789 . Nào
những khách đoạn trường kim cổ,
Bởi
trái duyên nên lỡ gót trần.
Bán
xuân khi đắt giá xuân,
Thu
qua để thẹn hồng quần biết bao.
Chú
thích:
Khách đoạn trường: Người phụ nữ có tên trong sổ
đoạn trường, tức là người phụ nữ phải chịu cảnh éo le ngang trái trong tình trường,
khiến phải chịu nhiều nỗi gian truân. Trái duyên: Tình duyên ngang trái. Lỡ gót
trần: Lỡ đi vào nơi cát bụi làm hoen ố tấm thân. Xuân: Mùa xuân, chỉ thời con
gái còn son trẻ.
Thu: Mùa thu, chỉ người con gái đã luống tuổi. Bán xuân: Bán
cái nhan sắc lúc tươi trẻ. Khi đắt giá xuân: Khi tuổi xuân có giá trị cao (đắt
giá). Thu qua: Ý nói người con gái lúc trở về già.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 789 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
793 . Hỏi đến
khách sớm đào tối mận,
Đon
những trang ngọc cận hương thân.
Tầng
nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ
sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?
Chú
thích:
Khách sớm đào tối mận: Chỉ người đàn ông không đứng
đắn, sớm cặp cô nầy, tối ôm cô khác. Đon: Thăm chừng (từ ngữ xưa). Ngọc cận
hương thân: Kế bên người ngọc, thân thiết mùi thơm. Ý nói người thường chung
đụng gần gũi với đàn bà con gái, tức là người đam mê sắc dục. Giá tuyết trong
ngần: Chỉ sự trong sạch không nhơ bợn. Phong trần: Ở đây có nghĩa đặc biệt là
nhà chứa gái điếm. Điển tích: Theo Hậu Thôn Thi Thoại, Phan tử Tiên đời Đường
đề vào bức ảnh của một kỹ nữ: "Gia hựu phong trần trung nhân diệc như thử,
thịnh tai!" Nghĩa là: Trong đám nhà chứa cũng có người như thế nầy, thịnh
vậy thay! Trong Truyện Kiều có 2 câu tương tợ:
Tiếc
thay trong giá trắng ngần,
Đến
phong trần cũng phong trần như ai.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 793 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
797 . Bởi
thuyền bá sóng xao biển ái,
Bởi
non thề sương trải lạnh lùng.
Bởi
chàng phụ tấm tình chung,
Bởi
tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.
Chú
thích:
Thuyền bá: Thuyền làm bằng cây bá (cũng gọi là cây
bách). Chữ Hán gọi là Bá châu (Bá chu) hay Bách châu (Bách chu). Điển tích:
Nàng Cọng Khương, vợ của Vệ Thái Tử, sau khi chồng chết, nàng không chịu tái
giá. Cha mẹ cố ép nhưng nàng kiên quyết không chịu và làm bài thơ "Bách
chu" để tự khuyên mình. Do đó, Thuyền bá là chỉ người góa phụ tiết liệt.
Biển ái: Biển tình ái, đó cũng là biển khổ.
Câu 797: Người vợ bị chồng phụ bạc giống như một
góa phụ đứng trước những làn sóng dợn của biển tình. (Coi chừng bị nó cuốn
trôi!).
Câu 798: Bởi vì sương mù trải ra bao phủ non thề,
chàng không thấy nó nữa, nên chàng không nhớ đến lời thề.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 797 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
801 . Bởi
nhan sắc không khoe không mặn,
Bởi
hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi
quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm
ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.
Chú
thích:
Hơi đồng: Chỉ tiếng đàn. Đồng là dây bằng đồng dùng
làm dây đàn. Không thẳng không kêu: Dây đàn lên không thẳng thì không phát ra
tiếng đàn. Phòng tiêu: Phòng của vợ chánh, cũng chỉ người vợ chánh. Theo Hậu
Hán Thư, các Hoàng Hậu đều ở trong tiêu phòng thuộc Cung Vị Ương. Gọi là Tiêu
phòng vì vách phòng được trét bằng tiêu tán nhuyễn cho thơm và ấm. Vườn điều:
Vườn đào, chỉ nơi ở của đàn bà con gái. Đào là chỉ con gái. Đổi hương: Chán mùi
hương cũ, đổi mùi hương mới.
Hai câu 803-804: Bởi quen mùi vị của vợ chánh nên
nhàm chán, học đòi theo đám bướm ong, đi tìm nơi có nhiều gái đẹp đặng thay đổi
mùi vị.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 801 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
805 . Bởi hoa
chạ bên đường dễ hái,
Bởi
buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn
hay vặn lắm trục lờn,
Đổi
hơi cầm sắt ra trường ca xang.
Chú
thích:
Hoa chạ bên đường: Bông hoa của cây cỏ mọc hoang
bên đường, không sắc không hương, chỉ gái làng chơi. Buôn hương: Chỉ gái làng chơi.
Nặng ngãi nhiều nhơn: Nặng nhiều nhơn nghĩa. Đổi hơi cầm sắt: Thay đổi tiếng
đàn cầm đàn sắt, ý nói thay đổi cuộc vợ chồng hòa hợp. Ca xang: Múa hát.
Hai câu 805-806: Bởi hay gần gũi với gái làng chơi,
bởi nghe bọn chúng nói những lời đường mật nhân nghĩa.
Câu 807: Ngón đàn dù có hay chăng nữa mà cứ lên dây
vặn trục hoài thì trục đàn mau lờn, cây đàn hư hỏng. Ý so sánh việc làm của người
kỹ nữ, họ sẽ sớm bị bịnh mà chết.
Câu 808: Thay đổi cảnh vợ chồng hòa hợp, đi tìm nơi
múa hát vui chơi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 805 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
809 . Bởi vào
trướng ra màn hết vị,
Bởi
ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên
ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.
Chú thích:
Hết vị: Hết mùi vị, ý
nói chán rồi. Ngồi lơn lên kỷ: Ngồi hoài trên cái ghế trường kỷ. Hết nồng:
Hết cảm thấy nồng nàn. Mèo mả gà đồng: Con mèo hoang ngoài mả, con gà hoang
ngoài đồng. Ý nói người vô gia cư, đi hoang. Bỏ hình loan phụng: Bỏ cảnh vợ
chồng tốt đẹp. Loan phụng là loại chim cao quí, đối lại, chim xanh là loại chim
thường. Ở đây, chim xanh không có nghĩa là kẻ đưa tin tức. Dựa lồng chim xanh: Ý
nói đi chơi với những kẻ tầm thường không ra gì.
Hai câu 809-810: Nhàm chán cảnh sống giàu có êm
đềm.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 809 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
813 . Bởi mến
cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi
ưa hoa bận bịu đài hoa.
Bởi
ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn
chong buồn bực lập lòa rèm thu.
Chú
thích:
Đôi cành đài liễu: Vài nhánh liễu ở xóm Chương đài.
Xóm Chương Đài ở Trường An là xóm yên hoa, tập trung nhiều kỹ nữ. Liễu Chương
đài là chỉ các nàng kỹ nữ. Ưa hoa: Ý nói mê gái. Hoa hay Đài hoa là chỉ đàn bà
con gái. Nguyệt rạng: Trăng sáng, chỉ người con gái đẹp, bởi vì trên cung
nguyệt có nàng Hằng Nga. Lánh nhà: Đi khỏi nhà. Rèm thu: Rèm là tấm đan bằng
tre treo trước cửa. Rèm thu có nghĩa như Phòng thu, chỉ người phụ nữ luống
tuổi.
Câu 816: Cảnh người vợ đã luống tuổi thức khuya
chong đèn chờ chồng trở về.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 813 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
817 . Bởi quen
mặt đào châu bớt đẹp,
Bởi
nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê
vành xuân hết bịu mai.
Kiếm
đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.
Chú
thích:
Đào châu: Hoa đào và hạt châu là 2 thứ đẹp, chỉ
người con gái đẹp. Hoa ép liễu nài: Ý nói các cô kỹ nữ kéo níu mời mọc nài ép
đi với cô ta. Vành xuân: Vành trăng xuân. Bao mươi: Mấy mươi tuổi vậy?
Hai câu 817-818: Bởi thấy người vợ hoài, nên dù vợ
có đẹp cũng cảm thấy bớt đẹp. Bởi thường thấy cảnh các cô kỹ nữ nài ép các
chàng.
Câu 819: Chê vành trăng xuân hết ghẹo chọc hoa mai,
mùa xuân đã qua, ý nói chê người vợ trở về già.
Câu 820: Kiếm đường đi đến tìm các cô kỹ nữ trẻ
đẹp.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 817 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
821 . Bởi cửa
tía bóng trời nồng nực,
Bởi
hiên thu gió chật đường ong.
Cánh
hồng quen với cuồng phong,
Nước
non thế giới vẫy vùng tinh trăng.
Chú
thích:
Cửa tía: Cửa màu đỏ, chỉ nhà giàu sang quyền quí.
Bóng trời nồng nực: Ánh sáng mặt trời nóng nực. Hiên thu: Hiên là cái mái hiên
trước nhà. Thu là tiếng dùng cho đẹp lời và gợi ý buồn. Gió chật đường ong: Ý
nói đám thanh niên như ong bướm đi chật ngoài đường. Cánh hồng: Cánh của chim
hồng. Cuồng phong: Gió mạnh có sức cuốn xoáy dữ dội. Vẫy vùng: Hoạt động tự do
ngang dọc. Tinh trăng: Tinh tú và mặt trăng, chỉ bầu trời.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 821 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
825 . Bởi
cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,
Bởi
đền Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi
ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ
nhân thấy dạng kể gì đến duyên.
Chú
thích:
Bóng sắc: Sắc đẹp của đàn bà con gái. Chì: Kim loại
nặng, chỉ tình nghĩa vợ chồng nặng như chì, do câu 137: Nhẹ là bức, nặng chì
tình nghĩa. Mỹ nhân: Người đẹp.
Hai câu 825-826: Bởi nơi cung Quảng Hàn ở trên mặt
trăng có thấp thoáng bóng nàng Hằng Nga. Bởi nơi đền vua nước Ngô có nàng Tây
Thi đang mê hoặc vua Ngô Phù Sai. Hai câu nầy chỉ những người con gái đẹp.
Hai câu 827-828: Bởi ham sắc đẹp hơn là tình nghĩa
vợ chồng, nên khi thấy người đẹp thì chạy theo, đâu kể gì đến duyên vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 825 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
829 . Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca
hay quên hẳn giọng đờn,
Một
đêm túy mộng sánh hơn gặp vàng.
Chú
thích:
Xa mã: Xe ngựa. Mùi: Màu (từ ngữ xưa). Mùi chàm:
Màu chàm, màu xanh sẫm. Đã mùi chàm: Đã dính màu chàm, theo thành ngữ: Tay đã
nhúng chàm, ý nói đã phạm vào tội lỗi. Thắm: Màu đậm, sẫm. Túy mộng: Túy là
uống rượu say. Mộng là chiêm bao. Túy mộng là uống rượu say nằm chiêm bao: giấc
mộng say.
Câu 830: Đã nhuộm màu chàm rồi lại làm cho màu đậm
thêm. Ý nói: Đã phạm vào việc xấu xa rồi lại phạm sâu thêm nữa.
Câu 831: Mới tập ca thì nương theo giọng đờn mà ca,
đến chừng ca hay rồi thì không cần giọng đờn nữa. Ý nói: ˆn cháo đá bát, qua
sông nhận thuyền, chỉ kẻ bội ơn.
Câu 832: Người thích uống rượu, mê rượu hơn mê
vàng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 829 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
833 . Nơi tửu
điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ
chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà
mi kém sắc hơn hường,
Tiếng
cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
Chú
thích:
Tửu điếm: Quán rượu. Nhà lang: Nhà của chồng. Bao
Tỷ: tức là Bao Tự, vợ của U Vương. (Xem Điển tích nơi Chú thích câu 786). Phan
Vương: Vua chư hầu, làm rào dậu cho Thiên Tử ở trung ương. Phan hay Phiên là
hàng rào, tấm chắn. Trà mi: Một loại hoa đẹp. Hường: Hoa hồng.
Hai câu 833-834: Ở nhà, vợ ít chiều chuộng chồng
hơn là ở nơi tửu quán, các cô thường hay chiều khách.
Câu 835: Ý nói, vợ không đẹp bằng các cô nơi tửu
điếm.
Câu 836: Xem tiếng cười của nàng Bao Tự hơn là sự
hờn giận của các vua chư hầu. Ý nói: Chết vì sắc đẹp của đàn bà.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 833 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
837 . Thiếp
biết phận cánh buồm dưới gió,
Đã
khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền
nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc
quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.
Chú
thích:
Thuyền nan: Thuyền nhỏ mỏng manh, làm bằng nan tre,
chỉ dùng đi gần bờ. Dòng khơi: Dòng nước ngoài khơi.
Câu 837: Thiếp biết số phận của mình phải tùy thuộc
vào chồng như cánh buồm tùy theo gió.
Hai câu 839-840: Thân phận người vợ như chiếc
thuyền nan, sợ sóng ngoài khơi đánh chìm, chớ đi vào khúc quanh dầu eo hẹp khó
khăn cũng chiều theo dễ dàng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 837 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
841 . Soi
bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy
nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng
còn yểu điệu hình mai,
Da
mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.
Chú
thích:
Nghi dung: Vẻ mặt và hình dáng bề ngoài. Hết mặn:
Không còn mặn mà, hết đẹp. Nét ngài: Đôi chân mày nhỏ và cong như râu con bướm
tằm. Ngài là con bướm tằm. Yểu điệu: Có dáng người mềm mại thướt tha. Hình mai:
Hình dáng mảnh khảnh như cành mai. Da mồi: Da trổ đồi mồi, tức là trên da mặt
hay da tay nổi những nốt nhỏ màu nâu nhạt như màu con đồi mồi. Da trổ đồi mồi
là báo hiệu tuổi già. Tóc đã ướm thay nửa vàng: Phân nửa mái tóc đã bắt đầu
chuyển sang màu vàng, trước khi trở thành tóc bạc.
Câu 841: Nhìn xuống mặt nước phẳng lặng thì thấy
hình ảnh của mình nơi đáy nước. Mặt nước như tấm gương soi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 841 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
845 . Mảng
gượng vui cùng đàn cháu dại,
Chỉ
lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc
xanh là bạn mày nhăn,
Nên
ba dạy cháu biết bằng năm mươi.
Chú
thích:
Mảng: Mải miết. Tóc xanh: Chỉ đám con cháu trẻ
tuổi. Mày nhăn: Chỉ người lớn tuổi, mặt mày bắt đầu nhăn.
Câu 848: Người vợ bây giờ đã 50 tuổi, có cháu mới lên
3 tuổi. Bà dạy cháu biết những điều mà tuổi 50 mới biết.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 845 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
849 . Khóc
của mụ pha cười của trẻ,
Chậm
của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm
coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ
trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.
Chú
thích:
Tơ: Là non trẻ. Cái nhỏ: Đám con nít. Cái lớn:
Người già.
Câu 850: Già thì chậm chạp, trẻ thì lanh lẹ.
Câu 852: Người già nhớ lại cuộc đời đã qua của mình
thấy mịt mờ như một giấc chiêm bao.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 849 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
853 . Nương con gậy ra vào lụm cụm,
Lưng
gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi
gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.
Chú thích:
Con gậy: Cây gậy của người già dùng để
chống đi, gần gũi thân thiết như đứa con. Co tay đếm tuổi: Co lại ngón tay cái
của bàn tay trái để đếm tuổi trên các lóng tay: Tý, Sửu, Dần,... Tri Thiên: Do
câu nói của Đức Khổng Tử chép trong Luận Ngữ: Ngũ thập nhi tri Thiên mệnh. (50
tuổi mới biết được mệnh Trời), nên dùng chữ "tri Thiên" để chỉ 50 tuổi.
Quá kỳ tri Thiên: Quá 50 tuổi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 853 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
857 . Bỗng
tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.
Chú thích:
Sấm gần bên tai nổ: Tiếng sấm nổ bên tai, ý nói một
tin khủng khiếp xảy đến bất ngờ. Mệnh số: Số mệnh. Du Tiên: Đi chơi nơi cõi
Tiên, ý nói chết, linh hồn rời khỏi thể xác đi lên cảnh Tiên. Âm cung: Cung
điện nơi cõi Âm phủ. Chơi miền Âm cung: Đi chơi xuống cõi Âm phủ, ý nói chết,
linh hồn đi xuống cõi Âm phủ.
Ba câu 857-858-859: Nghe tin chồng chết như sấm nổ
bên tai, cảm thấy như Trời Đất nghiêng ngửa quay cuồng.
Câu 860: Nghe tin chồng chết, người vợ ngã xuống
bất tỉnh như muốn chết theo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 857 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
861 . Khi
tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới
biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá
chi một mảnh xương tàn,
Đày
cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.
Chú
thích:
Tỉnh giấc: Tỉnh lại sau một hồi chết giấc vì nghe
tin chồng mới chết. Vòng tục: Trong vòng cõi trần. Giá chi: Có giá trị gì. Một
mảnh xương tàn: Chỉ tấm thân của người vợ đã già rồi, cũng sắp tàn. Đoạn tràng:
Đoạn trường, chỉ nỗi đau đớn dữ dội như bị cắt ruột thành nhiều đoạn. Tử ly:
Chết thì biệt ly. Tử là chết, ly là xa cách. Thường nói: Tử biệt sanh ly.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 861 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
865 . Một thân góa tang y lại mặc,
Chống
gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu
sương chất trắng khối tình,
Bao
nhiêu ân ái trong mình tử thi.
Chú
thích:
Thân góa: Tấm thân góa bụa vì chồng mới chết. Tang y: Áo tang, áo mặc vào khi làm lễ tang.
Chống gậy lê: Chống cây gậy lê đi từng bước. Nhúc nhắc: Lúc lắc, đi từng bước
chậm chạp lắc lư đầy vẻ khó khăn. Đưa linh: Đưa linh cữu ra nghĩa trang. Đầu
sương: Trên đầu mái tóc đã bạc như sương. Chất trắng khối tình: Đội lên đầu chiếc
khăn tang trắng giống như chất lên đầu cả khối tình thương yêu chồng. Tử thi:
Xác chết. Tử là chết, thi là thi hài thể xác.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 865 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
869 . Ngó vạn
vật cũng kỳ lẽ chết,
Nghe
non sông như hết khí sinh.
Hỏi
ta có sống thật tình,
Hay
là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.
Chú
thích:
Cũng kỳ lẽ chết: Cũng đều có kỳ hạn phải chết. Khí
sinh: Sức sống. Sống thật tình: Sống thật không phải chiêm bao. Diêm đình:
Triều đình của Diêm Vương.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 869 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
873 . Xem cây
cỏ như màu thảm đạm,
Ngó
thú cầm dường cảm đau thương.
Đất
nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình
chàng như gắn nẻo đường vô ra.
Chú
thích:
Thảm đạm: Buồn thảm lạnh lẽo. Thú cầm: Thú chạy
chim bay. Như gắn: Như gắn dính chặt vào.
Câu 876: Trên các nẻo đường vô ra, đâu đâu dường
như đều có phảng phất hình ảnh của chàng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 873 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
877 . Kìa đào
lý tàn già đã cỗi,
Nhắc
tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào
là trời lặn bóng tà,
Đêm
khuya chờ lụn canh gà thăm em.
Chú
thích:
Bắt đầu từ câu 877 đến câu 920, gồm 44 câu: Nhắc
lại những kỷ niệm hồi 2 người mới quen biết, rồi yêu nhau và trở thành vợ
chồng.
Cỗi: Là già. Trời lặn bóng tà: Mặt trời lặn, ánh
sáng chếch xuống. Chờ lụn canh gà: Chờ cho đêm tàn đến canh năm gà gáy, tức là
chờ đến gần sáng. Lụn là tàn dần.
Câu 877: Kìa là 2 cây: Cây đào và cây lý, tàn cây
đã già cỗi rồi, không còn sức phát triển.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 877 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
881 . Kìa cụm
liễu gió đêm xao xác,
Đám
chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
Ấy
là nơi thiếp trao lời,
Trăm
năm khi hứa nửa đời buổi nay.
Chú
thích:
Xao xác: Tiếng lá cây va chạm vào nhau khi có gió.
Trăm năm khi hứa: Khi hứa hẹn việc trăm năm, ý nói hứa hẹn kết thành chồng vợ
suốt đời. Nửa đời buổi nay: Tới ngày nay là nửa đời người rồi, tức là được 50
tuổi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 881 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
885 . Kìa đầu
rừng chòm mai đua nở,
Trước
xem màu hớn hở như nay,
Cớ
sao như ủ như vày,
Hay
là nhắc thiếp những ngày trao tơ.
Chú
thích:
Như ủ như vày: Như ủ rủ, như bị vày vò héo hắt.
Trao tơ: Trao cho chàng sợi tơ hồng để kết thành vợ chồng. Nguyệt Lão dùng sợi
tơ hồng (xích thằng) để cột chặt đôi nam nữ thành vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 885 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
889 . Kìa lũ
én dật dờ cánh liệng,
Dựa
chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ
sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng
ta thân mất hình chôn cớ nào?
Chú
thích:
Dật dờ: Bay lơ lửng theo chiều gió. Dựa chơn mây: Ở
gần cuối đám mây.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 889 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
893 . Bầy
hồng nhạn lao xao vịnh liễu,
Đám
cò ngà bận bịu gành khơi.
Là
nơi lúc đứng khi ngồi,
Trông
trăng hẹn biển, ngó trời thề non.
Chú
thích:
Vịnh liễu: Cái vịnh mà trên bờ có trồng nhiều cây
liễu. Vịnh liễu để đối với Gành khơi. Gành khơi: Gành tức là ghềnh, chỗ có đá
nổi ở giữa dòng nước khiến nước chảy xiết; khơi là ở ngoài xa. Cò ngà: Con cò
có màu lông trắng như ngà. Bận bịu: Vương vấn không muốn rời. Hẹn biển thề non:
Do thành ngữ chữ Hán: Thệ hải minh sơn, nghĩa là chỉ biển mà thề, chỉ núi mà
nguyền. Ý nói dầu cho biển cạn non mòn, tình yêu của đôi ta không thay đổi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 893 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
897 . Kìa
đường cũ bước mòn lãng tử,
Đám
thú nhà dụ dự bước chiều.
Ấy
là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng
vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.
Chú
thích:
Lãng tử: Người sống tự do, đi chơi đây đó không bị
ràng buộc. Đám thú nhà: Đám gia súc như trâu, bò,... Dụ dự bước chiều: Bước đi
ngập ngừng như chưa muốn trở về nhà vào buổi chiều.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 897 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
901 . Kìa bến
nước dập dồn sóng dợn,
Chỗ
đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng
cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà
sao buổi ấy bây giờ khác nhau?
Chú
thích:
Dập dồn sóng dợn: Sóng nước liên tục dồn vào bờ.
Hai câu 903-904: Cảnh vật không đổi thay nhưng tâm
tình người thay đổi, nên có cảm tưởng như cảnh vật cũng thay đổi theo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 901 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
905 . Kìa
nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông
chòm cây, Tây có triền bưng.
ƒy
nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà
nay như nhắc mấy từng tương tư.
Chú
thích:
Triền bưng: Triền là bờ dốc thoai thoải xuống, bưng
là vùng đồng lầy ngập nước có nhiều cỏ lác. Mấy từng tương tư: Ý nói người vợ
thương nhớ chồng nhiều lắm, nhìn thấy có bao nhiêu nhịp cầu, có bao nhiêu chòm
cây thì lòng tương tư cũng nhiều như thế.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 905 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
909 . Kìa
chùa cũ nóc hư muốn sập,
Nơi
đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ
sao cảnh tịnh úa xào,
Hay
là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.
Chú
thích:
Cảnh tịnh: Chỉ cảnh chùa. Tịnh là trong sạch, vì nơi
tu hành thì phải thanh tịnh, tức là trong sạch. Úa xào: Héo úa như mất hết sự
sống. Sầu lẻ loi: Buồn rầu vì chồng chết phải chịu cảnh lẻ loi trơ trọi một mình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 909 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
913 . Bóng
hải đường ta ngồi buổi nọ,
Bồng
con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.
Chú thích:
Bóng hải đường: Bóng
mát của cây hải đường. Hải đường là loại cây có hoa màu đỏ tươi rất đẹp. Am tự:
Am là cái chùa nhỏ, tự là cái chùa lớn. Am tự là chỉ chung các chùa thờ Phật.
Chùa mây: Cái chùa cất trên sườn núi cao, nhìn lên thấy có mây bám
trên nóc chùa. Lặng trang: Yên lặng hoàn toàn.
Trở lại Nữ Trung Tùng
Phận câu 913 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
917 . Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ
đầu làng chày lữ phơi sương.
Ấy
là nơi thiếp đến thường,
Thăm
chàng đang học nơi trường sân ngô.
Chú
thích:
Trước tử: Cây trúc màu đỏ tía. Chày lữ: Phường
chài, xóm nhà làm nghề chài lưới. Chày lữ phơi sương: Người ở xóm chài đem lưới
đánh cá ra phơi sương. Lữ là bạn cùng đi cùng ở với mình. Sân ngô: Cái sân có
trồng cây ngô đồng. Trường sân ngô: Ngôi trường học mà sân trường có trồng
nhiều cây ngô đồng, để tượng trưng rằng, trường nầy đào tạo ra nhiều người tài
giỏi hiển đạt. Điển tích: Nhà họ Hàn có 8 anh em trai, đều học hành rất giỏi và
thi đậu làm quan. Người đời có lời truyền tụng rằng "Hàn thị Bát
đồng", nghĩa là: Nhà họ Hàn có 8 cây ngô đồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 917 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
921 . Kìa xóm
rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi
đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò
đâu phút nổi thình lình,
Nào
dè chàng cũng đến giành một nơi.
Chú
thích:
Xóm rẫy: Xóm làm rẫy, trồng các loại hoa màu. Nấm
mồ lố xố: Nhiều nấm mồ nhỏ lớn cao thấp không đều. Đây là nghĩa trang trong
làng. Tảo mộ: Quét dọn mồ mả cho sạch sẽ, hoặc sửa sang sơn phết cho mới, cho
đẹp. Đạp thanh: Nghĩa đen là Đạp lên cỏ xanh. Theo tục lệ thời xưa của Tàu, đến
ngày lễ Thanh minh, khoảng giữa tháng 3 âm lịch, nơi các bãi cỏ xanh, người ta
tổ chức các hội chợ đông vui. Các nam nữ thanh niên thường đến đó vui chơi.
Câu 923: Một cái gò đất mới phút chốc nổi lên thình
lình, dè đâu đó là nấm mộ của chàng, chàng cũng đến giành ở đây một chỗ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 921 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
925 . Để thân
thiếp mình ngồi hiu quạnh,
Còn
thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã
đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia
đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.
Chú
thích:
Tuyết lạnh nắng nồng: Tuyết làm cho lạnh lẽo, nắng
làm cho nóng bức. Bẻ gãy chữ đồng: Đồng là cùng chung. Hễ là vợ chồng sống với
nhau thì cái gì cũng đồng hết. Bẻ gãy chữ đồng là tình vợ chồng bị bẻ gãy,
nghĩa là có một người chết. Thành ngữ nầy đồng nghĩa thành ngữ: Gãy gánh giữa
đường.
Câu 928: Vợ chồng bị chia đôi, vợ ở trong xóm, còn
chồng ở ngoài đồng, vì mộ của chàng ở ngoài đồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 925 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
929 . Tiếng
oan ương bên tai dan díu,
Gió
đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ
nghe lời vật thế nào,
Mà
ra như tiếng chàng chào buổi xưa.
Chú
thích:
Oan ương: Còn gọi là uyên ương, con trống là uyên,
con mái là ương, là một loài chim nhỏ, luôn luôn sống từng cặp, không bao giờ
rời nhau. Tương truyền, khi một con chết thì con kia nhịn đói chết theo. Uyên ương
chỉ đôi vợ chồng thương yêu gắn bó không rời nhau. Dan díu: Tiếng chim nhỏ kêu
ríu rít.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 929 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
933 . Nhành
dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội
tà dương như hết reo chiều.
Hương
tàn gió tối hiu hiu,
Dở
chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?
Chú
thích:
Nhành dâu khuất: Mặt trời đã khuất khỏi nhánh cây
dâu, ý nói mặt trời chiều sắp lặn. Mờ mệch: Mờ mịt. Cội tà dương: Cội cây vào
lúc mặt trời chiều. Cội là gốc cây, tà là xế chiều, dương là mặt trời. Hết reo
chiều: Buổi chiều gió thổi làm lá cây chạm vào nhau phát ra tiếng vi vu hay xào
xạc, giống như lá reo. Hết reo tức là không có gió thổi, trời lặng gió. Hương
tàn: Buổi sáng thì hoa nở tỏa hương thơm, buổi chiều tối thì hoa tàn hết thơm.
Hiu hiu: Gió nhẹ. Dở chơn: Bước chơn dang dở, tức là đi được nửa chừng hay được
nửa đường. Hỏi nợ: Ý nói hỏi người duyên nợ của mình, tức là hỏi người chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 933 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
937 . Ai sau
gót giây lâu như nói,
Xin
người thương tha lỗi khi xưa.
Giận
đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách
mình nào có đổ thừa phụ duyên.
Chú
thích:
Ai sau gót: Ai đứng ở sau lưng. Giây lâu: Một hồi
lâu. Người thương: Người yêu, ở đây chỉ người vợ. Đổ thừa: Đổ lỗi cho người
khác để trốn trách nhiệm. Phụ duyên: Phụ bạc duyên vợ chồng.
Câu 939: Lấy sự giận hờn đổi thành sự nhớ thương thì
cũng vừa lúc vì người chồng mới chết.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 937 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
941 . Phải
buổi trước đừng phiền đừng oán,
Để
nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm
chi rẽ nợ ba sinh,
Mà
nay phải chịu một mình riêng thương.
Chú
thích:
Rẽ: Chia rẽ. Nợ ba sinh: Duyên nợ tiền định, thề
nguyền trong 3 kiếp sống phải gặp gỡ nhau.
Câu 942: Giữ nguyên vẹn tình thương yêu để hưởng
trọn tình thương yêu của nhau như thuở đầu tiên mới cưới nhau, uống cạn chén
rượu giao bôi hợp cẩn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 941 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
945 . Tội
chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn
thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm thương.
Chú
thích:
Tiêu dường tuyết giá: Tiêu tan hết như tuyết và
nước đá khi gặp nóng. Giá là nước đá. Lời phiền: Lời nói giận hờn trách móc.
Bao nả: Có bao nhiêu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 945 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
949 . Đời vắn ngủn huỳnh
lương in giấc,
Kiếp
phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng
xa.
Chú
thích:
Đời vắn ngủn: Một đời người ngắn lắm.
Huỳnh lương in giấc: Giống in như một giấc mộng
huỳnh lương.
Điển tích: Hớn Chung Ly muốn độ Lữ Đồng Tân đi tu,
nên đến huyện Hàn Đang gặp họ Lữ, nói rằng: Ta là Chung Ly Vân Phòng, tu ở núi
Triều Hạc, ông có muốn đi chơi với ta không?
Lữ Đồng Tân có vẻ lưỡng lự vì còn muốn đi thi đậu
Tiến Sĩ trổ danh với đời. Chung Ly biết vậy, liền mời họ Lữ đến bên nồi bắp
vàng (huỳnh lương) mà ông đang nấu, ngồi chơi, rồi đưa cho một cái gối bảo nằm
nghỉ, còn mình vẫn tiếp tục đun nồi bắp vàng.
Lữ Đồng Tân kê đầu vào gối giây lát thì chiêm bao,
thấy mình đi thi, ngang qua nhà nọ, gặp người con gái tuyệt đẹp thì ướm lời.
Nàng nọ nói rằng: Nếu chàng thi đậu Trạng Nguyên thì thiếp nguyện nâng khăn sửa
trấp. Đồng Tân vào khoa, thi đậu Trạng, về cưới nàng ấy, được vua bổ làm quan
Gián Nghị. Đồng Tân lần lần được thăng quan tiến chức, sau 40 năm lên đến chức
Tể Tướng, giàu sang tột bực, con cháu đầy đàn, sau đó chẳng may bị gian thần
hãm hại, vu oan giá họa. Vua truyền bắt tội, thâu hết quyền chức, tịch thâu gia
sản đày ra núi Lãng Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt mình thức dậy, ngơ ngẩn tâm
thần. Chung Ly cười lớn ngâm 2 câu thơ:
Nồi
bắp hãy còn ngòi,
Chiêm
bao đà thấy cháu.
Lữ đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng: Thầy biết sự chiêm
bao của tôi sao?
Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không
đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ
thường.
Lữ Đồng Tân nghe Hớn Chung Ly nói thế thì tỉnh ngộ,
ngẫm nghĩ mà chán ngán cuộc đời, liền từ bỏ mộng công danh, cầu Hớn Chung Ly
truyền đạo.
Do điển tích nầy, trong văn chương, người ta thường
dùng các từ ngữ: Giấc huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàn Đang, để chỉ giấc
mộng của Lữ Đồng Tân, coi công danh phú quí của cuộc đời như là phù du mộng ảo.
Kiếp phù sinh: Kiếp sống của con người như cái bọt
nổi trên mặt nước, rất mau tan vỡ và không có gì nhất định. Kiếp là một đời sống, phù là nổi, sinh là sống.
Sách xưa có câu: "Kỳ sinh nhược phù hề, tử nhược hưu", nghĩa là: Sống
như là trôi nổi, chết như được nghỉ ngơi. Đặng thất: Được mất, hơn thua. Phong
trần: Gió bụi, chỉ cảnh gian nan vất vả ở đời. Dứt hơi: Hết thở, chết. Cũng xa:
Cũng phải xa cách nhau, vì người chết về Âm cảnh, kẻ sống ở lại cõi dương gian.
Câu 949: Cuộc đời của con người ngắn lắn, công danh
phú quí giống in như một giấc chiêm bao.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 949 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
953 . Nếu
thiếp trước biết hòa biết thuận,
Nhẫn
ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp giựt giành chi duyên.
Chú thích:
Nhẫn: Nhường nhịn. Nhịn
lẫn ân tình: Nhường nhịn cả đến việc yêu đương ân ái với chồng. Thứ thê chánh
thiếp: Vợ lớn vợ nhỏ, vợ chánh vợ thứ.
Câu 956: Vợ chánh, vợ thứ giành giựt nhau chi cái tình
thương yêu của chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 953 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
957 . Giọt lệ
thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm
thương người chia dải đồng tâm.
Ta
than lỗi bậc cung cầm,
Nàng
sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.
Chú
thích:
Dải đồng tâm: Chỉ sự thương yêu gắn bó giữa vợ
chồng. (Xem Chú thích câu 194). Người chia dải đồng tâm: Chỉ người vợ nhỏ của
chồng, vì người nầy chia cái dải đồng tâm của người vợ chánh. Lỗi bậc cung cầm:
Cung đàn lỗi nhịp, chỉ sự không hòa hợp giữa vợ chồng. Nhạn lạc: Con chim nhạn
lạc đàn, cô độc, lẻ loi. Ngư trầm: Con cá chìm xuống nước. Biển mê: Chỉ cõi
trần, vì chúng sanh trong cõi trần đều mê muội, nên chịu nhiều phiền não, khổ
đau.
Câu 960: Người vợ nhỏ thì buồn rầu vì thân nàng bây
giờ như con nhạn lạc đàn, như con cá chìm vào biển mê, biết bao giờ mới thoát
khỏi biển mê cho hết đau khổ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 957 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
961 . Vắng
mặt chàng thiếp về kiếm kẻ,
Chia
tương tư đặng để nên tình.
Vì
chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ
câu hải thệ sơn minh với nàng.
Chú
thích:
Bố kinh: Chỉ người vợ hiền cần kiệm. Kết bố kinh:
Kết tình thương yêu với vợ nhỏ như tình chồng vợ. Hải thệ sơn minh: Thề non hẹn
biển, chỉ núi mà thề, chỉ biển mà nguyền.
Hai câu 961-962: Chàng chết rồi, thiếp (vợ chánh)
sẽ về kiếm người vợ nhỏ của chàng để chia sớt nỗi tương tư với nàng, đặng tạo
nên tình thương yêu tốt đẹp về sau.
Hai câu 963-964: Thiếp sẽ vì chàng mà chăm sóc nàng
như chồng chăm sóc vợ, và giữ lời thề hẹn với nàng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 961 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
965 . Mảng
sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa
thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh
về tổ, dế reo tơ,
Đường
về vắng bước như tờ canh khuya.
Chú
thích:
Mảng: Mải miết. Sầu muộn: Buồn rầu. Ngổn ngang trăm
mối: Ý nói lòng bối rối lo âu chưa biết cách xử trí. Thu không: Thu là bắt lấy,
không là không có gì. Ngày xưa dân chúng sống trong thành, mỗi khi trời sắp
tối, quân lính đi tuần tra xem xét coi có kẻ gian vào thành ẩn núp không. Nếu
không có thì đánh chiêng hay đánh trống làm hiệu. Đó là tiếng chiên hay tiếng
trống thu không. Thu không là chỉ trời sắp tối. Chùa thu không: Cảnh chùa lúc
chiều tối. Dế reo tơ: Hai cánh dế chạm vào nhau rung lên phát ra tiếng kêu như
tiếng nhạc phát ra từ dây đàn. Tơ là dây đàn. Vắng như tờ: Hoàn toàn vắng vẻ
yên lặng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 965 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
969 . Tiếng U
Minh tía lia gợi thảm,
Giọng
kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu
kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu
thương khách tục, giải lòng người nhân.
Chú
thích:
Tiếng U Minh: Tiếng chuông U Minh phát ra từ gác
chuông chùa. Tiếng chuông U Minh có hiệu lực truyền xuống cõi U Minh, cõi của
người chết, để làm thức tỉnh các tội hồn, sớm giác ngộ, nhận thức thiện ác,
chánh tà, mà ăn năn sám hối tội tình, cầu nguyện Đức Chí Tôn tha thứ và cứu
rỗi. Tía lia: Lia lịa liên tiếp không dứt. Gợi thảm: Khêu gợi sự sầu thảm.
Giọng kình khua: Tiếng chuông vang lên.
Trong sách Hậu Hán thư, lời chú trong bài ký của
Ban Cố có chép: Kình là loại cá kình rất lớn ở ngoài biển, và ở gần bờ biển có
con thú gọi là Bồ lao. Con Bồ lao rất sợ cá kình. Mỗi lần cá kình lội vào bờ để
đánh Bồ lao thì Bồ lao kêu vang lên. Người xưa muốn cho chuông kêu to, thì khắc
hình con cá kình lên cái chày dọng chuông, và đúc hình con Bồ lao trên chóp
chuông. Khi chày kình dọng vào chuông Bồ lao thì chuông kêu to lên. Đó là cách
trang trí chuông và chày dọng chuông mà có sự tích hay.
Thoảng
bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng.
(Thơ của Chu mạnh
Trinh)
Cửa Phạm: Do chữ Phạm môn, Phạm là Phật, môn là
cửa, Phạm môn là cửa Phật, ý nói cửa chùa. Kinh kệ: Các bài kinh và các bài kệ
dùng để tụng đọc trong tôn giáo. Bài văn dài để tụng gọi là Kinh, bài thơ ngắn
để ngâm gọi là Kệ. Câu kinh tiếng kệ: Tiếng tụng kinh trong giờ công phu và
tiếng kệ chuông lúc khởi đầu hay chấm dứt một thời công phu. Gọi hồn: Kêu gọi
các chơn hồn mau thức tỉnh. Kêu thương: Kêu gọi thương yêu nhau. Khách tục:
Khách trần. Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần. Khách tục là chỉ nhơn
loại sống nơi cõi trần. Gọi là khách bởi vì cõi trần là cõi tạm, cõi chơn thật
của con người là cõi Thiêng liêng Hằng sống. Con người đến cõi trần sống tạm
một thời gian nhiều lắm là trăm năm để học hỏi và tiến hóa, xong rồi thì bỏ xác
phàm, linh hồn trở về cõi thiêng liêng. Kêu thương khách tục: Kêu gọi con người
nơi cõi trần hãy thương yêu nhau. Giải lòng: Cởi bỏ lòng trần, tức là cởi bỏ
lòng mê luyến cõi trần, lo việc tu hành để trở về cõi thiêng liêng. Người nhân:
Người có lòng nhân đức thương người.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 969 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
973 . Rốn để
bước đến gần điện Thánh,
Nhìn
tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao đó
hiển, sao đó linh,
Phải
chăng trước cũng lụy tình như ta?
Chú
thích:
Rốn: Rán kéo dài thêm. Điện Thánh: Chánh Điện thờ
Phật. Ngảnh: Nhìn trở lại. Hiển linh: Thiêng liêng huyền diệu, có thể hiện ra
thấy được. Lụy tình: Bị đau khổ vì tình yêu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 973 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
977 . Đau đớn
thế nắn ra tượng Phật,
Lánh
khổ nên vụ tất cửa không.
Biết
chăng cái thảm mất chồng,
Xin
cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.
Chú
thích:
Nắn ra tượng Phật: Dùng hỗn hợp mềm và nhão như
thạch cao hay xi măng để nắn thành tượng Phật, như tượng Đức Phật Thích Ca,
tượng Đức Quan Âm Bồ Tát, vv... Vụ tất: Chuyên lo có một việc. Cửa không: Chữ
Hán là Không môn, chỉ cửa Phật. Không là trống không, không có gì cả. Giáo lý
của Phật đều cho rằng tất cả mọi vật đều gốc ở không mà sanh ra, rồi cuối cùng
thì trở về không: không tức thị sắc, sắc tất thị không. Khi nói đến Sắc Không
là nói đến giáo lý nhà Phật. Từ bi: Từ là lòng thương tưởng lo lắng giúp ích
chúng sanh, làm chúng sanh an ổn vui vẻ. Bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh
khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi phiền não
và tai họa. Từ bi là hạnh của Phật. Đức Từ bi là Đức Phật.
Hai câu 977-978: Có đau đớn khổ sở mới nghĩ đến
Phật, mới nhớ đến cửa chùa, vì Đức Phật giáng sinh lập ra Phật giáo là để giải
khổ cho chúng sanh.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 977 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
981 . Hay sợ
khổ sanh ly tử biệt,
Nên
tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết
chăng tình ái của người,
Xin
cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.
Chú
thích:
Sanh ly tử biệt: Sống mà chịu cảnh chia lìa, chết
thì biệt ly. Đó là 2 cảnh khổ trong nhiều cái khổ của con người. Dứt tuyệt: Cắt
đứt hẳn. Tuyệt là dứt hẳn. Nợ đời: Các món nợ mà mình phải mang khi làm người
sống trong cõi đời. Muốn tìm phương dứt tuyệt nợ đời thì phải tu hành để thành
bực Tiên, Phật, không bị luân hồi xuống cõi đời nầy nữa. Tình ái: Tình yêu giữa
nam và nữ. Chơn ngôn: Lời nói chơn thật phô diễn được chơn lý.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 981 / Trở lại Nữ Trung
Tùng Phận mục lục.
985 . Hay đã
sợ thân mòn gối mỏi,
Mến
ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh
đinh bể khổ dật dờ,
Xin
cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.
Chú
thích:
Thân mòn gối mỏi: Chỉ lúc tuổi già. Ngày xuân: Ngày
còn trẻ tuổi. Linh đinh: Lênh đênh trên mặt nước vô định. Dật dờ: Lờ đờ trôi
theo dòng nước. Bể khổ: Người sống nơi cõi trần phải chịu nhiều nỗi đau khổ
phiền não. Đức Phật nói rằng, con người có Tứ Khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Nước
mắt của chúng sanh nhiều hơn nước bốn biển. Đó là những cái khổ về thể xác, còn
những cái khổ về tinh thần, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Do đó, cõi trần
là bể khổ, con người đang lặn ngụp trong bể khổ ấy.
Bể
thảm mênh mông sóng lụt trời,
Khách
trần chèo một lá tuyền chơi.
Thuyền
ai ngược gió ai xuôi gió,
Coi
lại cùng trong bể thảm thôi.
(Đoàn như Khuê)
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 985 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
989 . Hay đã
sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh
đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền
tình chịu sóng không kham,
Xin
cho phận thiếp biến làm ni cô.
Chú
thích:
Nắng nồng tuyết lạnh: Nắng thì nóng, tuyết thì
lạnh. Ý nói những nỗi khổ cực vất vả ở đời. Thân phàm: Xác thân của con người
nơi cõi phàm trần, do cha mẹ phàm trần sanh ra và nuôi dưỡng bằng vật chất nơi
cõi trần mà lớn lên. Thuyền tình: Chiếc thuyền chở tình yêu nam nữ, ở đây chỉ
người vợ đang mang nặng tình yêu thương chồng. Chịu sóng không kham: Chịu không
nổi các cơn sóng gió. Ni cô: Ni là người phụ nữ qui y theo Phật và xuất gia vào
chùa tu hành. Cô là tiếng gọi người phụ nữ có chức phận và chưa già. Ni cô là
Nữ tu sĩ Phật giáo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 989 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
993 . Buồn
tình lóng nam-mô câu tụng,
Nhìn
tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân
còn nương giữa phong trần,
Khổ
kia còn đếm mấy lần mới thôi.
Chú
thích:
Buồn tình: Buồn vì ở trong tình trạng không biết
làm gì. Lóng: Lắng tay nghe. Câu tụng: Câu kinh để tụng. Nam-mô: do phiên âm từ
tiếng Phạn: Namah, có nghĩa là qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí
vâng theo lời Phật dạy một cách cung kính và nguyện hiến trọn đời mình cho Đạo
pháp. Tiếng Nam-mô sau nầy trở thành tiếng khởi đầu cho một câu cầu nguyện.
Tượng cây: Tương Phật tạc bằng gỗ. Khủng cho thân: Sợ hãi cho tấm thân của
mình. Phong trần: Gió bụi, chỉ những nỗi khó khăn vất vả.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 993 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
997 . Rón rén
trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy
lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh
thân xin gởi bấy chừ,
Nương
theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.
Chú
thích:
Rón rén: Đi khép nép nhẹ nhàng, sợ gây ra tiếng
động làm mất vẻ tôn kính trang nghiêm. Cúi gật: Cúi lạy xuống và gật đầu. Lạy
Phật thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Phật. Mấy nấc tương
tư: Đồng nghĩa: Mấy từng tương tư, ý nói lòng nhớ thương chồng nhiều lắm. (Xem
Chú thích câu 908) Mảnh thân: Tấm thân. Bấy chừ: Bấy giờ. Thuyền huệ: Huệ cũng
đọc Tuệ, là sự sáng suốt thông hiểu rốt ráo đạo lý. Thuyền huệ là chiếc Thuyền
trí huệ, tức là Thuyền Bát Nhã, vì Bát Nhã, là phiên âm từ tiếng Phạn
"Prajnâ" có nghĩa là Trí huệ. Trí là sự hiểu biết thấu đáo. Thuyền
Bát Nhã là lời Phật nói ví dụ: Cõi trần là biển khổ sông mê, muốn đến Cực Lạc
Thế giới thì phải vượt qua sông mê bể khổ. Muốn qua sông mê bể khổ thì phải
dùng Thuyền Bát Nhã. Bên nây bể khổ là Bến mê (Mê tân), bên kia biển khổ là Bờ
giác (Giác ngạn). Thuyền Bát Nhã đưa người tu từ bến mê sang bờ giác, đắc đạo
thành Tiên Phật. Nương theo thuyền huệ: Dựa vào cái trí huệ để phân biệt thiện
ác chánh tà mà giác ngộ. Giác ngộ thì hết khổ, dứt luân hồi, đắc thành Tiên
Phật. Muốn có trí huệ thì phải "Tu". Tương giang: Sông Tương, đây là
con sông đau khổ chia cắt tình yêu, tượng trưng biển khổ. (Xem Chú thích câu
598). Bờ Tương giang: Ý nói bờ bên kia (Bỉ ngạn) của biển khổ, đó là bờ giác
ngộ, thoát khổ, bờ của người đắc đạo.
Câu 1000: Tu hành để có được trí huệ thì đắc đạo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 997 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1001 . Lui
chân kiếm con đường nhà nội,
Lửa
đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt
xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng
thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.
Chú
thích:
Nhà nội: Nhà ở đồng nội. Nội là cánh đồng. Lửa đốm
nhen: Nhúm lửa đốt đuốc lên hay đốt đèn lên để thấy đường đi về nhà lúc đêm
tối. Thảm trang: Nhà đang có việc sầu thảm, ý nói nhà mới có tang. Trang là nhà
có vườn cây bao quanh ở vùng quê. Điêu tàn: Xác xơ tàn tạ. Dẫy tràn: Đầy dẫy
tràn trề.
Câu 1004: Lòng thương nhớ chồng nhiều lắm, dường
như đổ xuống đầy tràn khắp nơi trên cảnh vật.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1001 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1005 . Tiếng
dế giống như lời chia thảm,
Ngọn
đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương
vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng
căn là chết ấy đường xưa nay.
Chú
thích:
Nhấp nhoáng: Chập chờn khi mờ khi tỏ. Mùi thương:
Màu thương nhớ. Kiếp đoạn trường: Kiếp sống bạc mệnh của kẻ hồng nhan trong tình
trường, phải chịu nhiều nỗi gian truân vất vả, đau đớn ê chề. Cùng căn: Cùng là
hết, Căn là cái gốc rễ nơi kiếp trước, nó chính là cái nghiệp, định đoạt số
phận trong kiếp sống hiện tại nầy. Cùng căn là cái số phận đến lúc chấm dứt.
Hai câu 1007-1008: Thương chồng vì người vợ ở trong
kiếp sống đoạn trường. Số phận đến lúc tận cùng thì chết, con đường xưa nay đều
trải qua y như thế.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1005 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1009 . Một
ngày sống là bày bước chết,
Sợ
chết nên không tiếc sống thừa.
Đời
không mến, thế không ưa,
Lòng
thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.
Chú
thích:
Sống thừa: Chữ Hán là Dư sanh hay Hư sanh, nghĩa là
sống mà không làm được điều gì hữu ích hay có ý nghĩa. Ở đây, sống thừa là đời
sống lúc tuổi già, không làm được việc gì mà còn phải trông cậy vào con cháu
nuôi dưỡng.
Câu 1009: Sống được một ngày là đi gần đến mức chết
một ngày.
Câu 1010: Biết rằng sống thừa là vô ích cho xã hội,
nhưng vì sợ chết nên không hối tiếc khi phải sống thừa.
Câu 101: Đời không mến, đời cũng không ưa kẻ sống
thừa.
Câu 1012: Nhờ tình thương nẩy nở trong gia đình mà
người già sống đầy đủ tốt tươi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1009 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1013 . Vì sợ
chết mà người kiếm sống,
Trong
căn oan lại mộng tầm duyên.
Già
hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên
đau giải thảm cổi phiền của ai?
Chú
thích:
Căn oan: Căn là gốc rễ có từ kiếp trước, oan là mối
dây oan nghiệt. Căn oan là mối dây oan nghiệt có gốc rễ từ kiếp trước, nên kiếp
nầy phải đền trả. Duyên vợ chồng cũng do oan trái mà tìm đến nhau để trả nợ,
cho nên mới nói rằng: Con là nợ, vợ là oan gia; Tu là cội phúc, tình là dây
oan. Mộng: Mơ ước. Tầm duyên: Tìm kiếm duyên vợ chồng. Giải thảm cổi phiền: Cởi
bỏ những nỗi phiền não buồn rầu. Của ai?: Của mình, của vợ nhỏ, hay của cả hai?
Câu 1015: Già thì nhát, vì thấy biết nhiều và đã
trải qua nhiều nỗi nguy hiểm, nhờ vậy mà người già sống hiền từ và ôn hòa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1013 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1017 . Một
vật nhỏ cũng mài cũng gọt,
Của
dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá
kia nào kể nên chăng,
Tay
chân chàng để cũng bằng báu châu.
Chú
thích:
Cũng mót cũng cằn: Cũng lo nhặt nhạnh từng chút, ky
cóp từng tý, để dành sau nầy có việc cần dùng.
Bốn câu 1017 đến 1020: Những dấu tích của chồng để
lại, dù không có giá trị gì, nhưng người vợ rất trân trọng và xem chúng rất quí
báu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1017 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1021 . Thấy
ai thảm lòng đau ái ngại,
Nghe
kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau
giọt lệ, giải tai ương,
Chia
cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.
Chú
thích:
Như cháy lòng thương: Lòng thương đau xót như bị
đốt cháy, nóng nảy muốn đi cứu giúp ngay. Lau giọt lệ: Ý nói dỗ dành cho bớt
sầu khổ. Giải tai ương: Cởi bỏ những tai họa đã mắc phải. Chia cơm nhịn muối:
Chia sớt từng miếng cơm, từng hột muối, ý nói hết lòng giúp đỡ nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1021 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1025 . Thấy
ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe
kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau
giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng
hình quân tử với hàng lụy chung.
Chú
thích:
Lòng vàng: Tấm lòng tốt quí báu. Xót xáy: Đau rát
trong lòng làm cho đứng ngồi không yên. Như cháy tâm can: Lòng dạ nóng nảy như
bị đốt cháy.
Câu 1028: Nâng tấm hình của chồng đặt lên bàn thờ,
hai người vợ cùng khóc.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1025 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1029 . Khi
ghen ghét không cùng hiệp mặt,
Nay
thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn
chi giành én giựt anh,
Thước
cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.
Chú
thích:
Động tình: Khơi động tình cảm thương xót. Giành én
giựt anh: Ý nói sự tranh đua giành giựt tình cảm để lấy phần hơn về mình. Thước
cưu: Chim thước và chim cưu. Kinh Thi có câu: Duy thước hữu sào, cưu cư chi.
Nghĩa là: Con chim thước có tổ, con chim cưu đến ở. Ý nói con chim cưu không
biết làm tổ, chờ con chim thước làm tổ xong thì đến ở nhờ. Chim thước ví người
vợ lớn, chim cưu ví người vợ bé. Vợ lớn xây dựng gia đình sẵn thì vợ bé vào ở.
Khuất bóng: Mặt trời lặn, tời tối. Dựa cành chung nhau: Sống chung và nương tựa
nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 1029 / Trở lại Nữ
Trung Tùng Phận mục lục.
1033 . Xem nét thảm, nàng đau như thiếp,
Trông
tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng
tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì
trong mấy khúc của nàng như ta.
Chú
thích:
Trông tình chung: Nhìn vào cái tình cảm chung thủy
của nàng. Mòn kiếp hồng nhan: Ý nói: Người vợ nhỏ của chồng, nhan sắc cũng đã
phai tàn. Phăng: Dò xét lần lần để tìm manh mối. Phăng tâm: Dò xét lòng dạ của
nàng. Mảnh đoạn tràng: Tấm lòng đau đớn dữ dội như ruột bị cắt ra từng khúc,
từng mảnh.
Câu 1036: Trước cảnh chồng chết, ta (vợ chánh) và
nàng (vợ thứ) đều đau đớn như nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét