            2) Bổn năm Bính Ngọ (1966).
            3) Bổn năm Quí Sửu (1973).
         Chúng tôi so sánh 3 bổn nầy thì nhận thấy có một số từ ngữ không đồng nhứt với nhau (không kể việc in sai chánh tả). Do đó, chúng tôi nghiên cứu ý nghĩa của câu thơ trong đoạn thơ bốn câu để chọn chữ thích hợp nhứt.
         Thí dụ: Câu 11:
- Bổn Nhâm Thìn (1952): Thêm duyên chước quí gieo tình.
- Bổn Bính Ngọ (1966): Thêm duyên chước quí giao tình.
- Bổn Quí Sửu (1973): Thêm duyên chước quí giao tình.
         Chúng tôi nhận thấy chữ giao tình hợp nghĩa hơn, nên chúng tôi chọn chữ giao tình thay vì gieo tình.
        Những chữ chọn được in nét đậm và xiên.
        Xin ghi ra sau đây những từ ngữ sai biệt đó:

Ấn bản năm
         Đó là một số các từ ngữ có sai biệt mà chúng tôi cố gắng liệt kê ra để tượng trưng.
         Ngoài ra, chúng tôi có sữa những lỗi chánh tả theo các quyển Từ Điển Chánh Tả hiện hành.

01 . Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

05 . Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.

09 . Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.

13 . Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

17 . Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.

21 . Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?

25 . Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

29 . Trên lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hỏa giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.

33 . Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

37 . Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

41 . Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
Còn con nòi giống chồng còn,
Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?

45 . Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

49 . Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.

53 . Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.

57 . Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

61 . Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

65 . Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hòa nhã tơ loan.
Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.

69 . Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

73 . Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

77 . Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

81 . Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

85 . Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

89 . Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.

93 . Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.

97 . Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

101 . Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.

105 . Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,
Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.

109 . Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

113 . Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.
 Home   1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét