Nữ Trung Tùng Phận - 5 / 13 (Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút)


25 . Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

Chú thích:
Nỗi: Sự tình, tình cảnh không hay xảy ra ảnh hưởng đến tình cảm con người. Nỗi em chị: Tình cảnh giữa chị em. Nhi tôn: Con cháu. Nhi là con, tôn là cháu. Lẩn bẩn bên lưng: Quanh quẩn bên mình, không rời ra được. Nỗi lân: Tình cảnh cư xử với xóm giềng. Thân tộc: Những người bà con trong dòng họ.
Nỗi gần nỗi xa: Những tình cảnh xảy ra ở gần bên mình và những tình cảnh xảy ra ở cách xa mình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 25 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

29 . Trên lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hỏa giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.

Chú thích:
Thảo: Hiếu thảo, quan tâm săn sóc cha mẹ, ông bà. Ngoài nên danh: Bên ngoài tạo được tiếng tăm tốt. Trong vững mối giềng: Trong nhà thì giữ vững khuôn phép gia đình. Mối giềng là chỉ khuôn phép gia đình. Hương hỏa: Nhang đèn, chỉ sự thờ cúng tổ tiên. Hương là cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm. Hỏa là lửa, chỉ cây đèn. Phẩm quyền: Chức tước và quyền hành. Cao sang: Ở bực cao quí và sang trọng.
Câu 31: Tâm trạng của người vợ là trông mong sanh đặng con trai để nối dõi dòng họ nhà chồng, giữ bền việc thờ cúng tổ tiên.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 29 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

33 . Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

Chú thích:
Mảng: Mải miết. Mảng lo lắng: Mãi lo lắng. Huống: Phương chi, không có cách gì. Ngõ: Cái cổng. Khổng Trình: Đức Khổng Tử và Ông Trình Di. Đức Khổng Tử là Giáo chủ Nho giáo. Trình Di, hiệu là Y Xuyên, một bực đại nho vào thời nhà Tống bên Tàu. Ngõ Khổng Trình: Ý nghĩa giống như "cửa Khổng sân Trình", chỉ trường dạy chữ Nho, nơi đào tạo nhân tài trí thức thời xưa. Rừng Nho biển Thánh: Chữ của Thánh Hiền nhiều như cây trên rừng, sâu rộng như biển. Ý nói việc học không biết đến bao giờ mới biết hết được. Thinh thinh: Thênh thang. Nữ lưu: Nữ phái. Lưu là một ngành, một phái. Thấu: Biết rõ. Thi thơ: Ý nói kinh sách. Thơ là sách.
Câu 34: Không có cách gì để làm cái công việc là đến trường học văn chương chữ nghĩa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 33 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

37 . Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

Chú thích:
Tổ hiển: Tiếng con cháu kính xưng Tổ tiên đã chết. Thờ: Tôn kính bằng sự lễ bái. Phụng: Phục vụ. Tế tông đường: Cúng tế tổ tiên nơi nhà thờ của dòng họ với nghi thức long trọng. Đơm: Sắp đặt thức ăn vào dĩa. Kiến thân: Thăm viếng cha mẹ. Kiến là gặp gỡ thăm viếng, thân là chỉ cha mẹ. Chua cay: Ý nói khổ cực vất vả.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 37 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

41 . Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
Còn con nòi giống chồng còn,
Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?

Chú thích:
Lừa miếng: Chọn lựa miếng ăn. Kiêng vật ăn: Tránh không ăn vì sợ có hại sức khỏe. Xanh mày: Mày xanh, chỉ thời thanh xuân tuổi trẻ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 41 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

45 . Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

Chú thích:
Lịch sắc: Nhan sắc xinh đẹp. Lịch là xinh đẹp. Hình hoa: Hình dáng đẹp đẽ của người con gái. Hoa là chỉ người con gái. Dâng: Đưa lên. Treo mắt: Treo trước mắt để ngắm, ý nói khêu gợi sự ham muốn. Bướm ong: Hai loại sinh vật thích hút mật nhụy hoa. Bướm ong gặp hoa thì liền đáp vào để hút mật. Hoa tượng trưng con gái, bướm ong tượng trưng các chàng trai. Trai gặp gái thường hay đến gần chọc ghẹo tỏ tình. Hương đượm lửa nồng: Tình yêu thắm thiết sâu đậm giữa vợ chồng. Đượm là thấm sâu. Nồng là đậm đà. Hương lửa là tình yêu thắm thiết giữa vợ chồng. Nết khuôn: Nết na và khuôn phép cư xử trong nhà. Chữ đồng: Đồng là cùng chung. Hễ là vợ chồng thì nghèo chung chịu, giàu chung hưởng, khổ chung lo. Chữ đồng là ý nói sự liên kết mật thiết giữa vợ chồng. Lương nhân: Người tốt, người lành. Khi xưa, vợ gọi chồng là Lương nhân. Lương là tốt, nhân là người.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 45 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

49 . Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.

Chú thích:
Trau chuốt: Sửa sang tô điểm cho đẹp hơn. Mặt ngần thân dịu: Gương mặt sáng đẹp, mình mẩy mềm mại dịu dàng. Ngần là sáng bóng, dịu là mềm mại dịu dàng. Mày liễu: Cặp chân mày cong và nhỏ như lá liễu. Do câu thơ của Bạch Cư Dị đời Đường: Phù dung như diện, liễu như mi (Mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu).

Hai câu 51-52: Thương chồng nên lo gìn giữ nhan sắc, lúc ốm đau, nước da xanh tái, sợ chồng chê xấu xí, nên phải nhờ phấn son trang điểm.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 49 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.



53 . Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.

Chú thích:
Tay co: Cánh tay đắc lực. Khi nói người nầy là cánh tay mặt hay cánh tay đắc lực của Giám Đốc, có nghĩa người nầy là một cộng sự viên thân tín và đắc lực, giúp Giám Đốc giải quyết thành công nhiều việc khó khăn rất hợp ý. Toan: Tính toán, lo liệu. Lựa là: Lọ là, huống chi. Tứ hải Ngũ hồ: Bốn biển năm hồ, ý nói khắp thế giới. Như thường nói: Năm châu bốn biển.
Câu 54: Giúp đỡ chồng vì chàng vốn thiếu người cộng sự thân tín và đắc lực.
Hai câu 55-56: Lo liệu không hết việc cơm nước sáng chiều, huống chi là việc anh em giúp nhau trong khắp năm châu bốn biển.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 53 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

57 . Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

Chú thích:
Phòng đào: Phòng của người vợ ở. Giấu dạng: Giấu kín hình bóng của mình.Vơi chênh: Không đầy, nghiêng lệch, chỉ sự đổi thay, lúc thế nầy lúc thế khác. Mảng: Mải miết. Thấm nghĩa nặng tình: Tình nghĩa thương yêu sâu nặng. Bẻ liễu: Ý nói lấy người con gái làm vợ. Liễu là loại cây mềm yếu tha thướt nên được ví với người con gái. Bắn bình: Điển tích: Lý Uyên bắn trúng mắt con chim sẻ vẽ trên tấm bình phong, nên được Ông Đậu Nghi gả con gái là Đậu thị cho. Bắn bình là ý nói cưới được vợ đẹp. Trượng phu: Vợ gọi chồng là Trượng phu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 57 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

61 . Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

Chú thích:
Dầu khôn mấy: Dù có khôn ngoan cách nào đi nữa. Giả ngu: Giả vờ mình ngu dại. Phải bao nhiêu: Dù mình có được lẽ phải bao nhiêu đi nữa. Trâm: Cái trâm cài tóc của phụ nữ. Nó thường được dùng làm vật đính hôn giữa trai và gái. Nếu cái trâm rủi bị gãy thì nó báo hiệu cuộc tình duyên gặp trở ngại, có khi đổ vỡ. Giữ rủi rơi trâm: Giữ gìn không cho cái trâm rơi gãy, ý nói: Giữ cho tình thương yêu giữa vợ chồng được toàn vẹn mãi. Hơi sắt tiếng cầm: Tiếng đàn sắt đàn cầm. Sắt cầm là ví đôi vợ chồng, nên thường nói: Sắc cầm hảo hiệp, loan phụng hòa minh. Lơi: Không giữ được chặt chẽ. Lạc cung: Cung đàn lạc điệu, ý nói vợ chồng không hòa hợp với nhau.
Hai câu 63-64: Trong nhà, người vợ cố gắng giữ gìn không để xảy ra sơ sót vì sợ ảnh hưởng xấu đến sự hòa hợp giữa vợ chồng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 61 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

65 . Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hòa nhã tơ loan.
Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.

Chú thích:
Thử từ nết: Người vợ làm một việc nào đó để xem phản ứng của chồng như thế nào, qua đó biết được tính nết của chồng. Chung chạ: Sống chung đụng với nhau đến mức không còn phân biệt cái nào là của riêng mình. Gióng từ hơi: Nghe ngóng từ cái hơi trong giọng nói của chồng để đoán biết ý chồng. Hòa nhã: Hòa hợp tốt đẹp. Tơ loan: Loan là chất keo làm bằng máu chim loan, để nối dây đàn bằng tơ khi dây đàn đứt. Tơ loan là chỉ dây đàn. Chiều vui: Chiều theo ý chồng để chồng vui vẻ. Trướng: Bức màn che có thêu hình trang trí cho đẹp. Nhẫng: Những, chỉ. Phụ phàng: Đối xử bạc bẽo.

Câu 66: Nghe ngóng từ giọng nói của chồng để đoán biết ý chồng mà chiều theo cho tình vợ chồng hoà hợp tốt đẹp.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 65 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

69 .  Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

Chú thích:
Từ lịnh, Từ mạng: Mạng lịnh của mẹ. Từ là tiếng để chỉ người mẹ. Dỉ hơi: Xì hơi, kêu than cho hả hơi. Trà mi: Loại hoa đẹp như hoa hồng, chỉ con gái đẹp. Sơ sẩy: Không cẩn thận để xảy ra điều đáng tiếc.

Hai câu 71-72: Lo sợ những tai biến xảy đến (giông gió tơi bời) không khéo thì làm cho thân gái phải chịu cảnh tan nát đau khổ (hoa rời rã bông).

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 69 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

73 . Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

Chú thích:
Tường đông: Bức tường phía đông, chỉ nhà láng giềng phía đông. Thơ của Lý Bạch: Tự cổ hữu tư sắc, Tây Thi tự đông lân. (Từ xưa có sắc đẹp, Tây Thi ở nhà láng giềng phía đông). Tường đông chỉ nhà có con gái đẹp. Ong bướm: Đám con trai hay chọc ghẹo con gái. Giấu nhặt nghiêm: Giấu kín một cách nghiêm nhặt. Nhụy tướng hương hình: Hình dạng và mùi thơm của nhụy hoa, ý nói sắc đẹp và đức hạnh của người con gái. Gương: Tấm gương soi, thấy ảnh của mình trong gương, chỉ người phụ nữ vì thường phụ nữ soi gương để trang điểm. Lỗi đạo: Sái với đạo lý. Phu thê: Chồng vợ.
Câu 73: Che đậy kín đáo chỗ con gái đẹp ở, sợ đám con trai biết mà tới lui chọc ghẹo.
Câu 75: E sợ như vách có lỗ tai nghe được tiếng nói thì lộ chuyện ra hết, không giấu kín được nữa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 73 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

77 . Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

Chú thích:
Giao thân: Giao tiếp thân mật. Kẻ thiết: Người thân. Làm điếc làm đui: Làm bộ như đui điếc để không thấy không nghe. Cha dễ mẹ duôi: Cha mẹ dễ tánh, rộng lượng. Ngoại tông: Dòng họ nhà chồng, do câu: Nữ sanh ngoại tộc, vì con gái khi lớn lên có chồng thì về ở nhà chồng. Trân cam: Ngon và ngọt, chỉ đồ ăn ngon. Làm con hiếu thảo thì phải dành những thức ăn ngon ngọt cho cha mẹ. Trân cam là chỉ sự phụng dưỡng cha mẹ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 77 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

81 . Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

Chú thích:
Kiếm cung: Chỉ người đàn ông, người chồng, vì kiếm cung là 2 thứ binh khí mà đàn ông con trai thường luyện tập. An phận kiếm cung: An phận sống bên chồng. Ngoài mặt phép: Bên ngoài, về mặt pháp luật quốcgia.

Câu 81: Hiểu rõ lẽ thương lẽ ghét và những hậu quả của nó, nên đành giả vờ ngu dại để được người ta thương.
Câu 82: Biết rõ lẽ nên lẽ hư, nên chẳng dám tranh cãi cho tận cùng lý lẽ, vì sợ chạm tự ái, mích lòng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 81 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

85 . Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

Chú thích:
Giữa cửa công: Giữa nơi cơ quan nhà nước. Phải quấy: Việc đúng lẽ phải, việc sai trái sái quấy. Đồng thân: Cùng đem thân gánh chịu. Váy: Cái quần mà không có chia ra 2 ống.

Hai câu 85-86: Đối với luật pháp quốc gia hay trước cơ quan nhà nước, người vợ và người chồng đều bình đẳng, chịu trách nhiệm như nhau.

Câu 87: Khi vinh hiển, chàng làm quan thì mặc áo mão của triều đình, thiếp cũng được đội khăn. Ý nói khi vẻ vang thì vợ chồng cùng hưởng. Cân là cái khăn bịt đầu.

Câu 88: Lúc nghèo nàn không đủ tiền mua quần áo mặc thì vợ chồng mặc quần áo chung, đổi thay với nhau.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 85 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

89 . Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.

Chú thích:
Mến: Thương yêu. Bài thuốc mến: Bài thuốc thương yêu. Rù quến: Rủ rê dụ dỗ. Thâm tình: Tình cảm sâu đậm. Én anh: Chim én và chim anh, chỉ việc chơi bời trăng hoa. Đổi dạ én anh: Thay lòng đổi dạ, sanh ra chơi bời phóng túng. Tề mi: Ngang mày. Tề là ngang bằng, mi là lông mày. Do thành ngữ: Cử án tề mi (nâng mâm cơm lên ngang mày), chỉ sự cung kính của vợ đối với chồng, theo điển tích nàng Mạnh Quang. (Xem câu 675). Vẹn đạo: Trọn vẹn bổn phận của vợ đối với chồng. Phép khuôn: Phép tắc trong gia đình.
Câu 89-90: Dùng những nỗi khổ cực đã qua làm bài thuốc thương yêu trị bịnh chia rẽ ghen ghét. Dùng những nỗi đau thương vừa qua để dẫn dụ tình thương yêu thêm sâu đậm.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 89 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

93 . Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.

Chú thích:
Nâng khăn trấp: Thành ngữ: Nâng khăn sửa trấp, ý nói vợ chăm sóc chồng. Quân tử: Tiếng vợ gọi chồng. Vui càn: Vui theo mà không cần biết trong lòng ra sao.

Câu 94: Vợ phải thức khuya dậy sớm để lo phục vụ chồng, rót rượu châm trà cho chồng.

Hai câu 95-96: Người vợ sống hoàn toàn tùy thuộc vào nhịp sống của chồng, khi chồng vui thì vui theo, khi chồng buồn thì buồn theo.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 93 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

97 . Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

Chú thích:
Dòng Tương: Dòng nước mắt. Điển tích: Vua Thuấn đi tuần thú phương Nam và chết. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến bờ sông Tương ngồi khóc thảm thiết. Chữa lỗi: Bào chữa những lỗi lầm. Binh lời: Dùng lời nói binh vực. Vơi vơi: Mênh mông, không thấy bến bờ. Bóng bọt: Cái bọt bong bóng nước rất mau tan vỡ. Giữa vời: Giữa mặt nước mênh mông. Linh đinh: Lênh đênh.
Câu 97: Người vợ than khóc cho tấm thân của mình như cánh bèo trôi nổi trên mặt nước, không biết đi về đâu.
Câu 99: Chàng thì biền biệt như đi vào biển cả mênh mông, không biết chừng nào trở về.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 97 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

101 . Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.

Chú thích:
Bố kinh: do câu chữ Hán: Kinh thoa bố quần, nghĩa là trâm cài tóc bằng cây kinh, quần mặc bằng vải bô, chỉ người vợ hiền đức, theo điển tích nàng Mạnh Quang (Xem câu 675). Hoa: Cái hoa, chỉ người con gái. Phòng thu: Chỉ người con gái luống tuổi. Phòng xuân: là chỉ người con gái trẻ tuổi. Nhành xuân: Người con gái trẻ tuổi. Gương thu: Người con gái đã luống tuổi. Gương là chỉ người con gái vì con gái hay soi gương. Thường phu: Người đàn ông tầm thường. Dở cầm: Nửa muốn cầm, nửa muốn bỏ.
Câu 101: Nếu có phước thì người con gái hiền đức gặp được người chồng xứng đáng.
Câu 102: Vẫn biết yêu vợ lúc vợ đã luống tuổi.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 101 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

105 . Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,
Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.

Chú thích:
Lịch sắc: Nhan sắc xinh đẹp. Trao trâm: Người con gái lấy cây trâm cài tóc trao cho bạn trai làm vật đính hôn. Cơn tàn hoa: Lúc người vợ về già, sắc đẹp phai tàn. Keo rã sơn rời: Vợ chồng không còn gắn bó thương yêu nhau nữa. Keo sơn là chỉ sự gắn bó giữa vợ chồng. Vẻ hồng: Sắc đẹp tươi thắm của người con gái. Mắc mỏ bao mươi: Dù có đắt giá bao nhiêu đi nữa. Chủ trương: Quyết định phương hướng hành động.

Hai câu 107-108: Cái sắc đẹp của người con gái dù có đắt giá bao nhiêu đi nữa, mà đã có chồng thì trao tất cả cho chồng quyết định đến trọn đời.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 105 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

109 . Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

Chú thích:
Kim cải: Cây kim và hột cải, ý nói tình vợ chồng khắn khít nhau như nam châm hút cây kim, hổ phách hút hột cải. Trái duyên: Tình duyên ngang trái, bị chồng phụ bạc. Đạo tòng: Bổn phận Tam tùng của người phụ nữ.

Câu 109: Ý nói: Thời thanh xuân của người con gái.

Câu 109-110: Dâng cho chồng tất cả sắc đẹp và cái quí giá nhứt của đời con gái để mong được chồng thương yêu.

Hai câu 111-112: Dầu thương yêu khắn khít cũng là chồng, dù phụ bạc cũng là chồng, người vợ suốt đời cũng vẫn gìn giữ trọn vẹn cái đạo Tam Tùng mà thôi.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 109 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

113 . Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.

Chú thích:
Thân lòn cúi: Hạ mình chiều lụy.Vợ tôi: Vợ là bề tôi. Chúa cả: Ông chủ lớn. Gia nô: Đày tớ trong nhà.
Câu 113: Dưới thời quân chủ phong kiến xưa, người chồng có toàn quyền đối với vợ, chồng là chúa, vợ là bề tôi.
Câu 114: Đạo vợ chồng như đũa nên đôi. Hai chiếc đũa thì phải giống nhau và bằng nhau. Nếu thiếu 1 chiếc đũa thì không thể gắp đồ ăn được. Như vậy vợ chồng phải bình đẳng nhau. Câu nầy có ý đối chọi với 2 câu: 113 và 116.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 113 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

117 . May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn người sang ấy của ta,
Chê người ta lại cho là đáng khen.

Chú thích:
Quan cả: Quan lớn. Lê thứ: Dân đen, dân nghèo. Lê là màu đen, thứ là đông đảo. Lê thứ đồng nghĩa với Lê dân. Tộc gia: Gia tộc, họ hàng trong dòng họ. Phép nhà: Gia pháp, phép tắc cư xử trong nhà.
Câu 117: May mắn thì lấy được chồng làm quan lớn, rủi phận thì lấy chồng là dân nghèo.
Câu 119-120: Cái mà người ta cho là hèn (xấu), nhưng trong hoàn cảnh của mình, cái ấy là sang (tốt) đối với mình. Cái mà người ta chê, thì cái ấy lại là đáng khen đối với mình.
         Tai sao vậy? Bởi vì người phụ nữ ấy muốn an phận, cho những cái của mình hiện đang có được là tốt rồi, không cần phải đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn nữa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 117 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

121 . Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản,
Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

Chú thích:
Chẳng quản: Chẳng ngại. Mảng: Mải miết. Đẹp hình: Hình dáng đẹp đẽ, đẹp trai. E ra: Sợ rằng. Thiếp: Vợ nhỏ. Hầu: Người con gái có bổn phận hầu hạ, mà cũng là vợ nhỏ. Thuở xưa, nhà giàu có thì người đàn ông, ngoài vợ chánh ra, còn được lấy thêm vợ nhỏ gọi là Thiếp, và bỏ tiền ra mua nàng Hầu để hầu hạ và sai vặt. Lựu và đào: Hai thứ trái cây mà trong văn chương dùng để tượng trưng người con gái. Thành ngữ: Tham lựu bỏ đào, ý nói có mới nới cũ, ham chuộng cái mới, bỏ bê cái cũ, chỉ người có lòng dạ đổi thay, không chung thủy.
Câu 124: Chồng ham mê vợ bé, bỏ bê vợ lớn bơ vơ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 121 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

125 . Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình thương người cũng thương cùng,
Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?

Chú thích:
Xấu dạng: Hình dạng xấu xí, xấu trai. Nhơ: Nhục nhã. Phù dung: Tên một thứ hoa đẹp, dùng để ví sắc đẹp của người con gái. Hoa phù dung nở to vào sáng sớm có màu vàng rất đẹp, buổi trưa biến thành màu hồng, buổi chiều thì đổi sang màu đỏ thẩm rồi tàn. Kiếp phù dung: Kiếp sống của người con gái đẹp. Nhát: Hay sợ sệt.
Câu 125: Hễ chồng xấu trai thì nhục cho phận thiếp.

Câu 126: Còn chồng có hình dáng đẹp đẽ thì người vợ lo sợ có người con gái khác quyến rũ chồng mình.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 125 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

129 . Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán thuyền,
Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.

Chú thích:
Xứng mặt: Người xứng đáng, có đủ tài đức và hình dung tốt đẹp. Mày râu: Do chữ Hán là Tu mi: Tu là râu, mi là mày, Tu mi là Râu mày, hay Mày râu, chỉ đàn ông con trai. Dưới thế: Trong đời. Thế là đời. Không mưu đủ kế: Không đủ mưu kế. Duyên: Sự gắn bó vợ chồng. Thăm ván bán thuyền: Mới đi thăm ván định mua để đóng thuyền mới mà đã lo bán thuyền cũ đi. Thành ngữ nầy có ý chê kẻ chưa có cái mới mà đã coi rẻ cái cũ. Mảnh: Một miếng. Mảnh hương: Một bó hương nhỏ. Hương nguyền: Hương là cây nhang đốt lên tỏa mùi thơm, nguyền tức là nguyện, ước muốn, thường nói thề nguyền, nghĩa là ước muốn mà phát ra lời thề. Những đôi trai gái yêu nhau thường đốt nhang khấn vái Trời Đất thề nguyền chung thủy với nhau.

Hai câu 131-132: Còn người chồng nếu theo cái tánh có mới nới cũ, mê theo vợ bé bỏ bê vợ lớn, thì có mong chi giữ được lời thề nguyền chung thủy cùng nhau khi trước.

Chú ý: Bản in Nữ Trung Tùng Phận của Hội Thánh, in là: "Tham ván bán thuyền". Chúng tôi nghĩ rằng đây là thành ngữ: Thăm ván bán thuyền, ý nghĩa hợp với câu thơ trong đoạn nầy hơn. Mong được sự góp ý của chư Đồng đạo.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 129 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

133 . Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?

Chú thích:
Động đào: Động là cái hang núi. Đào là cây đào có hoa đào. Động đào là cái hang núi có cây đào mọc hai bên, và có hoa đào rớt xuống, cảnh rất đẹp mắt. Động đào là chỉ cảnh Tiên theo điển tích sau đây:

         Trong bài Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm có kể lại rằng: Một người đánh cá ở huyện Vũ Lăng, bơi thuyền ngược theo dòng suối, hai bên bờ suối có mọc cây đào. Đi mãi, người ấy đến một hang núi, rời thuyền lên bộ, lách mình vào hang thì thấy phía sau hang núi nở rộng và hiện ra một khung cảnh tuyệt đẹp như cảnh Tiên, dân cư sống rất hạnh phúc. Người đánh cá trở về thuật chuyện cho mọi người biết. Sau người đánh cá muốn trở lại nơi đó, lần theo lối cũ là suối hoa đào (Đào nguyên), nhưng không tìm được lối vào cửa động.

         Văn học thường dùng các từ ngữ: Động đào, Đào nguyên để chỉ cảnh Tiên, căn cứ theo điển tích nầy.

Ngọc cầu Lam: Cái chày bằng ngọc để giã thuốc mà Bùi Hàng dùng làm sính lễ cưới nàng Vân Anh ở tại cầu Lam (Lam kiều) theo điển tích sau đây:

         Bùi Hàng, người đời Đường, đi thi hỏng, trở về nhà. Trên đường đi, Bùi Hàng gặp nàng Vân Kiều tặng bài thơ:
Một chén quỳnh tương dễ cảm tình,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam kiều là chốn Thần Tiên đấy,
Len lỏi làm chi đất ngọc kinh.

         Ý của Vân Kiều là khuyên Bùi Hàng không nên len lỏi vào chốn quan trường ở kinh đô, mà nên đến Lam kiều (cầu Lam) là chốn Thần Tiên, dùng chày ngọc giã thuốc thì gặp được nàng Tiên Vân Anh.

         Bùi Hàng đọc thơ xong thì lòng nghi hoặc, nhưng cũng thuê ngựa đi đến Lam kiều thử coi thế nào. Khi đến đấy thì Bùi Hàng cảm thấy khát nước lắm, phải dừng ngựa lại, rồi vào nhà của một Bà Lão ở bên đường để xin nước uống. Bà Lão biểu cháu gái là Vân Anh bưng nước ra. Bùi Hàng nhìn thấy Vân Anh tuyệt đẹp thì nhớ lại bài thơ của Vân Kiều, liền ngỏ ý cầu hôn. Bà Lão nói: Trước đây, Tiên có cho Lão một thứ thuốc, bảo rằng phải có cái chày bằng ngọc, giã thuốc đủ 100 ngày thì uống được trường thọ. Lão định hễ ai hỏi cưới Vân Anh thì phải có cái chày ngọc làm sính lễ thì Lão mới gả, còn vàng bạc thì Lão đây không cần.

         Bùi Hàng xin Bà Lão chờ để chàng lên đường đi tìm chày ngọc. Chàng may mắn tìm mua được chày ngọc, liền đem về Lam kiều dâng lên Bà Lão.

         Bà Lão nói: Có được chày ngoc rồi thì ở đây giã thuốc cho Lão đủ 100 ngày mới được thành thân cùng Vân Anh.

         Bùi Hàng làm y lời. Thuốc giã xong, Bà Lão uống ngay, rồi tổ chức đám cưới cho Bùi Hàng và Vân Anh.

Gương vỡ lại lành: Điển tích: Lạc Xương Công Chúa là em của Trần Hậu Chủ, vợ của Từ Đức Ngôn. Gặp lúc Trần Hậu Chủ bị Tùy Dượng Đế đánh sắp thua tới nơi, Từ Đức Ngôn lúc đó nghĩ rằng chắc vợ chồng chàng khó được trọn vẹn cùng nhau, nên bảo vợ là Lạc Xương Công Chúa rằng: Công Chúa sắc tài gồm đủ, hễ nước mất ắt bị nhà Tùy chiếm lấy, còn mong gì sum họp nhau lâu dài. Nếu nàng chưa dứt hẳn mối tình với tôi thì đây là tấm gương đã bể làm 2 mảnh, nàng giữ một mảnh, tôi giữ một mảnh, hẹn rằng về sau, cứ đến rằm tháng giêng mỗi năm thì nàng đem mảnh gương ra bán ở chợ Kinh đô, tôi sẽ tìm đến mà gặp nhau.

         Đến khi nhà Trần mất, Lạc Xương Công Chúa lọt vào tay danh tướng nhà Tùy là Dương Tố; còn Từ Đức Ngôn lưu lạc gian nan. Khi yên giặc, chàng lần về kinh đô. Chàng y hẹn, ra chợ kinh đô vào ngày rằm tháng giêng, tìm thấy một người ăn mặc theo dáng đầy tớ, đem ra chợ bán một mảnh gương, nói giá thật cao, ai cũng cho là điên khùng. Từ Đức Ngôn đến mời người ấy ra chỗ vắng, đem mảnh gương của mình ra ghép với mảnh gương kia thì khớp nhau. Chàng hỏi thì biết được Lạc Xương Công Chúa đang ở trong dinh của Dương Tố. Chàng viết bức thơ bảo người bán gương đem về cho Công Chúa. Công Chúa nhận thơ biết chồng mình còn sống, nên khóc lóc thảm thiết, tỏ hết sự tình cho Dương Tố rõ. Dương Tố là người anh hùng quảng đại, mời Từ Đức Ngôn đến, đem Công Chúa trả lại, còn tặng cho nhiều tiền bạc.

         Thành ngữ: Gương vỡ lại lành, ý nói vợ chồng sau thời gian lạc xa nhau vì hoàn cảnh, nay được đoàn viên hạnh phúc.

Gương xưa lỗi ráp: Hai mảnh gương ráp lại không đúng khớp, ý nói tình duyên đổ vỡ không nối lại được.
Bốn câu thơ: 133, 134, 135, 136 đều nói về sự lỡ làng, tan vỡ của cuộc tình duyên vợ chồng.
Câu 133: Lỡ hết rồi, theo lối cũ đến động đào nhưng bị lạc bước. Ý nói không thể tìm lại được cảnh cũ người xưa.
Câu 134: Khó cầm giữ được cái duyên để chờ người đem chày ngọc tới cầu Lam. Ý nói duyên phận lỡ làng.
Câu 135: Tấm thân là một Tiên Nữ cõi Thượng giới là đã lỡ bước xuống cõi phàm trần đầy gió bụi.
Câu 136: Hai mảnh gương ráp không khớp nhau, đành chịu tình duyên tan vỡ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 133 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

137 . Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa,
Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.

Chú thích:
Bức: tức là bấc, ruột của cây điên điển, màu trắng, rất nhẹ, thường nói nhẹ như bấc. Nặng chì: Nặng như chì. Nữ lưu: Phái Nữ. Lưu là phái, ngành. Thung dung: Thong dong nhàn hạ. Quân tử: Tiếng vợ gọi chồng. Hảo cừu: tức Hảo cầu, nghĩa là đẹp đôi. Trăng hoa: Ngắm trăng xem hoa, chỉ sự lả lơi chơi giỡn không đứng đắn giữa nam và nữ. Mặc dầu: Mặc sức làm, không ai ngăn cản.
Câu 139: Người chồng thong dong đi kiếm người con gái khác kết đôi. Ý nói người chồng có vợ bé.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 137 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

141 . Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình mai ủ dột sắc càng héo don.

Chú thích:
Tình si: Tình yêu đắm đuối đến độ như ngây dại. Muôn lượng: Ý nói nhiều lắm. Máu ghen: Tánh hay ghen. Ghen là tức giận khi biết người hôn phối của mình ngoại tình. Chăn gối: Cái mền và cái gối, chỉ sự ân ái của vợ chồng. Dẫy tràn: Tràn ra đầy dẫy. Hình mai: Hình dáng mỏng mảnh của người vợ. Ủ dột: Buồn rầu ảm đạm. Héo don: Héo úa như sắp mất hết sự sống.

Hai câu 143-144: Người vợ ghen tuông vì chồng ngoại tình nên hình dáng gầy mòn, mặt mày ủ dột buồn rầu, nhan sắc càng héo úa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 141 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

145 . Hễ càng ngắm hao mòn đóa ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.

Chú thích:
Đóa ngọc: Chỉ người đàn bà đẹp quí phái. Đóa là cái hoa, chỉ đàn bà hay con gái; ngọc là đá quí, chỉ sự quí phái. Tơ tóc: Xe tơ kết tóc, chỉ sự kết duyên vợ chồng. Cung nguyệt: Cung trăng, nơi ở của Hằng Nga. Ở đây, cung nguyệt là chỉ nơi ở của người con gái đẹp. Trao duyên: Đưa cái duyên của mình cho người mình yêu, ý nói kết duyên thành vợ chồng. Nén hương nguyền: Đồng nghĩa Mảnh hương nguyền, nơi câu 132. Nén hương là một bó nhang nhỏ gồm vài ba cây.

Hai câu 147-148: Chàng vui vẻ cùng người con gái khác trao đổi duyên tình với nhau. Còn thiếp thì ở nhà rầu buồn lo sợ cho lời thề nguyền phai lạt dần, tình nghĩa vợ chồng không còn khắn khít nữa.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 145 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

149 . Lo ngại rồi ra cơn mất nết,
Vì ghen tương hết biết thân mình.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.

Chú thích:
Mất nết: Mất đi cái tánh hạnh tốt đẹp lúc trước. Ghen tương: Biểu lộ sự tức giận khi biết chồng mình ngoại tình, tức là chồng mình đem tình yêu chia xẻ với một cô gái khác. Ghen tương là đặc tính của tình yêu ích kỷ của vợ đối với chồng, mà tình yêu nào lại không ích kỷ? Tử tiết: Tự giết chết mình để giữ tròn tiết nghĩa. Tiết nghĩa là lòng cứng cỏi quyết giữ đúng lẽ phải.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 149 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

153 . Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
Nên toan đập nát cung cầm,
Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?

Chú thích:
Tương tư: Trai gái thương nhớ nhau một cách tha thiết, quên ăn bỏ ngủ đến độ sanh bịnh, gọi là bịnh tương tư. Gỡ: Tháo ra cho hết rối. Kham: Nổi, chịu đựng nổi. Cung cầm: Cầm là cây đàn, cung là thứ bực âm thanh phân ra trên cần đàn. Cung cầm là chỉ về âm nhạc, mà âm nhạc thì phải hòa. Đây là cái kỷ niệm lúc vợ chồng sống hòa hợp hạnh phúc bên nhau, lúc rảnh đem đàn ra ca hát với nhau. Đập nát cung cầm: Ý nói phá vỡ tình yêu.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 153 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

157 . Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ,
Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?

Chú thích:
Ai gỡ cho đang: Ai tháo ra cho được. Cỡi phụng ngừa loan: Phụng loan là chỉ vợ chồng, phụng là con chim trống chỉ người chồng, loan là con chim mái chỉ người vợ, ngừa là bỏ (từ ngữ xưa). Cỡi phụng ngừa loan là cỡi con phụng bay đi, bỏ con chim loan ở lại, ý nói, chồng phụ bạc vợ, bỏ nhà ra đi. Phụ phàng: Đối xử tệ bạc không kể gì đến tình nghĩa thương yêu thuở trước.

Câu 160: Đây là tiếng nói uất hận của người vợ bị chồng phụ bạc. Luân lý của xã hội dành cho người chồng nhiều đặc quyền, gây bất bình đẳng giữa vợ chồng, làm người vợ uất ức, muốn nổi dậy tranh đấu cho quyền lợi của phụ nữ, nhưng không thể được, đành ôm hận thở than cho số kiếp.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 157 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

161 . Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.

Chú thích:
Đau mấy đoạn: Đau đớn như ruột bị cắt ra nhiều đoạn. Bút hoa: Cây viết nở hoa. Nhà thơ Lý Bạch đời Đường nằm mộng thấy cán bút của mình nở hoa. Từ đó, thơ văn của Lý Bạch viết ra mỗi ngày một xuất sắc, tiếng tăm lùng lẫy. Bút hoa là cây bút viết ra văn chương đẹp như hoa. Thành sầu: Mối sầu muộn lớn lao, chứa cả một thành. Đắp cạn thành sầu: Làm cho sự sầu thảm bớt dần. Tiếng tiêu: Tiếng sáo thổi, chỉ tiếng nói nhỏ nhẹ của vợ khuyên can chồng. Phụng lầu: Cái lầu có con chim phụng đến đậu, ý nói nơi người chồng đến chơi bời. Dây sầu: Mối dây sầu muộn.
Hai câu 161-162: Mượn cây viết đề ra mấy vần thi để tả nỗi sầu thảm của mình, lòng đau đớn như cắt ruột ra mấy đoạn, nhưng nhờ vậy mà nỗi sầu thảm vơi đi dần dần.
Hai câu 163-164: Tiếng nói nhỏ nhẹ của người vợ khuyên can chồng, nếu lọt tai chồng làm cho chàng thức tỉnh thì may ra mới tháo gỡ được mối dây sầu muộn của người vợ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 161 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

165 . Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.

Chú thích:
Bút ngọc: Cây viết quí như ngọc. Đề thi: Viết ra các câu thơ. Bậc văn tài: Người tài giỏi về văn chương. Tuyết giá: Chỉ lòng trong sạch sáng đẹp của vợ đối với chồng, sạch như tuyết, trong như giá (nước đá). Hậu lai: Thời gian sắp tới. Sanh ly: Sống mà xa cách nhau, chỉ cảnh người vợ bị chồng phụ bạc, chồng bỏ nhà đi đến ở với vợ bé.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 165 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

169 . Khi đầu ấp cùng khi tay gối,
Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

Chú thích:
Đầu ấp tay gối: Cảnh vợ chồng thương yêu quấn quít nhau không rời. Quen hơi: Vợ chồng chung sống lâu ngày quen mùi nhau, khi vắng thì cảm thấy nhớ nhung da diết. Chừ sao: Sao bây giờ lại... Chừ là bây giờ. Chong ngọn đèn: Đốt ngọn đèn lên, vặn cho cháy vừa đủ sáng và để vậy suốt đêm. Cô đăng: Ngọn đèn cô đơn, chỉ có một ngọn đèn trong phòng. Người cô đơn thấy ngọn đèn cũng cô đơn như mình. Giỡn bóng: Ngọn đèn leo lét làm cho bóng người ngồi lung linh chập chờn trên vách. Thương tâm: Đau lòng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 169 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

173. Nào là thuở âm thầm dan díu,
Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.

Chú thích:
Âm thầm dan díu: Yêu nhau một cách thầm lén. Vịn: Đặt bàn tay tựa vào. Níu: Nắm kéo xuống. Úa xào: Cây lá héo úa rủ xuống, sắp chết. Nhụy phai hương lợt: Tình trạng hoa tàn, nhụy hoa phai màu, mùi hương bay hết. Khuôn rào tả tơi: Hàng rào chung quanh nhà tả tơi hư nát, vì không người chăm sóc.
Câu 174: Tả cảnh thơ mộng lúc 2 người mới yêu nhau, hẹn hò nhau đi ngắm trăng xem hoa.
Hai câu 175-176: Người vợ trách chồng bạc tình, bỏ vợ ở nhà một mình trong cảnh héo úa, nhan sắc phai tàn, cảnh nhà tơi tả.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 173 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

177 . Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

Chú thích:
Tường đông: (Đã giải nơi câu 73), chỉ nơi ở của người con gái đẹp. Lóng: Lắng nghe. Tơ đồng: Dây đàn làm bằng đồng, nhỏ như sợi tơ. Bậc tơ đồng: Cung bậc âm thanh do dây đàn phát ra. Phím loan: Phím đàn, vì phím đàn được dán dính vào cần đàn bằng keo loan (làm bằng máu chim loan). Nín bặt: Lặng im một cách đột ngột. Tranh tòng đứt dây: Tranh đua nối theo nhau mà đứt dây. Tòng là theo, nối theo.
Câu 178: Người vợ nhớ lại lúc 2 người mới yêu nhau, chàng qua nhà nàng lắng nghe thưởng thức tiếng đàn của nàng.
Câu 180: Tiếng đàn nín bặt vì các dây đàn tranh nhau mà đứt dây. Ý nói: Khi ngồi đàn mà bỗng nhiên đứt dây đàn thì nó báo hiệu cho biết có cảnh biệt ly.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 177 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

181 . Nào khi lén vẽ mày thục nữ,
Nào khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.

Chú thích:
Thục nữ: Người con gái nết na hiền lành. Hương thề: Cây nhang đốt lên van vái Trời Đất thề nguyền với nhau. Huê: Hoa. Bướm cũ lìa huê: Ý nói người chồng lìa xa người vợ. Vườn thu vắng khách: Ý nói: Nhà ở của người vợ vắng mặt chồng. Vườn thu, Phòng thu, chỉ nơi ở của người vợ hay của người đàn bà luống tuổi. Ủ ê: Buồn rầu âm thầm kéo dài. Canh tàn: Đêm tàn. (1 đêm có 5 canh).

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 181 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

185 . Nào khi tựa bên màn canh lụn,
Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.

Chú thích:
Canh lụn: Canh tàn, tức là đêm tàn, gần sáng. Lụn: là tàn dần. Một đêm chia làm 5 canh. Canh năm là lúc gà gáy, sắp sáng, nên được gọi là canh gà. Lụn canh gà: Canh năm tàn dần sắp hết, trời rựng sáng. Bóng Hằng Nga: Ánh sáng mặt trăng. Vắng hoe: Vắng vẻ im lặng. Gối phụng: Gối có thêu chim phụng dành cho chồng nằm, chỉ người chồng. Nguyệt tà: Trăng đã chếch qua đầu, trời gần sáng. Hoa thưa: Vườn hoa thưa thớt, chỉ cảnh buồn bã vắng vẻ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 185 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

189 . Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.

Chú thích:
Đổ mây mưa đảnh giáp: Chỉ việc ái ân giữa vợ chồng. Cung thiềm: Tương truyền nơi cung trăng có con thiềm thừ (con cóc) to lớn, dưới họng có chữ son. Cung thiềm là cung trăng, nơi ở của Hằng Nga. Ở đây, cung thiềm là chỉ nơi ở của người vợ, cũng chỉ người vợ. Gia cư: Nhà ở.
Câu 192: Nhà cửa rách nát, thềm nhà cỏ mọc chen vào. Ý nói: Nhà cửa thiếu tay người chồng chăm sóc.
Các đoạn 4 câu thơ trong phần nầy, thường thì 2 câu đầu nhắc lại những kỷ niệm êm đẹp lúc 2 người mới yêu nhau, rồi cưới nhau và sống hạnh phúc bên nhau. Hai câu lục bát tiếp theo là nói người vợ trách chồng phụ bạc, bỏ nhà đi theo vợ nhỏ.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 189 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

193 . Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.

Chú thích:
Ước: Cầu mong điều mà mình biết là khó thực hiện được. Niềm: Lòng tưởng nghĩ tới. Son sắt: Đỏ như son, cứng như sắt. Ý nói bền vững như sắt, không phai lợt như màu đỏ của son. Niềm son sắt: Lòng trung thành không dời đổi, trước sau như một. Thề non: Do thành ngữ "Minh sơn thệ hải": Thề non hẹn biển. Thề non là chỉ núi mà thề, dầu cho biển cạn non mòn, lòng dạ quyết không thay đổi. Dải đồng: Dải đồng tâm. Theo Tùy thư, vua Tùy Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (dải đồng tâm) để ban cho quí phi, tỏ lòng yêu đương khắn khít. Do đó, dải đồng là chỉ sự thương yêu khắn khít giữa vợ chồng. Nắm chặt dải đồng: Ý nói giữ chặt lòng thương yêu khắn khít giữa vợ chồng. Chừ sao: Bây giờ sao lại... Chừ là bây giờ. Tương giang: Dòng sông Tương. Đây là dòng sông tượng trưng sự đau khổ, vì khi vua Thuấn đi tuần thú phương Nam và chết ở đó, 2 bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua Thuấn, bị dòng sông Tương ngăn lại, 2 bà buồn rầu, ngồi bên bờ sông Tương khóc than thảm thiết, nước mắt của 2 bà vẩy vào các khóm trúc nơi bờ sông, làm cho cây trúc có dấu lốm đốm như đồi mồi.
Câu 196: Lời thề hẹn ngày xưa, chàng đã bỏ trôi hết theo dòng nước.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 193 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

197 . Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.

Chú thích:
Giữa đàng: Giữa đường. Trông ngọc: Ý nói trông ngóng người yêu. Thơ cổ có câu: Nguyệt di hoa ảnh ngọc nhân lai, có nghĩa là: Bóng trăng đã xế, người ngọc đến. Người ngọc là người con gái đẹp như ngọc, chỉ người yêu. Dưới bộc trong dâu: Chỉ sự hẹn hò tình tự lén lút bất chánh giữa trai và gái. Điển tích: Theo Hán thư, con trai và con gái của nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau ra bãi sông Bộc, núp trong các ruộng dâu để tình tự và làm chuyện dâm ô. (Sông Bộc là con sông chảy qua 2 nước Trịnh và Vệ). Sơ giao: Bạn bè lúc mới quen biết nhau. Phụ nghĩa sơ giao: Phụ bạc cái tình nghĩa lúc mới quen biết nhau. Phòng toan: Dự bị toan tính. Phòng là dự bị, phòng hờ. Gánh: Mang vật gì ở 2 đầu một cái đòn đặt lên vai. Nghĩa bóng là cái trách nhiệm mang vào thân. Ném gánh: Vứt bỏ cái trách nhiệm mà mình đã mang lấy trước đây. Tâm đầu: Tâm là lòng dạ, đầu là hợp nhau. Thường nói: Tâm đầu ý hợp. Tâm đầu là lòng dạ hòa hợp nhau. Sông Ngân: Ngân Hà. Theo truyền thuyết, vợ chồng Ngưu Lang và Chức Nữ mắc tội với Trời, nên bị Trời phạt, mỗi người phải ở một bên sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào đêm Thất tịch (mùng 7 tháng 7 âm lịch). Sông Ngân là chỉ sự chia cách giữa vợ chồng.
Câu 200: Dự phòng toan tính ném bỏ cái tâm đầu ý hợp của vợ chồng để gây ra cảnh chia ly đôi ngã.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 197 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

201 . Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.

Chú thích:
Cầu Lam: Chữ Hán là Lam kiều. Chưởng ngọc: Cầm cái chày bằng ngọc để giã thuốc. Giã thuốc trường sanh: Dùng chày đâm nhuyễn các thứ thuốc để bào chế thuốc trường sanh, uống vào được sống hoài không chết. Én anh: Từ ngữ nầy đều có trong 2 câu thơ: 203 và 206, nhưng nghĩa lý khác hẳn nhau. - Trong câu 203: Én anh là chỉ vợ chồng. Nghĩa én anh là tình nghĩa vợ chồng. - Trong câu 206: Én anh là chỉ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én và chim anh bay từng đàn. Tham lê bỏ lựu: Ý nói có mới nới cũ. Trước mai: Cây trúc và cây mai, ở đây chỉ tình nghĩa vợ chồng khắn khít.
Hai câu 201-202: Lấy theo điển tích Chày ngọc - Cầu Lam (đã có giải nơi Chú Thích câu 134). Hai câu nầy nhắc lại lúc 2 người mới đính hôn nhau, thật là thơ mộng.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 201 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

205 . Nào khi cửa then gài mấy lớp,
Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
Gần cây chim lánh, đến cành gió day.

Chú thích:
Vườn xuân: Giống chữ Phòng xuân, chỉ người con gái lúc trẻ. Cấm vườn xuân: Chưa cho ai vào vườn xuân, ý nói con gái mới lớn chưa chồng. Cây cỏ xủ mành: Lá cây và cỏ rủ xuống như bức mành. Én anh: là chỉ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én và chim anh bay từng đàn. Nườm nượp én anh: Người ta đi lại đông đảo lớp nầy tiếp đến lớp khác.
Câu 208: Chim bay đến gần cây mà không đáp vào, lại bay lánh đi; gió thổi đến gần cành cây, gió cũng day qua hướng khác. (Dùng cảnh để nói lên tâm trạng của vợ bị chồng phụ bạc).

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 205 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

209 . Nào khi sắc so tài đẹp dạ,
Nào khi nhen hương hỏa ba sinh.
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.

Chú thích:
Sắc so tài: Người con gái thì cần nhan sắc, người con trai thì cần tài hay, sắc so tài cân xứng, đẹp đôi vừa lứa. Đẹp dạ: Đẹp lòng, rất bằng lòng. Nhen: Nhúm, thường nói là nhen nhúm. Ở đây nhen là nhúm lửa để đốt đèn, đốt nhang. Hương hỏa ba sinh: Ba sinh là 3 kiếp sống. Hương hỏa là thắp đèn đốt nhang. Hương hỏa ba sinh là thắp đèn và đốt nhang để khấn nguyện Trời Đất chứng minh lòng chung thủy của đôi trai gái yêu nhau, thề hẹn với nhau nội trong 3 kiếp phải kết làm vợ chồng với nhau. Bứt mảnh tơ tình: Bứt cho đứt sợi dây tơ tình yêu mà bấy lâu đã cột chặt 2 người. Trà ngâu: Trà ướp hoa ngâu. Hoa ngâu là loại hoa rất thơm, giống như hoa lài, dùng để ướp trà. Rượu quỳnh: Chữ Hán gọi là Quỳnh tương. Quỳnh là loại ngọc màu đỏ, được vua chúa hay các nhà quyền quí mướn thợ gọt đẽo, tạo thành cái chung uống rượu, cái chất ngọc quỳnh làm tăng thêm mùi vị thơm ngon của rượu.
Câu 212: Hồi vợ chồng thương yêu sống chung với nhau, thường ngồi uống trà ngâu hay uống rượu quỳnh với nhau, nhưng giờ đây, chàng đã chê trà ngâu, không còn muốn nhớ tới nữa, chê rượu quỳnh, chối bỏ tình thương yêu vợ chồng thuở trước.

Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 209 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.

213 . Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.

Chú thích:
Từ Thức: Từ Thức là người ở Hóa Châu nước ta, làm Tri huyện Tiên Du, đời nhà Trần. Gần huyện có một ngôi chùa nổi tiếng đẹp, trồng nhiều hoa mẫu đơn. Hằng năm du khách đến xem đông như ngày hội. Năm Quang Thái thứ 9 (1396), trong số du khách có một thiếu nữ vô ý làm gãy một cành mẫu đơn. Nhà chùa bắt đền. Nàng không có sẵn tiền, lại không có người quen nên không biết tính sao. May lúc ấy có quan huyện Từ Thức đi đến, thấy vậy động lòng, liền cỡi áo thế cho nhà chùa, cô gái mới được buông tha ra về.
Từ Thức có tâm hồn phóng dật, không thích gò bó trong chốn quan trường, nên xin treo ấn từ quan, đi ngao du sơn thủy, với bầu rượu túi thơ. Một hôm Từ Thức bơi thuyền dạo chơi cửa biển, chợt thấy một hòn núi nổi lên giữa biển có phong cảnh rất kỳ vĩ, liền bơi đến nơi, trèo lên xem, gặp một hang núi nhỏ liền đi vào, đường dốc lần lần lên tới đỉnh núi, gặp một khung cảnh hoàn toàn khác lạ, đẹp đẽ vô cùng.
Từ Thức gặp một người con gái, nhìn kỹ thì đúng là nàng đã làm gãy cành mẫu đơn ngày nọ. Cô gái liền chào hỏi và xưng tên là Giáng Hương. Nàng cho biết nàng là Tiên Nữ và đây là cảnh Tiên. Nàng lại nói việc Từ Thức giúp nàng hôm nọ, khiến cho Từ Thức có duyên phận với nàng, nên xui khiến chàng lên đây gặp nàng. Từ Thức ở lại đó và kết hôn với Giáng Hương.
 Home   1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét